Luận án Hiệu quả phân bổ và một số mô hình đánh giá tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành công nghiệp của Việt Nam

Ở cấp doanh nghiệp, nguồn lực được phân bổ được dựa trên hai yếu tố chính là nhận thức về mức độ thay đổi nguồn lực và mức độ kỳ vọng từ cấp cao (hay mục tiêu chiến lược). Doanh nghiệp cần có các hoạt động điều chỉnh, cập nhật, bổ sung phân bổ nguồn lực theo bối cảnh thực thi chiến lược và những biến động thị trường. Trước tiên, doanh nghiệp phải liên tục nhận dạng được nguồn lực thiết yếu của mình; xác định rõ nguồn lực chi tiết và nhu cầu nguồn lực cũng như sự thay đổi về nhu cầu tại từng bộ phận cụ thể. Để đảm bảo lợi thế cạnh tranh trong quá trình thực thi, doanh nghiệp nên có hệ thống đánh giá khả năng phù hợp với các nguồn lực sẵn đã được định dạng trước đó; cũng như sẵn sàng tích hợp các nguồn lực mới được bổ sung. Bên cạnh đó, sự tương thích giữa các nguồn lực với nhau cũng nên được đề cao; cần đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, nhất quán giữa các nguồn lực và có khả năng liên kết để bổ sung, hỗ trợ nhau trong tiến trình triển khai hoạt động chiến lược. Ngoài ra, dựa vào các kết quả ước lượng các mô hình phân tích tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ, để nâng cao hiệu quả phân bổ các doanh nghiệp cần tăng mức trang bị vốn của doanh nghiệp, có chế độ đãi ngộ hợp lý với người lao động trong việc chi trả tiền lương cũng như các biện pháp nhằm tăng năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp như chú trọng đầu tư nâng cao trình độ người lao động, nâng cao khả năng áp dụng công nghệ. Đặc biệt, các doanh nghiệp thấp và doanh nghiệp trung bình cần tăng khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến của người lao động, đầu tư phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ, tận dụng được lợi ích lan tỏa công nghệ của các doanh nghiệp FDI để nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp mình và nâng cao khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp công nghệ cao hơn. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước cần xem xét lại hiệu suất sinh lời của việc sử dụng vốn cũng như việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp mình, những yếu tố này đều chưa mang lại tác động tích cực lên hiệu quả phân bổ. Đồng thời cũng cần tranh thủ các lợi thế từ các chính sách hỗ trợ vốn của nhà nước và địa phương. Các doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu cần có sự chọn lọc, xem xét kỹ để lựa chọn các đối tác xuất khẩu cũng như mặt hàng xuất khẩu để việc tham gia vào thị trường thương mại quốc tế mang lại những tác động tích cực đến hiệu quả phân bổ của doanh nghiệp.

pdf172 trang | Chia sẻ: huydang97 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 733 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hiệu quả phân bổ và một số mô hình đánh giá tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành công nghiệp của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a nhóm, nhóm CNC có hiệu quả thấp hơn một chút. Trong cả giai đoạn, hiệu quả phân bổ của cả ba nhóm có xu hướng giảm, đặc biệt có sự giảm mạnh trong hai năm 2009 và 2018. Một số ngành có giá trị gia tăng cao nhưng mức độ phân bổ hiệu quả lại không đạt được tương xứng như ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học hay ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị). Thứ tư, kết quả phân rã năng suất OP và các mở rộng cho thấy trong giai đoạn nghiên cứu hiệu quả phân bổ liên nhóm của ba nhóm doanh nghiệp chia theo loại hình sở hữu giảm mạnh và có ảnh hưởng tiêu cực lên sự thay đổi năng suất gộp của nhóm. Đối với cả ba nhóm doanh nghiệp thì sự phân bổ lại giữa các doanh nghiệp sống sót trong nội bộ nhóm đều là đóng góp chính vào năng suất gộp. Với nhóm DNNN thì cả các doanh nghiệp gia nhập và rút lui đều mang lại ảnh hưởng tích cực lên năng suất gộp. Với nhóm DNFDI thì ngược lại nên đây là nhóm có sự suy giảm trong năng suất gộp lớn nhất. Với nhóm DNTN thì các doanh nghiệp rút lui mang lại ảnh hưởng tích cực nhưng các doanh nghiệp gia nhập lại có ảnh hưởng tiêu cực lên năng suất gộp.” “Thứ năm, kết quả ước lượng hiệu quả phân bổ cấp tỉnh theo cách tiếp cận OP cho thấy có một mức độ không đồng nhất đáng chú ý của hiệu quả phân bổ trong ngành dọc theo các tỉnh và qua thời gian và có sự chênh lệch rất cao về mức độ phân bổ hiệu quả giữa nhóm các tỉnh có hiệu quả phân bổ cao nhất và thấp nhất. Các tỉnh có mức hiệu quả phân bổ cao nhất trong cả nước trong cả giai đoạn nghiên cứu là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Các tỉnh có hiệu quả phân bổ thấp hơn các tỉnh khác rất nhiều là Điện Biên, Lai Châu, Trà Vinh, Bến Tre và Bạc Liêu.” Thứ sáu, kết quả ước lượng từ các mô hình Tobit cho thấy hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo là khác biệt giữa các vùng và các năm. Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả phân bổ một cách rõ ràng là mức trang bị vốn trên lao động, thu nhập của người lao động và số nợ phải trả của doanh nghiệp. Tuổi doanh nghiệp mang lại các ảnh hưởng khác nhau lên hiệu quả phân bổ tùy vào từng nhóm doanh nghiệp cụ thể. Các nhân tố có tác động tiêu cực lên hiệu quả phân bổ là quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ vốn ngoài, việc tham gia vào thị trường thương mại quốc tế. Tuy 123 nhiên chỉ với nhóm doanh nghiệp công nghệ trung bình, tỷ lệ vốn ngoài lại có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả phân bổ và với nhóm doanh nghiệp lớn thì việc tham gia vào thị trường xuất khẩu lại mang lại hiệu quả phân bổ cao hơn. Thuế thu nhập doanh nghiệp chưa có ảnh hưởng rõ nét lên hiệu quả phân bổ. Với một số nhóm doanh nghiệp công nghệ trung bình và công nghệ cao thì việc tăng thuế thu nhập doanh nghiệp lại dẫn đến tăng hiệu quả phân bổ. Và bằng các kiểm định tin cậy cũng chỉ ra nhóm DNFDI có hiệu quả phân bổ thấp hơn hiệu quả phân bổ của hai nhóm DNNN và DNTN. Thứ bảy, từ kết quả ước lượng của các mô hình số liệu mảng cho thấy một số ảnh hưởng thống nhất thể hiện qua các mô hình: các yếu tố như sự tích tụ của nền kinh tế, mức thâm dụng vốn, chỉ số cạnh tranh công nghiệp của ngành chế biến chế tạo của tỉnh, sự đầu tư cho giáo dục (vốn con người) hay việc tạo điều kiện trong chi phí gia nhập thị trường ở tỉnh đối với các doanh nghiệp có một mối quan hệ tích cực với hiệu quả phân bổ của địa phương. Phần chia vốn hay lao động của các DNFDI trong ngành lại mang lại các ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên tỷ lệ giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP địa phương của thời kỳ trước đó và thời điểm hiện tại lại có ảnh hưởng ngược lại. Còn chi ngân sách cho các hoạt động đầu tư phát triển của địa phương lại không mang lại các ảnh hưởng tích cực như kỳ vọng. Và các ảnh hưởng này vẫn duy trì trong dài hạn. Từ các kết quả thu được, luận án đề xuất các giải pháp cho các nhà quản lý các cấp nhằm cải thiện môi trường hoạt động kinh tế ở các địa phương trong cả nước, mang lại một mức hiệu quả phân bổ cao hơn của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo góp phần làm tăng năng suất doanh nghiệp. Đồng thời, tăng hiệu quả phân bổ ngành – vùng giúp khuyến khích các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường và đào thải các doanh nghiệp yếu kém ra khỏi thị trường, từ đó dẫn đến năng suất gộp của ngành tăng lên. 2. Khuyến nghị và gợi ý chính sách 2.1. Đối với Nhà nước/Chính phủ Chính phủ đã khẳng định huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực là vấn đề cốt lõi trong cải cách kinh tế ở Việt Nam. Nếu sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, Việt Nam có thể đạt tốc độ tăng trưởng tới 9-10% mỗi năm, tương đương với Nhật Bản và Hàn Quốc trong thời kỳ kinh tế cất cánh. Vì vậy theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chúng ta cần “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững”. Để có thể phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất, luận án xin đưa ra một số giải pháp về phía Nhà nước/Chính phủ như sau: 124 “Thứ nhất là phải tạo ra một môi trường lành mạnh để các chủ thể trong nền kinh tế cạnh tranh với nhau một cách công bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực, phải lấy thị trường làm căn cứ để phân bổ nguồn lực có hiệu quả, hạn chế tới mức tối đa sự can thiệp hành chính thô bạo của nhà nước vào nền kinh tế, triệt để xóa bỏ cơ chế “xin - cho”. Các “đầu vào”, các nguồn lực phát triển (nguồn lực lao động, vốn, đất đai và tài nguyên, khoa học công nghệ, ...) phải được phân bổ và dịch chuyển tự do giữa các ngành, địa phương theo tỷ suất sinh lời, hiệu quả. Có như vậy mới kích thích các chủ thể, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vươn lên một cách lành mạnh, sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài phân phối theo kết quả lao động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh được thừa nhận hợp pháp. Với nguyên tắc này, nguồn lực sẽ được phân phối đến những nơi sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất, tạo ra của cải nhiều nhất cho xã hội. Ai làm việc hiệu quả, có đóng góp nhiều hơn thì thu nhập lớn hơn và ngược lại, chống chủ nghĩa bình quân, chống dựa dẫm ỷ lại.” “Hai là, phát huy ưu thế cơ chế thị trường trong xử lý quan hệ phân phối. Vận hành cơ chế thị trường đem lại ưu thế trong việc phân phối hiệu quả các nguồn lực trong xã hội. Mọi giao dịch đều được quyết định dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Vì thế, hoạt động kinh tế hiệu quả luôn luôn đòi hỏi khả năng tối ưu hóa lợi ích riêng trên cơ sở cạnh tranh thị trường.” Thị trường cung cấp tín hiệu thông tin khách quan bảo đảm cho việc phân phối nguồn lực linh hoạt và hiệu quả hơn giữa các ngành, lĩnh vực và vùng miền đất nước. “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”. Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, như thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ, khoa học - công nghệ, Hệ thống thị trường đầy đủ tạo ra cơ chế phân phối nguồn lực hiệu quả hơn. Sự liên thông và đồng bộ của hệ thống thị trường làm cho sự lưu thông, phân bổ nguồn lực hợp lý. Kết quả lao động và sản xuất được xác định chính xác theo đúng nguyên tắc chi phí - lợi ích, cống hiến - hưởng thụ. Ba là cần nâng cao năng lực quản lý của nhà nước trong phân phối thông qua hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định rõ các quan hệ căn bản chi phối nguồn lực hiện hữu trong nền kinh tế quốc dân. Hệ thống pháp luật đặt nền tảng pháp lý căn bản quy định quan hệ phân phối và phân phối lại các nguồn lực trong nền kinh tế, bao gồm: lao động, thu nhập, vốn, đất đai, tài nguyên, Những quyền lợi và nghĩa vụ của mọi chủ thể sở hữu và sử dụng các nguồn lực cần phải quy định rõ ràng bằng luật pháp trong 125 xã hội pháp quyền. Cần phải nâng cao hiệu lực các công cụ, chính sách trong điều tiết phân phối và phân phối lại. Những công cụ, chính sách đắc lực điều tiết quan hệ phân phối và phân phối lại có thể kể tới như thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, sở hữu đất đai, tài sản, thừa kế, “Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương”. Riêng chính sách thuế của Việt Nam đã có sự điều chỉnh nhiều theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế thu nhập DN đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và phát huy được lợi thế so sánh của đất nước. Tuy nhiên trong thực tế, chính sách thuế thu nhập DN chưa mang lại ảnh hưởng tích cực lên hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp. Chính phủ cần nghiên cứu để có những cải cách về chính sách thuế theo hướng không nên quá tập trung vào chính sách ưu đãi thuế mà cần hướng vào một hệ thống thuế minh bạch, công bằng, hiệu quả và phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Chính sách thuế chỉ nên coi là một bộ phận cấu thành trong chính sách thu hút vốn đầu tư và không phải là điều kiện quan trọng nhất, cần lựa chọn những hình thức ưu đãi thuế nhằm khuyến khích các DN đầu tư dài hạn, chỉ nên tập trung ưu đãi thuế đối với một số ít ngành, lĩnh vực rất quan trọng theo chính sách phát triển của đất nước. “Cuối cùng, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các chế tài xử lý vi phạm trong quan hệ phân phối. Cần có những chế tài nghiêm minh để xử lý những hành vi phạm pháp dẫn tới méo mó quan hệ phân phối nguồn lực phát triển. Nhiều hành vi phân phối bất hợp pháp thể hiện dưới các sắc thái khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội như: tham nhũng, gian lận, kinh tế ngầm, trốn thuế, làm hàng giả, buôn lậu, v.v. Mức độ vi phạm rất khác nhau trong các nước và tiếp cận giải quyết vấn đề cũng vô cùng đa dạng. Đặc biệt là tình trạng chuyển giá nhằm trốn thuế của các DNFDI cần phát hiện kịp thời và có các chế tài phù hợp nhằm giảm tối đa tình trạng này. Các lĩnh vực hoạt động của chính phủ có khả năng dễ xảy ra tham nhũng cần phải tập trung rà soát lại. Các biện pháp pháp lý và hành chính xử lý tham nhũng phải đem lại một tác dụng phòng ngừa thỏa đáng. Mức thoả đáng của tiền lương trong khu vực công là một trong những điều kiện góp phần bảo đảm trong sạch, liêm chính của bộ máy quản lý công. Các công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước phải được trả lương đủ sống, đáp ứng với những nhu cầu và mong đợi hợp lý. Quy định thưởng - phạt nghiêm minh, phù hợp với cống hiến và trách nhiệm được giao. Cần xây dựng các cơ chế để thu hút sự tham gia của xã hội dân sự và phải biến những cơ chế ấy thành một phần của quá trình kiểm tra, giám sát thường xuyên. Ngoài ra, thu nhập, tài sản của các quan chức có chức, có quyền phải 126 được kê khai, giám sát hữu hiệu. Cần phải thực thi những chế tài mạnh, truy cứu trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong việc phân phối và sử dụng sai mục đích các nguồn lực, gây mất hiệu quả hay thất thoát nguồn lực công quốc gia, như ngân sách, tài nguyên,” ... 