LỜI MỞ ĐẦU .5
NỘI DUNG .7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC .7
1.1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 7
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước 7
1.1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước .7
1.1.2.1. Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm 7
1.1.2.2. Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước 8
1.1.2.3. Cạnh tranh với khu vực tư nhân .8
1.1.3. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 9
1.1.3.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 9
1.1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay .9
1.2.Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN 11
1.2.1.Cơ sở lí luận của cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước .11
1.2.1.1.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của C.Mác .11
1.2.1.2.Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo quan điểm của Đảng và Nhà nước 14
1.2.2.Thực tiễn cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước 16
1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN của một số nước trên thế giới 18
1.3.1.Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc .18
1.3.2.Cổ phần hóa DNNN ở một số nước khác 20
1.3.3. Một số điều rút ra từ cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới .21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA .23
2.1. Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 23
2.1.1. Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996) CPH tự nguyện .24
2.1.2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm 26
2.1.3. Giai đoạn 3(6/1998-5/2002) Tăng tốc chương trình CPH 27
2.1.4. Giai đoạn 4 (6/2002-nay) .28
2.2. Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam .32
2.2.1. Những thành tựu 33
2.2.1.1. Những thành tựu mang tính định lượng .33
2.2.1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động .35
2.2.1.2.1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa 35
2.2.1.2.2. Về huy động vốn 36
2.2.1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động .37
2.2.2. Những hạn chế 38
2.2.2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn chậm .38
2.2.2.2. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài 40
2.2.2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ, việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập 41
2.2.2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn chưa chặt chẽ 42
2.2.2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của xã hội .42
2.2.2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp 43
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.44
3.1. Bối cảnh mới .44
3.2. Yêu cầu của vấn đề Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện mới . 45
3.3. Giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN .46
KẾT LUẬN .51
TÀI LIỆU THAM KHẢO .52
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn giai đoạn 1992 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NN bằng việc chuyển thí điểm một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây được coi là một mốc trong tiến trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta, đánh dấu tiến trình cổ phần hóa đang được xúc tiến và đang trong giai đoạn thí điểm. Để thực hiện Nghị quyết này theo chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp, đồng thời cũng giao cho các bộ, các tỉnh các thành phố trực thuộc Trung ương chọn 1 đến 2 doanh nghiệp để tiến hành thí điểm cổ phần hóa. Triển khai thực hiện theo tinh thần chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ các bộ, ngành, địa phương đã thông báo đến từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành thí điểm chuyển doanh nghiệp mình thành công ty cổ phần. Cuối năm 1993 đã có 30 doanh nghiệp đăng ký thực hiện thí điểm cổ phần hóa nhưng vì nhiều lý do mà cả 7 doanh nghiệp đã được Chính phủ chọn và nhiều doanh nghiệp khác xin rút lui hoặc không tiếp tục làm thử. Điều này đã đặt chúng ta trước khó khăn lớn và để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thí điểm cổ phần hóa Đảng ta đã chủ trương: “để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; Trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối”. Hội Nghị giữa nhiệm kì khóa XII Đảng ta đã đặt ra yêu cầu: áp dụng từng bước vững chắc việc bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp; Thí điểm việc bán một phần cổ phần, cổ phiếu của một số DNNN cho một số tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp; Trên cơ sở cổ phần hóa tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu công nhân và các chủ sở hữu khác… Mặc dù có sự chỉ đạo sít sao của Đảng với quan điểm rõ ràng nhưng kết quả thu được không cao, tới tháng 4/1996 chỉ có 5 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trong đó 2 trong tổng số 64 tỉnh thành và 3 trong số 7 bộ có doanh nghiệp cổ phần hóa. Cả 5 doanh nghiệp này đều là những doanh nghiệp nhỏ, sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong những lĩnh vực không quan trọng. Những thông tin cụ thể về 5 Doanh nghiệp được trình bày cụ thể hơn trong bảng dưới đây (trang bên)
Bảng: 5 DNNN được Cổ phần hóa đầu tiên
STT
Tên doanh nghiệp
Cơ quan chủ quản trước đây
Ngày chuyển sang CTCP
Vốn điều lệ (tr.đồng)
Tỷ lệ vốn Nhà nước (%)
1
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển
Bộ GTVT
1/7/1993
6.200
18
2
Công ty cơ điện lạnh
Sở công nghiệp TP.HCM
1/10/1994
1.600
30
3
Nhà máy giày Hiệp An
Bộ công nghiệp nhẹ
1/10/1994
3.784
30
4
Xí nghiệp thức ăn chăn nuôi
Bộ NN&PTNN
1/7/1995
3.540
30
5
Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu
UBND tỉnh Long An
1/7/1995
7.912
30
(Nguồn: Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW)
Nhận xét: Có thể nói giai đoạn thí điểm Cổ phần hóa DNNN đã không đạt được những kết quả như mong đợi, tốc độ Cổ phần hóa quá chậm và còn quá nhiều những vướng mắc khó khăn cần được tháo gỡ và rút kinh nghiệm.
2.1.2. Giai đoạn 2 (5/1996-5/1998): Đây là giai đoạn vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tạo hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hay nói cách khác đây là giai đoạn mở rộng cổ phần hóa. Với kinh nghiệm sau 4 năm tiến hành thí điểm cổ phần hóa và trước nhu cầu về vốn của các DNNN, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã chủ trương mở rộng cổ phần hóa bằng Nghị định 28/CP với những quy định rõ ràng, đầy đủ và cụ thể hơn về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần. Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện tính đến tháng 6/1998 cả nước đã tiến hành Cổ phần hóa được 25 DNNN thuộc 2 bộ, 11 địa phương và 2 Tổng công ty 91 tiến hành CPH thành công với tổng số vốn điều lệ tại thời điểm CPH là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 doanh nghiệp trên 10 tỷ đồng (chiếm 20,8%).
