Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng cũng còn nhiều khó khăn. Bởi khi 
CPH, vì một lý do nào đó, các khoản nợ của DNNN được CPH không được 
bàn giao cho Công ty Cổ phần tại thời điểm CPH thì sau khi đã chuyển thành 
Công ty Cổ phần, ngân hàng rất khó thực hiện thu hồi khoản nợ này do không 
xác định được ai phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ. DNNN thì đế n 
thời điểm đó không còn tồn tại, trong khi Công ty Cổ phần lại không chịu 
nhận trách nhiệm do không được bàn giao. Hơn nữa, việc xử lý nợ xấu mất rất 
nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngâ n 
hàng, thuế, tài chính. Tính đến ngày 31/12/2005, dư nợ cho vay đối với các 
Công ty Cổ phần vào khoảng 51.603 tỷ đồng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 106 trang
106 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i doanh nghiệp, từng bước cải tiến cơ chế tài chính theo cơ chế thị 
trường. 
Công tác giám sát, đặc biệt là giám sát tài chính đối với DNNN phải 
được tăng cường nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh 
trong hội nhập kinh tế quốc tế. 
Theo tính toán, đến hết năm 2010, Việt Nam sẽ CPH khoảng 1.500 
doanh nghiệp. Đối với những Tổng công ty và doanh nghiệp chưa CPH được 
sẽ thực hiện sau năm 2010. 
Để thực hiện thành công công tác sắp xếp, đổi mới DNNN mà trọng tâm 
là CPH và nâng cao hiệu quả của phương pháp này như đã đề ra, ông Hồ 
Xuân Hùng, Phó trưởng ban sắp xếp, đổi mới DNNN, theo tin trong bài "Năm 
2010, Việt Nam cơ bản hoàn thành cải cách DNNN" của báo Đảng Cộng sản 
Việt Nam ra ngày 21/9/2006, cho rằng, cần thực hiện các việc chủ yếu sau: 
- Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt 
động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp; 
tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về sắp xếp, đổi mới DNNN. 
 72 
- Rà soát các thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện những bất hợp lý, mâu 
thuẫn, những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi, đồng thời đề xuất giải 
pháp tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng trong việc thực hiện CPH. 
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình sắp xếp DNNN theo 
hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy 
nhanh tiến trình sắp xếp DNNN. 
- Nâng cao tính công khai, minh bạch và thị trường trong quá trình sắp 
xếp; các bộ, địa phương, Tổng công ty 91 xây dựng kế hoạch với lộ trình cụ 
thể, sắp xếp, CPH các Công ty Nhà nước độc lập, doanh nghiệp thành viên 
các tập đoàn, Tổng công ty và CPH các Công ty mẹ-tập đoàn, Tổng công ty 
Nhà nước để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngay đầu năm 2007; thực hiện 
bằng được theo đúng nội dung và tiến độ các Đề án đã được phê duyệt; đẩy 
mạnh việc bán Cổ phần, niêm yết và phát triển thị trường chứng khoán; tăng 
cường vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước trong 
quản lý và kinh doanh vốn Nhà nước. 
- Tăng cường năng lực quản lý, điều hành, kể cả bổ sung chức năng, 
nhiệm vụ của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, đảm bảo 
quản lý và đầu tư có hiệu quả vốn Nhà nước; tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý, 
đổi mới quản trị DNNN, nâng cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị 
doanh nghiệp; áp dụng nghiêm túc các chuẩn mực kế toán theo quy định. 
- Tổ chức lại Hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp dân chủ sở 
hữu tại Tổng công ty, chịu trách nhiệm chính tại Tổng công ty, chịu trách 
nhiệm trước chủ sở hữu về mọi hoạt động của Tổng công ty. 
- Triển khai việc Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê Giám đốc giỏi điều 
hành doanh nghiệp; tích cực triển khai thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt 
là về đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp và đội ngũ lao 
động, kỹ thuật của doanh nghiệp; về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, 
xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính 
 73 
đáng của các doanh nghiệp; tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của chủ sở 
hữu; thực hiện quyền của cổ đông người góp vốn thông qua đại diện, không 
can thiệp trực tiếp vào hoạt động của Công ty Cổ phần, Công ty trách nhiệm 
hữu hạn. 
Tuy nhiên, trong quá trình CPH DNNN cần lưu ý một số vấn đề sau [43]: 
Thứ nhất, CPH nhưng việc định giá doanh nghiệp phải theo giá thị 
trường, trên cơ sở đấu giá công khai, minh bạch để hình thành giá trị thị 
trường của doanh nghiệp. Tránh tình trạng bán tống, bán tháo làm thất thoát 
tài sản của Nhà nước, của toàn dân-thành quả của bao nhiêu năm xây dựng và 
phát triển. Và mục đích của CPH là để đa dạng hoá sở hữu vốn tại doanh 
nghiệp nên cần phải tránh tư nhân hoá DNNN, để rồi hình thành các tỷ phú 
trên cơ sở tài sản của Nhà nước. 
Thứ hai, CPH để người lao động tại doanh nghiệp có vị thế mới là trở 
thành cổ đông-chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp-có quyền tham gia 
vào việc quyết định đối với doanh nghiệp. Việc dành một lượng cổ phiếu ưu 
đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là cần thiết. Và do được định giá 
theo giá thị trường nên thị giá sẽ đủ lớn, cũng không có chênh lệch lớn về giá 
cả sẽ giảm bớt việc "bán lúa non", việc mua vét của một số cá nhân; dẫn đến 
người lao động trở thành trắng tay, hoàn toàn trở thành người làm thuê, còn 
một số cá nhân sẽ thâu tóm quyền lực của Công ty sau khi đã mua vét các cổ 
phiếu của người lao động "bán lúa non". 
Trong khi thị trường chứng khoán còn nóng, giá cổ phiếu còn cao, việc 
đẩy nhanh tiến độ CPH, khẩn trương niêm yết lên sàn thị trường chứng khoán 
sẽ có tác dụng kép: vừa tạo ra giá trị thị trường của doanh nghiệp, sự bình 
đẳng giữa các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, tranh thủ lúc giá cao để 
nâng cao giá trị doanh nghiệp, tăng cung cho thị trường chứng khoán,.... 
Thứ ba, cần khắc phục tình trạng "bình mới, rượu cũ", tức là doanh 
nghiệp đã chuyển sang Công ty Cổ phần nhưng bộ máy nhân sự vẫn không 
 74 
được đổi mới, làm cho doanh nghiệp hoạt động không khác trước là mấy, vai 
trò làm chủ của các cổ đông và người lao động bị hạn chế. Bên cạnh đó, cần 
khắc phục tình trạng phân biệt đối xử của các ngành, các cấp đối với những 
DNNN sau CPH với những DNNN chưa CPH còn do các bộ, ngành chủ 
quản, tỉnh, thành phố (thậm chí còn phân cấp cho sở, ngành) chủ quản theo 
kiểu con nuôi, con đẻ. Tình hình trên đòi hỏi cần khẩn trương xoá bỏ cơ chế 
bộ, ngành chủ quản, tỉnh, thành phố chủ quản. 
Như vậy, sắp xếp, đổi mới DNNN, trong đó trọng tâm là CPH sẽ góp 
phần giúp các DNNN hoạt động hiệu quả hơn, cũng như nâng cao được năng 
lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. CPH DNNN là hướng 
đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bắt nhịp kịp thời với quy luật nền kinh tế 
thị trường, quá trình hội nhập, tạo động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế 
đất nước phát triển, vai trò đầu tầu đưa các thành phần kinh tế khác hội nhập 
nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên cần thận trọng trong các bước đi để CPH 
không được biến thành tư nhân hoá. Các ngành, các cấp cần có những bước đi 
cụ thể để công tác CPH ở Việt Nam thực sự là xã hội hoá. 
II. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá các doanh 
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam trong những năm tiếp theo 
1. Quán triệt sâu sắc về chủ trương và chính sách Cổ phần hoá từ Trung 
ương đến địa phương 
Trước hết là mở rộng quan niệm về DNNN, quán triệt quan điểm chỉ đạo 
của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 
IX, DNNN (bao gồm DNNN mà Nhà nước giữ 100% vốn và DNNN mà Nhà 
nước giữ Cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và 
nâng cao hiệu quả, giữ vị chí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất 
quan trọng trong điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ 
yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập quốc tế. Theo quan 
 75 
điểm chỉ đạo trên đây, DNNN bao gồm DNNN theo điều 1 Luật DNNN năm 
2003 và Công ty Cổ phần mà Nhà nước giữ Cổ phần chi phối, được thành lập 
từ Cổ phần DNNN. 
Vậy chúng ta phải làm cho các cấp, các ngành, các DNNN quán triệt sâu 
sắc và có nhận thức đúng đắn về chủ trương, chính sách về các giải pháp đổi 
mới và phát triển DNNN: 
- CPH DNNN không làm chệch hướng của nước ta lên chủ nghĩa xã hội. 
- Việc CPH DNNN nào, mức độ chuyển đổi sở hữu bao nhiêu,… là do 
Nhà nước quyết định. 
- Lý luận và thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa truyền thống như Liên 
Xô cũ và đặc biệt là Trung Quốc đã cho thấy rõ chuyển một bộ phận DNNN 
sang các hình thức sở hữu khác không làm suy yếu Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa. 
- Thực tiễn cho thấy các DNNN được CPH đều hoạt động tốt thúc đẩy 
kinh tế đất nước phát triển, tăng thêm thu nhập cho người lao động,…. 
Việc quán triệt sâu sắc về chủ trương, chính sách CPH từ Trung ương 
đến địa phương cũng như việc đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động cho CPH là 
rất quan trọng nhưng từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức. Mục 
tiêu của việc này là làm cho các cấp, các ngành, từng doanh nghiệp và từng 
người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như một xu thế tất yếu và sẽ đem 
lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân, từ đó, tích cực, yên tâm thực 
hiện CPH, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng 
và Nhà nước. 
2. Giải quyết vấn đề lao động việc làm tạo tiền đề cho thực hiện thành công 
tiến trình Cổ phần hoá 
Để giải quyết vấn đề này, bên cạnh hệ thống chính sách đối với người lao 
động dôi dư theo quy định của Nghị định 41/2002/NĐ-CP cần đưa ra chính 
sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm như: chế độ bảo hiểm thất nghiệp, 
 76 
chế độ vay vốn để tự tạo việc làm từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Đồng 
thời, cần điều chỉnh cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với nhu cầu hiện tại và 
tương lai. 
Một việc cần thực hiện ngay trong tiến trình CPH DNNN là phân loại lao 
động dôi dư trong doanh nghiệp. Việc xây dựng tiêu chuẩn phân loại lao động 
dôi dư là quan trọng nhất, nhất thiết phải đảm bảo tính khoa học, dân chủ và 
công khai. Do vậy, để tạo điều kiện bố trí, sắp xếp lại lao động ở các doanh 
nghiệp một cách hợp lý và người lao động có thêm cơ hội việc làm, đồng thời 
thúc đẩy nhanh quá trình CPH DNNN, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau 
[2]: 
Một là, từng bước phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, tập trung 
vào các chính sách và giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho việc luân chuyển lao 
động, tạo điều kiện giải quyết số lao động dôi dư của doanh nghiệp được CPH 
từ DNNN. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm khi 
tham gia thị trường lao động như: hỗ trợ về tài chính khi bị mất việc làm, 
chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, đào tạo lại tay nghề cho người lao động. 
Hai là, đối với bản thân doanh nghiệp, bên cạnh việc trông chờ vào sự 
chỉ đạo của Nhà nước, cũng cần có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với bộ 
phận lao động dôi dư này. Ban lãnh đạo doanh nghiệp nên trích một phần 
thặng dư vốn sau phát hành Cổ phần lập các quỹ dự phòng, quỹ hỗ trợ,... làm 
ngân sách để đào tạo lại, nâng cao tay nghề của người lao động, giảm bớt 
lượng lao động dôi dư, hoặc trợ cấp cho họ tìm công việc mới phù hợp với 
trình độ và năng lực của mình. Việc hỗ trợ tài chính từ các quỹ hỗ trợ để giải 
quyết lao động dôi dư cần được áp dụng làm nhiều lần đối với các doanh 
nghiệp có quy mô lớn, có các nhà máy đóng tại các địa bàn khác nhau, thực 
hiện thành nhiều Công ty Cổ phần và ở những thời điểm khác nhau. 
Ba là, các bộ, ngành, tỉnh, thành phố và doanh nghiệp tiếp tục thông tin, 
tuyên truyền các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước vể 
 77 
chủ trương cải cách DNNN để nâng cao nhận thức, quán triệt nội dung và 
thống nhất hành động khi triển khai; phát triển hệ thống thông tin về thị 
trường lao động, việc làm, về các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân 
lực từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho người lao động và sử dụng lao 
động. Hệ thống thông tin này cần thông suốt trong cả nước, được nối mạng, vi 
tính hoá. Phát triển hệ thống các cơ sở dịch vụ việc làm, cung cấp thông tin, 
tư vấn, giới thiệu việc làm. 
Bốn là, cần có chính sách kích cầu lao động như: hỗ trợ vốn ban đầu cho 
những người kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các 
chương trình tạo công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, 
qua đó giảm sức ép về dư thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở 
doanh nghiệp sau CPH sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, 
cần thực hiện tốt chính sách giảm cung về lao động, bao gồm các chính sách 
dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách di dân sang khu vực ít bị sức ép dư 
thừa lao động. Hình thành và phát triển thị trường nhân lực quản lý và lãnh 
đạo các doanh nghiệp sau CPH, từng bước hình thành thể chế thị trường nhân 
lực quản lý với đội ngũ các nhân tài được thị trường đánh giá, tuyển chọn và 
giới thiệu, tạo điều kiện để rút ngắn khoảng cách giữa cung và cầu về nhân 
lực quản lý và lãnh đạo. 
Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, bảo vệ cả người lao 
động và người sử dụng lao động; xem xét lại các quy định có thể làm mất tính 
linh hoạt của thị trường lao động và hạn chế sự di chuyển hoặc cơ cấu lại lao 
động. Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi 
cần được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm 
được hưởng các quyền lợi như: được mua Cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc 
lợi khen thưởng còn dư tại thời điểm CPH công bằng như những người lao 
động tiếp tục được làm việc tại Công ty Cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội 
được hưởng theo thời gian đã đóng. Thời gian tới, Nhà nước cần có biện pháp 
 78 
hỗ trợ, cho phép doanh nghiệp sử dụng vốn vay lãi suất thấp để tạo thêm việc 
làm, cho người lao động vay vốn tự tạo việc làm,.... 
Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức Đảng, chính quyền và 
đoàn thể ở các cấp, các ngành tổ chức các cuộc đối thoại với doanh nghiệp 
nhằm phổ biến các kinh nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã 
thực hiện CPH. Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực 
hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng thực 
hiện không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động 
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp. 
3. Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp 
Công tác xác định giá trị doanh nghiệp CPH được coi là một trong những 
khó khăn phức tạp của quá trình CPH. Việc thực hiện phương pháp xác định 
giá trị doanh nghiệp theo cơ chế thông qua Hội đồng xác định giá trị doanh 
nghiệp như trước đây là một hạn chế, mang tính chủ quan, khép kín, dễ đưa 
đến kết quả không xác định đầy đủ giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, nếu do có 
đánh giá giá trị doanh nghiệp CPH chưa thật sát thì vẫn thuộc Cổ phần của 
Nhà nước nắm giữ hoặc Cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp 
được hưởng và không nên coi là thất thoát. 
Tồn tại này đã được khắc phục từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 
187/2004/NĐ-CP, theo đó, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã 
được cải tiến một bước quan trọng, việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH 
được thực hiện thông qua các tổ chức có chức năng và chuyên môn về định 
giá, như: Công ty chứng khoán, Công ty kiểm toán, tổ chức thẩm định giá,... 
thực hiện để làm cơ sở cho việc đấu giá ra công chúng. Nghị định 187 quy 
định: doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản trên sổ kế toán trên 30 tỷ đồng phải 
thuê tư vấn định giá [14]. 
Vào ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ-
CP tiếp tục bổ sung nội dung quy định về bắt buộc thuê các tổ chức có chức 
 79 
năng định giá thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp đối với những doanh 
nghiệp có vị trí địa lý thuận lợi. Nghị định 109 quy định cụ thể hơn về các 
trường hợp bắt buộc phải thuê tư vấn định giá, bao gồm: doanh nghiệp có 
tổng giá trị tài sản trên sổ kế toán trên 30 tỷ đồng; hoặc giá trị vốn Nhà nước 
trên 10 tỷ đồng theo sổ kế toán; hoặc có vị trí địa lý thuận lợi. Có thể thấy, 
Nghị định 109 đã có sự thắt chặt và thu hẹp về diện được tự xác định giá, triệt 
để khắc phục tình trạng "chia vốn Nhà nước" như một vài vụ CPH diễn ra 
trong những năm vừa qua [14]. 
Bên cạnh đó, Nghị định 109 cũng bổ sung nhiều quy định về định giá 
như: Phải đấu thầu để lựa chọn nhà tư vấn định giá nếu có từ 2 nhà tư vấn trở 
lên tham gia; Tổ chức tư vấn được lựa chọn phương pháp định giá; Giá trị 
doanh nghiệp được xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng khi 
công bố phải được so sánh và đảm bảo không thấp hơn giá trị được xác định 
theo phương pháp tài sản; Giá trị doanh nghiệp được điều chỉnh nếu sau 12 
tháng kể từ thời điểm xác định mà chưa thực hiện việc bán Cổ phần,.... Đây 
cũng là những điều chỉnh kịp thời nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực 
tế triển khai CPH. Việc quy định giá trị doanh nghiệp xác định theo các 
phương pháp khác không được nhỏ hơn giá trị doanh nghiệp xác định theo 
phương pháp tài sản cũng là một quy định cần thiết nhằm tránh tình trạng 
định giá thấp vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. 
Trong hai phương pháp định giá mà Nghị định 109 đưa ra (phương pháp 
tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền), phương pháp tài sản có một 
điểm thay đổi căn bản. Đó là, giá trị đất thuê trả tiền thuê một lần (ghi nhận 
tài sản cố định theo chuẩn mực kế toán) được tính vào giá trị doanh nghiệp 
theo giá sát với giá thị trường tại thời điểm định giá do UBND tỉnh quy định 
và công bố. Nghị định cũng quy định cụ thể cách thức, thời gian xác định giá 
trị quyền sử dụng đất,.... Có một thực tế là hầu hết các DNNN hiện đang sở 
hữu một khối lượng tương đối lớn đất (chính xác hơn là quyền sử dụng đất) 
 80 
dưới dạng được giao hoặc được Nhà nước cho thuê. Giá trị quyền sử dụng đất 
ghi nhận trên sổ sách thường thấp hơn nhiều so với giá thực tế trên thị trường, 
nhất là tại các vị trí "ngon lành". Theo quy định trước đây (Nghị định 187), 
nếu là đất thuê thì không tính vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Quy định này 
đã tạo ra một kẽ hở lớn khiến cho không ít vụ CPH DNNN trở thành những 
cuộc tư hữu hoá tài sản Nhà nước với giá rẻ, gây thất thoát lớn khiến công 
luận phải nhiều lần lên tiếng. Hy vọng quy định mới của Nghị định 109 sẽ 
phần nào khắc phục tình trạng trên [19]. 
Tóm lại, quá trình CPH DNNN là một quá trình thay đổi, phát triển cả về 
nhận thức, tư duy và hoàn thiện, bổ sung cơ chế chính sách; nếu cứ suy diễn 
dựa vào những hạn chế, bất cập trong giai đoạn thí điểm ban đầu để kéo dài 
quá trình chuyển đổi, CPH DNNN là chưa phù hợp. Việc xác định giá trị 
doanh nghiệp CPH cần được thống nhất dựa trên nguyên tắc thị trường và 
được Nhà nước đảm bảo thực hiện công khai, minh bạch; quyền lợi của người 
lao động trong doanh nghiệp CPH đã được Nhà nước đảm bảo trong mức có 
thể, đòi hỏi bản thân người lao động phải không ngừng rèn luyện đáp ứng yêu 
cầu trong tình hình mới và phát huy tối đa những ưu đãi nhận được từ Nhà 
nước trong quá trình CPH. 
4. Giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp Cổ phần hoá 
Tình trạng các doanh nghiệp đang là con nợ chưa có hướng giải quyết 
trong quá trình thực hiện CPH và cả các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn còn 
ôm những món nọ do việc chuyển đổi không xác định rõ trách nhiệm người 
phải trả đang là nỗi lo cho các cơ quan quản lý, các chủ nợ (chủ yếu là các 
ngân hàng) và chính các doanh nghiệp. Và hướng giải quyết ở đây là xử lý tận 
gốc qua mua bán nợ. 
Việc xử lý nợ của doanh nghiệp cần phải xử lý tận gốc từ trước khi CPH. 
Tuy nhiên xử lý triệt để như thế nào thì lại là một bài toán khó đặt ra. Theo 
các chuyên gia, giải pháp xử lý nợ, đặc biệt là những món nợ xấu của các 
 81 
doanh nghiệp trước khi chuyển đổi thông qua hệ thống các Công ty mua bán 
nợ, là giải pháp rất cần được quan tâm. 
