Bảo hiểm thân tàu có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát 
triển các đội tàu biển thuộc quyền quản lý và khai thác của các công ty 
hàng hải Việt Nam nói riêng và sự phát triển của ngành hàng hải nói chung 
cũng như sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong đó cơ sở pháp 
lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu biển và chế
độ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động hàng hải và kinh doanh bảo 
hiể m có vai trò quan trọng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng 
bảo hiểm thân tàu mà các chủ thể tham gia giao kết không thể coi nhẹ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 88 trang
88 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2715 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực tiễn thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo 
hiểm thân tàu. 
 (2). Bộ luật hàng hải Việt Nam ra đời năm 1990 qua nhiều lần sửa đổi 
và lần sửa đổi gần đây nhất là Bộ Luật hàng hải năm 2005 có nhiều điểm 
mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia bảo hiểm thân tàu của các 
công ty hàng hải Việt Nam khi giành hẳn chương XVI để qui định về hợp 
đồng bảo hiểm hàng hải với nhiều điều khoản cụ thể như: Điều khoản về 
trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu, trách nhiệm của người 
bảo hiểm, thời hạn hiệu lực của hợp đồng, các rủi ro hàng hải….Điều này 
khiến cho quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu 
diễn ra nhanh chóng hơn, và khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì quá trình 
khiếu nại đòi bồi thường từ hợp đồng bảo hiểm thân tàu mà các công ty 
hàng hải đã ký kết đơn giản và hiệu quả hơn. Chúng ta có thể nhận thấy 
rõ điều này ở tỷ lệ bồi thường tổn thất từ bảo hiểm thân tàu đều rất cao và 
liên tục tăng trong các năm gần đây. Tỷ lệ bồi thường giai đoạn trước 
năm 2000 đạt trung bình khoảng 55%, nhưng từ năm 2000 trở lại đây con 
số này là 130% 
 (3). Việc nhà nước ban hành rất nhiều văn bản pháp luật tạo cơ chế pháp 
lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm như Nghị định 100/CP 
và gần đây nhất là luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, đã đánh dấu cho sự 
ra đời một thị trường bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trường, thay cho 
sự độc quyền của Bảo Việt là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể. 
Nếu cho đến năm 1993 Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất 
tại Việt Nam có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu thì đến hết năm 
2005 đã có trên 10 doanh nghiệp có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân 
tàu. Điều này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho các công ty hàng hải Việt Nam 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 58 
trong việc tham giao bảo hiểm thân tàu vì có nhiều doanh nghiệp kinh 
doanh nghiệp vụ này cũng đồng nghĩa với việc là các công ty hàng hải Việt 
Nam có nhiều cơ hội lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hơn, 
đồng thời phí bảo hiểm cũng giảm xuống do các công ty bảo hiểm cạnh 
tranh với nhau để thu hút khách hàng tham gia. 
 (4). Trên cơ sở thừa kế các quy định của Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 
1906 (MIA 1906), Pháp luật hàng hải của một số nước và Luật kinh doanh 
bảo hiểm của Việt Nam năm 2001, Luật hàng hải năm 2005 đã có những 
qui định mới về hợp đồng bảo hiểm hàng hải, tạo điều kiện và bảo vệ 
quyền lợi cho các công ty hàng hải- các chủ tàu trong việc tham gia bảo 
hiểm thân tàu. 
 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 đã bổ sung khái niệm “rủi ro hàng 
hải”, là một trong những khái niệm đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực 
tiếp đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng 
hải là các chủ tàu tham gia bảo hiểm. Tại Điều 2 khoản 224 Bộ Luật hàng 
hải năm 2005 qui định: “Rủi ro hàng hải là những rủi ro xảy ra liên quan 
đến hành trình đường biển, bao gồm các rủi ro của biển, cháy, nổ, chiến 
tranh, cướp biển, trộm cắp, kê biên, quản thúc, giam giữ, ném hàng xuống 
biển, trưng thu, trưng dụng, trưng mua, hành vi bất hợp pháp và các rủi ro 
tương tự hoặc những rủi ro khác được thoả thuận trong hợp đồng bảo 
hiểm”. Đây là cơ sở để xác định xem nguyên nhân của tai nạn hàng hải đối 
với con tàu được bảo hiểm có phải là nguyên nhân khách quan và rủi ro có 
phải là rủi ro được bảo hiểm không nói cách khác đây chính là một căn cứ 
pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thân tàu. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 59 
 (5). Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 đã mở rộng khái niệm về hợp 
đồng bảo hiểm hàng hải cho phù hợp với thông lệ và thực tế hoạt động bảo 
hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng tại Việt Nam. Điều 
224, khoản 2 Bộ luật Hàng hải Việt Nam qui định: “Hợp đồng bảo hiểm 
hàng hải cũng có thể mở rộng theo những điều kiện cụ thể hoặc tập quán 
thương mại để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm đối với những 
tổn thất xảy ra trên đường thuỷ nội địa, đường bộ hoặc đường sắt thuộc 
cùng một hành trình đường biển”. Do đó, quyền lợi của các chủ tàu tham 
gia bảo hiểm được mở rộng và phù hợp với điều kiện thực tế của ngành 
hàng hải. 
 (6). Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam đã có những khái niệm rõ ràng 
và cụ thể về quyền lợi được bảo hiểm và điều kiện để một người có quyền 
được hưởng lợi bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra. Điều 226, khoản 1 Bộ Luật 
hàng hải Việt Nam năm 2005 qui định: “ Người có quyền lợi có thể được 
bảo hiểm là người có quyền lợi đối với đối tượng bảo hiểm trong một hành 
trình đường biển” hay Điều 3, khoản 9 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 
2000 cũng qui định: “ Quyền có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền 
chiếm hữu, quyến sử dụng, quyền nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng 
bảo hiểm”. Những qui định này đã góp phần hạn chế hành vi trục lợi bảo 
hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm không có quyền lợi đối với 
đối tượng bảo hiểm hoặc cố ý gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm để đòi 
tiền bồi thường gây khó khăn và thất thoát cho cả người tham gia bảo hiểm 
và công ty bảo hiểm. 
 (7). Bên cạnh những qui định chung về hợp đồng bảo hiểm tài sản của 
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Bộ Luật hàng hải Việt Nam năm 
2005 đã có những bổ sung và giải thích rõ ràng về các loại đơn bảo hiểm 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 60 
cho phù hợp với đặc thù của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và các nghiệp vụ 
bảo hiểm hàng hải khác tại Việt Nam cũng như pháp luật và thông lệ bảo 
hiểm hàng hải quốc tế như: đơn bảo hiểm chuyến (Khoản 2, điểm a, Điều 
228), đơn bảo hiểm thời hạn ( Khoản 2, điểm b, Điều 228), đơn bảo hiểm 
định giá (Khoản 2, điểm c, Điều 228), đơn bảo hiểm không định giá 
(Khoản 2, điểm d, Điều 224). 
2. Khó khăn 
- Hệ thống luật pháp và các qui định có liên quan đến bảo hiểm thân 
tàu của nƣớc ta còn chƣa đồng bộ. 
