Đề tài Công ty chứng khoán và vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán Việt Nam

Trong mấy năm trở lại đây, có nhiều công ty xin cho rút bớt nghiệp vụ BLPH chứng khoán như cty CPCK Tràng An (TAS), Công ty CPCK Quốc tế Việt Nam (VIS) . nhưng đồng thời thì lại có nhiều công ty cung cấp dịch vụ BLPH chứng khoán đảm bảo thành công chắc chắn của đợt phát hành cũng như đảm bảo nguồn vốn huy động cho kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà điển hình là ACBS Tình trạng giá bảo lãnh được chiết khấu cao còn xảy ra giữa SCR – SBS, giữa CTCK Khoáng sản Ra Rì Hamico – và KSS hồi cuối tháng 7/2010, mà điển hình là công ty CPCK NH Sài Gòn Thương Tin được mua với giá chiết khấu tới 55,12% giá phát hành , nó đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của Doanh Nghiệp và các NĐT nhỏ lẻ. Như vậy, ta thấy được, nghiệp vụ BLPH chứng khoán là một nghiệp vụ khó, đòi hỏi các CTCK phải có kinh nghiêm lâu năm và đội ngũ quản lý tốt.Vì thế doanh thu của nghiệp vụ này thường chiếm không cao trong tổng doanh thu cả năm. Do vậy cũng có ít CTCK thực hiện việc BLPH này.

docx31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5415 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty chứng khoán và vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÁN Chương 1: Những vấn đề chung về công ty chứng khoán 1. Khái niệm và mô hình hoạt động của công ty chứng khoán 1.1 Khái niệm công ty chứng khoán 1.1.1 Khái niệm CTCK là một tổ chức tài chính trung gian ở TTCK, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. CTCK có thể tham gia quá trình trao đổi cổ phiếu trong thị trường với vai trò trung gian. 1.1.2 Hình thức pháp lý của công ty chứng khoán Các CTCK có nhiều loại hình tổ chức như công ty hợp danh, công ty TNHH, CTCP, doanh nghiệp góp vốn, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp liên doanh. Nhưng nhìn chung, có ba loại hình tổ chức CTCK cơ bản: công ty hợp danh, công ty TNHH và CTCP. Công ty hợp danh Khả năng huy động vốn góp của công ty hợp danh không lớn, nó chỉ giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp. Công ty TNHH Về phương diện huy động vốn, nó đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lí cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh. Nhờ những ưu thế đó, hiện nay rất nhiều CTCK hoạt động dưới hình thức công ty TNHH. Công ty Cổ phần CTCP là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty. Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của chủ sở hữu đối với các tài sản của công ty. CTCP có ưu điểm: Nó tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời. Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được giới hạn ở mức nhất định. Nếu công ty thua lỗ, phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã đóng góp. Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu. Ngoài ra, đối với CTCK, nếu tổ chức theo hình thức CTCP và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí. Hình thức tổ chức quản lí, chế độ báo cáo và thông tin tốt hơn hai loại hình hợp danh và trách nhiệm hữu hạn. Do những ưu điểm này, ngày nay chủ yếu các CTCK tồn tại dưới hình thức CTCP thậm chí một số nước (như Hàn Quốc) còn bắt buộc các CTCK phải là CTCP. Ở Việt Nam các CTCK được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH hoặc CTCP theo quy định của Luật doanh nghiệp. Một số CTCK lớn tồn taị dưới các hình thức trên ở Việt Nam như: Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. CTCP Chứng khoán Bảo Việt. Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. CTCP Chứng khoán Mê Kong. 1.1.3 Điều kiện thành lập công ty chứng khoán 1.1.3.1 Điều kiện về cơ sở vật chất: Theo Luật Chứng Khoán năm 2006, Điều kiện mở CTCK bao gồm: Có trụ sở; có trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đối với nghiệp vụ BLPH chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang bị, thiết bị. 1.1.3.2 Điều kiện về vốn: CTCK phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay BLPH đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao. Theo Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007: Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam là: Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam; Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam; BLPH chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam; Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam. 1.1.3.3 Điều kiện về nhân sự Những người quản lí hay nhân viên của CTCK phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của CTCK phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong CTCK phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác. Điều 62 Luật Chứng Khoán 2006 quy