2.2. Đối với địa phương Các quy định và môi trường hoạt động kinh tế ở địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, mức phân bổ hiệu quả của doanh nghiệp và thực tế phân bổ hiệu quả của chính địa phương đó. Để nâng cao hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ở địa phương cũng như nâng cao mức độ hiệu quả của địa phương mình, các nhà lãnh đạo cấp địa phương cần có các giải pháp hợp lý. Các địa phương cần đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao; nâng cao vốn con người ở địa phương mình. Nâng cao vốn con người thể hiện trước hết ở lực lượng lao động trẻ, đầu tư cho giáo dục để tăng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học. Các địa phương có khả năng thành lập các trường Đại học công lập cũng như dân lập thì cần khuyến khích nhưng phải có các giám sát và kiểm định chất lượng thường xuyên. Các địa phương cũng cần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo, tăng sự tích tụ của nền kinh tế địa phương để dẫn đến mức độ hiệu quả phân bổ cao hơn của địa phương mình. Các tỉnh cần cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, bao gồm các thủ tục chung và các thủ tục liên quan đến việc tiếp cận và phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế. Dưới sự chỉ đạo của chính phủ, các bộ ban ngành và địa phương phải tập trung rà soát, kiên quyết loại bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, không đúng quy định, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế, sản xuất và tiếp cận với các nguồn vốn. Cần tạo các điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, chẳng hạn giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường cho doanh nghiệp, để dẫn đến mức độ phân bổ hiệu quả cao hơn của địa phương. Địa phương cần hoàn thiện, điều chỉnh các chính sách thu hút và quản lý vốn FDI vào khu vực công nghiệp chế biến, lĩnh vực công nghệ cao và các lĩnh vực có khả năng tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế trên cơ sở đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường; đặc biệt cần tăng cường quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp; phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời tình trạng “gửi giá”, “lỗ giả, lãi thật”, trốn thuế của doanh nghiệp FDI. Lưu ý khuyến khích phát triển có chọn lọc kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là phát triển thị trường tài chính, 127 đưa thị trường này sớm trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ đạo cho phát triển kinh tế. Tăng cường mối quan hệ giữa các bộ, ban ngành, giữa trung ương với địa phương trong việc thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại và đầu tư quốc tế, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế, đảm bảo lợi ích của người dân, của doanh nghiệp và của nhà nước. Nhằm mục đích dẫn tới những ảnh hưởng tích cực từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc tham gia thị trường thương mại quốc tế của các doanh nghiệp đến hiệu quả phân bổ của địa phương. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả huy động, phân bổ và giám sát nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế trong giai đoạn tới, cũng cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố tiền đề là khoa học công nghệ, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh lành mạnh và tiếp cận thông tin một cách minh bạch nhất. Bên cạnh đó, cần có cơ chế chính sách giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình, trong việc tiếp cận các nguồn lực do nhà nước quản lý như tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nguồn lực tài chính, cơ chế chính sách ưu đãi, để khu vực này lớn mạnh và hiệu quả là cách tiếp cận phát triển bao trùm. Làm sao để các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp tư nhân thì việc sử dụng vốn ngoài mang lại những lợi ích đến hiệu quả phân bổ. Các vùng, các tỉnh có mức phân bổ hiệu quả thấp như các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên hay Đồng bằng sông Cửu Long cần xem xét phân tích cụ thể tình hình phát triển kinh tế của địa phương mình trong mối quan hệ với các yếu tố liên quan đến hiệu quả phân bổ để có những chính sách phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ của địa phương, giảm thiểu phân bổ sai giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó các khu vực có mức độ phân bổ hiệu quả cao như vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam bộ nhưng có sự suy giảm trong thời gian gần đây cũng cần xem xét lại nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm này để có những biện pháp nhằm phân phối hợp lý nguồn lực giữa các doanh nghiệp. 2.3. Đối với doanh nghiệp Ở cấp doanh nghiệp, nguồn lực được phân bổ được dựa trên hai yếu tố chính là nhận thức về mức độ thay đổi nguồn lực và mức độ kỳ vọng từ cấp cao (hay mục tiêu chiến lược). Doanh nghiệp cần có các hoạt động điều chỉnh, cập nhật, bổ sung phân bổ 128 nguồn lực theo bối cảnh thực thi chiến lược và những biến động thị trường. Trước tiên, doanh nghiệp phải liên tục nhận dạng được nguồn lực thiết yếu của mình; xác định rõ nguồn lực chi tiết và nhu cầu nguồn lực cũng như sự thay đổi về nhu cầu tại từng bộ phận cụ thể. Để đảm bảo lợi thế cạnh tranh trong quá trình thực thi, doanh nghiệp nên có hệ thống đánh giá khả năng phù hợp với các nguồn lực sẵn đã được định dạng trước đó; cũng như sẵn sàng tích hợp các nguồn lực mới được bổ sung. Bên cạnh đó, sự tương thích giữa các nguồn lực với nhau cũng nên được đề cao; cần đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, nhất quán giữa các nguồn lực và có khả năng liên kết để bổ sung, hỗ trợ nhau trong tiến trình triển khai hoạt động chiến lược. Ngoài ra, dựa vào các kết quả ước lượng các mô hình phân tích tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ, để nâng cao hiệu quả phân bổ các doanh nghiệp cần tăng mức trang bị vốn của doanh nghiệp, có chế độ đãi ngộ hợp lý với người lao động trong việc chi trả tiền lương cũng như các biện pháp nhằm tăng năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp như chú trọng đầu tư nâng cao trình độ người lao động, nâng cao khả năng áp dụng công nghệ. Đặc biệt, các doanh nghiệp thấp và doanh nghiệp trung bình cần tăng khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến của người lao động, đầu tư phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ, tận dụng được lợi ích lan tỏa công nghệ của các doanh nghiệp FDI để nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp mình và nâng cao khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp công nghệ cao hơn. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước cần xem xét lại hiệu suất sinh lời của việc sử dụng vốn cũng như việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp mình, những yếu tố này đều chưa mang lại tác động tích cực lên hiệu quả phân bổ. Đồng thời cũng cần tranh thủ các lợi thế từ các chính sách hỗ trợ vốn của nhà nước và địa phương. Các doanh nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu cần có sự chọn lọc, xem xét kỹ để lựa chọn các đối tác xuất khẩu cũng như mặt hàng xuất khẩu để việc tham gia vào thị trường thương mại quốc tế mang lại những tác động tích cực đến hiệu quả phân bổ của doanh nghiệp. 3. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo Mặc dù luận án đã được hoàn thành dưới sự nỗ lực rất lớn của NCS và sự hướng dẫn tận tâm của Giáo viên hướng dẫn. Tuy nhiên kết quả của luận án cũng không tránh khỏi một số các hạn chế: Khi đo lường hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo theo phương pháp phân tích bao dữ liệu, do sự thiếu thông tin về giá đầu vào của bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục thống kê, luận án đã trình bày phương pháp ước 129 lượng giá đầu vào. Tuy nhiên đã có các nghiên cứu chỉ ra có thể ước lượng các loại hiệu quả của doanh nghiệp bằng phương pháp DEA mà không cần thông tin về giá đầu vào. Trong phần ước lượng các mô hình phân tích tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo được đo lường theo phương pháp DEA, luận án mới chỉ sử dụng mô hình Tobit, là một mô hình được dùng khá phổ biến trong các nghiên cứu về hiệu quả của doanh nghiệp. Mặc dù luận án đã ước lượng mô hình này trên nhiều nhóm doanh nghiệp khác nhau để thấy rõ được ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của từng nhóm doanh nghiệp cụ thể. Đối với việc ước lượng các mô hình phân tích tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ ngành chế biến chế tạo của các tỉnh ở Việt Nam, mặc dù luận án đã cố gắng đưa các biến đặc trưng cho ngành, vùng để tính các ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn đến hiệu quả phân bổ các tỉnh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu sẽ là đầy đủ hơn nếu có thể đưa thêm vào mô hình các biến đại diện cho cơ sở vật chất của địa phương, trình độ khoa học công nghệ, Và các mô hình dữ liệu mảng theo tỉnh này cũng chưa tính toán được ảnh hưởng của lan tỏa theo không gian đến hiệu quả phân bổ ngành chế biến chế tạo của các tỉnh. Cuối cùng là các khuyến nghị luận án đưa ra chưa có điều kiện thực chứng do hạn chế về thời gian và các nguồn lực khác. Vì vậy, để có những nghiên cứu sâu và toàn diện hơn về các vấn đề liên quan đến nội dung luận án, trong tương lai tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề còn tồn tại này. Tác giả xin đề xuất một số hướng nghiên cứu mở rộng như sau: - Nghiên cứu đo lường hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo theo phương pháp DEA mà không cần thông tin về giá đầu vào. - Nghiên cứu thêm các nhân tố mới ảnh hưởng đến hiệu quả phân bổ cấp doanh nghiệp liên quan đến lan tỏa công nghệ của các DNFDI đến các DN nội địa, tác động của các hiệp định thương mại, các biến liên quan đến trình độ của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có nằm trong khu công nghiệp hay không, và nghiên cứu thêm các mô hình phù hợp đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo. - Nghiên cứu thêm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả phân bổ ngành chế biến chế tạo của các tỉnh như cơ sở vật chất của địa phương, trình độ khoa học công nghệ, tham nhũng, và sử dụng các mô hình hiện đại như mô hình số liệu mảng đa bậc, mô hình hồi quy phân vị, mô hình kinh tế lượng không gian, để làm rõ tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các tỉnh. 130 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1. Vũ Thị Huyền Trang (2019), Phân rã năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam theo loại hình sở hữu, Tạp chí Khoa học Thương mại số 130/ Tháng 6 năm 2019. 2. Vũ Thị Huyền Trang, Nguyễn Khắc Minh (2019), Dynamic composition of productivity and allocative efficiency in Vietnamese manufacturing industry by size, 2nd CIEMB 2019, Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. Vũ Thị Huyền Trang (2020), Năng suất và hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác theo các vùng của Việt Nam, Hội thảo Khoa học Quốc tế các nhà khoa học trẻ khối kinh tế và kinh doanh 2020, Đại học Thương mại đồng tổ chức. 4. Vũ Thị Huyền Trang (2021), Phân tích tác động của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế tác của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 285 tháng 3/2021. 5. Vũ Thị Huyền Trang (2021), Hiệu quả phân bổ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo của Việt Nam theo cách tiếp cận bao dữ liệu, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế Số 3 (514), Tháng 3 năm 2021. 6. Vũ Thị Huyền Trang (2021), Mô hình động phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả phân bổ cấp tỉnh của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế Số 9 (520), Tháng 9 năm 2021. 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ackerberg, D. A., Caves, K. và Frazer, G. (2006), ‘Structural identification of production functions’, Unpublished manuscript. 2. Admassie, A. and Matambalya, F. A (2002), ‘Technical efficiency of small- and-medium-scale enterprise: evidence from a survey of enterprise in Tanzania’, Easter Africa social science research review, Số 18, Tập 2, tr.1- 29. 3. Afriat, S. N. (1972), ‘Efficiency Estimation of Production Functions’, International Economic Review, Số 13, tr.568-598. 