 Hệ thống luật pháp và các qui định có liên quan đến bảo hiểm thân tàu 
của nước ta còn chưa đồng bộ. Bảo hiểm tàu biển là một loại hình nghiệp 
vụ tương đối phức tạp và có liên quan đến rất nhiều nguồn luật khác nhau. 
Nó vừa phải tuân theo những qui định chung của luật pháp quốc tế và 
quốc gia, tuân theo Luật kinh doanh bảo hiểm như các loại hình bảo hiểm 
khác; nhưng đồng thời do tính chất đặc thù của nghiệp vụ, bảo hiểm tàu 
biển còn bị chi phối bởi các nguồn luật khác như Bộ Luật hàng hải, những 
quy định về vận tải đường biển, các công ước quốc tế mà Việt Nam có 
tham gia và các thoả thuận hợp tác giữa Việt Nam và một số quốc gia 
…Vì vậy, để có đủ điều kiện tham gia bảo hiểm thân tàu, các công ty 
hàng hải phải đáp ứng được rất nhiều các qui định và các tiêu chuẩn khác 
nhau. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu ở Việt Nam tuy đã hình 
thành từ khá lâu nhưng chưa thực sự phát triển, các công ty hàng hải Việt 
Nam còn chưa thực sự nắm vững các qui tắc bảo hiểm, các Luật và qui 
định có liên quan đến bảo hiểm hàng hải nên không mặn mà lắm với việc 
tham gia bảo hiểm thân tàu. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 61 
- Qui định pháp luật về trách nhiệm giải quyết bồi thƣờng của ngƣời 
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu còn có nhiều điểm bất 
cập. 
 Qui định pháp luật về trách nhiệm giải quyết bồi thường của người 
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu còn có nhiều điểm bất cập, 
dẫn đến thực trạng là người được bảo hiểm thường gặp phải rất nhiều khó 
khăn trong việc khiếu nại đòi bồi thường tổn thất. Tại Điều 256 Bộ Luật 
hàng hải 2005 có qui định: “Khi thanh toán tiền bồi thường tổn thất của 
đối tượng bảo hiểm, người bảo hiểm có quyền yêu cầu người được bảo 
hiểm trình bày về sự kiện liên quan, xuất trình các tài liệu, bằng chứng 
cần thiết cho việc đánh giá sự kiện và mức độ tổn thất”, như vậy việc 
trình bày về sự kiện liên quan và các tài liệu cũng như chứng từ chỉ được 
qui định một cách chung chung mà không được liệt kê một cách cụ thể. 
Điều này đã gây trở ngại cho các công ty hàng hải trong việc thu thập tài 
liệu và bằng chứng về sự kiện bảo hiểm để đòi bồi thường tổn thất từ phía 
các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường đưa ra lý do từ chối 
trách nhiệm bồi thường là các chứng từ của chủ tàu không hợp lệ hoặc 
không đúng yêu cầu, hoặc tổn thất không thuộc trách nhiệm bồi thường 
của công ty bảo hiểm. Đồng thời pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thân 
tàu cũng chưa có định nghĩa cụ thể về lỗi do sơ xuất của thuyền trưởng, 
nên người được bảo hiểm không có căn cứ để chứng minh lỗi của thuyền 
trưởng là do so xuất nhằm đòi bồi thường từ phía công ty bảo hiểm. 
- Pháp luật Việt Nam chƣa có qui định rõ ràng về khả năng an toàn 
đi biển của tàu biển. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 62 
 Pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật hàng hải Việt Nam nói riêng 
chưa có qui định rõ ràng về khả năng an toàn đi biển của con tàu tham gia 
bảo hiểm. Trong phần qui định về hợp đồng hàng hải, Bộ Luật hàng hải 
Việt Nam năm 2005 có qui định: “trừ trường hợp có thoả thuận khác 
trong hợp đồng bảo hiểm, khi bảo hiểm tàu biển và tiền cước vận chuyển, 
người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về các tổn thất phát sinh trong 
trường hợp tàu biển không đủ khả năng an toàn đi biển, vào lúc bắt đầu 
chuyến đi, trừ trường hợp tàu biển có khuyết tật ẩn tỳ hoặc khi xảy ra các 
tình huống không thể tránh khỏi mặc dù người được bảo hiểm đã có sự 
quan tâm thích đáng”. Như vậy, người tham gia bảo hiểm thân tàu mà ở 
đây chính là các công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu có nhu cầu tham 
gia bảo hiểm thân tàu không có cơ sở để có thể xác định rõ xem trách 
nhiệm cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển là như thế nào. Điều 
này khiến cho các công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu tham gia bảo 
hiểm thân tàu gặp bất lợi trong việc khiếu nại đòi bồi thường từ phía các 
công ty bảo hiểm, họ không có căn cứ pháp luật để chứng minh rằng họ 
đã cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển khi bắt đầu hành trình. Vì 
vậy các công ty bảo hiểm thường dựa vào kẽ hở này đổ lỗi cho chủ tàu đã 
không cung cấp con tàu có khả năng an toàn đi biển theo những tiêu 
chuẩn mà họ lấy làm cơ sở để từ chối trách nhiệm bồi thường tổn thất cho 
chủ tàu. 
- Pháp luật nƣớc ta chƣa có qui định cụ thể và thống nhất về khả 
năng đi biển của tàu biển Việt Nam. 
 Pháp luật nước ta chưa có qui định cụ thể và thống nhất về khả năng đi 
biển của tàu biển Việt Nam. Thực trạng này có thể dẫn đến tình trạng tuỳ 
tiện và áp đặt của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khi giải quyết 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 63 
bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm thân tàu hoặc giải quyết tranh chấp 
hàng hải…Các cơ quan toà án hoặc trọng tài kinh tế sẽ gặp khó khăn khi 
giải quyết các vụ tranh chấp về khiếu nại đòi bồi thường tổn thất từ hợp 
đồng bảo hiểm thân tàu hoặc các tranh chấp về hàng hải có liên quan đến 
khả năng đi biển của tàu biển Việt Nam. Vì vậy rất cần có một hành lang 
pháp lý đầy đủ, thuận tiện, phục vụ tốt cho nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu ở 
nước ta nói riêng và phục vụ tốt cho hoạt động hàng hải nói chung. 
- Qui định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của ngƣời tham gia 
bảo hiểm còn khá dƣờm dà. 
 Qui định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của người tham gia bảo 
hiểm còn khá dườm dà và chồng chéo. Thực trạng này thường gây nhiều 
trở ngại cho người tham gia bảo hiểm trong quá trình giao kết và thực hiện 
hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm thân tàu nói riêng. 
Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu được qui định ở nhiều 
giai đoạn khác nhau trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo 
hiểm. Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm thân tàu được qui định từ 
thời điểm giao kết hợp đồng. Bộ Luật hàng hải việt Nam năm 2005 qui 
định, “người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho người bảo hiểm 
biết tất cả các thông tin mà mình biết hoặc phải biết liên quan đến việc 
giao kết hợp đồng bảo hiểm có ảnh hưởng đến việc xác định khả năng xảy 
ra rủi ro hoặc quyết định của người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và 
các điều kiện bảo hiểm”, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng qui định, 
“Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung 
cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp 
bảo hiểm”. Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết thì người tham gia bảo 
hiểm lại phải tiếp tục thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin về bất kỳ sự 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 64 
thay đổi nào về rủi ro được bảo hiểm làm tăng mức độ rủi ro. Khi xảy ra 
tổn thất hoặc giải quyết bồi thường người tham gia bảo hiểm lại phải có 
nghĩa vụ thông báo ngay lập tức cho người bảo hiểm về tình trạng tổn thất 
và có biện pháp khắc phục. Điều này có thể khiến cho các công ty hàng hải 
Việt Nam- các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu thường gặp phải bất lợi 
trong việc khiếu nại đòi bồi thường từ các công ty bảo hiểm, vì các công ty 
bảo hiểm luôn tìm mọi kẽ hở để chứng minh rằng người tham gia bảo hiểm 
đã vi phạm trách nhiệm theo qui định của pháp luật để từ chối bồi thường, 
ngay cả khi lỗi của người tham gia bảo hiểm là khách quan và không ảnh 
hưởng đến các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm trước 
đó. 
- Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam chƣa có những qui định xử lý 
nghiêm ngặt và cụ thể đối với hành vị trục lợi bảo hiểm 
 Pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam chưa có những qui định xử lý 
nghiêm ngặt và cụ thể đối với hành vị trục lợi bảo hiểm. Hiện nay, trục lợi 
bảo hiểm thực sự là một vấn đề nhức nhối, một cản trở lớn cho quá trình 
giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nói chung và việc giao kết và 
thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty hàng hải Việt Nam 
– các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu với các công ty bảo hiểm nói 
riêng. Bọn tội phạm kinh tế thường lợi dụng những sơ hở của pháp luật và 
những qui định không chặt chẽ trong các qui trình, điều khoản, qui tắc và 
những yếu kém trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhất là công 
tác bồi thường để trục lợi. Trục lợi bảo hiểm có rất nhiều hình thức, có thể 
xuất phát từ phía chủ tàu với các hành vi như: Khai báo tai nạn khống, tạo 
hiện trường giả và lập hồ sơ khiếu nại không có thật để đòi bồi thường bảo 
hiểm hoặc mua bảo hiểm cho những con tàu cũ nát với giá trị bảo hiểm cao 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 65 
hơn giá trị thực tế, sau đó tìm cách tạo ra tai nạn với tổn thất toàn bộ để lấy 
tiền bồi thường, trục lợi cũng có thể xuất phát từ phía cán bộ bảo hiểm với 
các hành vi như: lợi dụng sự kiểm tra, giám sát không thường xuyên của 
đơn vị để thông đồng bày vẽ cho chủ tàu hợp lý hoá hồ sơ khiếu nại rút 
tiền bồi thường, cho thay chi tiết hư hỏng và kết luận nguyên nhân tai nạn 
thuộc mọi rủi ro được bảo hiểm. Do đó, các công ty bảo hiểm thường đưa 
ra các điều khoản nghiêm ngặt đối với khác hàng tham gia bảo hiểm, đôi 
khi còn cứng nhắc để tránh hành vi gian lận. Chính điều này đã khiến cho 
việc đàm phán để đi đến giao kết một hợp đồng bảo hiểm giữa các công ty 
hàng hải- các chủ tàu và các công ty bảo hiểm thường kéo dài và khó đi 
đến một thoả thuận chung, kết quả là hợp đồng bảo hiểm giữa hai bên 
không hình thành. Cũng do hành vi trục lợi bảo hiểm mà khâu giải quyết 
khiếu nại và bồi thường tổn thất thường diến ra trong thời gian rất dài, ảnh 
hưởn đến công việc kinh doanh và tình hình tài chính của các chủ tàu, có 
khi còn dẫn đến việc kiện ra toà gây tốn kém cho cả hai bên. 
- Việt Nam chƣa có luật dành riêng cho bảo hiểm hàng hải. 
 Hiện nay, Việt Nam chưa có luật trực tiếp điều chỉnh bảo hiểm hàng 
hải nói chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng, Việc giao kết và thực hiện 
hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam và các 
công ty bảo hiểm chủ yếu vào các luật có liên quan đến bảo hiểm hàng 
hải như Bộ Luật hàng hải năm 2005, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 
hay Bộ Luật Dân sự năm 2005 và các Nghị định chi phối hoạt động bảo 
hiểm, những qui định này còn có nhiều điểm chưa thống nhất thậm chí 
mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, việc áp dụng linh hoạt các Luật và các qui 
định có liên quan đến bảo hiểm thân tàu vào việc giao kết và thực hiện 
hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải và các công ty bảo 
hiểm gặp phải rất nhiều khó khăn. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 66 
- Việt Nam chƣa có Luật tố tụng hàng hải . 
 Chúng ta chưa có Luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh về tố tụng hàng 
hải. Ở Việt Nam, Bộ luật hàng hải Việt Nam bao gồm các chế định cơ 
bản có liên quan đến hoạt động hàng hải, được ban hành ngày 30/06/1990 
qua nhiều lần sửa đổi và lần sửa đổi gần đây nhất là năm 2005 và luật này 
có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, sau đó nhiều văn bản dưới luật đã được 
ban hành tiếp theo tạo điều kiện cho việc áp dụng Bộ Luật. Tuy nhiên, 
pháp lệnh về tố tụng hàng hải, một văn bản pháp luật quy định về trình tự 
thủ tục tố tụng hàng hải tại Việt Nam đến nay vẫn chưa được ban hành. 
Vì vậy, hiện nay việc xét các tranh chấp hàng hải được áp dụng theo pháp 
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và pháp lệnh thủ tục giải quyết 
các vụ án kinh tế. Nhưng do những đặc thù của hoạt động hàng hải mà 
việc xét xử các tranh chấp hàng hải theo tố tụng kinh tế hoặc tố tụng dân 
sự là bất cập vì những đặc thù của hoạt động hàng hải là mang tính quốc 
tế, con tàu không chỉ hoạt động giữa các cảng của một quốc gia mà có thể 
đến tất cả các cảng trên thế giới. Vì vậy, việc xét xử tranh chấp hàng hải 
có thể được tiến hành tại tòa án trong nước hoặc toà án nước ngoài phù 
hợp với điều khoản đã quy định trong hợp đồng hàng hải dựa trên sự thỏa 
thuận giữa các bên tham gia ký kết hoặc phù hợp với các quy định về tố 
tụng hàng hải cho phép thụ lý vụ án. 
- Tàu biển Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn quốc tế về 
vận tải biển. 
 Những luật lệ, những quy định đối với vận tải đường biển rất chặt chẽ, 
tàu biển của các công ty hàng hải Việt Nam muốn có đủ điều kiện để 
tham gia bảo hiểm thân tàu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 67 
kỹ thuật, về an toàn hàng hải , về đội ngũ thuyền viên theo qui định của 
các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như những qui định về ISM 
Code, STCW, SOLAS, PSC… vừa phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo qui định 
của luật pháp Việt Nam. Đây vừa là thuận lợi nhưng cũng đồng thời là 
khó khăn đối với việc tham gia bảo hiểm tàu biển của các công ty hàng 
hải bởi vì một mặt nó buộc các chủ tàu phải tuân thủ các điều kiện về an 
toàn đường biển, an toàn đối với con tàu nên phần nào hạn chế được tổn 
thất xảy ra, nhưng mặt khác cũng do quá trình chặt chẽ hoá nên không 
phải chủ tàu nào cũng đáp ứng được để kinh doanh vận tải viễn dương- vì 
vậy mà họ không sẵn sàng mua bảo hiểm. 
 - Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời năm 2000 đã có nhiều bổ sung và sửa 
đổi về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhưng vẫn còn nhiều kẽ hở mà các 
công ty bảo hiểm có thể vận dụng “lách luật” để cạnh tranh, giành giật 
khách hàng, họ có thể bỏ qua một số qui định của pháp luật về việc kinh 
doanh bảo hiểm để chấp nhận bảo hiểm cho những khách hàng không có 
đủ điều kiện và tư cách tham gia bảo hiểm dẫn đến tình trạng người tham 
gia bảo hiểm sẽ không được bảo vệ quyền lợi khi có tổn thất xảy ra đối với 
đối tượng bảo hiểm hoặc khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên. 
- Qui định về mức phí tham gia bảo hiểm thâu tàu chƣa hợp lý 
 Qui định của Nhà nước về mức phí đối với việc tham gia bảo hiểm thân 
tàu còn nhiều bất cập, thông tư số 27/1998/TT- BTC ngày 04/03/1998 về 
hoạt động khai thác bảo hiểm và quản lý phí bảo hiểm chưa linh hoạt và 
phù hợp với điều kiện kinh tế của các chủ tàu Việt Nam. Biểu phí bảo hiểm 
thân tàu thường rất cao, trong khi đó đội tàu của các công ty hàng hải Việt 
Nam đa số là tàu già, độ tuổi trung bình tương đối cao (hơn 15 tuổi) và vẫn 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 68 
tồn tại một số tàu trên 30 tuổi khiến cho các công ty hàng hải gặp rất nhiều 
khó khăn trong khi tham gia các hợp đồng bảo hiểm thân tàu do không đủ 
điều kiện kinh tế để thanh toán đầy đủ và đúng hạn phí bảo hiểm như đã 
quy định trong hợp đồng, thậm chí một số công ty hàng hải Việt Nam 
không dám nghĩ đến việc tham gia mua bảo hiểm cho các con tàu của họ. 
- Nhà nƣớc chƣa có những qui định cụ thể cho việc phối hợp giữa 
các bên liên quan tron viẹc giải quyết và khắc phục hạn chế tổn thất. 
 Nhà nước chưa có những qui định cụ thể cho việc phối hợp giữa các 
bên có liên quan trong việc giải quyết và hạn chế tổn thất khi tai nạn xảy ra 
đối với đối tượng bảo hiểm. Do vậy, việc phối hợp giữa các công ty hàng 
hải Việt Nam tham gia bảo hiểm thân tàu, công ty bảo hiểm với các cơ 
quan chức năng liên quan trong quá trình giải quyết các sự cố còn hạn chế, 
đôi khi chưa kịp thời và thiếu đồng bộ. Lực lượng ứng cứu ngoài hiện 
trường nghèo nàn, thô sơ, lạc hậu về nguồn lực, phương tiện trang thiết bị 
phục vụ cứu hộ. Các đội cứu hộ không có hoặc có rất ít kinh nghiệm thực 
tế dẫn đến chậm khắc phục hậu quả của các sự cố xảy ra đối với các con 
tàu tham gia bảo hiểm, các công ty hàng hải Việt Nam là chủ của con tàu 
tham gia bảo hiểm thường gặp rắc rối trong việc khiếu nại đòi bồi thường, 
thậm chí phải dẫn đến kiện cáo, chi phí tốn kém mà tiền bồi thường thu lại 
chẳng được bao nhiêu. Bên cạnh đó là những bất cập từ phía công ty bảo 
hiểm, những vụ tổn thất lớn có số tiền khiếu nại đòi bồi thường vượt mức 
phân cấp của các công ty (chi nhánh) bảo hiểm địa phương phải báo cáo về 
Tổng công ty (công ty) để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết, do đó dẫn đến việc 
mất thêm thời gian, khiến việc thực hiện công tác bồi thường theo hợp 
đồng bảo hiểm thân tàu đã giao kết cho khách hàng đôi khi bị chậm trễ. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 69 
Chính vì vậy các công ty hàng hải Việt Nam không thực sụ thiết tha trong 
việc tham gia bảo hiểm thân tàu. 
 - Nhà nƣớc chƣa có những qui định cụ thể cho việc liên doanh, liên 
kết trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. 
 Nhà nước chưa có những qui định cụ thể cho việc liên doanh, liên kết 
trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Vì vậy, các công ty hàng hải 
Việt Nam không có nhiều sự lựa chọn cho việc tham gia bảo hiểm thân tàu 
cho đội tàu của mình, trên thị trường bảo hiểm thân tàu Việt Nam chỉ có 
một số lượng rất ít các doanh nghiệp có kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm 
thân tàu mà chủ yếu là các công ty bảo hiểm lớn và hoạt động lâu năm như 
: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, PVI… nên các công ty hàng hải thường phải 
chịu sức ép từ phía các công ty bảo hiểm, phải chịu mức phí cao. Đây là 
một bất lợi lớn cho các chủ tàu có nhu cầu tham gia bảo hiểm thân tàu cho 
đội tàu của mình. 
- Qui định về thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm 
hàng hải chƣa rõ ràng. 
 Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 tuy đã qui định về thời hiệu khởi 
kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Điều 257 Bộ Luật hàng 
hải qui định: “Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng 
hải là hai năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp”. Nhưng để xác định đúng 
thời hiệu khởi kiện đòi hỏi phải xác định thời điểm quyền và lợi ích hợp 
pháp của tổ chức, cá nhân trong giao dịch hợp đồng bảo hiểm hàng hải bị 
vi phạm. Do đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm 
hàng hải. Tuy nhiên qua thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài 
phán của Việt Nam cho thấy, việc xác định đúng các mốc thời gian để tính 
thời hiệu khởi kiện không phải là lúc nào cũng thuận lợi, không biết chính 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 70 
xác được thời điểm nào được coi là ngày phát sinh tranh chấp, ngày chấm 
dứt hợp đồng. Vì thế các chủ tàu thường gặp bất lợi trong việc khiếu kiện 
các công ty bảo hiểm và việc xét xử các tranh chấp giữa các bên liên quan 
cũng gặp phải rất nhiều lúng túng. Dẫn đến quyền lợi của bên bị vi phạm 
lợi ích không được bảo vệ một cách thích đáng. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 71 
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN CẢI THIỆN CƠ SỞ 
PHÁP LÝ CHO VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO 
HIỂM THÂN TÀU CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM 
I. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tham gia bảo hiểm thân 
tàu của các công ty hàng hải Việt Nam. 
(1). Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về mặt tài chính và tăng 
cường các biện pháp quản lý Nhà nước nhằm trẻ hoá đội tàu từ đó giúp các 
công ty hàng hải Việt Nam nâng cao hiệu quả vận tải, cải thiện tình hình 
tài chính, có điều kiện tham gia giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân tàu. 
Hiện nay việc mua bảo hiểm thân tàu là hết sức cần thiết đối với các công 
ty hàng hải Việt Nam để hạn chế, khắc phục những rủi ro tổn thất của hoạt 
động kinh doanh vận chuyển đường biển đầy những rủi ro dình dập. 