Hiện tại, chủ yếu các ngân hàng thương mại là chủ nợ lớn nhất những 
món nợ xấu, khó đòi của các DNNN. Chính vì vậy, nếu xử lý được khoản nợ 
này sẽ vừa giải quyết được khó khăn cho hệ thống ngân hàng vừa xử lý được 
nợ xấu, làm lành mạnh tài chính, đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN. 
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp-DATC là một 
DNNN với hoạt động được quy định trong Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg 
ngày 05/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể là các hoạt động về tiếp 
nhận và xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng không tính vào giá trị DNNN 
khi thực hiện sắp xếp, đổi mới và CPH DNNN; mua bán và xử lý các khoản 
nợ của doanh nghiệp theo phương thức chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và 
phương thức thoả thuận theo "cơ chế thị trường", "thuận mua vừa bán" nhằm 
mục tiêu lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong quá 
trình hội nhập và phát triển [1]. 
Rõ ràng, việc xử lý nợ cần có một lộ trình trong một thời gian nhất định 
qua tổ chức mua bán nợ của Chính phủ. Trong bối cảnh nợ tồn đọng của các 
DNNN, các ngân hàng thương mại Nhà nước còn cao, tài chính DNNN chưa 
lành mạnh do nợ xấu, rất cần có cơ chế xử lý nợ một cách hoàn thiện, tổng thể 
từ Chính phủ. Việc xử lý tổng thể nợ của các DNNN, đặc biệt là đối với các 
ngân hàng thương mại quốc doanh, sẽ cơ bản giải quyết được tận gốc những 
tồn tại về tài chính của các DNNN, từ đó góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình 
CPH, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. 
5. Vấn đề chính sách đối với Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 
- Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý trong doanh nghiệp và quản lý 
của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn và giữ Cổ 
phần chi phối. 
 82 
- Cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ, chặt chẽ, có hiệu quả công tác sắp 
xếp, CPH DNNN theo nguyên tắc thị trường, gắn CPH với phát triển thị 
trường chứng khoán. 
- Cần xúc tiến nhanh việc điều chỉnh cơ chế định giá doanh nghiệp qua 
định chế trung gian để tránh tình trạng làm thất thoát một lượng lớn tài sản 
Nhà nước như thời gian qua. Bên cạnh đó, cần văn bản hoá việc đa dạng hoá 
sở hữu, việc thay đổi cơ cấu tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ, việc thay đổi 
quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp (Nhà nước một mặt với vai 
trò là một chủ sở hữu có quyền lợi và trách nhiệm đối với doanh nghiệp theo 
số Cổ phần đóng góp, mặt khác với vai trò quản lý xã hội có trách nhiệm tạo 
lập hệ thống văn bản pháp lý, nền văn hoá, đạo lý xã hội phù hợp với cơ sở 
kiến trúc thượng tầng đa thành phần kinh tế, vận động theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa). 
- Cần thực hiện chủ trương đẩy nhanh tiến độ CPH Công ty Nhà nước 
theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 9 lần thứ IX, Thủ tướng Chính phủ 
đã ban hành Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 13/5/2004 về thí điểm 
CPH một số Tổng công ty Nhà nước mà không phân biệt quy mô vốn lớn hay 
nhỏ như giai đoạn trước, như: Tổng công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt 
Nam, Tổng công ty Điện tử-Tin học Việt Nam, Tổng công ty Thương mại và 
Xây dựng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà 
đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có những đơn vị có số vốn lên tới hàng 
trăm tỷ đồng. Do đó, cần xây dựng cơ chế thí điểm chuyển các đơn vị sự 
nghiệp có đủ điều kiện thành doanh nghiệp (theo mô hình Công ty trách 
nhiệm hữu hạn hoặc Tổng công ty Cổ phần) [22]. 
6. Về chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp Cổ 
phần hoá 
Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao 
động, nhất là lao động nghèo trong quá trình CPH, tạo điều kiện để người lao 
 83 
động có thể mua hết và nắm giữ số Cổ phiếu ưu đãi, trở thành những người 
chủ thực sự của doanh nghiệp-nền tảng đảm bảo quyền dân chủ của người lao 
động. Trước đây, trong quá trình CPH, người lao động nghèo được mua chịu 
số Cổ phần ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần trong 7 năm tiếp 
theo. Nhiều lao động nghèo đã mua được Cổ phần và được hưởng mọi quyền 
lợi chính trị và kinh tế của một cổ đông, không ít người nhờ đó đã thoát 
nghèo. Đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 
16/11/2004 "về việc chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần" và tiếp theo là 
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 thay thế Nghị định số 
187/2004/NĐ-CP, quy định cho lao động nghèo mua chịu Cổ phần đã bị bãi 
bỏ. Nhiều lao động nghèo buộc phải bán "quyền" mua Cổ phiếu ưu đãi, từ bỏ 
quyền làm chủ đối với doanh nghiệp mà có những người đã có hàng chục 
năm cống hiến, xây dựng. Vì vậy, Chính phủ và các ban, ngành chức năng 
cần nghiên cứu, khôi phục lại chính sách ưu đãi này [11]. 
Thứ hai, cần đẩy mạnh chiến lược đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực. 
Để hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm coi 
trọng đào tạo và quản lý nguồn nhân lực. Bởi con người là nguồn lực cơ bản 
nhất và là mục tiêu lâu dài của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn coi 
chính sách giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đặc biệt là chất lượng 
nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả và sức 
cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. 
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu chất lượng 
nguồn nhân lực càng phải được chú trọng. Kinh nghiệm của một số nước trên 
thế giới, đặc biệt là Nhật Bản đã minh chứng cho chúng ta thấy, việc đầu tư 
khai thác và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã mang lại sự phát triển thần kỳ đối 
với họ. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân 
lực là điểm mấu chốt cần giải quyết để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh 
của doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực không chỉ tác 
 84 
động đến tăng năng suất lao động, thực hiện tăng trưởng kinh tế và tăng thu 
nhập quốc dân mà còn giúp phát triển, hoàn thiện chính bản thân con người, 
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Do vậy, cần có cái 
nhìn nghiêm túc và thực hiện đầu tư đúng mức cho phát triển nguồn nhân lực, 
có như vậy mới đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. 
Để không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp 
cần có một chiến lược đào tạo và đào tạo lại không ngừng để trình độ người 
lao động bắt kịp với sự thay đổi của công nghệ sản xuất và khoa học kỹ thuật. 
Phát huy sâu rộng phong trào học tập, nhất là phong trào tự học trong đội 
ngũ những người lao động, biến việc học trở thành việc suốt đời của mỗi 
người, để người lao động có được tri thức thực sự và làm chủ công việc thuộc 
lĩnh vực mình được giao [12]. 
Thứ ba, cần phát huy quyền dân chủ của người lao động trong Công ty 
Cổ phần. 
Bên cạnh việc triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở Công ty Cổ phần, 
Công ty trách nhiệm hữu hạn theo Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 
28/5/2007 của Chính phủ, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp [11]: 
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, 
hiểu biết của người lao động, người sử dụng lao động về mục đích, ý nghĩa 
của CPH, về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động trong các Công 
ty Cổ phần. Qua đó, phát huy tính tích cực, tinh thần chủ động của người lao 
động đối với mọi mặt hoạt động của Công ty. 