định: Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán. UBCK vừa công bố Quyết định số 126/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi bổ sung một số điều của “Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK”. Theo đó, cá nhân là cổ đông sáng lập chỉ được phép sử dụng vốn của chính mình để góp vốn, không được sử dụng vốn vay, vốn ủy thác đầu tư của tổ chức, cá nhân khác; cá nhân tham gia góp vốn phải chứng minh khả năng góp vốn bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Điều kiện đối với pháp nhân khắt khe hơn, với yêu cầu có thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm. CTCK thành lập theo hình thức CTCP hoặc công ty TNHH từ 2 thành viên trở lên phải có tối thiểu 2 cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ chức, trong đó phải có ít nhất một tổ chức là NHTM, công ty tài chính hoặc công ty bảo hiểm. Tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp của các cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ chức tối thiểu phải đạt 65% vốn điều lệ, trong đó tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là NHTM, công ty tài chính hoặc công ty bảo hiểm tối thiểu phải đạt 30% vốn điều lệ của CTCK. Mô hình hoạt động của công ty chứng khoán Vì CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mỗi nước đều có một mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán riêng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống tài chính và tuỳ thuộc vào sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ta có thể khái quát lên hai mô hình cơ bản hiện nay là: mô hình CTCK ngân hàng hay mô hình ngân hàng đa năng (bao gồm: Ngân hàng đa năng toàn phần, Ngân hàng đa năng một phần) và công ty chuyên doanh chứng khoán. 1.2.1 Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán Hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các CTCK độc lập chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhiệm,các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán.Mô hình này áp dụng nhiều ở các nước như Canada,Mỹ… Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho TTCK phát triển chuyên môn hóa cao hơn. Tuy nhiên, mô hình này có một số hạn chế như: san bằng rủi ro thấp, các nước áp dụng giảm dần đối với NHTM trong chứng khoán. 1.2.2 Mô hình ngân hàng đa năng Trong mô hình Ngân hàng đa năng toàn phần, một ngân hàng có thể tham gia tất cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm mà không cần thông qua những pháp nhân riêng biệt. Khác với mô hình trên, trong mô hình ngân hàng đa năng một phần, một ngân hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua công ty con là pháp nhân riêng biệt. Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động của TTCK là cao. Mặt khác, ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán; khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ một số hạn chế như không phát triển được thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động tín dụng truyền thống hơn là BLPH cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình này, nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình này, nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến ngày nay. Tại Việt Nam, do quy mô các NHTM nói chung là rất nhỏ bé, và đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các NHTM Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng thương mại ngắn hạn, trong hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những điểm yếu này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các ngân hàng, Nghị định 144/CP về chứng khoán và TTCK quy định các NHTM muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình thành lập một CTCK chuyên doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng. 2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán 2.1 Cơ cấu tổ chức Biểu đồ 1: Cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ mà công ty đó thực hiện và quy mô hoạt động kinh doanh của nó. Tuy nhiên, phải đảm bảo tách biệt giữa hoạt động tư doanh với hoạt động môi giới và quản lý danh mục đầu tư. 2.2 Những nét đặc trưng trong cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Do CTCK là một hình thức định chế đặc biệt, có hoạt động nghiệp vụ đặc thù nên về mặt tổ chức nó có nhiều điểm khác biệt so với các công ty thông thường. Các CTCK ở các nước khác nhau, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng có tổ chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty và mức độ phát triển của thị trường. Tuy vậy, chúng vẫn có một số đặc trưng cơ bản: Trình độ chuyên môn hoá và phân cấp quản lí. CTCK có trình độ chuyên môn hoá rất cao ở từng phòng ban, bộ phận, đơn vị kinh doanh nhỏ. Do chuyên môn hoá cao nên các bộ phận