Nhưng ngoài các công ty hàng hải kinh doanh dịch vụ vận tải biển lớn, có 
uy tín và khả năng kinh doanh chắc chắn còn có một số công ty vận tải 
biển địa phương do khả năng tài chính yếu kém chưa đủ để duy trì hoạt 
động thường xuyên chứ chưa nói gì đến khả năng mua bảo hiểm cho đội 
tàu của mình. Vì vậy các cơ quan Nhà nước ở địa phương có thẩm quyền 
thành lập các công ty đó nên có biện pháp hỗ trợ (như đầu tư tài chính, tạo 
điều kiện thuận lợi...) để các công ty vận tải biển địa phương kinh doanh có 
lãi, ổn định tài chính và có khả năng mua bảo hiểm cho đội tàu biển của 
mình. 
 Như đã phân tích trong chương II, đội tàu biển Việt Nam với độ 
tuổi tàu tương đối già và trang thiết bị lạc hậu là những nguyên nhân chính 
của nhiều vụ tai nạn trên biển, đồng thời cũng là một trở ngại đối với sự 
phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển ở nước ta. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 72 
 Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để trẻ hoá và chuyên môn hoá đội 
tàu trong khi khả năng tài chính của các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam- 
Các chủ tàu còn hạn chế, nguồn vốn để tái đầu tư mua sắm tài sản cố định 
rất nhỏ bé. Chỉ một số ít các doanh nghiệp hàng hải Việt Nam có thể vay 
vốn ngân hàng để đầu tư mua tàu mới. Phần lớn các doanh nghiệp hàng hải 
Việt Nam không được những dự án khả thi để vay vốn mua tàu. Đó là do 
nguồn vốn tự có của họ không đáng kể nên khi đã vay thì gần như phải vay 
toàn bộ, thời gian trả nợ kéo dài. Trong các trường hợp như thế, các ngân 
hàng thường không nhiệt tình cho vay. Có một số ít ngân hàng vẫn giải 
quyết cho doanh nghiệp hàng hải vay nhưng với điều kiện lãi suất cho vay 
cao, trong khi lãi suất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng hải này lại 
không lớn, nên phải mất nhiều năm họ mới trả được vốn vay. Do đó, chẳng 
mấy công ty chủ tàu dám vay ngân hàng để đầu tư mua tàu mới. Vì vậy 
chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ tài chính cho các công ty hàng hải vay 
vốn để họ có thể đầu tư nâng cao chất lượng đội tàu của mình, từ đó nâng 
cao năng lực cạnh tranh trong ngành kinh doanh vận tải biển nhằm thu tỉ 
suất lợi nhuận cao. Đây chính là một trong những động lực thúc đẩy các 
công ty hàng hải Việt Nam tích cực giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân 
tàu với các công ty bảo hiểm. 
 Chính phủ cũng cần nghiên cứu các biện pháp hỗ trợ phát triển ngành 
công nghiệp đóng tàu trong nước để họ có thể tạo ra các sản phẩm chất 
lượng cao với mức giá hợp lý. Khi đó các công ty hàng hải Việt Nam sẽ có 
thêm điều kiện để mua phương tiện vận tải mới, trẻ hoá và hiện đại hoá đội 
tàu, đặc biệt là những con tàu nhỏ và trung bình phục vụ vận tải nội địa 
hoặc vận tải các tuyến viễn dương gần. Những con tàu trong nước đã đóng 
được thì chúng ta không nên tiêu tốn ngoại tệ để nhập khẩu. Từ đó tiết 
kiệm nguồn ngoại tệ, nâng cao chất lượng đội tàu, nâng cao năng lực vận 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 73 
tải làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng hải 
Việt Nam chuyên kinh doanh trong lĩnh vực vận tải biển, tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc ngày càng có nhiều công ty hàng hải Việt Nam tham gia 
giao kết các hợp đồng bảo hiểm thân tàu. 
 Bên cạnh đó, Chính phủ phải kiên quyết chấn chỉnh những những 
công ty hàng hải Việt Nam làm ăn thua lỗ kéo dài, những công ty đang 
quản lý những con tàu quá cũ đã hết khấu hao từ lâu cũng cần được thực 
hiện để trẻ hoá và hiện đại hoá đội tàu quốc gia. Những con tàu quá cũ gây 
mất an toàn cho con người, cho hàng hoá cũng như cho môi trường. Mặt 
khác, việc tiếp tục sử dụng tàu cũ dẫn đến tình trạng cung vượt cầu. Một số 
chủ tàu không có cơ hội phát triển, trẻ hoá đội tàu của mình do những con 
tàu mới mua về khấu hao cao hơn sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh về giá từ 
những con tàu cũ. Vì vậy, các chủ tàu không đủ điều kiện để duy trì hoạt 
động kinh doanh chứ chưa nói gì đến mua bảo hiểm thân tàu, do đó Chính 
phủ cần phải có những hỗ trợ về mặt tài chính cũng như mặt quản lý ở tầm 
vĩ mô để các doanh nghiệp hàng hải của Việt Nam có điều kiện trẻ hoá đội 
tàu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Từ đó họ mới có ý thức về tầm quan 
trọng của việc mua bảo hiểm thân tàu và có đủ điều kiện kinh tế để mua 
bảo hiểm thân tàu cho con tàu của mình. 
 Trong điều kiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các công 
ty- các chủ tàu luôn phải tính đến bài toán kinh tế, làm sao cho tiết kiệm 
tối đa chi phí. Theo tính toán của họ, không mua bảo hiểm cho các con 
tàu tức là đã tiết kiệm được một khoản chi phí lớn. Hơn thế nữa, do công 
tac tuyên truyền, quảng cáo về lợi ích của bảo hiểm thân tàu đối với các 
công ty hàng hải- các chủ tàu được các công ty bảo hiểm triển khai chưa 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 74 
tốt nên nhận thức của các chủ tàu về lợi ích và sự cần thiết của việc mua 
bảo hiểm cho con tàu- phương tiện kinh doanh của chủ tàu chưa cao. 
 (2). Để cải thiện tình hình tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty 
hàng hải Việt Nam đồng thời thúc đẩy loại hình bảo hiểm này phát triển 
Nhà nước cần có các biện pháp tuyên truyền về tầm quan trọng của việc 
tham gia bảo hiểm thân tàu đối với các công ty hàng hải. Hiện nay, có 
một thực tế là rất nhiều công ty hàng hải Việt Nam- các chủ tàu mua bảo 
hiểm thân tàu cho đội tàu của mình là do bắt buộc phải tuân thủ theo các 
quy định của pháp luật hoặc của các đối tác nước ngoài chứ không phải 
do tự nguyện. Họ luôn tìm cách trốn không mua bảo hiểm thân tàu để tiết 
kiệm chi phí. 
 Đây là một cách nghĩ rất sai lầm, Các công ty hàng hải Việt Nam- 
các chủ tàu đã không nhận thức được những lợi ích to lớn mà bảo hiểm 
thân tàu mang lại cho họ. Chỉ với một khoản tiền nhỏ họ có thể “mua” 
được sự an toàn, đảm bảo được sự ổn định trong kinh doanh khai thác tàu. 