Nhìn chung, việc triển khai thực hiện Nghị định 28/CP vẫn còn khá nhiều vướng mắc bất cập như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động sau cổ phần hóa…đây chính là những rào cản bước đầu làm chậm tiến trình cổ phần hóa, tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách khách quan thì cổ phần hóa trong giai đoạn này cũng đã đạt được những kết quả khả quan.
2.1.3. Giai đoạn 3 (6/1998-5/2002): Trên cơ sở những kết quả bước đầu của giai đoạn mở rộng cổ phần hóa, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh tốc độ Cổ phần hóa DNNN. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã yêu cầu: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, cần lập kế hoạch cổ phần hóa tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, làm ăn có hiệu quả, phát huy tốt nguồn lực hiện có. Tiến hành thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài, khuyến khích nông dân tham gia sản xuất nguyên liệu cung ứng cho các nhà máy, xí nghiệp, tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến nông sản… Từ thực tiễn kinh nghiệm ngày 4/4/1997 Bộ Chính trị ra thông báo số 63TB/TW “ý kiến của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần DNNN”. Nhằm thực hiện quan điểm của Đảng ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP thay thế cho các văn bản về cổ phần hóa trước đó, cùng với chỉ thị 20/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN. Nghị định này đã là một bước tiến lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa, hạn chế bớt được những bất cập trong các văn bản chỉ đạo thực hiện trước đó. Nghị định này đã bước đầu cho những kết quả khả quan, đến 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 DNNN được cổ phần hóa gấp 3 lần kết quả của những năm trước đó, đặc biệt năm 1999 cả nước cổ phần hóa được hơn 240 doanh nghiệp. Đạt được những thành công này một phần là nhờ ở sự chỉ đạo, giám sát, đôn đốc của các cơ quan, ban, ngành từ Trung ương đến cơ sở. Trong vòng hai năm các cơ quan Nhà nước đã ban hành 15 văn bản hướng dẫn tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong cổ phần hóa. Nhưng đến năm 2000 cả nước chỉ cổ phần hóa được 155 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đạt 26% kế hoạch. Sự chững lại của cổ phần hóa có nhiều nguyên nhân nhưng một trong số các nguyên nhân chính vẫn là những bất cập về chính sách và cơ chế pháp lí. Trước tình hình đó Hội nghị Trung ương 3 khóa IX về sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đã xác định: phải kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp có cơ cấu hợp lí và theo đó thì cổ phần hóa DNNN được xác định là khâu tạo ra những chuyển biến quan trọng tỏng việc nâng cao hiệu quả DNNN.
2.1.4. Giai đoạn 4 (6/2002-nay): Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương khóa IX Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP nhằm thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP, đồng thời ra quyết định số 50/2002/QĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số văn bản chỉ đạo thực hiện khác nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc của các văn bản trước đó, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cổ phần hóa. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, các tỉnh, các tổng công ty rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp, xây dựng đề án đổi mới nâng cao hiệu quả của DNNN trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Bằng các hình thức sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa. Đại hội IX của Đảng đề ra mục tiêu là trong 5 năm 2001 – 2005 phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện
tốt chủ trương cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn…Thực hiện theo chủ trương này từ năm 2001 đến 2005 số Doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá và trở thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước đã tăng lên khá nhanh cả về số lượng công ty, lẫn năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hằng năm của Tổng cục Thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty cổ phần có vốn nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp trong năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp trong năm 2001, tăng 54,1%; lên 557 doanh nghiệp trong năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp trong 2004, tăng 21,8% và lên 1.096 doanh nghiệp trong năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần và bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp, tương ứng với
tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm.
Mới đây, Chính phủ đã đưa ra chương trình CPH các DNNN giai đoạn 2006- 2010, nét cơ bản là tiếp tục quá trình đổi mới DNNN, kiên trì việc CPH, đồng thời với việc nhanh chóng tạo môi trường mới để thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, kiện toàn các tổng công ty để làm nòng cốt phát triển thành các tập đoàn kinh tế. Một số lĩnh vực lâu nay được coi là nhạy cảm thì trước yêu cầu hội nhập, Chính phủ đã xác định lại để tiến hành cổ phần, ví như lĩnh vực ngân hàng, có thể nói theo WTO thì ngân hàng là một trong những lĩnh vực phải mở cửa sớm nhất vào sang năm. Kế hoạch để cổ phần hoá tất cả các ngân hàng thương mại NN đã được vạch rõ, bắt đầu từ Ngân hàng Ngoại thương và sau cùng là Ngân hàng Nông nghiệp. Chính phủ đã quyết định chỉ giữ lại 28 tập đoàn và tổng công ty mà Nhà nước giữ lại 100% vốn ở công ty mẹ, còn lại gần 80 tập đoàn và tổng công ty khác sẽ cho tiến hành cổ phần hòa, trong đó có TCty Dệt may, TCty Công nghiệp tàu thủy… Có thể coi bước đột phá của CPH trong giai đoạn 2006-2010 là cổ phần hóa các tập đoàn và tổng công ty.