có quyền tự quyết. Một số bộ phận trong công ty có thể không phụ thuộc lẫn nhau (chẳng hạn bộ phận môi giới và tự doanh hay BLPH...) Nhân tố con người Trong CTCK, quan hệ với khác hàng giữ vai trò rất quan trọng, đòi hỏi nhân tố con người phải luôn được quan tâm, chú trọng. Khác với các công ty sản xuất, ở CTCK việc thăng tiến cất nhắc lên vị trí cao hơn nhiều khi không quan trọng. Các chức vụ quản lí hay giám đốc của công ty nhiều khi có thể nhận được ít thù lao hơn so với một số nhân viên cấp dưới. Ảnh hưởng của thị trường tài chính. Thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của CTCK. TTCK càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa dạng, hàng hoá dịch vụ phong phú, qua đó CTCK có thể mở rộng hoạt động thu nhiều lợi nhuận. Với các trình độ phát triển khác nhau của thị trường, các CTCK phải có cơ cấu tổ chức đặc thù để đáp ứng những nhu cầu riêng. Thị trường càng phát triển thì cơ cấu tổ chức của CTCK càng phức tạp (chẳng hạn Mỹ, Nhật...). Trong khi đó, TTCK mới hình thành thì cơ cấu tổ chức của CTCK giản đơn hơn nhiều (như Việt Nam...). 3. Giao dịch chứng khoán niêm yết và giao dịch chứng khoán chưa niêm yết 3.1 Giao dịch chứng khoán niêm yết Chứng khoán niêm yết là chứng khoán có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để mua bán tại TTGDCK. Khi giao dịch chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ theo một số điều kiện sau: Mọi giao dịch mua bán chứng khoán đều phải qua hệ thống tại Sở Giao dịch, TTGDCK theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thoả thuận; Giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức khớp lệnh trên nguyên tắc ưu tiên về giá và ưu tiên về thời gian; Giao dịch chứng khoán niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với CTCK thành viên là thành viên của TTGDCK trên nguyên tắc thoả thuận về giá. Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán: Toàn bộ quy trình này được tiến hành theo 5 bước: Bước 1: NĐT đến mở tài khoản và đặt lệnh mua hay bán chứng khoán tại một CTCK Bước 2: CTCK chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm. Bước 3: Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK. Bước 4: CTCK thông báo kết quả giao dịch cho NĐT. Bước 5: NĐT nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại CTCK sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán nếu quy định về thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T +3. 3.2 Giao dịch chứng khoán chưa niêm yết Nguyên tắc chung Chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết trên Sở/TTGDCK sẽ được đăng ký và lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán (TTLK) và giao dịch tại các CTCK (CTCK). Kết quả giao dịch sẽ được tổng hợp qua TTGDCK Hà Nội để thực hiện thanh toán bù trừ tại TTLK. Căn cứ trên kết quả giao dịch và thanh toán bù trừ, CTCK sẽ hạch toán tăng/giảm số lượng chứng khoán trên tài khoản của NĐT liên quan. Điều kiện giao dịch Chứng khoán đăng ký giao dịch bao gồm cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm yết và trái phiếu chuyển đổi của các công ty đại chúng. Tuy nhiên, những chứng khoán này phải đáp ứng đủ 3 điều kiện: Thứ nhất, là chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết tại TTGDCK Hà Nội/Sở GDCK TP. HCM. Thứ hai, chứng khoán đã được đăng ký lưu ký tại TTLK. Thứ ba, được một CTCK là thành viên bảo trợ (CTCK thành viên cam kết với công ty đại chúng thực hiện các thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán và bảo đảm hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định). Một số quy định về giao dịch Đơn vị giao dịch: Không quy định. Đơn vị yết giá: 100 đồng (đối với cổ phiếu) và 1 đồng (đối với trái phiếu). Mệnh giá giao dịch: 10.000 đồng (đối với cổ phiếu); 100.000 đồng (đối với trái phiếu). Biên độ dao động giá: +/-20%. Giá tham chiếu: TTGDCK Hà Nội tính toán và công bố giá tham chiếu theo phương thức bình quân gia quyền. Phương thức giao dịch: Thỏa thuận thông thường (các bên tự thỏa thuận với nhau về điều kiện giao dịch và được đại diện giao dịch của CTCK nhập thông tin vào hệ thống đăng ký giao dịch để xác nhận các giao dịch này); thỏa thuận điện tử (đại diện giao dịch của CTCK nhập lệnh với các điều kiện giao dịch đã được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện giao dịch). Thời gian thực hiện: NĐT có thể thoả thuận giao dịch với nhau bất kỳ thời gian nào trong ngày. Tuy nhiên, thời gian yêu cầu CTCK thực hiện nhập báo cáo kết quả giao dịch vào hệ thống là từ 10h - 12h và từ 13h -15h tất cả các ngày làm việc. Phí giao dịch: Do CTCK quy định nhưng mức thu không vượt quá mức trần hay thấp hơn mức sàn do Bộ Tài chính quy định. Các báo cáo kết quả giao dịch đã nhập vào hệ thống