Một số vấn đề chung về CPH DNNN ở VN
1. Vài nét về DNNN VN trước Đôi mới và yêu cầu cải cách
2. Các chính sách cơ bản về CPH
2.1 Mục tiêu CPH
2.2 Các hình thức CPH và quy trình thực hiện
2.2.1 Các hình thức CPH
2.2.2 Quy trình thực hiện CPH
II- Thực trạng CPH qua các giai đoạn
1- Giai đoạn 1 (6/1992 – 4/1996): Cổ phần hoá tự nguyện
2- Giai đoạn 2 (từ 5/ 1996 đến 5/1998): Mở rộng chương trình thí điểm
3- Giai đoạn 3 ( từ 6/1998 đến 5/2002): Tăng tốc chương trình cổ phần hoá
4- Giai đoạn 4: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình CPH
III- Đánh giá chung về CPH DNNN ở VN
1- Những Kết quả chủ yếu
2- Một số hạn chế, tồn tại và Nguyên nhân CPH
3- Một số vấn đề về “Hậu CPH”
IV- Một số kiến nghị
Phụ lục: Hệ thống văn bản pháp lý
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2000 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục:
I- Một số vấn đề chung về CPH DNNN ở VN
Vài nét về DNNN VN trước Đôi mới và yêu cầu cải cách
Các chính sách cơ bản về CPH
2.1 Mục tiêu CPH
2.2 Các hình thức CPH và quy trình thực hiện
2.2.1 Các hình thức CPH
2.2.2 Quy trình thực hiện CPH
Thực trạng CPH qua các giai đoạn
Giai đoạn 1 (6/1992 – 4/1996): Cổ phần hoá tự nguyện
Giai đoạn 2 (từ 5/ 1996 đến 5/1998): Mở rộng chương trình thí điểm
Giai đoạn 3 ( từ 6/1998 đến 5/2002): Tăng tốc chương trình cổ phần hoá
Giai đoạn 4: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình CPH
Đánh giá chung về CPH DNNN ở VN
Những Kết quả chủ yếu
Một số hạn chế, tồn tại và Nguyên nhân CPH
Một số vấn đề về “Hậu CPH”
IV- Một số kiến nghị
Phụ lục: Hệ thống văn bản pháp lý
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I- Một số vấn đề chung về CPH DNNN ở VN
Vài nét về DNNN VN trước Đôi mới và yêu cầu cải cách
Trước đổi mới, Kinh tế quốc doanh (KTQD) mà đại diện là các xí nghiệp quốc doanh (XNQD) được coi là pháo đài, là trụ cột của CNXH, vì vậy nó được đầu tư phát triển mạnh, đẵc biệt là trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…
Trong giai đoạn 1960-1975:
Về lượng:
Năm 1960 có 1 014 XNQD với 113 900 lao động
Năm 1975 có 1 335 XNQD với 358 800 lao động
Về chất:
Tỷ trọng giá trị của khu vực CNQD/TGTSLCN là:
1965: 63.2 %; 1972: 62.9 %
Tỷ trọng KTQD/GDP năm 1960: 28.4 %; năm 1975: 32.3 %
Điều này thể hiện hiệu quả hoạt động của KVQD thấp:
Số lượng XN tăng lên nhưng tỷ trọng giá trị sản lượng của nó trong TGTSLCN và GDP đều giảm
Nguồn đầu tư của nhà nước tập trung cho CNQD tăng 11.2 lần thời kỳ 1960-1972, nhưng tỷ trọng giá trị của nó trong TGTCN lại giảm1965: 63.2 % ; 1972: 62.9 %
XNQD giữ vai trò độc quyền trong điện lực, khai thác mỏ, cơ khí, hoá chất, VLXD, sành sứ, dệt may da, thực phẩm, in, văn hóa phẩm …
Các XNCNQD địa phương được đầu tư phát triển mạnh hơn các XNCNQD trung ương.
Trong giai đoạn 1976-1986:
Về cơ bản tư tưởng chỉ đạo và thực tế phát triển KTQD vẫn chưa có thay đổi đáng kể
Trong 10 năm này, số lượng XNQD vẫn tăng lên 1.68 lần
Tỷ trọng KTQD/GDP:
1975: 32.3% ; 1980: 35.4% ; 1986: 37.3%
Tốc độ tăng trưởng khu vực KTQD (giá so sánh năm 1970) đơn vị: %
KTQD
KTNQD
Toàn bộ nền KT
1977
6.4
4.6
5.3
1980
-16.9
4
-3.6
1986
1.7
3.7
2.8
Từ hội nghị TƯ 6 khóa 4 (1979) nhiều chính sách quan trọng đã được đưa ra với tinh thần cơ bản làm cho sản xuất bung ra đúng hướng. Tuy nhiên, thực tế KTQD chỉ có sự phát triển về số lượng còn chất lượng vẫn thấp. KTQD nắm toàn bộ các ngành then chốt nhưng đóng góp vào TSPXh chỉ từ 35-37% thời kỳ 1980-1985, CNQD chỉ đóng góp 68.6% GTTSLCN, TNQD chỉ đóng góp 29.8% tổng mức bán lẻ.
Kết luận: chính sự yếu kém trong hiệu quả sản xuất kinh doanh của KTQD đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có sự đổi mới.