Cụ thể ngay trên địa bàn thành phố Hà Nội:
Năm 2005
Số doanh nghiệp dự kiến hoàn thành cổ phần hóa : 34 doanh nghiệp
Kết quả : Cổ phần hóa được 30 doanh nghiệp đạt tỉ lệ 88,23 % kế hoạch
Số doanh nghiệp chưa hoàn thành cổ phần hóa là : 4 doanh nghiệp
Năm 2006
Số doanh nghiệp dự kiến hoàn thành cổ phần hóa : 21 doanh nghiệp
Kết quả : Cổ phần hóa được 10 doanh nghiệp đạt tỉ lệ 47,6 % kế hoạch
Số doanh nghiệp chưa hoàn thành cổ phần hóa là : 11 doanh nghiệp
Danh sách các doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hóa :
1.Công ty thương mại và dịch vụ tổng hợp Hà Nội
2. Công ty thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội
3.Công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội số 25
4. Công ty đầu tư xây dựng kinh doanh nhà Nghệ An
5. Công ty sản xuất vật liệu xây dựng Kim Bảng
6. Công ty thương mại đầu tư phát triển nhà số 32
7. Công ty thi công cơ giới xây dựng
8. Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội
9. Công ty sách và thiết bị trường học
10.Công ty dệt kim Thăng Long
Năm 2007
Số doanh nghiệp dự kiến hoàn thành cổ phần hóa : 23 doanh nghiệp
Kết quả : Đã hoàn thành cổ phần hóa 10 doanh nghiệp đạt 43,47% kế hoạch
Số doanh nghiệp chưa hoàn thành cổ phần hóa là : 13 doanh nghiệp
Danh sách các doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hóa:
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cơ điện Trần Phú
2. Công ty Điện tử Hà Nội
3. Công ty xây dựng nông nghiệp và phát triển nông thôn
4. Công ty ăn uống dịch vụ du lịch Sóc Sơn
5. Công ty dịch vụ truyền thanh truyền hình Hà Nội
6. Công ty quản lý bến xe Hà Nội
7. Công ty khai thác điểm đỗ xe Hà Nội
8. Công ty thương mại dịch vụ Tràng Thi
9. Công ty thương mại dịch vụ Thời Trang
10. Công ty sản xuất xuất nhập khẩu nông sản Hà Nội
Số lượng doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007 không lớn, song đa phần là những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn ( Vốn nhà nước bình quân một doanh nghiệp là: 74,85 tỷ đồng; vốn điều lệ dự kiến là: 78,87 tỷ đồng/doanh nghiệp). Giá trị cổ phần dự kiến bán ra bên ngoài ( tính theo mệnh giá) khoảng 165,2 tỷ đồng, chiếm 30% vốn điều lệ. Vốn nhà nước tiếp tục nắm giữ trong các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là : 342,1 tỷ đồng, chiếm 62% vốn điều lệ.
Năm 2008
Số doanh nghiệp dự kiến hoàn thành cổ phần hóa là 14 doanh nghiệp
Hết quý I năm 2008 mới hoàn thành cổ phần hóa được 1 doanh nghiệp.
Năm 2009
Số lượng DNNN thực hiện sắp xếp, đổi mới từ thời điểm bắt đầu triển khai đến 30/6/2009 là 489 doanh nghiệp.
Trong đó có 169 doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Tổng giá trị vốn nhà nước của 169 doanh nghiệp đã cổ phần hóa là gần 1.200 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ là trên 2.100 tỷ đồng, trong đó nhà nước nắm giữ gần 930 tỷ đồng, tương ứng 44,08% vốn điều lệ.
Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đều duy trì được ổn định và phát triển tốt, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và thu nhập bình quân của người lao động đều tăng.
Trong danh sách 37 doanh nghiệp trên có 4 công ty TNHH 1 thành viên được chuyển đổi tổ chức quản lý theo mô hình công ty mẹ - công ty con gồm: Công ty Chiếu sáng và Thiết bị đô thị, Công ty Môi trường đô thị, Công ty Thống Nhất, Công ty Cung ứng nhân lực và Thương mại quốc tế. 23 công ty, Tổng công ty khác được chuyển thành công ty TNHH 1 thành viên, trong đó có các công ty như: Cấp nước Hà Đông, Khai thác điểm đỗ xe Hà Nội, Quản lý và Phát triển nhà Hà Nội, Kinh doanh nước sạch số 2 Hà Nội và các công ty mẹ của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, Tổng Công ty Thương mại Hà Nội, Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội, Tổng Công ty Vận tải Hà Nội,...
Đến hết năm 2010 sẽ thực hiện cổ phần hóa 9 công ty gồm: Cảng Hà Tây, Dịch vụ truyền thanh truyền hình Hà Nội, Sản xuất - Xuất nhập khẩu nông sản Hà Nội, Thương mại và Đầu tư Hà Nội (TIC)...
Riêng Công ty Kỹ thuật điện thông cũng đã được Thủ tướng cho phép giải thể trong năm 2010.
Nhìn chung: “Trong giai đoạn 1992 – 2007 đã cổ phần hoá được 3.756 doanh nghiệp nhà nước, trong đó đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ. Trong năm 2007 đã cổ phần hoá được 116 doanh nghiệp nhà nước, đạt 21% so với kế hoạch. Trong năm 2008 đã cổ phần hoá được 73 doanh nghiệp nhà nước, đạt 28% so với kế hoạch. Trong giai đoạn 2008 – 2010 phải sắp xếp lại 1.535 doanh nghiệp nhà nước, trong đó 948 thuộc diện cổ phần hóa. Như vậy, nhiệm vụ cổ phần hoá hơn 800 doanh nghiệp nhà nước cho hai năm 2009 và 2010 là rất nặng nề. Đến nay, số vốn được cổ phần hoá chiếm chưa đầy 15% tổng số vốn trong các doanh nghiệp nhà nước”(Nguồn: Bộ Tài chính).
2.2. Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam
Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng. Mấy năm trước diễn biến khá chậm chạp. Đến Hội nghị lần thứ 9 Hội nghị Trung ương khóa IX Đảng ta đã chủ trương đẩy nhanh tiến độ, và đẩy mạnh hơn nữa công việc đó. Thực tiễn cổ phần hóa đang bắt đầu diễn ra sôi động, qua trình diễn ra không đơn giản vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn phức tạp, tuy nhiên sau gần 20 năm thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp thì cổ phần hóa DNNN đã có được những thành công và những hạn chế nhất định.
2.2.1. Những thành tựu mà cổ phần hóa DNNN đem lại trong những năm qua
2.2.1.1 Những thành tựu mang tính định lượng
Chủ trương cổ phần hóa DNNN đã được thực hiện ở nước ta 18 năm qua. Trong 10 tháng của năm 2003 thì trong số 766 DNNN thực hiện việc chuyển đổi thì có 425 doanh nghiệp cổ phần hóa (nguồn từ ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp ). Từ thực tiễn có thể thấy cổ phần hóa là hình thức chuyển đổi sở hữu chiếm ưu thế trong quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN.
Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998 cả nước đã cổ phần hóa được 30 doanh nghiệp. trong đó có 5 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm qui định tại quyết định 202/CT của Hội đồng bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo tinh thần Nghị định 28/CP của Chính phủ. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa trong thời gian này nhìn chung đều có những tiến bộ về năng suất, chất lượng và hiệu quả. cổ phần hóa đã thu hút được một nguồn vốn khá lớn trong xã hội, tạo được động lực tốt cho doanh nghiệp phát triển, phát huy tích cực tính chủ động sáng tạo của người lao động. Từ đó góp phần làm tăng ngân sách Chính phủ, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời khắc phục bớt được những tiêu cực trong các doanh nghiệp.
Từ 2/6/1998 đến 31/12/1999 đã có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Riền trong năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp được cổ phần. Nhìn chung sau khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ra đời, cổ phần hóa DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã qui định các chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa một cách rõ ràng và cụ thể hơn; Có sự quan tâm hơn đến người lao động nghèo. Chính đây là nguyên nhân khiến chủ trương cổ phần hóa trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như người lao động.
Từ tháng 1/2000 đến cuối tháng 11/2002 cả nước đã cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa lên 907 doanh nghiệp. Năm 2002 đã có 427 doanh nghiệp sắp xếp lại trong đó 164 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại bằng 48% so với kế hoạch, trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa. Như vậy càng về sau thì tốc độ cổ phần hóa càng được đẩy mạnh và càng về sau thì quy mô các DNNN được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi dưới hình thức khác càng lớn. Trước kia cả nước có khoảng 12000 DNNN phần lớn các DNNN có quy mô vốn rất nhỏ và chiếm lĩnh hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Gần 18 năm qua, chúng ta đã sắp xếp điều chỉnh còn lại khoảng 5000 doanh nghiệp, tuy hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với vị trí tiềm năng của nó nhưng các DNNN đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân: 63,8%GDP, 63% ngân sách, 72% kim ngạch xuất khẩu, trong khi 120.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đóng góp 20%GDP, 15% nguồn thu ngân sách, 12,5% kim ngạch xuất khẩu. Trong điều kiện đó thì cổ phần hóa DNNN là một giải pháp tốt để phát huy hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh, thể hiện là một khu vực kinh tế năng động, dường cột của nền kinh tế. Qua khảo sát 500 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm cho thấy : vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13,7%, nộp ngân sách tăng 45%, thu nhập của người lao động tăng 63%, cổ tức trung bình là 15,5%, số lao động tăng 23%. Trước năm 2003 số DNNN được cổ phần hóa có vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm 7,9% thì năm 2008 là 15%. Đây chính là những con số báo hiệu những chuyển biến tích cực của tiến trình cổ phân hóa DNNN.
Theo số liệu báo cáo của Cục Tài chính doanh nghiệp, tính đến 15/6/2010, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.615 doanh nghiệp (DN) và bộ phận doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hóa được 3.922 doanh nghiệp (chiếm 70,02%), chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 355 (chiếm 6,32%); còn lại là các hình thức sắp xếp khác 1.288 doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, giao bán, khoán..). Trong 3.922 doanh nghiệp CPH có 2.288 doanh nghiệp thuộc địa phương (chiếm 58,19%); 1.192 doanh nghiệp khối Bộ, ngành (chiếm 30,31%); 452 doanh nghiệp khối Tập đoàn, Tổng công ty (chiếm 11,5%).
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2010 (tính đến ngày 15/6/2010), cả nước đã thực hiện sắp xếp được 85 DN, trong đó cổ phần hoá 26 DN; chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 57 DN, sắp xếp theo các hình thức khác 2 DN.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2009 cả nước còn 1.507 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Trong đó, được tổ chức duới hình thức tập đoàn kinh tế là 11 doanh nghiệp; tổng công ty Nhà nước là 84 doanh nghiệp; các tổng công ty thuộc tập đoàn, doanh nghiệp thành viên tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty Nhà nước độc lập là 1.412 doanh nghiệp.
2.2.1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng đã được đề cập ở trên việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
2.2.1.2.1 Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa.
Xét một cách tổng thể thì phần lớn các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Qua báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hóa sau khi hoạt động được một năm thì doanh thu bình quân của các doanh nghiệp tăng gần gấp hai lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Điển hình như công ty GEMADEPT khi bước vào cổ phần hóa vốn Nhà nước chỉ có 1,2 tỷ đồng được đánh giá lên thành 6 tỷ đồng, sau bảy năm hoạt động theo mô hình mới tổng số vốn đã lên tới 140 tỷ đồng; Theo kết quả đợt khảo sát hoạt động của 1.000 doanh nghiệp sau CPH do Quốc hội tiến hành trước đây cho thấy, 85% doanh nghiệp CPH hoạt động có lãi, cổ tức cao; vốn điều lệ tại những doanh nghiệp này tăng trung bình 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 39,7%, nộp ngân sách tăng 24,9%, thu nhập của người lao động tăng 12%, cổ tức bình quân đạt 17,11%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn ở hầu hết doanh nghiệp CPH đạt từ 10 - 20%, có doanh nghiệp đạt trên 80%. Chính nhờ hoạt động có hiệu quả các DNNN thực hiện cổ phân hóa chính là những công ty cổ phần đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Điều này làm tăng uy tín cũng như vị thế của các DNNN được cổ phần hóa trên thương trường, từđó tạo điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp này có được một chỗ đứng tốt trong nền kinh tế Việt Nam đang trong đà hội nhập và phát triển.