không được phép huỷ bỏ. Trường hợp trong phiên giao dịch, nếu phát hiện ra sai sót trong quá trình nhập báo cáo giao dịch thì CTCK sẽ thực hiện sửa báo cáo giao dịch trên hệ thống theo quy trình do TTGDCK Hà Nội hướng dẫn. Lệnh chào mua/chào bán có hiệu lực tối đa trong 1 ngày giao dịch hoặc cho đến khi được thực hiện hoặc bị huỷ bỏ. Trường hợp muốn thay đổi các thông tin của lệnh chào mua/chào bán, CTCK thực hiện huỷ lệnh chào mua/chào bán cũ và nhập lại lệnh mới. Giao dịch của NĐT NĐT chỉ được có một tài khoản chứng khoán và chỉ được mở tại một CTCK duy nhất. Trường hợp NĐT đã có tài khoản giao dịch chứng khoán niêm yết thì sẽ dùng ngay tài khoản này để thực hiện giao dịch và lưu ký chứng khoán chưa niêm yết. Tài khoản sẽ được tách biệt thành 2 tiểu khoản (chứng khoán niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết) để tiện việc theo dõi, giám sát. Khi đặt lệnh bán, NĐT phải có đủ số lượng chứng khoán trên tài khoản chứng khoán mở tại các CTCK được phép thực hiện giao dịch. Khi đặt lệnh mua chứng khoán, NĐT phải ký quỹ đầy đủ 100% tiền. Chương 2: Vai trò của công ty chứng khoán Vai trò của CTCK được thể hiện qua các nghiệp vụ của CTCK. Thông qua các hoạt động này, CTCK đã thực sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. CTCK đã trở thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK. Vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán CTCK là một định chế tài chính trung gian tham gia hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường sơ cấp: CTCK là cầu nối giữa nhà phát hành và NĐT, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ BLPH. Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, CTCK… CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệp nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Trên thị trường thứ cấp: CTCK là cầu nối giữa các nhà đàu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn định, các NĐT luôn chuộng những chứng khoán có tính thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. CTCK với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho các NĐT giảm thiều thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình. Vai trò góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường Từ sau cuộc khủng hoảng của TTCK thế giới ngày 28/10/1929, chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động của TTCK, trong đó đòi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành viên tham gia Sở giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những cơn khủng hoảng giá chứng khoán có thể xảy ra trên thị trường, vì nếu TTCK bị khủng hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi NĐT, các CTCK cùng bị ảnh hưởng. Theo quy định của các nước, các CTCK có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao nhằm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Dĩ nhiên, sự can thiệp của các CTCK chỉ có hạn, phụ thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn có ý nghĩa nhất định, có tác động đến tâm lý của các NĐT trên thị trường. Với vai trò này, các CTCK góp phần tích cực vào sự tồn tại và phát triển bền vững của TTCK. Vai trò cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể: Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho NĐT: TTCK cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để tiến hành giao dịch, người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc trưng riêng của nó như người mua người bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa là “vô hình”, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định chất lượng, xác định giá cả thì phải mẩt rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch dể phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… CTCK với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh nghiệp nghề nghiệp sẽ thưc hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán, giúp các NĐT giảm được chi phí trong từng giao dịch. Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: CTCK thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các NĐT đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của mình. Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ BLPH chứng khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý. Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các CTCK được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài ra, CTCK còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán. Với các nghiệp vụ đa dạng của mình, CTCK giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển của TTCK, là chất “xúc tác”, không thể thiếu cho hoat động của TTCK. Chương 3: Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán Nguyên tắc đạo đức Hoạt động kinh doanh của CTCK ảnh hưởng nhiều tới lợi ích công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của CTCK. Nhìn chung, có một số nguyên tắc cơ bản sau: CTCK có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. CTCK phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào. CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh. CTCK phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. CTCK khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy. CTCK không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình. Ở nhiều nước, CTCK phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ NĐT chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp CTCK bị mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng. Nguyên tắc tài chính 2.1 Vốn Vốn của CTCK phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. 2.2 Cơ cấu vốn: Nợ và Có Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn. Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của CTCK có các đặc điểm chung: Các công ty phụ thuộc khá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn. Các chứng khoán đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường chiếm phần lớn tổng giá trị tài sản của CTCK (40%-60%). Ở các nước đang phát triển, thông thường các CTCK không được vay vốn của nước ngoài trong khi ở những nước phát triển điều này được phép thực hiện. Tỉ lệ nợ tuỳ thuộc vào CTCK nhưng phải tuân theo qui định của các cấp quản lí. 2.3 Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh Quản lí vốn khả dụng: các CTCK thường phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán. Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó. Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: CTCK phải trích tỉ lệ phần trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong tương lai. Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau tuỳ từng quốc gia. Thông thường nó tuân theo một số qui định sau: Hạn chế mua sắm tài sản cố định theo tỉ lệ % trên vốn điều lệ. Đặt ra hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán. Qui định hạn mức đầu tư vào một số tài sản rủi ro cao. 2.4 Chế độ báo cáo Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo qui định một số nước, phải nộp cho UBCK (hoặc cơ quan quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm: Bảng cân đối kế toán Báo cáo lỗ lãi Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Ngoài báo cáo thường niên, CTCK phải gửi một báo cáo quản lý toàn diện về tình hình tài chính theo quý như quy định của UBCK. Ngoài ra công ty phải gửi báo cáo hàng tháng cho tổ chức tự quản có thẩm quyền để kiểm tra tình hình tài chính và việc tuân thủ các trách nhiệm tài chính. Nếu CTCK không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kinh doanh và tài chính thì có thể phải gửi nhiều báo cáo hơn (báo cáo tuần). Chương 4: Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán Các CTCK có thể là những công ty chuyên kinh doanh một dịch vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ chuyên thực hiện BLPH... hoặc là những công ty đa dịch vụ, hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Ngày nay, do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của bản thân CTCK ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ như: cho vay kí quĩ, quản lí danh mục đầu tư, quản lí thu nhập chứng khoán. Đồng thời, các CTCK ngày nay còn hoạt động trên cả lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán 1.1 Khái niệm Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty. 1.2 Quy trình của nghiệp vụ môi giới chứng khoán Bước 1: Mở tài khoản cho khách hàng Trước khi mua và bán chứng khoán qua hoạt động môi giới, khách hàng phải mở một tài khoản giao dịch tại CTCK. Khách hàng được hướng dẫn thủ tục mở tài khoản: điền thông tin vào “Giấy mở tài khoản” bao gồm các thông tin theo luật pháp quy định và các thông tin khác tuỳ theo yêu cầu của CTCK. Bộ phận quản lý tài khoản khách hàng của công ty phải kiểm tra tính chính xác của thông tin, đồng thời trong quá trình hoạt động của tài khoản những thay đổi của thông tin cũng cần được cập nhật. Tài khoản giao dịch hiện nay có thể chia thành nhiều loại khác nhau như: Tài khoản tiền mặt là loại tài khoản thông dụng nhất, giống như tài khoản tiền gửi thanh toán của các NHTM. Khách hàng có thể mua bán bất kỳ loại chứng khoán nào qua tài khoản này. Tuy nhiên loại tài khoản này yêu cầu khách hàng phải trả đủ tiền trước khi nhận được chứng khoán. Tài khoản ký quỹ hay tài khoản bảo chứng: là loại tài khoản dùng để mua bán chứng khoán có ký quỹ. Theo đó, để mua chứng khoán, khách hàng chỉ cần ký quỹ một tỷ lệ % tiền trên giá trị chứng khoán muốn mua, số còn lại khách hàng có thể vay CTCK thông qua