Các chính sách cơ bản về CPH
2.1 Mục tiêu CPH
Sắp xếp, đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN để DNNN góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Trong đó CPH DNNN là trọng tâm của cuộc cải cách này. Mục tiêu của việc CPH các DNNN nhằm:
Chuyển các DNNN không mang tính chiến lược vừa và nhỏ thành các công ty CP nhằm huy động vốn từ cán bộ công nhân viên và các nhà đầu tư bên ngoài để đổi mới công nghệ và phát triển các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên của DN và các nhà đầu tư sở hữu cổ phần đóng vai trò các chủ sở hữu thưc sự và tạo nhiều động lực cho việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. Các DN đã cổ phần hoá hưởng các ưu đãi (như giảm 50% thuế thu nhập trong thời gian hai năm đầu hoạt động, được vay vốn từ các ngân hàng quốc doanh theo các điều kiện tương đương với các DNNN), và cán bộ công nhân viên của các DN được hưởng những ưu đãi trong quá trình CPH (một phần trong số cổ tức trả cho cổ phần nhà nước, được mua chịu cổ phần, được bảo đảm không bị sa thải đột xuất).
Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
2.2 Các hình thức CPH và quy trình thực hiện
2.2.1 Các hình thức CPH
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn
Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nứơc vừa phát hành thêm cổ phiếu
Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu.
2.2.2 Quy trình thực hiện CPH
Xây dựng phương án cổ phần hoá, trong đó quan trọng nhất là công tác kiểm kê, xử lý những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp.
Tổ chức bán cổ phần theo các phương thức bán đấu giá trực tiếp tại DN, bán cổ phần tại tổ chức tài chính trung gian và bán cổ phần tại trung tâm giao dịch chứng khoán
Hoàn tất việc chuyển DN thành công ty cổ phần.
Thực trạng CPH qua các giai đoạn
Giai đoạn 1 (6/1992 – 4/1996): Cổ phần hoá tự nguyện
Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992 sau QĐ 2002/CP (8/6/1992), Nhà nước chỉ chọn một số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và tự nguyện CPH để thực hiện thí điểm, cụ thể chọn 7 DN để CPH, nhưng đã xin rút khỏi danh sách. Rút kinh nghiệm, sau đó chọn doanh nghiệp tự nguyện có đủ điều kiện, đồng thời nhằm đẩy nhanh công tác thí điểm CPH, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày 4-8-1993 về xúc tiến thực hiện CPH DNNN. Kết quả đã có 5 DNNN trong tổng số 6000 DNNN, thuộc 2 bộ, 2 địa phương và 1 Tổng công ty chuyển thành công ty cổ phần. Tổng số vốn điều lệ tại thời điểm CPH là 38,393 tỷ đồng. Điểm nổi bật của giai đoạn này là thành lập, củng cố và cải thiện hoạt động của các tổng công ty, với hy vọng sớm trở thành các tập đoàn kinh tế mạnh, làm trụ cột cho năng lực cạnh tranh và phát triển nền kinh tế đất nước. Đồng thời, có những cố gắng thử nghiệm đưa các yếu tố mô hình công ty hiện đại áp dụng vào DN nhà nước.
Nhìn chung, các DNNN tiến hành CPH trong giai đoạn này thuộc diện vừa và nhỏ, vốn ít (dưới 10 tỷ), phần lớn mang tính dịch vụ, kinh doanh hiệu quả và không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, tập thể CBCNV tự nguyện tham gia thí điểm CPH.
Giai đoạn 2 (từ 5/ 1996 đến 5/1998): Mở rộng chương trình thí điểm
Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm, nhận thức được sự cần thiết phải có một giải pháp CPH mạnh hơn, ngày 7/5/1996, chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP. Nghị định này mở rộng quy mô CPH tới tất cả các doanh nghiệp không mang tính chiến lược cỡ vừa và nhỏ và yêu cầu các cơ quan chủ quản DNNN (các bộ, các cơ quan ngang bộ, UBND và các tổng công ty nhà nước) lựa chọn các doanh nghiệp để CPH. Nghị định này ra đời đã tạo điều kiện thúc đẩy CPH nhanh hơn. Đối tượng, mục tiêu CPH, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi doanh nghiệp và người lao động được quy định cụ thể hơn. Nghị định 28_CP và các quy định bổ sung đã làm nền tảng cho quá trình CPH mở rộng. Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện đã có 28 DNNN thuộc 2 bộ, 11 địa phương và 2 Tổng công ty 91 tiến hành CPH thành công với tổng số vốn điều lệ tại thời điểm CPH là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 DN trên 10 tỷ đồng (chiếm 20,8%).