Những vụ tổn thất lớn và số tiền bồi thường khổng lồ mà các công ty bảo 
hiểm đã chi trả trong lịch sử bảo hiểm thân tàu là những chứng minh về 
lợi ích của bảo hiểm. 
 Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp thiết thực nhằm thay đổi 
quan điểm của các công ty hàng hải về việc tham gia bảo hiểm thân tàu, 
giúp họ nhận thấy được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm thân 
tàu. Bởi là những người mà công việc kinh doanh luôn gắn liền với những 
rủi ro, họ cần phải coi bảo hiểm thân tàu là sự lựa chọn thiết yếu, là yếu tố 
không thể thiếu trong quá trình kinh doanh của mình. Khi đó bảo hiểm 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 75 
thân tàu sẽ trở thành một thông lệ, một tập quán và thị trường bảo hiểm 
thân tàu ở Việt Nam cung từ đó mà phát triển. 
 (3). Nhà nước cần có những chính sách bảo vệ thị trường cho ngành 
hàng hải giành quyền vận tải cho đội tàu quốc gia như thông lệ quốc tế qua 
đó tạo điều kiện tốt cho thị trường bảo hiểm tàu biển Việt Nam phát triển. 
Để các công ty hàng hải Việt Nam giữ được uy tín, nâng cao khả năng kinh 
doanh, khả năng tài chính chắc chắn để duy trì hoạt động thương xuyên và 
có khả năng mua bảo hiểm thân tàu nhằm khắc phục hậu quả của các rủi ro 
gây tổn thất thiệt hại.. Trong những năm gần đây, Chính phủ và các cơ 
quan quản lý Nhà nước chuyên ngành đã quan tâm tháo gỡ một số vướng 
mắc về cơ chế chính sách nhưng chưa có một chế độ ưu tiên, bảo hộ thích 
đáng với ngành hàng hải Việt Nam bởi chính sách chưa đồng bộ việc triển 
khai còn rời rạc, tản mạn chưa gắn bó với lợi ích kinh tế. Vì vậy, chính 
sách giành quyền vận tải cần được quy định và thực hiện thống nhất từ 
người quản lý, các nhà xuất nhập khẩu phải liên kết với những nhà vận 
chuyển giành lấy thị trường vận chuyển hàng hóa bằng cách đàm phàn thoả 
thuận từ phương thức mua bán (CIF, FOB) vì tăng các hợp đồng bán CIF 
và mua FOB chính là đã dành quyền mua hợp đồng bảo hiểm cho các 
doanh nghiệp nuớc nhà. 
 II. Một số kiến nghị góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết 
và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải 
Việt Nam. 
 Những nhân tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty 
bảo hiểm và các công ty hàng hải Việt Nam cũng có những ảnh hưởng 
không nhỏ đến hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động giao kết và 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 76 
thực hiện hợp dồng bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam 
và đối tác của họ (các công ty bảo hiểm) nói riêng. Những qui định, những 
chính sách của Nhà nước về cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện 
hợp đồng bảo hiểm thân tàu cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong 
việc cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đông 
bảohiểm thân tàu, đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động giao kết và 
thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Em xin đưa ra một số kiến nghị 
góp phần cải thiện cơ sở pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng 
bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam như sau: 
(1). Nhà nước cần ban hành Luật bảo hiểm hàng hải để các công ty hàng 
hải có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình và các doanh 
nghiệp bảo hiểm có cơ sở pháp lý vững chắc trong việc giao kết và thực 
hiện các hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu la một 
nghiệp vụ tương đối phức tạp, nó vừa chịu sự chi phối của Luật kinh doanh 
bảo hiểm như các loại hình bảo hiểm khác, đồng thời nó lại chịu sự điều 
chỉnh của các qui định về hàng hải, các qui định về an toàn trong vận tải 
biển. Việc Nhà nước ban hành Luật bảo hiểm hàng hải sẽ giúp cho các 
công ty hàng hải có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu nhận thức rõ hơn về 
quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm thân 
tàu, tạo cho họ cảm giác yên tâm khi tham gia bảo hiểm thân tàu, thay vì 
phải vận dụng quá nhiều qui định về bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo 
hiểm thân tàu nói riêng có thể rất đến xảy ra những tranh chấp mà quyền 
lợi của họ không được pháp luật bảo vệ. 
(2). Để thị trường bảo hiểm thân tàu thực sự phát triển, thực sự vì quyền 
lợi của người tham gia bảo hiểm Nhà nước cần ban hành các văn bản 
hướng dẫn thực hiện các Luật và qui định của Chính phủ về kinh doanh 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 77 
bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Đây là một nhân tố 
rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự lớn mạnh của thị trường bảo 
hiểm Việt Nam. Hiên nay ở Việt Nam có tất cả trên 10 doanh nghiệp 
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Nhưng nhìn chung các công ty 
bảo hiểm Việt Nam đều có tiềm năng tài chính rất yếu. Nghiệp vụ bảo 
hiểm hàng hải nói chung và bảo hiển thân tàu nói riêng đã được triển khai 
ở các công ty bảo hiểm như BAOVIET, BAOMINH, PJICO, PVI ... 
nhưng khi có các hợp đồng bảo hiểm lớn hoặc giá trị bảo hiểm lớn đều 
được tái bảo hiểm ra cho các công ty, hội bảo hiểm của nước ngoài. Điều 
này dẫn đến một hạn chế là khi có tổn thất xảy ra đối với đối tượng được 
bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm Việt Nam phải thông tin cho các công 
ty, hội bảo hiểm bên nước ngoài dẫn đến việc giải quyết bồi thường chậm 
trễ về mặt thời gian ảnh hưởng lớn đến tiến độ kinh doanh của người 
được bảo hiểm. Như vậy, thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa thật sự phát 
triển, chưa thực sự vì quyền lợi của người được bảo hiểm. Để đạt được 
mục tiêu đưa thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh, bảo vệ 
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thì việc đưa ra các văn bản hướng 
dẫn cụ thể về hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hết sức cần thiết. 
 (3). Nhà nước nên có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc liên doanh liên kết về bảo hiểm. Hiện nay trên thị trường 
bảo hiểm thân tàu Việt Nam chỉ có trên 10 doanh nghiệp bảo hiểm có kinh 
doanh nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu như: Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam 
(BAOVIET), Công ty Bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), 
Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), Công ty cổ phần Bảo 
hiểm Petrolimex (PJICO), Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVI), Công ty liên 
doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA), Công ty Bảo hiểm liên hợp 
(UIC)…, trong đó 4 công ty bảo hiểm ra đời đầu tiên (BAOVIET, Bảo 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 78 
Minh, PJICO, PVI) vẫn chiếm 99% thị phần thị trường bảo hiểm thân tàu 
Việt Nam. Trong điều kiện ngành bảo hiểm nước tao còn tụt hậu so với sự 
phát triển của bảo hiểm thế giới như hiện nay thì liên doanh liên kết về bảo 
hiểm với các công ty bảo hiểm có uy tín trên thế giới sẽ giúp chúng ta học 
tập được kinh nghiệm về quản lý, về nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó có công 
tác giải quyết khiếu nại và bồi thường nhằm tăng hiệu quả của công tác 
giải quyết khiếu nại và bồi thường. Chúng ta có thể thấy rằng trong vài 
năm gần đây thị trường bảo hiểm Việt Nam luôn gánh chịu thua lỗ từ kinh 
doanh bảo hiểm gốc nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu biển, thậm trí có những 
doanh nghiệp đã không mấy mặn mà với cả khách cũ có kết quả xấu. Việc 
liên doanh liên kết trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho thị trường bảo 
hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm thân tàu tại Việt Nam nói riêng 
phát triển và thu hút được nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm hơn. Đồng 
thời Nhà nước nên cho phép rộng rãi hơn nữa các công ty bảo hiểm 100% 
vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam tham gia khai thác một 
số loại hình bảo hiểm, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Điều này 
cho phép các chủ tàu Việt Nam có khả năng khai thác dịch vụ bảo hiểm từ 
những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng sự lựa chọn cho 
các công ty hàng hải trong việc lựa chọn đối tác để mua bảo hiểm thân tàu 
cho đội tàu của mình. Cũng nhờ đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam 
có cơ hội học hỏi và tranh thủ những kỹ thuật mới của họ. 