2.2.1.2.2. Về huy động vốn
Việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn lớn trong xã hội đểđầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chỉ tính riêng 370 DNNN được cổ phần hóa tính đến ngày 31/12/2009 thì tại thời điểm cổ phần hóa giá trị phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷđồng qua cổ phần hóa đã thu hút thêm được 1.432 tỷđồng, đồng thời Nhà nước cũng thu được 714 tỷđồng. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa đều tăng tử 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội cuối năm 2008 ở 30 doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì giá trị phần vốn của Nhà nước là 80,8 tỷ đồng, tăng thêm 1,5 tỷđồng so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán, thành phố Hồ Chí Minh sau khi đánh giá lại 10 doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa thì giá trị lên tới 80 tỷđồng tăng thêm 34 tỷđồng...Như vậy khi thực hiện cổ phần hóa phần vốn của Nhà nước trong các công ty cổ phần không những không mất đi mà còn tăng thêm một lượng rất đáng kể, phần vốn nhàn rỗi mà các doanh nghiệp huy động được từ ngoài xã hội cũng rất lớn. Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%. Tóm lại cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp được cổ phần, người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông góp vốn vào doanh nghiệp.
2.2.1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Cổ phần hóa là một giải pháp có hiệu quả tích cực đối với các vấn đề kinh tế xã hội. Việc các công ty cổ phần làm ăn hiệu quả phát đạt đã tạo cơ hội lớn về việc làm cho người lao động. Khi đang làm ăn có hiệu quả, nguồn vốn huy động được lớn thì các doanh nghiệp này có xu hướng mở rộng qui mô sản xuất, đầu tư thêm nhiều máy móc trang thiết bị... Do mở rộng sản xuất nên số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa tăng bình quân 12%, riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh(REE) số lao động tăng từ 334 người lên 731 người, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An số lao động tăng từ 900 người lên 1.280 người. Và có nhu cầu tuyển thêm lao động để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình. Hầu hết các doanh nghiệp được cổ phần hóa thì việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có xu hướng tăng lên. Số lao động trở thành cổ đông của doanh nghiệp cổ phần chiếm tỷ lệ khá lớn, riêng trong năm 2009 58% số cổ phần trong các doanh nghiệp cổ phần đều do những lao động chính trong các doanh nghiệp này nắm giữ. Tính đến 30/10/2009 quỹ hỗ trợ lao động dôi dư đã cấp 609,63 tỷ đồng hỗ trợ cho 687 doanh nghiệp, giải quyết 19.579 lao động dôi dư. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm là 20%, điển hình là Công ty cổ phần đại lí liên hiệp vận chuyển thu nhập bình quân của lao động xí nghiệp này đã tăng gần 3 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa từ 1,4 triệu đồng lên 4 triệu đồng/người /tháng (năm 2009). Với chủ trương cổ phần hóa, với cơ chế chính sách mới người lao động thực sự trở thành chủ nhân của các công ty cổ phần. Chính nhờ vậy họ đã nâng cao được tính chủ động sáng tạo, ý thức kỉ luật cũng như tình thần trách nhiệm nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với công việc cung như đối với thành công của các doanh nghiệp từ đó làm cho sản lượng, chất lượng, doanh thu , lợi nhuận, tích lũy vốn tăng đáng kể sau mỗi năm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiến trình cổ phần hóa đã tạo một số lượng không nhỏ các công ty cổ phần, tính đến nay cả nước đã có khoảng 5615 công ty cổ phần được hình thành trên cơ sở các DNNN được cổ phần hóa.Việc cổ phần hóa đã có hiệu ứng khá tích cực đối với việc thành lập mới DNNN.
2.2.2. Những hạn chế của Cổ phần hóa DNNN
Bên cạnh những thành công thì việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa đã bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.
2.2.2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn chậm.
Trong nhiều năm qua kể từ khi chúng ta bắt đầu tiến hành cổ phần hóa DNNN thì tốc độ cổ phần hóa diễn ra khá chậm mà như một số nhà phân tích kinh tế đã nói là cổ phần hóa đang diễn ra với tốc độ “rùa bò”.
Năm 2007, cả nước chỉ thực hiện cổ phần hóa được 82 DNNN, đạt 21% kế hoạch Thủ tướng giao cho các bộ, ban ngành địa phương. Riêng ngành nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không thể hoàn thành kế hoạch Cổ phần hóa 17 tổng công ty lớn của Bộ và 329 DN trực thuộc do hầu hết các DN có lượng vốn ít, công nghệ kỹ thuật lạc hậu. Số vốn của 329 DN và 17 tổng công ty nông nghiệp là 6.050 tỷ đồng, bình quân mỗi DN chỉ có... 17, 5 tỷ đồng, thậm chí có tới 15% DN có vốn dưới 1 tỷ đồng.
Tính đến tháng 19/8/2008 mới chỉ có khoảng 20% số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa. Số này tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp của các địa phương, DN của một số bộ, ngành ở trung ương. 80% còn lại hầu hết là DN tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có số vốn lớn.
6 tháng đầu năm 2009, chỉ có 62 DN được sắp xếp lại theo các hình thức: chuyển thành công ty TNHH một thành viên (17), thành lập mới (1), cổ phần hóa (30), giao 3, bán (3), thuê, khoán (1), giải thể (1), chuyển cơ quan quản lý (1). Như vậy, tổng số DNNN cổ phần hóa tính đến tháng 6/2009 là 3.786 doanh nghiệp. Tình hình kinh tế khó khăn hiện nay đã khiến tốc độ cổ phần hóa các DNNN chậm lại, nhiều khả năng mục tiêu hoàn thành cổ phần hóa DNNN vào năm 2010 là không thực hiện được.
Việc thực hiện cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực, chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, do đó số doanh nghiệp được cổ phần hóa không cao và các Doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác Nhà nước vẫn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các Công ty cổ phần nên nhìn chung việc cổ phần hóa chưa tác động đáng kể đến cơ cấu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các Công ty cổ phần chủ yếu được hình thành trên cơ sở các DNNN có quy mô nhỏ được cổ phần hóa.