Giai đoạn 3 ( từ 6/1998 đến 5/2002): Tăng tốc chương trình cổ phần hoá
Từ năm 1998 chương trình thí điểm được thay thế bằng một kế hoạch cổ phần hoá kiên quyết hơn với sự ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và các văn bản có liên quan. Đây có thể là khuôn khổ pháp lý đầu tiên về cổ phần hoá ở Việt Nam. Các DNNN lúc này không có quyền lựa chọn có tham gia vào chương trình cổ phần hoá hay không mà chính phủ chủ động phân loại tất cả DNNN thanh 3 nhóm theo mức độ quan trọng của nó. Cải cách DN nhà nước lại thêm bước chuyển mới và chia thành “hai hướng”. Các DN nhà nước được phân loại theo quy mô, ngành, nghề kinh doanh và mức độ hiệu quả. Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% sở hữu đối với các DN có quy mô vừa và lớn, các DN hoạt động trong những ngành, nghề và địa bàn quan trọng, kinh doanh có hiệu quả. Đối với những DN này, thì “sắp xếp lại, đổi mới quản lý” là giải pháp chính sách chủ yếu để nâng cao hiệu quả, là hướng thứ nhất. Và hướng thứ hai, các DN nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài không thể khắc phục được thì thực hiện chuyển đổi sở hữu thông qua cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê.v.v... chủ trương, phạm vi áp dụng của hướng 2 (chuyển đổi sở hữu) đang ngày càng được mở rộng về quy mô, ngành, nghề và mức độ hiệu quả.
Tiến độ CPH của gia đoạn này rất ấn tượng. Từ tháng 6/1998 đến tháng 5/2002, cả nước CPH được 845 DNNN. Như vậy cho đến tháng 5/2002, Chính phủ đã CPH được khoảng 15% tổng số DNNN. Tuy nhiên, vốn của các DN này chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng số vốn của khu vực DNNN.
Giai đoạn 4: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình CPH
Nhận thấy tốc độ CPH ngày càng chững lại, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP để hoàn thiện khung pháp lý cho CPH nhằm tăng tốc chương trình CPH với những điểm đáng chú ý:
Chính phủ cho phép các Bộ, ngành, chính quyền địa phương và các tổng công ty có nhiều thẩm quyền hơn trong quyết định CPH.
Các quỹ phúc lợi được thành lập để trợ cấp hoặc đào tạo lại lao động bị sa thải.
Những DNNN không có tầm quan trọng chiến lược và có vốn dướI 5 tỷ bị doạ đóng cửa nếu không chịu CPH.
Giới hạn trần của tỷ lệ CPH dành cho các cá nhân và tổ chức nước ngoài được điều chỉnh từ 25% lên 30%.cho các DN thuộc nhóm 2 và 3.
Các phương thức định giá và bán DNNN được phép linh hoạt hơn.
Tháng 11 năm 2004 Chính phủ ban hành Nghị định số 187/2004/NĐ-CP để thay thế Nghi định số 64/2002/NĐ-CP. Nghị định này giúp giải quyết những vướng mắc liên quan tới nợ xấu của các DNNN. Đồng thời Nghị định này cũng dọn đường để áp dụng các phương pháp thị trường trong việc định giá DNNN dự định CPH.
Đánh giá chung về CPH DNNN ở VN
Những Kết quả chủ yếu
Quy mô số lượng, cơ cấu cổ phần hoá
Từ năm 1992 đến cuối năm 2004 đầu năm 2005, trong phạm vi cả nước, tổng số đã cổ phần hoá được 2.242 doanh nghiệp Nhà nước và bộ phận doanh nghiệp, đặc biệt mạnh nhất là các năm 2001 đến năm 2004, cổ phần hoá được 1.654 doanh nghiệp, trong số đó cơ cấu như sau:
*/ Nếu tính cơ cấu theo ngành:
Tên ngành
Cơ cấu %
Công nghiệp, giao thông, xây dựng
65,5
Thương mại, dịch vụ
28,7
Nông, lâm, ngư nghiệp
5,8
*/ Nếu tính cơ cấu theo địa phương, bộ:
Tên địa phương
Cơ cấu %
Tỉnh, thành phố trực thuộc TW
65,7
Các bộ, ngành TW
25,8
Các tổng công ty 91
8,5
Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trung ương
Quy mô vốn, cơ cấu vốn cổ phần hoá
Trong tổng số 2.242 doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá, tổng số vốn được cổ phần hoá đạt 17.700 tỷ đồng bằng 8,2% tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp được chia thành nhiều cấp độ vốn khác nhau, cơ cấu cụ thể:
Lượng vốn
Cơ cấu vốn %
Dưới 5 tỷ đồng
59,2
Từ 5 – 10 tỷ đồng
22,3
Trên 10 tỷ đồng
18,5
Tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ngày càng được đẩy nhanh. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm của Tổng cục Thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp trong năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp trong năm 2001, tăng 54,1%; lên 557 doanh nghiệp trong năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp trong 2004, tăng 21,8% và lên 1.096 doanh nghiệp trong năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần và bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp, tương ứng với tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm.
Về số lao động trong các công ty cổ phần có vốn nhà nước đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ gần 62 ngàn người cuối năm 2000 lên gần 281 ngàn người cuối năm 2005, sau 5 năm đã tăng thêm gần 219 ngàn lao động, tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là hơn 4,5 lần và bình quân mỗi năm đã tăng 35,9%.
Về vốn sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần có vốn nhà nước đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ 10.417 tỷ đồng thời điểm cuối năm 2000 lên 109.520 tỷ ở thời điểm cuối năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 99.103 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng lên 19.821 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là gấp 10,5 lần và bình quân mỗi năm tăng 65,6%.