4. Aigner, D. J., Chu, S. F. (1968), ‘On Estimating the Industry Production Function’, The American Economic Review, Số58, Tập 4, tr.826-839. 5. Aigner, D. J., Lovell, C. A. K. và Schmidt, P. (1977), ‘Formulation and Estimation of Stochastic Frontier Production Function Models’, Journal of Econometrics, Số 6, Tập 1, tr.21-37. 6. Ajibefun, I. A. and Daramola, A. G. (2003), ‘Determinants of Technical and Allocative Efficiency of Microenterprises: Firm-level Evidence from Nigeria’, African Development Review, Số 15, Tập 2-3, tr.353-395. 7. Akerlof, G. A. (1982), ‘Labor Contracts as Partial Gift Exchange’, The Quarterly Journal of Economics, Tập 97, tr.345-71. 8. Akerlof, G. A. (1984), ‘Gift Exchange and Efficiency-Wage Theory: Four Views’, The American Economic Review, Tập 74, tr.79-83. 9. Ali, M. and Flinn, J. C. (1989), ‘Profit Efficiency among Basmati Rice Producers in Pakistan Punjab’, American Journal of Agricultural Economics, Số 71, Tập 2, tr.303-310. 10. Ali, A. I. and L. M. Seiford (1993), The Mathematical Programming Approach to Efficiency Analysis, in Fried, H.O., Lovell, C. A. K và Schmidt, S. S. (Eds.), The Measurement of Productive Efficiency: Techniques and Applications, Oxford University Press, New York, tr.120-159. 11. Amornkivikai, P and Harvie, C. (2010), ‘Identifying and measuring factors of technical infficiency: evidence from unbalanced panel data of Thai listed manufacturing enterprises’, The Association of Korean Economic Studies, University of Incheon, tr.1-32. 12. Arellano, M. and Bover, O. (1995), ‘Another Look at the Instrumental- Variable Estimation of Error-Components Models’, Journal of Econometrics, Số 68, tr.29-52. 132 13. Badar, M.K. I., Mohamad, S., Ariff, M. và Hassan, T. (2008), ‘Cost, Revenue, and Profit Efficiency of Islamic versus Conventional Banks: International Evidence using Data Envelopment Analysis’, Islamic Economic Studies, Số 15, Tập 2, tr.23-76. 14. Badunenko, O., Fritsch, M. và Stephan, A. (2008), ‘Allocative efficiency measurement revisited—Do we really need input prices?’, Economic Modelling, Số 25, tr.1093-1109. 15. Balk, B. M. (1998), Industrial Price, Quantity, and Productivity Indices: The MicroEconomic Theory and an Application, Kluwer Academic Publishers Boston. 16. Balk, B. M. (2001), ‘Scale Efficiency and Productivity Change’, Journal of Productivity Analysis, Số 15, tr.159-183. 17. Baltagi B. H. (2008), Econometric Analysis of Panel Data (5th Edition), Chichester: John Wiley & Sons Ltd. 18. Banker, R. D. and Thrall, R. M. (1992), ‘Estimation of Returns to Scale Using Data Envelopment Analysis’, European Journal of Operational Research, Số 62, tr.74-84. 19. Banker, R. D., Charnes, A. và Cooper, W. W. (1984), ‘Some models for estimating technical and scale inefficiencies in data envelopment analysis’, Manage Science, Số 30, Tập 9, tr.1078-1092. 20. Bartelsman, E., Haltiwanger, J. và Scarpetta, S. (2013), ‘Cross-country differences in productivity: The role of allocation and selection’, American Economic Review, Số 103, tr.305-34. 21. Battese, G.E. and Coelli, T.J. (1995), ‘A Model for Technical Inefficiency Effects in a Stochastic Frontier Production Function for Panel Data’, Empirical Economics, Số 20, tr.325- 332. 22. Baum, F. C. (2006), An Introduction to Modern Econometrics Using Stata, Texas: Stata Press. 23. Beaudry, C. and Schi↵auerova, A. (2009), ‘Who’s right, Marshall or Jacobs? The localization versus urbanization debate’, Research Policy, Số 38, Tập 2, tr.318–337. 24. Bernard, A. B., Redding, S. J. và Schott, P. K. (2009), ‘Products and productivity’, Scandinavian Journal of Economics, Số 111, Tập 4, tr.681– 709. 133 25. Bin, P., Chen, X., Fracasso, A. và Tomasi, C. (2018), Resource allocation and productivity across provinces in China, International Review of Economics & Finance, Tập 57, tr.103-113. 26. Boles, J. N. (1966), ‘Efficiency Squared - Efficiency Computation of Efficiency Indexes’, Proceedings of the 39th Annual Meeting of the Western Farm Economics Association, tr.137-142. 27. Bond, S. R. (2002), ‘Dynamic panel data models: a guide to micro data methods and practice’, Portuguese Economic Journal, Tập 1, tr.141–162. 28. Bravo-Ureta, B. E. and Pinheiro, A. E. (1993), ‘Efficiency Analysis of Developing Country Agriculture: A Review of the Frontier Function Literature’, Agricultural and Resource Economics Review, Số 22, Tập 1, tr.88- 101. 29. Breusch, T. S. and Pagan, A. R. (1980), ‘The Lagrange multiplier test and its application to model specifications in econometrics’, Rev Econ Stud, Số 47, tr.239–253. 30. Burki, A. A., Khan, M. A. và Bratsberg, B. (1997), ‘Parametric tests of allocative efficiency in the manufacturing sectors of India and Pakistan’, Applied Economics, Số 29, Tập 1, tr.1–22. 31. Camacho, A. and Conover, E. (2010), ‘Misallocation and Productivity in Colombia’s Manufacturing’, IDB Working Paper Series, Số 123, tr.1-43, Inter – American Development Bank. 32. Chambers, R. G., Chung, Y. và Färe, R. (1996), ‘Benefit and Distance Functions’, Journal of Economic Theory, Số 70, tr.407-419. 33. Chames, A., Cooper, W. W., Lewin, A. Y. và Seiford, L. M. (1995), ‘Data Envelopment Analysis: Theory, Methodology and Applications’, Kluwer Academic Publishers, Boston. 34. Charnes, A., Cooper, W. W. và Rhodes, E. (1978), ‘Measuring the efficiency of decision-making units’, European Journal of Operational Research, Số 2, Tập 6, tr.429-444. 35. Chavas, J. P. and Aliber, M. (1993), ‘An Analysis of Economic Efficiency in Agriculture: A Nonparametric Approach’, Journal of Agricultural and Resource Economics, Số 1, Tập 18, tr.1-16 134 36. Cho, D. (2018), ‘Business Groups and Declining Allocative Efficiency in Korea’, Korea Development Institute Policy Forum, Số 270. 37. Chukwuji, C. O., Inoni, O. E. và Oyaide, W. J. (2006), ‘A quantitative determination of allocative efficiency in broiler production in Delta State, Nigeria’, Agriculturae Conspectus Scientificus, Số 71, tr.21-26. 38. Coelli, T., Rao, D., O’Donnell, C. và Battese, G. (2005), Introduction to efficiency and productivity analysis, 2nd edn. Springer, Heidelberg. 39. Collard-Wexler, A., Asker, J. và De Loecker, J. (2011), ‘Productivity volatility and the misallocation of resources in developing economies’, National Bureau of Economic Research. 40. Collard-Wexler and De Loecker, J. (2015), ‘Reallocation and technology: evidence from the U. S. steel industry’, American Economic Review, 4th 41. Cooper, W. W., Seiford, L. M. và Tone, K. (2006), Introduction to data envelopment analysis and its uses: with DEA-solver software and references, Springer Science & Business media publisher. 