Một số DNNN sau khi cổ phần hóa chưa có chiến lược sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chưa thực sự tích cực tuyên truyền kêu gọi sự đóng góp nguồn vốn ngoài xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, chưa thực hiện đổi mới công nghệ trang thiết bị kĩ thuật mà chỉ chú trọng vào tiết kiệm giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức. Mới chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt mà chưa có chiến lược phát triển lâu dài. Chính vì thế mà bên cạnh những doanh nghiệp sau khi cổ phần làn ăn có hiệu quả thì vẫn có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Vì thế mà đã có một số doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không nhiều nhưng đây chính là những tín hiệu không tốt làm cản trở đến tiến trình cổ phần hóa, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp cổ phần hóa.
2.2.2.2. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài.
So với đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số DNNN được Cổ phần hoá chưa đạt 80%, số lượng DNNN được Cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá DNNN vào năm 2005 là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) và đến nay vẫn là 437 ngày. Trong đó chia theo các giai đoạn sau ( trang bên )
STT
Nội dung công việc
Số ngày thực hiện
1
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp-bắt đầu định giá
135 ngày
2
Bắt đầu định giá-quyết định giá trị doanh nghiệp
135 ngày
3
Quyết định giá trị doanh nghiệp-phê duyệt phương án cổ phần hóa
66 ngày
4
Phê duyệt phương án cổ phần hóa-bắt đầu bán cổ phần
24 ngày
5
Bắt đầu bán cổ phần-hoàn thành bán cổ phần
38 ngày
6
Hoàn thành bán cổ phần-đại hội cổ đông
15 ngày
7
Đại hội cổ đông-đăng ký kinh doanh
24 ngày
8
Tổng cộng
437 ngày
Như vậy quy định về quy trình CPH vẫn rất rườm rà, phức tạp. Bên cạnh đó, mới có chưa đầy 15% tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước được CPH, trong đó có 24,1% cổ phần do cổ đông bên ngoài nắm giữ, có nghĩa là chỉ có khoảng 3,6% vốn nhà nước được bán ra bên ngoài, CBCNV nắm 29,6% cổ phần, Nhà nước vẫn nắm 46,3%. Theo ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp: "Về thực chất vẫn là CPH khép kín, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược, do đó việc đổi mới công nghệ và thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp chưa thật mạnh mẽ và về cơ bản, chưa tạo động lực cho sự đổi mới thật sự trong hoạt động của doanh nghiệp".(Nguồn: ĐTCK, 8/1)
2.2.2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ, việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập.
Vì thế chưa thực sự tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần. Khi chuyển từ cơ chế doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo luật doanh nghiệp không ít cán bộ quản lí vẫn điều hành công ty theo phương thức điều hành hoạt động của DNNN, chưa chuyển sang điều lệ và luật công ty, lúng túng trong xác định cơ cấu tổ chức bộ máy công ty và cơ chế hoạt động của công ty cổ phần. DNNN sau khi cổ phần hóa bị kì thị phân biệt đối xử như: khó vay vốn, bị chính các công ty mẹ cạnh tranh chèn ép. Quan hệ tài chính sau khi cổ phần hóa thiếu minh bạch, thủ tục định giá trị doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường kéo dài, định giá trị doanh nghiệp thường thấp hơn thực tế gây tổn thất không nhỏ cho Nhà nước.Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do không đúng luật và điều lệ mà công ty không kiểm soát được. Chưa có hướng dẫn quy chế tài chính, chính sách tiền lương nên nhiều doanh nghiệp vẫn vận dụng cơ chế chính sách của doanh nghiệp Nhà nước. Và thực tế nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động. Chính vì vậy số lượng lao động được giải quyết chế độ sau khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần vẫn còn rất thấp. Đây cũng chính là một trong những rào cản chính trong tiến trình cổ phần hóa DNNN.
2.2.2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn chưa chặt chẽ
Nhìn chung, sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và chưa sâu sát kịp thời, còn nặng về kêu gọi động viên chung chung, chưa đi sâu khảo sát tình hình, chưa xây dựng chương trình, đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp cụ thể với tiến độ, lộ trình, bước đi. Chưa kiểm tra, đánh giá và có biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng những mẫu hình tiên tiến về cổ phần hóa ở các ngành địa phương chưa được quan tâm chỉđạo tích cực, chưa có sức thuyết phục rộng rãi [PGS.TS Hồ Trọng Viên- những vấn đềđặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN).
2.2.2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của xã hội. Một số cán bộ, công nhân chưa có được những hiểu biết cần thiết về công ty cổ phần do đó còn do dự, chưa thực sự ủng hộ và tham gia tích cực vào các công ty cổ phần nên đã gây ra những lãng phí đáng tiếc về nguồn lực, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Tỷ lệ bán cổ phần trong xã hội còn thấp và chưa thành quy định bắt buộc, cổ phần hóa còn mang tính nội bộ. Toàn bộ quá trình cổ phần hóa không được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước cổ phần hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp có nhiều lợi thế kinh doanh. Bên cạnh đó pháp luật còn khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần, đối với cá nhân là không quá 5-10%, đối với pháp nhân không quá 10-20%. Đây chính là những hạn chế trong việc mua cổ phần của người lao động lẫn các cá nhân các tổ chức kinh tế, xã hội muốn đầu tư vào doanh nghiệp.
2.2.2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp: nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước tìm cách né tránh, trì kéo cổ phần hóa vì sợ mất những đặc quyền, đặc lợi đang có. Nhiều công nhân không muốn cổ phần hóa vì nhiều rủi ro và dễ mất việc làm...Nhiều doanh nghiệp Nhà nước tuy đã được chỉ định cổ phần hóa nhưng đang rối bời bởi các khoản nợ phải trả, nợ khó đòi, kĩ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức quản lí còn nhiều yếu kém... nên chưa thể tiến hành cổ phần hóa được ngay. Các quy định về chếđộ trách nhiệm cổ phần hóa còn nhiều bất cập...[PGS.TS Hồ TrọngViên-những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN].