Về giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước có đến 31 tháng 12 hằng năm đã từ 2.947 tỷ đồng vào thời điểm cuối năm 2000 lên 25.077 tỷ cuối năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 22.130 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 4.426 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là hơn 8,5 lần và bình quân mỗi năm tăng 59,9%.
Về doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần có vốn nhà nước hằng năm đã từ 10.275 tỷ đồng năm 2000 lên 103.887 tỷ trong năm 2005; sau 5 năm đã tăng thêm 93.592 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 18.718 tỷ; tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 10,1 lần và bình quân mỗi năm tăng lên 61,1%.
Với tốc độ tằng bình quân hằng năm về số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước (DNNN cổ phần hoá) chỉ ở mức tăng 29,8% và về số lao động chỉ tăng 35,9%/năm, nhưng các chỉ tiêu về vốn, tài sản và kết quả sản xuất kinh doanh đã tăng lên với tốc độ gấp đôi. Cụ thể tốc độ tăng bình quân về vốn là 65,6%/năm, tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn đã tăng 59,9%/năm và doanh thu thuần sản xuất kinh doanh đã tăng 61,1%/năm. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá năng lực sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh đã được tăng lên rất đáng kể. Từ đó có thể đánh giá được rằng, mục tiêu quan trọng nhất của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đặt ra là nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã đạt được ở mức rất cao.
Cùng với tiến trình cổ phần hoá, sắp xếp lại, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hoá là chủ yếu đã làm cho số doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn giảm đi một cách tương ứng. Từ số doanh nghiệp nhà nước có ở thời điểm 31/12/2000 là 5.759 doanh nghiệp đến 31/12/2005 chỉ còn 4.086 doanh nghiệp, đã giảm đi 1.673 doanh nghiệp, bình quân mỗi năm đã giảm đi 335 doanh nghiệp; tương ứng với tốc độ giảm chung trong 5 năm là 29,1% và bình quân mỗi năm đã giảm 6,6% số doanh nghiệp.
Do số doanh nghiệp được cổ phần hoá ngày càng tăng cao và số doanh nghiệp nhà nước chưa cố phần hoá ngày càng giảm đi nên tỷ trọng các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã chiếm ngày càng lớn, từ 5,3% vào thời điểm cuối năm 2000 đã lên chiếm 26,8% đến thời điểm cuối năm 2005 và ngược lại doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn đã từ chiếm 94,7% cuối năm 2000 xuống chỉ còn 73,2% đến cuối năm 2005.
Về số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm đi sau 5 năm, nhưng không nhiều, chỉ giảm 47.672 người và bình quân mỗi năm giảm 9.534 người; tương ứng với tỷ lệ giảm đi sau 5 năm là 2,3% và bình quân giảm 0,3%/năm. Tuy nhiên, về các chỉ tiêu vốn cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định & đầu tư tài chính dài hạn, doanh thu thuần từ sản suất kinh doanh của doanh nghiệp khu vực kinh tế 100% vốn nhà nước sau 5 năm đẩy mạnh cổ phần hoá và sắp lại không những không giảm mà còn được tăng lên khá lớn:
- Vốn sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước từ 670.234 tỷ đồng có đến cuối năm 2000 đã lên 1.338.255 tỷ, tăng lên 668.021 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 133.604 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 99,7% và bình quân mỗi năm tăng 14,9%.
- Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp nhà nước từ 259.856 tỷ đồng có đến cuối năm 2000 đã lên 487.210 tỷ đến thời điểm cuối năm 2005, sau 5 năm đã tăng thêm 257.354 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 51.471 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 112,0% và bình quân mỗi năm tăng 16,5%.
- Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước từ 444.673 tỷ đồng trong năm 2000 đã lên 838.396 tỷ trong năm 2005, sau 5 năm tăng thêm 393.723 tỷ, bình quân mỗi năm tăng lên 78.745 tỷ; tương ứng với tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 88,5% và bình quân mỗi năm tăng 14,0%.
Một số số liệu cụ thể về số lượng doanh nghiệp nhà nước và số công ty cổ phần có vốn nhà nước cũng như các chỉ tiêu vốn, lao đông, tài sản và doanh thu của từng loại doanh nghiệp từ năm 2000 đến 2005 như sau:
Một số chỉ tiêu về doanh nghiệp NN và công ty cổ phần có vốn NN
2001
2002
2003
2004
2005
- Số doanh nghiệp nhà nước (DN)
5355
5363
4845
4596
4086
- Số công ty CP có vốn nhà nước (DN)
470
558
669
815
1096
- Số lao động DN nhà nước (người)
2114324
2259858
2264942
2249902
2040859
- Số lao động CTCP có vốn NN (người)
114266
144347
160879
184050
280778
- Tổng số vốn DN nhà nước (tỷ VNĐ)
781705
858560
932942
1128483
1338255
- Tổng vốn CTCP có vốn NN (tỷ VNĐ)
27211
39161
56094
76992
109520
- Giá trị TSCĐ DNNN (tỷ VNĐ)
263153
309084
332077
359952
487210
-Giá trị TSCĐ CTCPcó vốn NN (tỷVNĐ)
7390
9937
12291
21180
25077
- Doanh thu thuần DN nhà nước (tỷVNĐ)
460029
611167
666202
708045
838396
- D.thu thuần CTCP có vốn NN (tỷVNĐ)
21934
29364
42535
62688
103867
Nguồn: Tổng cục thống kê
Như vậy có thể thấy rằng, chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhằm tạo động lực và cơ chế quản lý năng động sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và làm ăn có hiệu quả, trong 5 năm từ 2001 đến 2005 đã đạt được những mục tiêu và kết quả rõ rệt. Đó là số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã tăng lên khá nhanh cả về số lượng doanh nghiệp, lẫn năng lực sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt đông. Đồng thời, đối với các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn không những chỉ giảm được số lượng cần thiết mà năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn lại này cũng được tăng lên đáng kể cùng với các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá. Điều đó đã khẳng định rằng, chủ trương cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của chúng ta trong những năm qua là hoàn toàn đúng đắn và đạt kết quả đáng ghi nhận.