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho sản xuất-kinh doanh, tăng 
cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp nói 
chung, Công ty Cổ phần nói riêng; khuyến khích các Công ty CPH từ DNNN 
nhanh chóng sắp xếp lại tổ chức bộ máy, ổn định sản xuất và niêm yết trên thị 
trường chứng khoán. Việc niêm yết trên thị trường chứng khoán yêu cầu các 
 85 
Công ty Cổ phần phải tuân thủ các quy định về công bố thông tin. Đây là điều 
kiện tốt để thực hiện dân chủ đối với người lao động. 
Thứ tư, cần đổi mới hoạt động và nâng cao vai trò của các đoàn thể, tổ 
chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên trong doanh nghiệp sau Cổ phần. 
Trên thực tế, tại các Công ty Cổ phần nói chung và các DNNN sau CPH 
nói riêng, vai trò của tổ chức Đảng, Công đoàn có nhiều thay đổi. Công đoàn 
và các tổ chức đoàn thể khác ít phát huy được vai trò của mình. Đặc biệt, đối 
với các Công ty Cổ phần mà Nhà nước không nắm Cổ phần chi phối thì công 
tác đoàn thể ở nhiều nơi chỉ mang tính hình thức. Do vậy, việc bảo vệ quyền 
và lợi ích của người lao động trong Công ty Cổ phần gặp nhiều khó khăn hơn 
so với khi là DNNN. Vì vậy, các tổ chức này phải đổi mới hoạt động cho phù 
hợp với vai trò của mình. 
Hoạt động của tổ chức Đảng nên hướng vào công tác vận động quần 
chúng, lựa chọn, giới thiệu những người có uy tín, năng lực vào Hội đồng 
quản trị, Ban kiểm soát Công ty, vào ban chấp hành Công đoàn, thông qua đội 
ngũ cán bộ, Đảng viên để phát huy vai trò của mình. Công đoàn có vai trò rất 
quan trọng, là nơi tập hợp, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của đông đảo 
những người lao động. Vai trò của Công đoàn thể hiện rõ rệt nhất qua việc tổ 
chức hội nghị người lao động hàng năm; soạn thảo và đưa ra thảo luận, thông 
qua tại hội nghị người lao động thoả ước lao động tập thể; đàm phán, ký kết 
thoả ước lao động tập thể với người quản lý doanh nghiệp. Trong các tranh 
chấp phát sinh giữa người lao động và quản lý doanh nghiệp, Công đoàn phải 
là chỗ dựa tin cậy, đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao 
động. Ngoài ra, theo Điều 35 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 
của Chính phủ, tổ chức Công đoàn tại DNNN CPH được dùng nguồn quỹ hợp 
pháp của Công đoàn để mua Cổ phần ở mức không quá 3% vốn điều lệ. Như 
thế, Công đoàn còn có thể là một cổ đông, đại diện cho đông đảo người lao 
 86 
động trong Công ty tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, khai thác nguồn lợi 
từ đó để phục vụ cho hoạt động Công đoàn [11]. 
7. Tăng cường tổ chức, chỉ đạo của Nhà nước đối với công tác Cổ phần 
hoá 
Thứ nhất, về vấn đề tài chính, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần: 
- Chú trọng xử lý tài chính khi CPH và bàn giao vốn, tài sản sang Công 
ty Cổ phần theo đúng quy định; có kế hoạch điều hoà bán Cổ phần lần đầu đối 
với doanh nghiệp CPH. Kết hợp công tác CPH, bán đấu giá Cổ phần lần đầu 
ra công chúng với niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán; đẩy mạnh 
đăng ký Công ty đại chúng theo Luật chứng khoán. 
- Thực hiện tốt cơ chế giám sát đối với công tác sắp xếp, CPH DNNN và 
giám sát tình hình tài chính của DNNN, nhất là các tập đoàn, Tổng công ty 
Nhà nước. 
Thứ hai, về vấn đề sở hữu vốn, các cơ quan chức năng của Nhà nước 
cần: 
- Chỉ đạo các Tổng công ty Nhà nước thực hiện chuyển đổi theo mô hình 
Công ty mẹ-Công ty con; kết hợp với CPH toàn Tổng công ty nhằm nâng cao 
năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính đối với khu vực DNNN. 
- Tập trung chỉ đạo công tác chuyển giao đại diện chủ sở hữu vốn từ các 
bộ, địa phương về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước; hoàn 
thiện tổ chức bộ máy, điều lệ và cơ chế tài chính để Tổng công ty có thể thực 
hiện được vai trò này và tập trung nguồn lực để đầu tư vào các công trình, các 
dự án đầu tư lớn của Nhà nước thông qua cơ chế đầu tư của Tổng công ty. 
Thứ ba, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần tổ chức tốt công tác tư 
vấn CPH với việc đào tạo và tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi, đồng bộ, am 
hiểu để giúp các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục CPH, xây dựng phương 
án kinh doanh sau CPH, làm cho CPH thực sự phát huy hiệu quả. 
 87 
8. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho tổ chức và hoạt động của 
Công ty Cổ phần 
Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý, chính sách thực 
hiện CPH DNNN, chỉ đạo mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn đối với các Tổng 
công ty, Công ty Nhà nước lớn, xoá bỏ tình trạng CPH khép kín, tăng lượng 
Cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến 
lược được tham gia với tỷ lệ sở hữu vốn lớn hơn. Đẩy mạnh, đa dạng hoá hình 
thức bán Cổ phần. Về phía các DNNN cần quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết 
tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình CPH. Lãnh đạo các DNNN cũng 
như các bộ, ngành chủ quản phải đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức 
rằng CPH là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang 
đến gần. Tuy nhiên, cần lưu ý, tránh CPH hình thức hoặc "bán rẻ" tài sản Nhà 
nước. Việc định giá doanh nghiệp phải theo giá thị trường, trên cơ sở đấu giá 
công khai, minh bạch để hình thành giá trị thị trường của doanh nghiệp. 
Đối với các Công ty sau Cổ phần, khẩn trương ban hành mới và hoàn 
thiện các cơ chế quản lý doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh 
doanh và khả năng cạnh tranh, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước; đồng 
thời, tăng cường giám sát để vừa nâng cao hiệu quả hoạt động vừa đảm bảo 
quyền lợi chính đáng cho tất cả các cổ đông. Tiếp tục nới rộng giới hạn tham 
gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các Công ty Cổ phần; nhanh chóng 
thực hiện niêm yết Cổ phiếu đối với các Công ty đủ tiêu chuẩn. Tiếp tục cải 
tiến quy trình CPH và gắn với quá trình cải cách hành chính [23]. 