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
3.1. Bối cảnh mới
Mặc dù nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn sau khủng hoảng kinh tế, nhưng giai đoạn 2006-2010, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định, hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển như Việt Nam. Năm 2006 đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam bằn sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Bên cạnh những mặt thuận lợi, tham gia cơ chế thương mại toàn cầu WTO sẽ đặt nền kinh tế đất nước cũng như các doanh nghiệp nói chung và sau cổ phần hóa nói riêng trước những sức ép vô cùng to lớn. Đó là sức ép cạnh tranh để giành giật thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ ngày càng lớn trên qui mô toàn cầu và ngay chính trên thị trường nội địa của ta. Những doanh nghiệp qui mô nhỏ có nguy cơ phá sản; mất việc làm, thiếu việc làm lớn trong khu vực lhi chính thức; chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH…
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng, khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh của nó. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện ở: hiệu quả sản xuất, kinh doanh (được đo thông qua lợi nhuận, thị phần doanh nghiệp) và khả năng cạnh tranh của các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh (thể hiện thông qua chất lượng, mẫu mã, giá cả và các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng). Như vậy doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh cao khi kinh doanh những hàng hóa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý với các dịch vụ thuận lợi, thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên.
Là những doanh nghiệp ra đời từ khi Nhà nước có chủ trương CPH DNNN, các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN là một bộ phận doanh nghiệp nằm trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân. Cho nên trong bối cảnh chung của nền kinh tế, các doanh nghiệp này phải nâng cao sức cạnh trạnh là tất yếu. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt sẽ sản xuất được những hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao không chỉ ở thị trường trong nước mà còn trên thị trường thế giới, doanh nghiệp sẽ phát triển, sẽ góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã hội, tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm…
Để tranh thủ các cơ hội và điều kiện thuận lợi do hội nhập mang lại, đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của quá trình này, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sau cổ phần hóa nói riêng cần có những sự thay đổi mang tính chiến lược nhằm nâng cao tính cạnh tranh nếu không muốn thua ngay trên thị trường nội địa.
3.2. Yêu cầu của vấn đề cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện mới
Lấy lợi nhuận làm mục tiêu vì sự tăng trưởng của lợi nhuận là nguồn gốc của phát triển kinh tế đối với các doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế thị trường đang trên đà hội nhập thì lợi nhuận đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cổ phần hóa phải ưu tiên hàng đầu. Hoạt động tốt đạt lợi nhuận cao doanh nghiệp sau cổ phần hóa mới có thể tồn tại và phát triển.
Doanh nghiệp cần có những chiến lược kinh doanh phù hợp, công khai tài chính minh bạch để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước nhằm thu hút được nguồn vốn thông qua các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán. Điều này giúp cho doanh nghiệp có thể huy động vốn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong toàn xã hội để đầu tư mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư cho những dây chuyền sản xuất mới, công nghệ mới.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Tạo ra được những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa không chỉ là tăng khả năng cạnh tranh, quyết định sự sống còn của bản thân doanh nghiệp mà nó còn nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung.
Phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa một cách toàn diện: hiệu quả kinh tế-xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa cũng cần phải chú trọng đến lợi ích của người lao động như phải có chính sách tiền lương thích hợp, đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao động, phải có các giải pháp để đào tạo và sắp xếp lại lao động để không tạo ra một lượng lớn người thất nghiệp gây áp lực cho xã hội. Nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn cần tới sự hỗ trợ từ phía nhà nước để hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ cộng đồng như vận tải, môi trường, nước…
Trên đây là những yêu cầu của vấn đề cổ phần hóa trong điều kiện mới mang tính chung nhất đối với các hoạt động của các DNNN sau cổ phần hóa. Ở mỗi doanh nghiệp cổ phần hóa với những điều kiện cụ thể, sẽ có yêu cầu đổi mới phát triển phù hợp mang tính đặc trưng cho doanh nghiệp mình.
3.3. Giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN
Quá trình cổ phần hoá DNNN chắc chắn sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trong năm 2006. Tuy nhiên tốc độ sẽ không thể như kỳ vọng của Chính Phủ cũng như công chúng đầu tư. Luật Doanh ngiệp nhà nước mới được Quốc hội thông qua vào tháng 11-2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 đặt ra thời hạn hoàn tất chuyển đổi thống nhất đối với các DNNN là 4 năm. Đây quả là một thách thức, bởi lẽ 15 năm mới đi được 1/10 chặng đường, vậy thì làm thế nào để có thể chạy nốt 9 phần chặng đường còn lại trong 4 năm. Để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình cổ phần hoá DNNN và hoàn tất quá trình này vào năm 2010, theo dự kiến có rất nhiều công việc phải làm.
Trước hết Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách cho cổ phần hoá cũng như chỉđạo đẩy mạnh hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các Tổng công ty, các công ty nhà nước lớn. Bên cạnh đó về phía các DNNN cũng cần phải quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình cổ phần hoá. Lãnh đạo các DNNN cũng như các Bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức rằng cổ phần hoá là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền, đặc lợi cá nhân hay cục bộ cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng cần phải lưu ý làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh cổ phần hình thức hoặc “bán rẻ” tài sản Nhà nước.
Cùng với việc khẩn trương đổi mói một số cơ chế chính sách nhất là cơ chế tài chính có liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp sau đây:
Vể tổ chức chỉ đạo, về quyết định phê duyệt danh sách các doanh nghiệp cổ phần hoá, về tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp trong diện. Đồng thời hướng dẫn cổ
phần hoá các Bộ, các địa phương khác nhằm triển khai đồng đều trong cả nước, về việc nghiên cứu chuẩn bịđề án thành lập Quỹ hỗ trợ sắp xếp DNNN mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng các nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, hỗ trợ ngân sách và huy động vốn của nước ngoài, cụ thể:
Một là, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa DNNN và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh.