Công tác CPH được đẩy mạnh hơn sau khi Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt các đề án tổng thể sắp xếp, đổi mớI DNNN của các Bộ, ngành, địa phương và Tổng công ty 91 theo Nghị định Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX). Năm 2006 ghi nhận một bước tiến mớI trong cổ phần hoá các Tổng công ty, DNNN độc lập quy mô lớn và doanh nghiệp thành viên quy mô lớn của tổng công ty.
Bảng: Tình hình thực hiện sắp xếp đổi mới DNNN 2002-2006
Hình thức
2006
2005
2004
2003
2002
Kế hoạch sắp xếp, ĐM
1.111
730
906
1.526
502
Thực hiện
293
933
998
942
215
KHCPH
563
700
751
-
-
CPH
154
693
753
532
164
Giao
9
20
24
50
34
Bán
12
24
19
24
17
Thuê khoán
0
1
3
11
8
Sáp nhập
29
18
68
152
83
Hợp nhất
2
8
7
47
44
Giải thể
14
35
35
50
27
Phá sản
10
14
12
4
2
Chuyển sang sự nghiệp có thu
5
16
16
29
33
Chuyển đi
2
6
20
29
15
Chuyển sang Cty TNHH 1 thành viên
56
98
41
14
0
Thành lập mới
0
12
-
18
37
Nguồn: VCCI – Doanh nghiệp Việt Nam 2006
Mặc dù quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn trong những năm qua đã đạt được những thành quả đáng khích lệ như các số liệu thống kê thực tế đã chỉ rõ ở trên, thế nhưng cho đến nay con số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước vẫn còn là một con số khá lớn. Quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN năm qua diễn ra chậm chạp. Trong cả năm 2007 đã thực hiện sắp xếp khoảng 257 DN, nâng tổng số DN được sắp xếp là 5.366 DN, trong đó CPH là 3.756 DN. Như vậy, cả nước chỉ hoàn thành khoảng 28% kế hoạch sắp xếp, đỏi mới DNNN. Trong đó, CPH cũng chỉ đạt 28% kế hoạch, hoàn thành CPH 136 DNNN trong 480 DN mà kế hoạch đặt ra.
Bảng: Tình hình thực hiện đổi mới, sắp xếp DNNN giai đoạn 2006-2007
Đổi mới, sắp xếp DN
CPH
Kế hoạch
Thực hiện
% thực hiện
Kế hoạch
Thực hiện
% thực hiện
Tổng cả nước
926
257
28%
480
136
28%
Các bộ
196
98
50%
162
54
33%
Các tổng công ty
140
33
24%
81
24
30%
Các địa phương
590
126
21%
237
58
24%
Nguồn: VCCI – Doanh nghiệp Việt Nam 2007
Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo về việc thực hiện CPH các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước (Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29-12-2006) nhưng chỉ có tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) và Ngân hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá. Tiến độ CPH 23 tổng công ty nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước thuộc diện CPH trong năm 2007 theo như quyết định 1729/QĐ-TTg đều chậm so với kế hoạch. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong 6 tháng đầu năm 2008 gần như ngừng trệ do ảnh hưởng bởi sự suy giảm kéo dài của TTCK cộng với tình hình kinh tế khó khăn. 8 tháng đầu năm 2008 cả nước mới cổ phần hoá được 43 doanh nghiệp nhà nước trong khi chỉ tiêu kế hoạch đề ra là phải cổ phần hoá xong các doanh nghiệp thành viên các tổng công ty nhà nước 1 thành viên. Theo kế hoạch, 400 doanh nghiệp Nhà nước sẽ phải tiến hành cổ phần hoá trong năm 2008, trong đó có 45 Tổng Cty Nhà nước, nhưng khả năng chỉ có 10 tổng Cty có khả năng hoàn thành cổ phần hoá và IPO trong năm 2008, số còn lại phải lùi sang năm 2009. Bên cạnh lý do TTCK sụt giảm thì nguyên nhân chính vẫn là các DN này chuẩn bị đề án, xây dựng phương thức, định giá… chậm và gặp thủ tục rắc rối
Tính đến 30-6-2008, có 3.786 DN đã được CPH. Tổng số vốn điều lệ khi CPH là 106 ngàn tỷ đồng, trong đó nhà nước nắm giữ 50%, người lao động nắm giữ 11%, nhà đầu tư bên ngoài nắm giữ 39% vốn điều lệ.
Một số hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của quá trình CPH
2.1 Một số hạn chế, tồn tại
- Việc cổ phần hóa, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thực hiện còn chậm.