42. Debreu, G. (1951), ‘The coefficient of resource utilization’, Econometrica 19, Số 3, tr.273–292. 43. Decker, R. A., Haltiwanger, J., Jarmin, R. S. và Miranda, J. (2017), ‘Declining dynamism, allocative efficiency, and the productivity slowdown’, American Economic Review, Số 107, tr. 322-26. 44. De Loecker, J. (2007), ‘Product differentiation, multi-product firms and estimating the impact of trade liberalization on productivity’, National Bureau of Economic Research Working Paper Series 13155. 45. Dondur, N., Pokrajac, S., Spasojevic-Brkic, V. và Grbic, S. (2011), ‘Decomposition of productivity and allocative efficiency in Serbian industry’, FME Transactions, Số 39, tr.73-78. 46. Epifani, P. and Gancia, G. (2011), ‘Trade, Markup Heterogeneity and Misallocation’, Journal of International Economics, Số 83, Tập 1, tr.1-13. 47. Ericson, R. and Pakes, A. (1995), ‘Markov-perfect industry dynamics: A framework for empirical work’, The Review of economic studies, Số 62, tr.53- 82. 48. Farrell, M. J. (1957), ‘The Measurement of Productive Efficiency’, Journal of the Royal Statistical Society, Số 3, tr.253-290. 49. Farrell, M. J. and PEARsoN, E. S. (1957), ‘The Measurement of Productive Efficiency’, Journal of the Royal Statistical Society, Series A (General), Số 120, Tập 3, tr.253-290. 135 50. Färe, R., Grabowski, R., Grosskopf, S. (1985), ‘Technical Efficiency of Philippine Agriculture', Applied Economics, Số 17, tr.205-214. 51. Färe, R., and Lovell, C. A. K. (1978), ‘Measuring the Technical Efficiency of Production’, Journal of Economic Theory, Số 19, tr.150-162. 52. Färe, R., Grosskopf, S. và Logan, J. (1983), ‘The Relative Efficiency of Illinois Electric Utilities’, Resources and Energy, Số 5, tr.349-367. 53. Färe, R., Grosskopf, S. và Lovell, C. A. K. (1994), Production Frontiers, Cambridge: Cambridge University Press. 54. Färe, R., Grosskopf, S. và Roos, P. (1998), ‘Malmquist Productivity Indexes: A Survey of Theory and Practice’, In Fare, R., Grosskopf, S. và Russell, R. R. (Eds.), Index Numbers: Essays in Honour ofSten Malmquist, Kluwer Academic Publishers, Boston. 55. Färe, R., Grosskopf, S. và Weber, W.L. (2004), The effect of risk-based capital requirements on profit efficiency in banking, Applied Economics, Số 36, tr.1731–1743. 56. Federico, C. and Dan, A. (2013), ‘Public policy and resource allocation: Evidence from firms in OECD countries’, Economic Policy Fifty-eighth Panel Meeting, 25-26 October 2013. 57. Ferrier, G. D and Lovell, C. A. K. (1990), ‘Measuring Cost Efficiency in Banking: Econometric and Linear Programming Evidence’, Journal of Economics, Số 46, tr.229-245. 58. Foster, L., Haltiwanger, J. C. và Krizan, C. J. (2001), ‘Aggregate productivity growth: Lessons from microeconomic evidence’, New developments in productivity analysis, University of Chicago Press. 59. Forsund, F. R. and Hjalmarsson, L. (1979), ‘Generalised Farrell Measures of Efficiency: An Application to Milk Processing in Swedish Dairy Plants’, Economic Journal, Số 89, tr.294- 315. 60. Forsund, F. R., and Hjalmarsson, L. (1987), ‘Analysis of Industrial Structure: A Putty Clay Approach’, Almquist & Wicksell International, Stockholm. 61. Glaeser, E. L., Kallal, H. D., Scheinkman, J. A. và Shleifer, A. (1992), ‘Growth in cities’, Journal of Political Economy, Số 100, Tập 6, tr.1126– 1152. 62. Gnocato, N., Francesca, M. và Chiara, T. (2020), ‘Labor market reforms and allocative efficiency in Italy’, Labour Economics, Tập 67. 63. Greene, W. H. (1980), ‘Maximum Likelihood Estimation of Econometric Frontier Functions’, Journal of Econometrics, Tập 13, Số 1, tr.27-56. 136 64. Greene, W.H. (2000), ‘Econometric Analysis’, Prentice-Hall, Inc., New Jersey. 65. Grifell-Tatje, E. and Lovell, C.A.K (1999), "A Generalised Malmquist Productivity Index", Sociedad Espanola de Estadistica e Investigacion Operativa, Số 7, tr.81-101. 66. Hashiguchi, Y. (2015), ‘Allocation efficiency in China: an extension of the dynamic Olley-Pakes productivity decomposition’, Institute of Developing Economies, Japan External Trade Organization (JETRO). 67. Hausman, J. A. (1978), ‘Specification tests in econometrics’, Econometrica, Số 46, tr.1251-1271. 68. Hidalgo-Gallego, S., Martínez-San Román, V. và Nusnez-Sánchez, R. (2017), Estimation of Allocative Efficiency in Airports for a Pre-Privatization Period, The Economics of Airport Operations, Emerald Publishing Limited. 69. Hoff, A. (2007), ‘Second stage DEA: Comparison of approaches for modelling the DEA score’, European Journal of Operational Research, Số 181, Tập 1, tr.425-435. 70. Hopenhayn, H. A. (1992), ‘Entry, exit, and firm dynamics in long run equilibrium’, Econometrica: Journal of the Econometric Society, Số 60, Tập 5, tr.1127-1150. 71. Hsieh, C. T. and Klenow, P. J. (2009), ‘Misallocation and manufacturing TFP in China and India’, The Quarterly journal of economics, Số 124, tr.1403- 1448. 72. Huang, X. and Liu, X. (2016), ‘Exporting firm dynamics and productivity growth: Evidence from China’, Economics: The Open-Access, Open- Assessment E-Journal, Tập 10, tr.1-31. 73. Islam, K., Backman, S. và Sumelius, J. (2011), ‘Technical, Economic and Allocative Efficiency of Microfinance Borrowers and Non-Borrowers’, European Journal of Social Sciences. 74. Inoni, O.E. (2007), Allocative efficiency in Pond Fish Production in Delta State, Nigeria: A Production Function Approach, Agricultural Tropica Et Subtropica, Số 40, Tập 4, tr.127-134. 75. Jones, P., Lartey, E.K.K, Mengistae, T. và Zeufack, A. (2019), Sources of Manufacturing Producticity Growth in Africa, Policy research working paper, tr.1-46. 137 76. Kalirajan, K.P. (1991), ‘The importance of efficient use in the adoption of technology: A micro panel data analysis’, Journal of Productivity Analysis, Số 2, tr.113–126. 77. Katayama, H., Lu, S. và Tybout, J. R. (2009), ‘Firm-level productivity studies: illusions and a solution’, International Journal of Industrial Organization, Số 27, tr.403–413. 78. Kim, S. and Gwangho, H. (2001), ‘A decomposition of total factor productivity growth in Korean manufacturing industries: a stochastic frontier approach’, Journal of Productivity Analysis, Số 16, tập 3, tr.269–281. 79. Kiviet, J. K. (1995), ‘On bias, inconsistency, and efficiency of various estimators in dynamic panel data models’, Journal of Econometrics, Tập 68, Số 1, tr.53-78. 