9. Giảm tỷ lệ Cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp Cổ phần 
Sở hữu Nhà nước thấp hơn 51% không có nghĩa là Nhà nước mất quyền 
kiểm soát doanh nghiệp, bởi nếu vẫn nắm giữ vai trò cổ đông chi phối thì vẫn 
kiểm soát được. Do đó, vấn đề là chúng ta có thật sự cần thiết để một doanh 
nghiệp nào đó có hơn 51% vốn thuộc sở hữu của Nhà nước hay không. Và 
ngay cả trong trường hợp việc chiếm giữ đa số đó là cần thiết, vẫn cần một lộ 
 88 
trình rõ ràng về cơ cấu vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp CPH. Cần nhận 
thức rõ rằng, với việc Nhà nước vẫn giữ tỷ lệ 51% hoặc hơn nữa ở doanh 
nghiệp sau khi đã CPH thì việc đưa công nghệ và kỹ năng quản lý điều hành 
hiện đại, đặc biệt là quản trị rủi ro vào những doanh nghiệp này sẽ có khả 
năng gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế 
đang diễn ra ngày một nhanh ở hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. 
Mặt khác, nhà đầu tư bao giờ cũng muốn nắm giữ nhiều hơn ở những 
doanh nghiệp hoạt động tốt, đó là nguyện vọng chính đáng. Như vậy, tình 
trạng tỷ lệ sở hữu của Nhà nước cao không thể kéo dài mãi được. Hơn nữa, 
nguyện vọng chính đáng này là của nhà đầu tư cũng tạo tiền đề cho việc đẩy 
mạnh xã hội hoá đầu tư và huy động mọi nguồn lực để phát triển thị trường 
vốn của đất nước. 
Thêm vào đó, do khả năng quản lý vốn của cơ quan chủ quản Nhà nước 
còn hạn chế, không bao quát hết lượng vốn Nhà nước quá lớn trong doanh 
nghiệp, do đó, hiện tượng thất thoát vốn, sử dụng vốn không đúng mục đích 
sau Cổ phần, thậm chí còn làm cho Nhà nước thiệt hại nhiều hơn về mặt kinh 
tế. 
Vì vậy, việc giảm tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước trong các doanh nghiệp 
sau CPH là một biện pháp cấp thiết không chỉ để nâng cao năng lực quản lý 
của Nhà nước mà còn nâng cao khả năng phát triển kinh doanh của doanh 
nghiệp. 
10. Một số giải pháp đối với vấn đề hậu Cổ phần hoá 
10.1. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của doanh nghiệp Cổ phần 
Theo các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, 
để tiếp tục hoàn thành mục tiêu đẩy mạnh chuyển đổi doanh nghiệp một cách 
vững chắc thì một trong những yêu cầu quan trọng và cấp thiết là cần tiếp tục 
cải thiện môi trường hoạt động của doanh nghiệp CPH. 
 89 
Về phía Nhà nước: chính quyền các cấp cần tiếp tục tạo môi trường kinh 
doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp trong đó có doanh 
nghiệp Cổ phần; không có sự phân biệt đối xử trong các chính sách và thực 
hiện các chính sách giữa DNNN và doanh nghiệp nhỏ và vừa sau chuyển đổi 
về: vay vốn ngân hàng, khoanh nợ, giãn nợ, miễn giảm thuế, đầu tư xây dựng, 
giao đất, thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất đối với doanh nghiệp đang CPH 
và doanh nghiệp sau CPH. Về vấn đề này, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp 
hy vọng và đề nghị Luật Doanh nghiệp mới sớm được hoàn thiện và ban 
hành. Chuyển chức năng quản lý Cổ phần Nhà nước của các doanh nghiệp 
trực thuộc Bộ, địa phương sang Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà 
nước để đơn vị này thực hiện việc quản lý kinh doanh, đầu tư ở các doanh 
nghiệp Cổ phần, tránh những lúng túng như hiện nay. 
Cần quy định rõ nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc 
tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chính sách và giải đáp các vướng mắc 
của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Đồng thời, cần phát triển các tổ chức tư vấn 
các nghiệp vụ về tư vấn, đầu tư Cổ phần, bao gồm: xây dựng phương án CPH, 
các dịch vụ phát hành và chuyển nhượng Cổ phiếu trên thị trường chứng 
khoán; gắn việc CPH với việc doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng 
khoán,.... 
Về phía doanh nghiệp: phải chủ động, tích cực trong việc nâng cao sức 
cạnh tranh của mình, như: tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chiến 
lược phát triển sản phẩm của doanh nghiệp; đổi mới kỹ thuật và công nghệ 
theo hướng hiện đại; nâng cao trình độ tay nghề người lao động; điều hành, 
quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả; tích cực củng cố thị trường đã có và 
mở rộng thị trường mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải không ngừng phấn 
đấu nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm và cải thiện các 
dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng,... [17]. 
 90 
Tóm lại, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN ở nước ta, cần rất nhiều giải 
pháp. Trong đó nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp hình thành từ 
CPH DNNN là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần đẩy nhanh 
tiến trình CPH DNNN, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội ở nước ta trong giai 
đoạn hội nhập hiện nay. 
10.2. Nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của doanh nghiệp 
Cổ phần 
Đi cùng với đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề quản lý nguồn nhân lực. 
Trình độ quản lý nguồn nhân lực phản ánh sát nhất trình độ quản lý doanh 
nghiệp. Mục tiêu của quản lý nguồn nhân lực là đảm bảo cho doanh nghiệp có 
đội ngũ lực lượng lao động đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. 
- Về Ban lãnh đạo: cần thường xuyên tiến hành công việc bồi dưỡng, đào 
tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển, phải xây dựng 
quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt cho doanh nghiệp, lựa chọn 
đúng người lãnh đạo có đức có tài và có sức khoẻ, có tâm huyết với sự phát 
triển của sự nghiệp chung vào những vị trí quan trọng trong doanh nghiệp. 
Nên giao nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc Công ty là hai cá 
nhân khác nhau để đảm bảo tách bạch hai chức năng ra quyết sách và thực 
hiện các quyết sách đó. 
Đối với chúng ta, tuy đã có những bước cải thiện tình hình quản lý nói 
chung và quản lý nguồn nhân lực nói riêng, nhưng các hoạt động quản lý 
nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, như: chưa mang 
tính chuyên nghiệp, chưa khai thác và phát huy được thế mạnh về nguồn nhân 
lực mà doanh nghiệp đang quản lý. Vì vậy, chúng ta cần thực hiện quản lý 
chặt chẽ nguồn nhân lực để đạt lợi thế cạnh tranh. Phải ý thức được rằng, vốn 
quý nhất của doanh nghiệp chính là đội ngũ người lao động có thể lực, trí lực 
và tâm huyết. Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên 
cở sở mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Quan tâm đào tạo giáo dục nguồn 
 91 
nhân lực, vì làm cho con người có chất lượng cũng chính là làm cho hoạt 
động kinh doanh có chất lượng. Do vậy, để nâng cao chất lượng con người thì 
phải chú trọng đến giáo dục và đào tạo đội ngũ người lao động trong doanh 
nghiệp một cách thường xuyên, liên tục; gắn trách nhiệm và lợi ích của người 
quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Không ngừng 
bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con người phát huy mọi khả năng, trí tuệ, sáng 
tạo trong hoạt động. Đây chính là chìa khoá đi đến thành công của mỗi doanh 
nghiệp. 