Các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thời kỳ đầu do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài nên số vốn huy động ngoài xã hội vào sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa.
Về chính sách cho CPH, xét cả quá trình thì có những quy định ban hành chậm, thiếu đồng bộ, thay đổi, bổ sung nhiều lần gây khó khăn, vướng mắc trong thực hiện CPH. Quy trình CPH còn phức tạp, một số nội dung chưa cụ thể, thủ tục rườm rà, như: xác định giá trị doanh nghiệp nói chung và xác định giá trị quyền sử dụng đất nói riêng, trình tự, thủ tục chuyển giao quyền sử dụng đất; xác lập quyền sở hữu tài sản cho công ty cổ phần; xử lý công nợ ở các tổ chức tín dụng nhà nước; tiêu chuẩn và phương pháp cụ thể xác định giá trị thương hiệu, giá trị tiềm năng, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp; tiêu chí xác định cổ đông chiến lược...
- Thời gian thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp còn dài làm tiến độ cổ phần hóa chậm.
- Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cố phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thong. Việc thu hút vốn cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hóa.
- Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cố phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều tư doanh nghiệp nhà nước trước đó chuyển sang.
- Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy, ngược lại có nơi lạm quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng … vẫn còn áp dụng như doanh nghiệp nhà nước.
- Một số công ty cổ phần kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt thấp, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực điều kiện phát triển khó khăn, công nghệ lạc hậu, lại không được xử lý dứt điểm những tồn tại về tài chính khi còn là doanh nghiệp nhà nước.
Lỗ hổng lớn nhất trong CPH DNNN vừa qua chính là việc xác định chất lượng còn lại của tài sản tại thời điểm tiến hành CPH chưa chính xác, thiếu nhiều chuẩn mực đã dẫn tới hậu quả tất yếu là giá trị tài sản DN của nhiều DN thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực tế tài sản đang phát huy tác dụng trong SXKD của DN, làm Nhà nước bị thất thoát giá trị tài sản rất lớn khi CPH.
Mặc dù việc cho mua giảm giá đã thể hiện sự ưu ái song nhiều NLĐ cho rằng, giá vẫn quá cao so với thu nhập của họ, nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán “nóng” như hồi năm 2007 và khi thị trường giảm sụt như hiện nay, thì sự ưu đãi này lại trở thành thiệt thòi với họ. Thực tế, do thu nhập thấp, vốn ít, lại phải đi vay nên nhiều NLĐ đành chấp nhận “bán lúa non” cổ phần của mình hoặc có tình trạng vốn thực sự của DN cuối cùng tập trung trong tay một số người.
Hình thức đấu giá cổ phần chưa đa dạng và thực hiện một vòng đấu giá, nên các nhà đầu tư không thể thay đổi nếu muốn chấp nhận giá cao hơn để được trúng thầu. Quy định thời hạn đăng ký tham gia đấu giá 5 ngày là dài và dễ rò rỉ thông tin, tiêu cực trong đấu giá. Hệ thống các quỹ đầu tư chứng khoán, các công ty chứng khoán chưa phát triển.
Quy định về quản lý và giám sát việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện trực tiếp vốn nhà nước ở công ty cổ phần chưa đầy đủ. Văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp ban hành còn chậm. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong chỉ đạo, hướng dẫn CPH, giải quyết tồn tại về tài chính, về quyền sử dụng đất đai … còn thiếu đồng bộ và chưa kịp thời.
Chưa chủ động xử lý dứt điểm các tồn đọng trước khi cổ phần hóa. Các ngân hàng không muốn chuyển nợ vay thành vốn góp. Nhiều khoản nợ không hấp dẫn Công ty mua bán nợ mua theo giá thoả thuận. Các tổ chức tài chính trung gian, các định chế tài chính chưa đóng vai trò là "nhà môi giới" để đưa cổ phần các doanh nghiệp đến với các nhà đầu tư. Công tác giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các đề án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết.
2.2 Nguyên nhân
- Trách nhiệm của Chính phủ: sự phức tạp, thậm chí có khi mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với sự chỉ đạo nhiều khi lúng túng của Chính phủ đã tác động tiêu cực tới quá trình CPH.
- CPH chưa thực sự là nhu cầu tự thân, nhu cầu nội tại của các DNNN, thậm chí còn miễn cưỡng.
- Ở các doanh nghiệp cổ phần hoá, có lẽ chính việc ``mặc cả`` về giá trị DN kéo dài giữa ban giám đốc và hội đồng định giá là nguyên nhân quan trọng nhất làm chậm tiến độ CPH. Việc định giá mất nhiều thời gian là do thiếu cơ sở để đánh giá một cách chính thức giá trị thị trường của doanh nghiệp, đồng thời cũng do không ai phải chịu trách nhiệm cá nhân cho kết quả và tiến độ của hoạt động này.
- Nhận thức về CPH chưa được nhất quán trong các cấp, các ngành và các cơ sở.
- Vướng mắc nhiều về đất đai và sở hữu tài sản, chưa có chính sách và cơ chế rõ ràng, cổ phần hoá còn khép kín, còn có sự phân biệt đối xử trước và sau CPH.