80. Koopmans, T. C. (1951), ‘An Analysis of Production as an Efficient Combination of Activities’, in T.C. Koopmans, (Ed.) Activity Analysis of Production and Allocation, Cowles Commission for Research in Economics, Monograph, Số 13, Wiley, New York. 81. Kopp, R. J. (1981), ‘The Measurement of Productive Efficiency: A Reconsideration’, Quarterly Journal of Economics, Số 96, tr. 477-503. 82. Kumbhakar, S. C. (1987), ‘The Specification of Technical and Allocative Inefficiency of Multi-product Firms in Stochastic Production and Profit Frontiers’, Journal of Quantitative Economics, Số 3, tr.213-223. 83. Kumbhakar, S. C., Ghosh, S. và McGuckin, J. T. (1991), ‘A Generalized Production Frontier Approach for Estimating Determinants of Inefficiency in U.S. Dairy Farms’, Journal of Business & Economic Statistics, Số 9, Tập 3, tr.279-286. 84. Kumbhakar, S. C. and Wang, H. J. (2006), ‘Pitfalls in the estimation of a cost function that ignores allocative inefficiency: A Monte Carlo analysis’, Journal of Econometrics, Số 134, tr.317-340. 85. Levinsohn, J. and Petrin, A. (2003), ‘Estimating production functions using inputs to control for unobservables’, The Review of Economic Studies, Số 70, tr.317-341. 86. Lovell, C. A. K. (1993), ‘Production frontier and productive efficiency’, In: Fried, H. O., Lovell, C. K. và Schmidt, S. S. (Eds.), The Measurement of Productive Efficiency, Techniques and Applications, Oxford University Press, Oxford, tr.3–67. 138 87. Lovell, C. A. K. (1994), Linear Programming Approaches to the Measurement and Analysis of Productive Efficiency, Top 1, tr.175-248. 88. Linarello, A., Petrella, A. và Sette, E. (2019), ‘Allocative efficiency and finance’, Bank of Italy Occasional Paper, Số 487. 89. Lubis, R., Daryanto, A., Tambunan, M. và Purwati, H. (2014), ‘Technical, allocative and economic efficiency of pineapple production in West Java Province, Indonesia: A DEA approach’, IOSR J Agric Vet Sci, Số 7, tr.18-23. 90. Maliranta, M. and MÄÄttÄnen, N. (2015), ‘An Augmented Static Olley– Pakes Productivity Decomposition with Entry and Exit: Measurement and Interpretation’, Economica, Số 82, tr.1372-1416. 91. Maudos, J., Pastor, J.M., Pérez, F. và Quesada, J. (1999), ‘Cost and Profit Efficiency in European Banks’, Journal of Productivity Analysis, Số 34, Tập 1, tr.45-62. 92. Meeusen, W. and Van den Broeck, J. (1977), ‘Efficiency Estimation from Cobb-Douglas Production Functions with Composed Error’, International Economic Review, Số 18, Tập 2, tr.435-444. 93. Melitz, M. J. (2003), ‘The impact of trade on intra‐industry reallocations and aggregate industry productivity’, Econometrica: Journal of the Econometric Society, Số 71, tr.695-1725. 94. Melitz, M. J. and Polanec, S. (2015), ‘Dynamic Olley‐Pakes productivity decomposition with entry and exit’, The Rand journal of economics, Số 46, tr.362-375. 95. Merkert, R. and Hensher, D. A. (2011), ‘The impact of strategic management and fleet planning on airline efficiencye A random effects Tobit model based on DEA efficiency scores’, Transport Research Part A: Policy and Practice, Số 45, Tập 7, tr.686-695. 96. Nickell, S. (1981), ‘Biases in Dynamic Models with Fixed Effects’, Econometrica, Số 49, Tập 6, tr.1417-1426. 97. Njagi, J. N., Josiah, A., Sifunjo. E. K. và Cyrus, I. (2017), ‘Capital Structure, Firm Efficiency and Firm Value: The Case of Listed Non-Financial Firm in Kenya’, European Journal of Business and Management, Số 22, Tập 9, tr.71- 81. 98. Nguyễn Khắc Minh và Giang Thanh Long (2009), ‘Efficiency estimates for the agricultural production in Vietnam: a comparison of parametric and non- 139 parametric approaches’, Agricultural Economics Review, Số 10, Tập 2, tr.62- 78. 99. Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Thị Phương (2018a), ‘Phân bổ không đúng các nguồn lực trong khu vực chế tác của Việt Nam’, Kinh tế và Phát triển, Số 247, tr.11-20. 100. Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Thị Phương (2018b), ‘Các nhân tố giảm phân bổ sai và tái phân bổ nguồn lực tại khu vực chế tác Việt Nam’, Kinh tế và Phát triển, Số 251, tr.41-50. 101. Nguyễn Văn Ngọc (2006), Từ điển kinh tế học, Nhà xuất bản Kinh tế Quốc dân. 102. Olley, G. S. and Pakes, A. (1996), ‘The Dynamics of Productivity in the Telecommunications Equipment Industry’, Econometrica, Số 64, tr.1263- 1297. 103. Oluwatayo, I. B., Sekumade, A. B. và Adesoji, S. A. (2008), ‘Resource Use Efficiency of Maize Farmers in Rural Nigeria: Evidence from Ekiti State’, World Journal of Agricultural Science, Số 4, Tập 1, tr.91-99. 104. Omonoma, B. T., Egbetokun, O. A. và Akanbi, A. T. (2010), ‘Farmers Resource – Use and Technical Efficiency in Cowpea Production in Nigeria’, Economic Analysis and Policy, Số 40, Tập 1, tr.87-95. 105. Ouattara, W. (2012), ‘Economic efficiency analysis in Côte d’Ivoire’, American Journal of Economics, Số 2, tr.37-46. 106. Papke, L. E and Wooldridge, J. M (2004), ‘A computational trick for delta -method standard errors’, Economics Letters, Số 86, tr.413-417. 107. Pareto, V., (1909), Manuel d'économie politique, Giard & Brière, Tập 38. 108. Phùng Mai Lan và Nguyễn Khắc Minh (2018), ‘Đo lường tác động của lan toả công nghệ, phân phối lại và cạnh tranh đến năng suất các doanh nghiệp ngành chế tác Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 254, tr.40-49. 109. Puga, D. (2010), ‘The Magnitude and Causes Of Agglomeration Economies’, Journal of Regional Science, Số 50, Tập 1, tr.203–219. 110. Quang Minh Nhật (2009), ‘Phân tích hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối nguồn lực và hiệu quả sử dụng chi phí của các doanh nghiệp chế biến thủy sản và xay xát lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 2007’, Tạp chí Khoa học, Số 12/2009, tr.270-278. 140 111. Ray, S. C (1988), ‘Data envelopment analysis, nondiscretionary inputs and efficiency: an alternative interpretation’, Socio-Economic Planning Sciences, Số 22, Tập 4, tr.167–176. 112. Ray, S. C. and Desli, E. (1997), ‘Productivity Growth, Technical Progress, and Efficiency Changes in Industrialised Countries: Comment’, American Economic Review, Số 87, tr.1033- 1039. 113. Restuccia, D. and Rogerson, R. (2008), ‘Policy distortions and aggregate productivity with heterogeneous establishments,’ Review of Economic dynamics, Số 11, tr.707-720. 114. Restuccia, D. and R. Rogerson (2013), ‘Misallocation and productivity’, Review of Economic Dynamics, Elsevier for the Society for Economic Dynamics, Số 16, Tập 1, tr.1-10. 