- Về thông tin nội bộ: đảm bảo tính minh bạch, chính xác, kịp thời, trong 
đó quan tâm nhất là vấn đề tài chính, công khai các quỹ tài chính như: quỹ 
phúc lợi, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng,.... Việc sử dụng các quỹ này 
cũng như phát hành, phân chia cổ phiếu thưởng cần rõ ràng và công khai 
trong các báo cáo của Công ty, các Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông 
hàng năm. Minh bạch chính là cách xử lý các xung đột lợi ích. 
- Về Công ty đại chúng: Với các DNNN lớn, các Tổng công ty Nhà 
nước, việc tuân thủ các quy định về Công ty đại chúng của Luật Chứng khoán 
là bắt buộc, mang lại sự sáng sủa trong quan hệ công tác, rõ ràng trong hành 
xử. Theo quy định của Bộ Tài chính, các doanh nghiệp hội đủ điều kiện trở 
thành Công ty đại chúng phải đăng ký chuyển thành Công ty đại chúng trong 
năm 2007. Đây là một chỉ đạo đúng và kịp thời của Nhà nước nhằm cải thiện 
chất lượng quản trị Công ty hiện đang rắc rối trong thực hiện CPH hiện nay 
[16]. 
10.3. Một số giải pháp đối với cổ đông trong doanh nghiệp Cổ phần 
Các cổ đông nhỏ thường không có vai trò lớn trong việc kiểm tra, giám 
sát Công ty với phần vốn góp nhỏ. Họ không có khả năng, kỹ năng để quản trị 
Công ty, bị phụ thuộc vào các cổ đông lớn. Trách nhiệm kiểm soát chính là 
thuộc về các cổ đông lớn, và do đó, cổ đông nhỏ cần: 
 92 
- Sáng suốt lựa chọn người lãnh đạo tốt, trung thành với Công ty để họ 
mang lại lợi ích cho cổ đông; 
- Có thể liên kết với nhau theo hình thức đại diện mà luật định cho phép, 
để tham gia vào kiểm tra, giám sát, biểu quyết các vấn đề quan trọng của 
doanh nghiệp. 
- Hiểu biết và sử dụng các quyền của cổ đông mà Luật Doanh nghiệp và 
Điều lệ Công ty quy định, hoặc quyền của công dân theo Hiến pháp để tự bảo 
vệ, như: yêu cầu bồi thường thiệt hại, khiếu nại, yêu cầu triệu tập họp để xác 
minh,.... 
- Trên thực tế, người lao động có thể là cổ đông nhỏ, song cổ đông nhỏ 
chưa chắc là người lao động. Việc dung hòa lợi ích ở đây không đơn giản, 
nhưng với tư cách là người cống hiến cho doanh nghiệp thực sự thì việc quy 
định người lao động được ưu tiên phân phối quyền mua hoặc giá bán ưu đãi, 
ví dụ, không thấp hơn 40% giá thị trường tại thời điểm phát hành là hợp lý 
[16]. 
10.4. Xoá bỏ ưu đãi bất hợp lý với doanh nghiệp Nhà nước 
Cho đến thời điểm này, còn rất nhiều lý do được viện dẫn cho việc duy 
trì chế độ bao cấp và ưu đãi đối với một số khu vực quốc doanh. Để bảo vệ 
cho quyền lợi được hưởng đã có lý do cần duy trì vị trí chủ đạo của DNNN 
trong nền kinh tế quốc dân, hay lý do tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng thua lỗ và 
phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp nếu xoá bỏ bao cấp đột ngột. Song lý 
do quan trọng nhất vẫn là vì lợi ích cục bộ, lợi ích của doanh nghiệp, trong đó 
lợi ích cá nhân được ưu tiên bảo vệ. Nhưng để tạo lập được một môi trường 
cạnh tranh bình đẳng sau khi CPH, trước hết phải có những chính sách, biện 
pháp không phân biệt đối xử với mọi thành phần kinh tế. Xoá bỏ bao cấp sẽ 
giúp Chính phủ có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho những mục tiêu kinh tế-xã 
hội quan trọng: nâng cấp hạ tầng cơ sở, tăng cường công tác nghiên cứu và 
 93 
triển khai, hoàn thiện và mở rộng các thị trường đất đai, lao động, chứng 
khoán,.... Việc xoá bỏ ưu đãi bất hợp lý với DNNN bao gồm [9]: 
- Xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý và khắc phục tình trạng bao cấp như: 
khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các 
hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn cho DNNN thông 
qua các Công ty Đầu tư tài chính của Nhà nước. 
- Khẩn trương xoá bỏ độc quyền và đặc quyền không cần thiết của 
DNNN phù hợp với lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 
IV. Một số kiến nghị 
1. Đối với cơ quan Chính phủ 
Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, 
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, không có sự phân 
biệt trong chính sách và thực hiện chính sách như: vay vốn ngân hàng, khoanh 
nợ, giãn nợ, miễn giảm thuế, đầu tư xây dựng, giao đất, thuê đất, chuyển 
quyền sử dụng đất đối với doanh nghiệp đang CPH và doanh nghiệp sau CPH. 
Thứ hai, Chính phủ cần có biện pháp đôn đốc và quy trách nhiệm cụ thể 
cho các bộ, các ngành, UBND các tỉnh, thành phố và các Tổng công ty 91, 
Tổng công ty 90 trong việc thực công tác phân loại, sắp xếp và CPH DNNN. 
Các bộ, ngành, địa phương và Tổng công ty Nhà nước chủ động đưa ra 
lộ trình thực hiện CPH và đa dạng hoá sở hữu cho các doanh nghiệp thuộc đối 
tượng quản lý, kiên quyết thực hiện giải thể, phá sản đối với những doanh 
nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, kịp thời tháo gỡ 
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH. 
Các cơ quan có thẩm quyền sớm phê duyệt các đề án phân loại và sắp 
xếp tổng thể DNNN, của các bộ, ngành, địa phương và Tổng công ty. 
Các tỉnh, thành ban hành quy định về giá nhà xưởng, kho tàng bến bãi, 
phương tiện vận tải, máy móc thiết bị để rút ngắn quá trình định giá doanh 
 94 
nghiệp. Trong những trường hợp cần thiết có thể mời chuyên gia kiểm toán 
quốc tế tư vấn, giúp giải quyết vấn đề này. 
2. Đối với doanh nghiệp 
Phải chủ động, tích cực trong việc nâng cao sức cạnh tranh của mình, 
như: tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển sản phẩm 
của doanh nghiệp; đổi mới kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại; nâng 
cao trình độ tay nghề người lao động; điều hành, quản lý doanh nghiệp một 
cách hiệu quả; tích cực củng cố thị trường đã có và mở rộng thị trường mới. 
Phấn đấu nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm và cải thiện 
các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng,.... 
Tóm lại, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN ở nước ta, cần rất nhiều giải 
pháp. Trong đó, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp hình thành từ 
CPH DNNN là một trong những giải pháp quan trọng. 