- Các chế độ, chính sách hiện hành về CPH DNNN chưa đủ sức hấp dẫn, khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp và người lao động tham gia tích cực vào CPH
- Những khó khăn, vướng mắc trong chính sách CPH chưa được xử lý kịp thời như: đối tượng CPH, việc bán cổ phần ra bên ngoài, chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, … chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình CPH toàn bộ tổng công ty nhà nước.
Một số vấn đề về “Hậu CPH”
Nhìn chung các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy, có khoảng 90% doanh nghiệp hoạt động tốt hơn khi chưa cổ phần hoá, đóng góp vào GDP tăng khoảng 24,9%. CPH tạo điều kiện pháp lý và vật chất để ngườI lao động nâng cao vai trò làm chủ doanh nghiệp của mình.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá và sắp xếp lại lao động dôi dư có được cải thiện đáng kể, hoạt động tốt hơn. Hầu hết các doanh nghiệp đều có sự gia tăng về vốn, tài sản, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất..., nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình quân 6,6%; cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Bảng: Tỷ lệ DNCPH có lãi và thua lỗ tại thời điểm 2004 tính theo thời gian chuyển sang công ty cổ phần (%)
Số năm chuyển sang công ty CP
1-2 năm
3 năm
4 năm
5 năm
6 năm
từ 7 năm trở lên
DN có lãi
96,7
100
92,6
96,9
96,2
93,7
DN thua lỗ
3,3
0
7,4
3,1
3,8
6,3
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguyên nhân: ở thời điểm năm 2004 các DN CPH lâu năm đã hoạt động tương đói ổn định, mức tăng trưởng có tính đột biến rất thấp và đã hết thời gian được hưởng một số chính sách ưu đãi, trong đó có vấn đề miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Một nguyên nhân khác đó là do quá trình xác định giá trị doanh nghiệp không chính xác. Thường thì các DNNN khi cổ phần hoá đều được định giá doanh nghiệp thấp hơn so với giá trị thực của doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian đầu sau cổ phần hoá, doanh nghiệp làm ăn có lãi cao là do tận dụng cái giá trị thực của doanh nghiệp. Nhưng sau khi lợi thế này mất đi thì số doanh nghiệp làm ăn có lãi giảm xuống.
Đại đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có tính tự chủ cao, hiệu quả hơn. Tuy vậy, khó khăn, vướng mắc họ gặp phải cũng không ít. Theo tổng hợp của VCCI từ các doanh nghiệp sau cổ phần hóa thuộc nhiều ngành, nhiều địa bàn khác nhau, có tới hàng chục vấn đề bức xúc các doanh nghiệp sau cổ phần hóa gặp phải:
Thứ nhất là vấn đề quản lý Nhà nước về hành chính, về phần vốn Nhà nước còn trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Khi chưa cổ phần hóa, số vốn Nhà nước trong doanh nghiệp chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản. Sau cổ phần hóa, chế độ cơ quan chủ quản không còn, nhiều doanh nghiệp xử lý vấn đề này hết sức lúng túng.
Thứ hai là vấn đề vay vốn sau cổ phần hóa. Khi còn là DNNN, thiếu vốn đi vay ở ngân hàng đã có cơ quan chủ quản cấp trên đứng ra bảo lãnh. Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp. Mà tài sản thế chấp của doanh nghiệp thường lại không có đầy đủ các loại giấy tờ liên quan, đặc biệt là đất đai (sổ đỏ)... Chuyện vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp vì thế cũng trở nên rất bị động, chẳng hề suôn sẻ.
Thứ ba, là việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hóa. Để đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển mới, số cán bộ năng lực yếu kém sẽ phải nghỉ công tác, trong đó, không ít người đã có quá trình đóng góp, cống hiến. Xử lý số lao động dôi dư này là một vấn đề tế nhị, làm sao vẫn đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo cho các cán bộ buộc phải nghỉ hưu sớm thoải mái, yên tâm... là bài toán không kém phần nan giải.
Thứ tư, vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp...). Khi chuyển đổi từ hình thức sở hữu Nhà nước sang hình thức đa sở hữu (cổ phần hóa), việc xác định giá trị những tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ) của doanh nghiệp hết sức khó khăn. Cho đến nay, hầu hết các DNNN đã cổ phần hóa đều không xác định được hoặc không đưa các đối tượng sở hữu trí tuệ vào việc định giá giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa.
Thứ năm, nhiều cổ đông nhỏ trong các công ty cổ phần hóa thường không biết quyền lợi, nghĩa vụ, không nắm rõ được tiếng nói, vai trò của mình trong công ty, cổ phiếu của mình được chuyển nhượng như thế nào, tỷ lệ ra sao bởi công tác thông tin còn chưa đầy đủ... Ngoài ra, hàng loạt các vấn đề về pháp lý, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý tốt để hợp tác, học hỏi nhằm củng cố vị thế phát triển... cũng là những vấn đề bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Thứ sáu, Các DNNN sau CPH vẫn chưa thực sự thay đổi, vẫn mang dáng dấp của DNNN. Trong số 3.786 doanh nghiệp đã được CPH, đặc biệt là ở những doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối thì vẫn giữ hình ảnh cũ. Bởi bộ máy lãnh đạo vẫn là những người trước đây. Cơ chế quản trị doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khác biệt.