Hai là, lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước và loại hình công ty cổ phần. Cổ phần hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay cổ đông thuộc các thành phần kinh tế. Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó dặt ra hai vấn đề:
- Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận DNNN thì là bộ phận nào?
- Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của hình thức này, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất.
Việc lựa chọn DNNN để cổ phần hoá phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của DNNN trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế, chính trị được lựa chọn trình độ phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá.
Như vậy, chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội do Nhà nước lựa chọn giải pháp chuyển doanh nghiệp sang công ty cổ phần trong giai đoạn hiện nay để có thể thực hiện ở một số doanh nghiệp mà trước hết là vì mục tiêu lợi nhuận.
Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chủ trương cổ phần hoá DNNN theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác. Trường hợp Nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần mà trong đó vốn Nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia.
Ba là, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của các doanh nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế khác tham gia mua cổ phiếu. Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong hai năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Để duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật, các chương trình văn hoá, câu lạc bộ, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức Công đoàn.
Thực tế tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho thấy những ưu tiên trên là hợp lý, là phù hợp với thực tiến của công tác cổ phần hoá và được sự đồng tình ủng hộ của các doanh nghiệp.
Bốn là, Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với các cán bộ công nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.
Năm là, định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vọng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần hoá. Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện.
Sáu là, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng một đội ngũ các nhà kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần mới hình thành, giám đốc điều hành giỏi là hết sức cần thiết.
Để thực hiện điều này cần phải:
- Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN cần có chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý công ty cổ phần cho tất cả các cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá.
- Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các công ty cổ phần hoá cho tất cả các cán bộ quản lý các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Về kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước. đây là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Bảy là, có biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người lao động nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm của họđối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Thực tiễn cho thấy rằng việc làm cho người lao động thấy rõ được lợi ích khi doanh nghiệp cổ phần hoá là rất quan trọng. Người lao động sẽ tự giác đồng tâm cùng Nhà nước thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá. Nhưng quan trọng hơn nhiều là làm cho người lao động hiểu được vị trí của họ trong doanh nghiệp cổ phần, một môi trường mới. Người lao động cần nhận thức được vai trò làm chủ của họ đối với doanh nghiệp, mức độ làm chủ đến đâu, những gì họ được phép làm… tránh tình trạng người lao động lạm dụng quyền làm chủ quá mức tạo nên sự không ổn định trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Thứ tám, vấn đề trước mắt là cần kiện toàn tổ chức Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá;Ngoài ra, Chính phủ cần có định hướng chính sách hỗ trợ cho người lao động dôi dư khi tổ chức sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sau ngày 1/7/2010 (khi Nghị định số 110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về chính sách đổi với người lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty Nhà nước hết hiệu lực thi hành); các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty khẩn trương chuyển đổi các doanh nghiệp thành viên, công ty Nhà nước độc lập sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đảm bảo xong trước ngày 1/7/2010; nghiên cứu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ công bố danh mục phân loại doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn (Quyết định thay thế Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước) để các Bộ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty xây dựng lộ trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến 2020.
KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, yêu cầu đổi mới toàn diện khu vực kinh tế quốc doanh có vai trò quyết định và rất bức xúc. Cổ phần hoá là một trong những giải pháp quan trọng để thực sự khắc phục tình trạng kém hiệu quả của các DNNN, thu hút vốn, cải tiến quản lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực chất cổ phần hoá nhằm mục tiêu chuyển hình thức sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu tập thể, các cổđông theo hướng đa dạng hoá xử lý, vừa đảm bảo yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế nhiều thành phần, vừa đảm bảo doanh nghiệp nhà nước có thủ thực sự.
Cổ phần hoá là một công việc hết sức mới mẻ và khó khăn. Bởi vậy một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt ra trong quá trình cổ phần hoá là phải tìm ra được những thành công và thất bại để tìm ra những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế cổ phần hoá phù hợp với đất nước.
Những giải pháp, kiến nghị được nêu ra trong đề án sẽ phần nào tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình cổ phần hoá. Hy vọng rằng với quyết tâm cao của Đảng và nhà nước, niềm tin của nhân dân cùng với việc thực hiện đồng bộ những giải pháp và kiến nghị nêu trên, chương trình cổ phần hoá sẽ gặt hái được những thành công và góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh, mạnh bền vững của nền kinh tế đem lại sự phồn vinh cho đất nước.
Tài liệu tham khảo
Cổ phần hóa DNNN – những vấn đề lí luận và thực tiễn của PGS.TS Lê Hồng Hạnh.
Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN của PGS-TS Hồ Trọng Viên.
Cổ phần hóa DNNN mấy vấn đề lí luận và thực tiễn của Nguyễn Minh Thông, phó trưởng ban thường trực ban chỉđạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp.
Báo cáo của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp thành phố về công tác cổ phần hóa DNNN.
Báo cáo tổng kết của Ủy ban nhân Thành phố Hà Nội về công tác sắp xếp, cổ phần hóa DNNN của Thành phố Hà Nội.
Thông báo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc triển khai kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa DNNN thuộc Thành phố.
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần và các thông tư hướng dẫn.
Nghị định số 110/2007/NĐ-CP về xử lý lao động dôi dư.
Quyết định số 94/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố.
Quyết định 479/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch sắp xếp, đổi mới công ty Nhà nước thuộc Ủy ban nhân Thành phố Hà Nội giai đoạn 2007-2010.
8. Nghiên cứu kinh tế số 333, tháng 2/2006.
11. Kinh tế và dự báo số 6/2007
12. Tạp chí tài chính số 1/2008
13. Báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài sản DNNN
14. Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990
15. Báo Đảng cộng sản Việt Nam
16. Luật Doanh ngiệp và luật DNNN
17. Tạp chí nghiên cứu kinh tế - số 36
…….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam- lý luận và thực tiễn giai đoạn 1992 - 2011.doc