 95 
KẾT LUẬN 
Qua hơn 15 năm thực hiện, CPH DNNN đã trở thành giải pháp cơ bản và 
quan trọng nhất trong cơ cấu lại DNNN, để các doanh nghiệp có cơ cấu thích 
hợp hơn và phát triển tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, đáp ứng 
yêu cầu và xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta trong hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
Trên thực tế, công tác này đã đạt được khá nhiều kết quả tốt. Doanh thu 
của các doanh nghiệp CPH đã tăng lên đáng kể, lợi nhuận hàng năm cũng 
được tăng lên, thu nhập hàng năm bình quân của người lao động trong doanh 
nghiệp tăng, cải thiện đời sống của người lao động, đặc biệt là đã giải quyết 
được rất nhiều việc làm cho người lao động. Các DNNN sau khi chuyển đổi 
đã có nhiều cơ hội và điều kiện để tổ chức sản xuất mở rộng thị trường, mặt 
hàng và ngành nghề kinh doanh. 
Để thực hiện tốt công tác CPH hoàn thành mục tiêu mà Đảng và Nhà 
nước ta đã đề ra, trong thời gian tới, chúng ta cần phải nhìn nhận đánh giá lại 
đúng thành tựu đã đạt được, những hạn chế vướng mắc và những nguyên 
nhân làm chậm tiến trình CPH DNNN từ đó mới có những giải pháp cụ thể để 
đẩy nhanh, đẩy mạnh và có hiệu quả công tác CPH. 
Như vậy, CPH DNNN là một quá trình tất yếu nhưng cũng là một công 
việc vô cùng khó khăn phức tạp mà mỗi sai lầm đều có thể phải trả giá. Đó có 
thể là sự thất thoát vốn, tài sản Nhà nước; cũng có thể là sự thiếu công bằng, 
minh bạch-những yếu tố tối cần thiết trong môi trường hội nhập; cũng có thể 
là sự thiệt thòi của người lao động trong doanh nghiệp CPH-nhân tố chủ đạo 
làm nên vóc dáng của doanh nghiệp và cũng là động lực chính cho sự phát 
triển của Công ty Cổ phần. 
Để giải quyết triệt để vấn đề đang đặt ra nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH 
và nâng cao hiệu quả của công tác CPH, cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa 
Nhà nước và doanh nghiệp, giữa quản lý vĩ mô và vi mô; đồng thời phải 
 96 
không ngừng tiến hành kiểm nghiệm lại quá trình CPH sau mỗi giai đoạn, 
nhằm đúc rút ra bài học, làm cơ sở để từ đó điều chỉnh lại phương pháp CPH 
để CPH thực sự phát huy được vai trò của mình trong cải tổ DNNN, đi đúng 
theo những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 
 97 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tài liệu Tiếng Việt 
1. Lê Anh (2008), Tạp chí thông tin Tài chính số 3 tháng 2/2008, 18-19. 
2. Phạm Tuấn Anh (2006), Tạp chí quản lý Nhà nước số 9 năm 2006, 19, 
21. 
3. PGS. TS. Phạm Ngọc Côn (2001), Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà 
nước (nghiên cứu và vận dụng), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 19-20, 156-
167, 174-180, Hà Nội. 
4. TS. Bùi Văn Dũng - ThS. Nguyễn Thị Luyến (2008), Tạp chí Tài 
chính doanh nghiệp số 4/2008, 14. 
5. Lưu Bình (2007), Tạp chí Ngân hàng số 8 tháng 4/2007, 4. 
6. Đinh Ngọc Giang (2005), Tạp chí Quản lý Nhà nước số 9 năm 2005, 
18-19. 
7. Lê Hoàng Hải (2006), Tạp chí Tài chính tháng 9/2006, 22. 
8. Nguyễn Hoàng Hải (2004), Tạp chí Tài chính tháng 10/2004, 18. 
9. PGS. TS. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà 
nước-Những vấn đề lý luận và thực tiễn (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản 
Chính trị Quốc gia, 100, 102-103, 105-109, 241-242, Hà Nội. 
10. Phạm Quang Huấn (2006), Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 333 tháng 
2/2006, 41. 
11. Nguyễn Đức Kha (2007), Tạp chí quản lý Nhà nước số 143 tháng 
12/2007, 35, 44. 
12. TS. Hoàng Thị Bích Loan (2007), Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình 
Dương (05) ngày 30/01/2007, 31. 
13. Nguyễn Duy Long (2007), Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 
7/2007, 4. 
14. Nguyễn Duy Long (2007), Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 
12/2007, 16, 18. 
 98 
15. ThS. Nguyễn Thế Mạnh (2007), Tạp chí quản lý Nhà nước số 140 
tháng 9/2007, 28-32. 
16. PGS. TS. Lê Hoàng Nga (2007), Tạp chí Ngân hàng số 17 tháng 
9/2007, 30, 32-33. 
17. PGS. TS. Nguyễn Huy Oánh - ThS. Phạm Thị Huyền (2007), Tạp chí 
Thương mại số 25/2007, 5-6. 
18. Nguyễn Văn Quảng (2007), Tạp chí Quản lý kinh tế số 14 
(5+6/2007), 37-38. 
19. LHT (2007), Tạp chí Tài chính số 8 (514)/2007, 18-21. 
20. Hoàng Thạch (2007), Tạp chí Thị trường giá cả tháng 4/2007, 30. 
21. PGS. TS. Bùi Tất Thắng (2007), Tạp chí Lý luận chính trị tháng 
01/2007, 48. 
22. Đinh Thị Thơm (2006), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi 
mới-Thực trạng và những vấn đề, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 176-179, 
186-190. 
23. Trần Trung Tín (2005), Đảng cộng sản Việt Nam với công tác cải 
cách bộ máy hành chính và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Nhà xuất 
bản Lao động, 401-402. 
24. Thu Trang (2008), Tạp chí Tài chính tháng 01/2008, 30-31, 35. 
25. Phạm Thành Tý (2007), Tạp chí Thông tin Tài chính số 21 tháng 
11/2007, 14. 
26. Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nhà xuất bản Thống kê, 6, 10. 
27. Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007, 1. 
28. Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, 1. 
2. Website 
29.  
435118, ngày 15/5/2008. 
30.  
 99 
tno, ngày 15/5/2008. 
31.  
C9/, ngày 15/5/2008. 
32.  
trangvaGP.html, ngày 15/5/2008. 
33.  
d=10226771203d35&pageid=793, ngày 15/6/2008. 
34.  
=05&id=4ac0fadc4995da, ngày 15/6/2008. 
35.  
ngày 15/6/2008. 
36.  
ngày 15/6/2008. 
37.  
ngày 15/6/2008. 
38.  ngày 15/6/2008. 
39. 
yeu/4524 
3848/124/, ngày 15/6/2008. 
40. 
so-luong/40176363/157/, ngày 15/6/2008. 
41. 
Nha-nuoc/20630471/96/, ngày 15/6/2008. 
42. 
hon-trong-chinh-sach/20757464/87/, ngày 15/6/2008. 
43. 
bao 
/45234175/124/, ngày 15/6/2008. 
 100 
44.  ngày 
15/6/2008. 
45. 
/8580.html, ngày 15/6/2008. 
46. 
35467, ngày 15/6/2008. 
47.  ngày 
15/6/2008. 
48. 
qua-kiem-toan-doanh-nghiep-nha-nuoc-biet-benh-ma-khong-chua-la-khong-
2. 
html, ngày 15/6/2008. 
49.  
89&module=news, ngày 15/6/2008. 
50.  
ngày 15/6/2008. 
51.  ngày 
15/6/2008. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4289_6255.pdf 4289_6255.pdf