115. Rios, A. R. and Shively, G. E. (2005), ‘Farm size and nonparametric efficiency measurements for coffee farms in Vietnam’, A paper presented at Annual meeting, American Agricultural Economics Association, 24th-27th of July in 2005. 116. Roodman, D. (2007), ‘A Note on the Theme of Too Many Instruments’, Working Paper Number 125, Center for Global Development. 117. Rosenthal, S. S. and Strange, W. C. (2004), Evidence on the nature and sources of agglomeration economies, Handbook of Regional and Urban Economics, Elsevier, Tập 4, tr.2119–2171. 118. Rouse, P. and D. Tripe (2016), ‘Allocative and Technical Efficiency of New Zealand Banks’, Meditari Accountancy Research, Số 24, Tập 4, tr.574- 587. 119. Sarafidis, V. (2002), ‘An Assessment of Comparative Efficiency Measurement Techniques’, Europe Economics, Occasional Paper 2, London. 120. Schmidt, P. (1980), ‘Frontier Production Functions’, Journal of Econometrics, Số 4, tr.289-328. 121. Seiford, L. M., (1996), ‘Data envelopment analysis: the evolution of the state-of-the-art (1978–1995)’, Journal of Productivity Analysis, Số 7, Tập 2/3, tr.99–138. 122. Seiford, L. M. and Thrall, R. M. (1990), ‘Recent developments in DEA: The mathematical programming approach to frontier analysis’, Journal of Econometrics, Tập 46, vấn đề 1–2, tr.7-38. 141 123. Sevestre, P. and Trognon, A. (1985), ‘A note on autoregressive error components models’, Journal of Econometrics, Số 28, Tập 2, tr.231-245. 124. Sharma, K. R., Leung, P. và Zaleski, H. M. (1999), ‘Technical, allocative and economic efficiencies in swine production in Hawaii: a comparison of parametric and nonparametric approaches’, Agricultural Economics, Số 20, Tập 1, tr.23-35. 125. Shephard, R. W. (1970), ‘Theory of Cost and Production Functions’, Princeton: Princeton University Press. 126. Solow, R. M. (1956) ‘A Contribution to the Theory of Economic Growth’, Quarterly Journal of Economics, Số 70, tr.65-94. 127. Solow, R. M. (1957), ‘Technical Change and the Aggregate Production Function’, Review of Economics and Statistics, Số 39, tr.312-320. 128. Soto, M. (2009), ‘System GMM estimation with a small sample’, UFAE and IAE Working Papers 780.09, Unitat de Fonaments de l’Analisi Econ omica (UAB) and Institut d’Analisi Econ omica (CSIC), Barcelona. 129. Syverson, C. (2011), ‘What determines productivity?’, Journal of Economic Literature, Số 49, tr.326-365. 130. Thabethe, L., Munmatana, E. và Labuschange, M. (2014), ‘Estimation of Technical, Economic and Allocative Efficiencies in Sugarcane Production in South Africa: A Case of Mpumalanga Growers’, J. Econ. Sustain. Dev, Số 5, tr.86-96. 131. Thanassoulis, E. (2001), Introduction to the Theory and Application of Data Envelopment Analysis: A Foundation Text with Integrated Software, Kluwer Academic Publishers, Boston. 132. Tobin, J. (1958), ‘Estimation of relationships for limited dependent variables’, Econometrica, Số 26, Tập 1, tr.24-36. 133. Uri, N. D. (2001), ‘Technical efficiency, allocative efficiency, and the implementation of a price cap plan in telecommunications in the United States’, Journal of Applied Economics, Số 4, tr.163-186. 134. Van der Merwe, E. (2012), ‘Economic literacy as a factor affecting allocative efficiency’, M.Sc. Thesis, Department of Agricultural Economics, University of the Free State, Bloemfontein. 135. Wheelock, D. C., and Wilson, P. (1999), ‘Technical Progress, Inefficiency, and Productivity Change in U.S. Banking, 1984-1993’, Journal of Money, Credit and Banking, Số 31, tr.212- 234. 142 136. Wooldridge, J. M. (2002), ‘Econometric Analysis of Cross Section and Panel’, Data. MIT Press, Cambridge, MA. 137. Wooldridge, J. M. (2009), ‘On estimating firm-level production functions using proxy variables to control for unobservables’, Economics Letters, Số 104, Tập 3, tr.112–114. 138. Zofio, J. and Lovell, C. A. K. (1999), ‘Yet Another Malmquist Productivity Index Decomposition’, Mimeo, Department of Economics, University of New South Wales, Sydney. 143 PHỤ LỤC 1. Phụ lục 1. Phân loại các ngành công nghiệp chế biến chế tạo theo trình độ công nghệ Mã Các ngành công nghiệp Công nghệ thấp 10 Sản xuất chế biến thực phẩm 11 Sản xuất đồ uống 12 Sản xuất sản phẩm thuốc lá 13 Dệt 14 Sản xuất trang phục 15 Sản xuất da và sản phẩm có liên quan 16 Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện 17 Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 18 In, sao chép bản ghi các loại 19 Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế 31 Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế 32 Công nghiệp chế biến, chế tạo khác 33 Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị Công nghệ trung bình 20 Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 21 Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 22 Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic 23 Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 24 Sản xuất kim loại 144 25 Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Công nghệ cao 26 Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học 27 Sản xuất thiết bị điện 28 Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu 29 Sản xuất xe có động cơ 30 Sản xuất phương tiện vận tải khác 145 2. Phụ lục 2. Các kết quả chạy phần mềm Stata liên quan trong phần 4.2.1 (mô hình Tobit) Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình bằng VIF 146 MH1 147 MH1.1 148 MH1.2 149 HM1.3 150 MH1.4 151 MH1.5. 152 MH1.6. 153 MH1.7. 154 MH1.8. 155 3. Phụ lục 3. Các kết quả chạy phần mềm Stata liên quan trong phần 4.2.2 (mô hình số liệu mảng tĩnh và động) 3.1. Mô hình dữ liệu mảng tĩnh Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến bằng nhân tử phóng đại phương sai Mô hình POLS (MH2.1) 156 Mô hình RE (MH2.2) Kiểm định LM lựa chọn giữa mô hình POLS và RE 157 Mô hình FE (MH2.3) Kiểm định Hausman lựa chọn giữa FE và RE 158 Kiểm tra hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình FE Kiểm tra hiện tượng tự tương quan trong mô hình FE Khắc phục bằng phương pháp FGLS - MH2.4 159 MH3.1 MH3.2 160 MH3.3 MH3.4 161 3.2. Mô hình dữ liệu mảng động Mô hình SGMM1 – MH4.1 162 Mô hình SGMM2 – MH4.2 163 Tác động dài hạn đối với AE của các biến trong mô hình SGMM1 Tác động dài hạn đối với AE của các biến trong mô hình SGMM2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hieu_qua_phan_bo_va_mot_so_mo_hinh_danh_gia_tac_dong.pdf
  • docxLA_VuThiHuyenTrang_E.docx
  • pdfLA_VuThiHuyenTrang_Sum.pdf
  • pdfLA_VuThiHuyenTrang_TT.pdf
  • docxLA_VuThiHuyenTrang_V.docx
Luận văn liên quan