Đến nay, trong các doanh nghiệp đã được CPH thì Nhà nước đang còn nắm quá nhiều vốn. Điều này cho thấy sự chi phối, gây ảnh hưởng của nhà nước vẫn ở mức độ lớn (dưới các hình thức khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp). Do vậy, trong nhiều doanh nghiệp đã CPH chưa thấy có những thay đổi căn bản về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô hình mới của một công ty cổ phần thực thụ. Các doanh nghiệp này vẫn chưa có hay rất thiếu những cổ đông mới có quyền lực mạnh, các cổ đông chiến lược mới.
Sau một thời gian CPH đã nổi lên hiện tượng các DN “pha loãng” cổ phần bằng nhiều hình thức như: Tăng vốn điều lệ bằng phát hành thêm cổ phiếu, tìm cách giảm hoặc bán bớt cổ phần nhà nước (thường xảy ra đối với DN làm ăn hiệu quả), trả cổ tức bằng cổ phiếu, chia cổ phiếu thưởng... Hậu quả là cổ phần nhà nước trong DN bị pha loãng, người LĐ nắm giữ CP cũng chịu thiệt hại.
Một số kiến nghị
CPH nhưng việc định giá doanh nghiệp phải theo giá thị trường, trên cơ sở đấu giá công khai, minh bạch để hình thành giá trị thị trường của doanh nghiệp. Tránh tình trạng bán tống, bán tháo làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của toán dân.
CPH để đa dạng hoá sở hữu vốn tại DN, tránh tư nhân hoá DNNN, để rồi hình thành các tỉ phú trên cơ sở tài sản của nhà nước
CPH để người lao động tại doanh nghiệp có vị thế mới là trở thành cổ đông - chủ sở hữu một phần vốn của DN – có quyền tham gia vào việc quyết định đối với DN. Việc dành một lượng cổ phiếu ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là cần thiết và do được định giá theo giá thị trường nên thị giá sẽ đủ lớn, cũng không có sự chênh lệch lớn về giá cả sẽ giảm bớt việc ``bán lúa non``, việc mua vét của một số cá nhân, dẫn đến tình trạng người lao động trở thành trắng tay, hoàn toàn trở thành người làm thuê, còn một số cá nhân sẽ thâu tóm quyền lực của công ty sau khi mua vét các cổ phiếu của người lao động ``bán lúa non``.
Khắc phục tình trạng ``bình mới rượu cũ``
CPH khép kín nhường chỗ cho CPH theo cơ chế thị trường.
CPH các DNNN phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn XH vào phát triển kinh tế.
PHỤ LỤC
Các văn bản pháp lý trong việc tiến hành cải cách DNNN
Nghị quyết của phiên họp thứ ba Đại hội Đảng VI (1987)
Quyết định 217 – HĐBT (14/11/1987): ``Đổi mới công tác lập kế hoạch, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa của các doanh nghiệp Nhà nước``: đưa DNNN vào cơ sở thương mại với quyền tự quyết và trách nhiệm tài chính tăng lên.
Nghị định 50-HĐBT (22/3/1988) quy định chi tiết việc thực hiện Nghị định 217-HĐBT.
Nghị định 388-HĐBT (20/11/1991): yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải đăng ký lại hoặc giải thể. Chỉ thị 393-CT (25/11/1991) và Thông tư 34-CT (28/01/1992). Sau đó được sửa đổi theo Nghị định 156-HĐBT (7/05/1992) và Quyết định 196-CT (5/6/1992).
Quyết định 90-TTg (7/3/1992): Công tác sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
12/1991 Quốc hội phê chuẩn một chương trình CPH thí điểm và Chính phủ ban hành Quyết định 202-CT (8/6/1992): thực hiện thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Và Quyết định 84-TTg (4/3/1992): thúc đẩy các chương trình thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Quyết định 90/TTg (7/3/1994): công tác sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và quyết định 91-TTg (7/3/1994): công tác thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh.
Quyết định 548-TTg (13/8/1996): thành lập uỷ ban chỉ đạo CPH theo Nghị định 28-CP (7/5/1996) của Chính phủ.
Nghị định 50-CP (28/8/1996): thành lập, tái tổ chức, giải thể và phá sản DNNN.
Nghị định 25-CP (26/3/1997): sửa đổi một số điều của Nghị định 28 (7/5/1996) về chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần.
Nghị định 38-CP (28/4/1997): sửa đổi và bổ sung một số điều trong Nghị quyết 50.
Chỉ thị 659-TTg (20/8/1997): Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN.
Nghị định 103-CP (9-9/1997): quy định về chuyển nhượng, bán, cho thuê theo hợp đồng kinh tế hoặc cho thuê doanh nghiệp Nhà nước.
Chỉ thị 20 CT-TTg (21/4/1998): Đẩy nhanh việc tái tổ chức và đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước.
Nghị định 44-CP (29/6/1998): Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần.
Quyết định 111-CP (29/6/1998): Thành lập ban cải cách Quản lý doanh nghiệp trung ương.
Nghị định 63-CP (14/9/2001): Chuyển đổi các DNNN thành các công ty TNHH một thành viên.
Nghị định 109 – CP (26/06/2007): Chuyển Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2000 - 2010.doc