 (4). Để việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu của các 
công ty hàng hải có nhu cầu mua bảo hiểm cho đội tàu của mình Nhà nước 
cần xem xét và bổ sung những qui định cần thiết về bảo hiểm hàng hải 
trong Bộ Luật Hàng hải Việt Nam. Cần có những chỉ dẫn và định nghĩa rõ 
ràng về nghĩa vụ cung cấp con tàu có đủ khả năng đi biển và có đảm bảo 
an toàn đi biển sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta và tạo 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 79 
điều kiện thuận lợi cho các công ty hàng hải trong việc tham gia bảo hiểm 
thân tàu. Họ sẽ xác định rõ ràng được trách nhiệm của mình khi giao kết và 
thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu, đồng thời có cơ sở pháp lý để bảo 
vệ quyền lợi cuả mình khi xảy ra tranh chấp. 
 (5). Nhà nước cần có những qui định cụ thể về biểu phí đối với việc 
tham gia bảo hiểm thân tàu. Do đối tượng bảo hiểm của loại hình bảo hiểm 
này thường có giá trị rất lớn, tỷ lệ xảy ra tổn thất cao nên phí bảo hiểm 
cũng rất cao. Tuy nhiên, việc xây dựng một biểu phí hợp lý và phù hợp với 
điều kiện kinh tế của các công ty hàng hải Việt Nam và phù hợp với điều 
kiện phát triển của nước ta nói chung là rất cần thiết. Việc làm này sẽ góp 
phần khuyến khích các công ty hàng hải tích cực tham gia giao kết hợp 
đồng bảo hiểm thân tàu cho đội tàu của mình. 
 (6). Để quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu được diễn ra 
thuận lợi và nhanh chóng, nhất là công tác giải quyết và khắc phục hạn chế 
tổn thất Nhà nước cần có những qui định, những hướng dẫn cụ thể về việc 
phối hợp giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo 
hiểm thân tàu, đặc biệt trong công tác giải quyết và khắc phục hạn chế tổn 
thất. Do lực lượng ứng cứu ngoài hiện trường nghèo nàn, thô sơ, lạc hậu về 
nguồn lực, phương tiện trang thiết bị phục vụ cứu hộ. Các đội cứu hộ 
không có hoặc có rất ít kinh nghiệm thực tế dẫn đến chậm khắc phục hậu 
quả của các sự cố xảy ra đối với các con tàu tham gia bảo hiểm, hơn nữa 
lại chưa có qui định cụ thể về thời gian đối với việc nên công tác giải quyết 
và khắc phục hạn chế tổn thất thường diễn ra rất lâu. Việc Nhà nước đưa ra 
những qui định cụ thể và có các biện pháp hỗ trợ nhằm giúp đẩy nhanh tiến 
độ của công tác giải quyết và khắc phục tổn thất, công tác bồi thường sẽ 
giúp các công ty hàng hải hạn chế được tổn thất lớn xảy ra, việc khiếu nại 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 80 
đòi bồi thường từ hợp đồng bảo hiểm sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nhờ 
đó, các công ty hàng hải có thể nhanh chóng được bù đắp tổn thất, bảo đảm 
điều kiện tài chính và thời gian để tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình. 
 (7). Nhà nước cần sớm ban hành luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh về 
trình tự tố tụng hàng hải để các bên liên quan có cơ sở cho việc kiện tụng 
và giải quyết các tranh chấp hàng hải nói chung và các tranh chấp về bảo 
hiểm hàng hải nói riêng. Việc ban hành luật tố tụng hàng hải và pháp lệnh 
về trình tự tố tụng hàng hải sẽ giúp cho việc xét xử các vụ tranh chấp hàng 
hải diễn ra thuận lợi hơn, thay vì gặp nhiều lúng túng khi áp dụng Luật dân 
sự và Luật kinh tế cho việc xét xử các tranh chấp về hàng hải. 
 (8). Để bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm hàng hải trong 
quá trình khiếu nại đòi bồi thường tổn thất từ hợp đồng bảo hiểm, Nhà 
nước cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật hàng hải, 
trong đó có các hướng dẫn cụ thể về cách xác định thời hiệu khởi kiện liên 
quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải, giúp chủ tàu tiến hành khiếu nại đòi 
bồi thường đúng qui định và đòi được tiền bồi thường từ phía công ty bảo 
hiểm. 
 (9). Nhà nước cần bổ sung và hoàn thiện hơn nữa Luật kinh doanh bảo 
hiểm cho phù hợp với điều kiện phát triển của thị trường bảo hiểm nói 
riêng và nền kinh tế- xã hội nói chung. Nhà nước cần phải có những bổ 
sung chặt chẽ đối với những qui định về việc kinh doanh bảo hiểm nhằm 
ổn định thị trường bảo hiểm, tạo ra sự cạnh tranh công bằng cho các công 
ty bảo hiểm, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. 
 (10). Nhà nước cũng cần có những qui định xử lý nghiêm ngặt đối với 
hành vi trục lợi bảo hiểm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 81 
ngành bảo hiểm không ngừng lớn mạnh, các loại hình bảo hiểm ngày càng 
đa dạng. Đặc biệt là đối với loại hình bảo hiểm thân tàu, khi ngành hàng 
hải ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước nhà, nhu cầu 
mua bảo hiểm thân tàu là cần thiết và hết sức quan trọng đối với các công 
ty hàng hải. Bên cạnh sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và 
nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu nói riêng thì sự gia tăng về tội phạm kinh tế 
trong lĩnh vực bảo hiểm cũng phát triển theo với tính chất ngày càng 
nghiêm trọng hơn. Việc pháp luật sớm có những qui định xử lý đối với các 
hành vi gian lận trong lĩnh vực bảo hiểm là hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ 
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm , tạo tâm lý an toàn cho họ khi 
tham gia bảo hiểm và góp phần hạn chế lãng phí và thất thoát lớn về mặt 
tài chính cho các bên trong hợp đồng bảo hiểm. 
 (11). Nhà nước cũng cần vận dụng các qui định của luật pháp quốc tế và 
các tiêu chuẩn quốc tế về hàng hải vào hệ thống luật có liên quan đến bảo 
hiểm hàng hải ở Việt Nam để các chủ tàu ngày càng tiếp cận được với sự 
phát triển của ngành hàng hải thế giới và có đủ điều kiện để khai thác bảo 
hiểm thân tàu với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thường có những 
qui định rất chặt chẽ về điều kiện đối với đối tượng bảo hiểm là tàu biển. 
 Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá 
trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty 
hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên để thực hiện được 
các biện pháp đó, đòi hỏi các công ty hàng hải Việt Nam tham gia bảo 
hiểm thân tàu và các công ty bảo hiểm phải có sự nỗ lực hết mình. Ngoài 
sự nỗ lực của các công ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm, sự 
giúp đỡ từ phía Nhà nước là không thể thiếu.Những giải pháp kiến nghị 
trên đây, nếu Nhà nước quan tâm thực hiện, chắc chắn sẽ góp phần thúc 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 82 
đẩy sự phát triển hơn nữa của ngành bảo hiểm nói chung và sự phát triển 
của ngành hàng hải và nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu nói riêng. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 83 
KẾT LUẬN 
 Bảo hiểm thân tàu có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát 
triển các đội tàu biển thuộc quyền quản lý và khai thác của các công ty 
hàng hải Việt Nam nói riêng và sự phát triển của ngành hàng hải nói chung 
cũng như sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong đó cơ sở pháp 
lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu biển và chế 
độ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động hàng hải và kinh doanh bảo 
hiểm có vai trò quan trọng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng 
bảo hiểm thân tàu mà các chủ thể tham gia giao kết không thể coi nhẹ. 
 Thực tiễn việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu 
của các công ty hàng hải Việt Nam với các công ty bảo hiểm cho thấy số 
lượng các công ty hàng hải- các chủ tàu tham gia bảo hiểm thân tàu còn 
thấp so với nhu cầu thực tế và chưa tương xứng với sự phát triển của lĩnh 
vực dịch vụ vận tải biển của nước ta. Số vụ khiếu nại đòi bồi thường tổn 
thất của các chủ tàu còn rất cao, vẫn còn nhiều tranh chấp phát sinh trong 
quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu giữa các công ty hàng hải 
và các công ty bảo hiểm. 
Chính vì vậy, để gia tăng số lượng hợp đồng bảo hiểm thân tàu, tăng 
giá trị tham gia bảo hiểm thân tàu của các công ty hàng hải Việt Nam nói 
riêng và tạo tiền đề sự phát triển của thị trường bảo hiểm thân tàu tại Việt 
Nam nói chung cũng như nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện hợp 
đồng bảo hiểm thân tàu nhất là công tác giải quyết khiếu nại, bồi thường 
thì các công ty hàng hải Việt Nam và các công ty bảo hiểm cần chú ý hơn 
nữa trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu. Về 
phía các cơ quan Nhà nước, điều quan trọng nhất là phải tạo ra một cơ sở 
pháp lý chặt chẽ và phù hợp, khắc phục sự thiếu đồng bộ giữa các quy định 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 84 
có liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm 
thân tàu nói riêng. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 85 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. Các văn bản Luật và dƣới Luật 
1. Công ước Brussels 25/08/1924 Thống nhất một số quy tắc về đơn 
vận tải đường biển (The International Convention for Unification of certain 
of law relating to bill of lading). 
2. Nghị định thư sửa đổi công ước quốc tế Brussels 1924 để thống 
nhất một số quy tắc về đơn vận tải đường biển Visby Rule 1968 
3. Quy tắc York-Antwerp 1950, 1974 về tổn thất chung 
4. Công ước an toàn sinh mạng trên biển SOLAS 1974 
5. Quy tắc ISM 01/07/1998 về quản lý an toàn hàng hải quốc tế 
6. Quy tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển 1972 
7. Các điều kiện về bảo hiểm thời hạn thân tàu (Institule tim clause - 
Hulls): ITC 1888 và ITC 01/10/1970, ITC 01/10/1983 và ITC 1995, ITC 
2001 
8. Luật hàng hải quốc tế của Anh (Marine insurance ACT 1906: 
MIA) 
9. Bộ luật dân sự (2005), NXB Chính trị Quốc gia 
10. Bộ luật hàng hải Việt Nam (2005), NXB Lao Động- Xã Hội 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 86 
11. Luật kinh doanh bảo hiểm (2002), NXB Chính trị Quốc gia 
12. Quyết định của Tổng giám đốc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam 
về việc áp dụng điều khoản ITC ngay 01/10/19083 về bảo hiểm thân tàu 
đối với các tàu tham gia bảo hiểm hoạt động tuyến nước ngoài. 
II. Sách, tạp chí và các tài liệu khác 
1. GS- TS. Hoàng văn Châu, TS. Vũ Sĩ Tuấn, TS. Nguyễn Như Tiến 
(2002), Bảo hiểm trong kinh doanh, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 
2. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, GS.TS. Hoàng Ngọc Thiết (2005), Pháp 
luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB Giáo Dục. 
3. PGS.TS. Hồ Sĩ Hà (Chủ Biên) (2002), Giáo trình bảo hiểm, NXB 
Thống kê. 
4. TS. David Bland (1998), Bảo hiểm- Nguyên tắc và thực hành, NXB 
Tài Chính. 
5. PGS.TS. Hồ Sỹ Sả, PGS.TS. Nguyễn Cao Thường, TS. Phan Công 
Nghĩa (2002), Giáo trình kinh tế bảo hiểm, NXB Khoa Học và Kỹ 
Thuật 
6. Tạp chí bảo hiểm- tái bảo hiểm Việt Nam các số: số 03 tháng 
08/2006, số 03 tháng 06/2006, số 03 tháng 8/2005, số 03 tháng 
5/2005, số 2 tháng 09/ 2005, số 03 tháng 8/2004 
7. Tạp chí Hàng hải các số: 01+02/2006, 05/2006, 07/2006, 05/2005, 
07/2005. 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP K41 
PHAN THỊ THU TRANG 87 
8. Tạp chí Giao Thông- Vận Tải các số 08/2006, 05/2205. 
9. Tạp chí bảo hiểm các số: 01+02/2006, 05/2006, 09/2005 
10. Trần Diệu Linh (2005), công tác khiếu nại và bồi thường tổn thất 
trong bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu ở 
Việt Nam, Luận Văn tốt nghiệp, Trường Đại Học Ngoại Thương. 
11. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (1997), Một số kiến thức 
chung về bảo hiểm tàu thuỷ. 
12. Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, thông tin thị trường bảo 
hiểm- tái bảo hiểm, các số từ năm 1996 đến tháng 8/2006. 
13. TS. Vũ Sỹ Tuấn (chủ nhiệm đề tài), Th.S. Trịnh Thị Thu Hương, Cử 
nhân Đỗ Thanh Tùng (2003), thực trạng bảo hiểm thân tàu ở Việt 
Nam và giải pháp phát triển, Đề Tài nghiên cứu cấp bộ 
(3). Một số Trang Web 
1. Trang Web của Cục Hàng hải Việt Nam: 
2. Trang Web của Cục Đăng kiểm Việt Nam: 
3. Trang Web trung tâm dữ liệu bảo hiểm của Trường Đại Học 
Kinh Tế TP HCM: 
4. Trang web của Tổng công ty hàng hải Việt Nam: 
5. Trang Web của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3447_7287.pdf 3447_7287.pdf