tài khoản bảo chứng. Trong dịch vụ này, khách hàng phải chịu một lãi xuất khá cao, thường là cao hơn lai xuất cho vay của ngân hàng, ngược lai khách hàng có thể mua số lượng chứng khoán có giá trị lớn hơn nhiều so với số tiền đã ký quỹ. Sau khi mở tài khoản, CTCK sẽ cung cấp cho khách hàng một mã số tài khoản và một mã số truy cập vào tài khoản để kiểm tra khi cần thiết. Khách hàng chỉ được mở 01 tài khoản tại 01 CTCK. Bước 2: Nhận lệnh của khách hàng Khách hàng đặt lệnh mua, bán chứng khoán với phòng tiếp thị bằng phiếu lệnh. Nội dung chi tiết của lệnh gồm có: Lệnh mua hay lệnh bán: để thể hiện lệnh mua (buy) hay lệnh bán (sell) người ta sử dụng chữ cái “B” hoặc “S”. Để dễ phân biệt, các TTCK thường in hai mẫu lệnh này bằng hai màu mực khác nhau trên mẫu có sẵn. Tên chứng khoán - mã số chứng khoán: có thể được viết ra hoặc viết tắt hay thể hiện bằng kí hiệu, biểu hiện được mã khóa và đăng kí trước. Số lượng chứng khoán: được thể hiện bằng các con số. Một lệnh có thể thực hiện kết hợp giữa giao dich một lô chẵn và một lô lẻ. Giá: Nếu là lệnh bán CTCK sẽ yêu cầu khách hàng đưa ra số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện lệnh hoặc đề nghị khách hàng kí quỹ một phần số chứng khoán cần bán theo một tỷ lệ nhất định do UBCK quy định. Trong trường hợp chứng khoán của khách hàng đã được lưu ký, công ty sẽ kiểm tra trên số tài khoản của khách hàng đã lưu lý. Nếu là lệnh mua, CTCK sẽ yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một số tiền nhất định trên tài khoản của khách hàng ở công ty. Khoản tiền này được tinh trên một tỷ lệ % giá trị mua theo lệnh Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện. Trên cơ sở của khách hàng công ty sẽ kiểm tra các thông tin trên lệnh, kiểm tra thị trường thực hiện, kiểm tra số tiền ký quỹ. Sau đó công ty chuyển lênh tới sở giao dịch để thực hiện. Trên thị trường tập chung, lệnh giao dịch của khách hàng sẽ được chuyển đến Sở giao dịch chứng khoán. Các lệnh được khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh của thị trường tuỳ theo phương thức đấu giá của thị trường. Trên thị trường OTC, việc mua bán chứng khoán sẽ được dựa trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và CTCK nếu công ty này là nhà tạo lập thị trường. Bước 4: Xác nhận cho khách hàng. Sau khi thực hiện lệnh xong CTCK gửi cho khách hàng một bản xác nhận những lệnh nào của khách hàng được thực hiện. Xác nhận này giống như một hoá đơn thanh toán tiền của khách hàng. Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch. Hoạt động này bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch. Việc thanh toán bù trừ chứng khoán được thực hiện dựa trên cơ sở tài khoản của các CTCK tại các ngân hàng. Đối với việc đối chiếu bù trừ chứng khoán do trung tâm lưu ký chứng khoán thực hiện thông qua hệ thống tài khoản lưu ký chứng khoán. Việc bù trừ kết quả giao dịch chứng khoán sẽ được kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này được gửi cho các CTCK là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao nhận giữa các CTCK. Bước 6: Thanh toán và giao hàng. Đến ngày thanh toán, CTCK sẽ thanh toán tiền cho khách hàng thông qua hệ ngân hàng chỉ định thanh toán và giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại trung tâm lưu ký chứng khoán. Sau khi hoàn tất các thủ tục giao dịch tại Sở giao dịch, CTCK sẽ thanh toán tiền cho khách hàng thông qua hệ thống tài khoản giao dịch của khách hàng mở tại CTCK. Phí môi giới Hoạt động với tư cách là nhà đại lí nên CTCK được hưởng hoa hồng môi giới. Số tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá trị một giao dịch. Số tiền mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng lớn. Thông thường, các CTCK đều có chế độ hoa hồng của mình và thỉnh thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các công ty nhỏ thường phải chờ xem các hãng lớn cho biết tỉ suất hoa hồng rồi mới công bố tỉ suất của mình. 1.3 Mức độ rủi ro Môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua bán chứng khoán hộ khách hàng dể hưởng hoa hồng. Công ty sẽ nhận được một khoản phí dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy nếu có thua lỗ thì người phải chịu là khách hàng và công ty vẫn được nhận khoản phí đó. Nên mức độ rủi ro của nghiệp vụ môi giới chứng khoán là tương đối thấp và an toàn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lệnh phải hết sức cẩn thận để tránh nhầm lẫn khi nhập lệnh, nếu không sẽ có rủi ro lớn xảy ra. Nghiệp vụ BLPH 2.1 Khái niệm BLPH chứng khoán là việc CTCK cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng. 2.2 Một số phương thức bảo lãnh Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, CTCK cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân phối hết hay không. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, CTCK thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành nhưng không cam kết bán toàn bộ chứng khoán. Mà CTCK cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng khoán ra thị trường, phần không phân phối hết sẽ trả lại tổ chức phát hành. Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì: tổ chức phát hành sẽ chỉ thị cho CTCK nếu không bán hết số chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: tổ chức phát hành chị thị cho CTCK phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. 2.3 Điều kiện để được BLPH CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ BLPH chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh, vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ BLPH là 165 tỷ đồng. Không vi phạm luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục liền trước thời điểm bảo lãnh. Tổng trị giá phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sỏ hữu của CTCK. Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trên 3 tháng liền trước thời điểm nhận phát hành bảo lãnh. 2.4 Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh Lập nghiệp đoàn bảo lãnh Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một CTCK thì một nghiệp đoàn bao gồm một số CTCK và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập. Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức bảo lãnh chắc chắn. Trong nghiệp đoàn có một công ty bảo lãnh chính, thường là người khởi đầu cho cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các giấy tờ với công ty phát hành. Nó quyết định CTCK nào được mời tham gia nghiệp đoàn và sẽ trả chi phí bảo lãnh cho các công ty khác trong nghiệp đoàn. Phân tích, định giá chứng khoán Định giá cho cổ phiếu rất phức tạp. Ở đây bắt gặp vấn đề nan giải: một mặt, người phát hành cổ phiếu muốn nhận được càng nhiều tiền càng tốt từ đợt phát hành này; mặt khác người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhanh càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không mua, nếu giá thấp quá thì giá chứng khoán sẽ mau chóng chuyển lên cao hơn ở thị trường thứ cấp và người phát hành sẽ chịu thiệt. Thông thường, việc định giá cổ phiếu căn cứ vào nhiều yếu tố: lợi nhuận của công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỉ lệ giá cả - lợi tức so với những công ty tương tự, tình hình thị trường lúc chào bán... Đối với trái phiếu, việc định giá đơn giản hơn vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn và yết giá của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự. Ký hợp đồng bảo lãnh Sau khi thành lập nghiệp đoàn và tiến hành một số công việc như phân tích định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán ..., nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ ký một số hợp đồng với công ty phát hành trong đó xác định: Phương thức bảo lãnh. Phương thức thanh toán. Khối lượng BLPH. Đăng kí phát hành chứng khoán Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, nghiệp đoàn bảo lãnh phải trình lên cơ quan quản lý đơn xin đăng kí phát hành cùng một bản cáo bạch thị trường có đầy đủ chữ kí của công ty phát hành, công ty luật, công ty bảo lãnh. Bản cáo bạch của công ty phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng tiền thu được từ việc phát hành nhằm giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán. Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát bản cáo bạch và phiếu đăng kí mua chứng khoán và đợi khi đăng kí phát hành chứng khoán có hiệu lực, công ty chứng khoán hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối chứng khoán. Phân phối chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện dưới các hình thức: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể (như các quĩ đầu tư, quĩ bảo hiểm, quĩ hưu trí...). Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những NĐT có quan hệ với tổ chức phát hành. Bán ra công chúng. Thanh toán Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty BLPH phải giao tiền bán chứng khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao cho công ty bảo lãnh. Thù lao cho công ty bảo lãnh có thể là khoản phí (đối với hình thức bảo lãnh chắc chắn) hoặc hoa hồng (đối với các hình thức bảo lãnh khác). Mức phí bảo lãnh tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành, tình hình thị trường và do hai bên thoả thuận. Nếu là phát hành lần đầu thì phí bảo lãnh cao hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu phí và hoa hồng còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất cao sẽ dễ bán, chi phi sẽ thấp và ngược lại). Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn thương lượng với nhau. Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số tiền công ty phát hành nhận được. Mức độ rủi ro Khi thực hiện bảo lãnh, CTCK sẽ phải gặp một số rủi ro nhất định như: Rủi ro về giá: thường gặp phải khi giá chứng khoán mà họ bảo lãnh có chiều hướng giảm xuống ngay sau khi chứng khoán được phát hành ra. Rủi ro pháp lý: khi CTCK bị thiệt hại về mặt tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp do các tranh chấp hoặc kiện tụng với các đối tác trong quá trình giao dịch. Ngoài ra, CTCK còn gặp phải: rủi ro về vốn, rủi ro về lãi suất, rủi ro về khả năng thanh toán… Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán 3.1 Khái niệm Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó CTCK dùng kinh phí của mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó. Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán chứng khoán. Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là: Giao dịch gián tiếp: CTCK đặt lệnh mua và bán của mình trên Sở giao dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào không xác định trước. Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai CTCK hay giữa CTCK với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC. 3.2 Mục đích Nhằm tìm kiếm lợi nhuận, điều tiết giá cả và bình ổn thị trường. 3.3 Yêu cầu của hoạt động tự doanh Tách biệt quản lý: CTCK phải tách biệt giữa hai nghiệp vụ môi giới và tự doanh để đảm bảo tính minh bạch, xây dựng uy tín. Ưu tiên khách hàng: công ty phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của mình. Góp phần bình ổn thị trường: muốn làm được điều này, CTCK phải thực hiện giao dịch theo luật định trong giới hạn mà luật cho phép. Hoạt động tạo thị trường: Các CTCK thực hiện tự doanh đối với chứng khoán mới phát hành nhằm tăng tính thanh khoản cho chúng. Quy trình nghiệp vụ tự doanh Mỗi CTCK có những chiến lược kinh doanh riêng nhằm mục đích thu lợi nhuận phù hợp với cơ cấu tổ chức riêng của mình. Nhìn chung quy trình nghiệp vụ tự doanh của CTCK có những giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Xây dựng chiến lược đầu tư. Giai đoạn 2: Khai thác, tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Giai đoạn 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư Thu nhập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: báo cáo tài chính của doanh nghiệp từ 2-5 năm, xét đến cả yếu tố của nền kinh tế như: lạm phát, biến động tỷ giá hối đoái... Phân tích đánh giá: từ các thông tin đã thu thập được, nhân viên tự doanh phải phân tích xem chứng khoán nào tốt, có khả năng thu được lợi nhuận cao. Giai đoạn 4: thực hiện đầu tư Giai đoạn 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vốn Bộ phận kinh doanh có trách nhiệm theo dõi, đánh giá tình hình và thực hiện các nghiệp vụ cần thiết để quản lý danh mục đầu tư và tìm kiếm cơ hội đầu tư mới. 3.5 Mức độ rủi ro Với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng. Hơn nữa, đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ mà CTCK phải gánh chịu những rủi ro đó. Vì vậy mà nghiệp vụ này tiềm ẩn mức độ rủi ro cao. Tư vấn đầu tư chứng khoán 4.1 Khái niệm Tư vấn đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích các cổ phiếu và đưa ra các lời khuyên liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu lại nguồn tài chính cho khách hàng. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải tích lũy nhiều kiến thức, am hiểu TTCK, có kĩ năng chuyên môn tốt, trình độ cao, không đòi hỏi lượng vốn lớn. 4.2 Phân loại Theo hình thức tư vấn Tư vấn trực tiếp: CTCK sẽ đóng góp ý kiến với khách hàng về hoạt động đầu tư chứng khoán có thể thông qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng hoặc trao đổi qua các phương tiện truyền thông: fax, điện thoại, internet. Tư vấn gián tiếp: thông qua việc cung cấp các ấn phẩm nội bộ cho khách hàng Theo đối tượng tư vấn Tư vấn cho người phát hành: Xác định giá trị doanh nghiệp; Tư vấn loại chứng khoán phát hành Tư vấn việc chia,tách,hợp nhất sát nhập doạnh nghiệp. Tư vấn cho NĐT chứng khoán: 4.3 Công việc tư vấn Chuyên viên tư vấn sử dụng kiến thức chuyên môn để tư vấn cho NĐT về thời điểm mua bán CK, loại CK mua bán, thời gian nắm giữ CK, xu hướng giá cả... Ngoài các hoạt động kinh doanh chính: môi giới, tự doanh, BLPH, tư vấn đầu tư CTCK còn tiến hành các nghiệp vụ phụ trợ như quản lý danh mục đầu tư, lưu kí chứng khoán, quản lý cổ tức, quản lý quỹ Phần 2: Thị phần của các công ty chứng khoán tại VN hiện nay Nếu như năm 2007, các CTCK lớn trên thị trường Việt Nam đều đạt được lợi nhuận lớn như:  Lợi nhuận sau thuế của SSI cán đích 864 tỷ, ACBS là 332 tỷ, BVSC 214 tỷ, KLS 126 tỷ… Bước sang năm 2008, sự sút giảm của thị trường đã khiến những khó khăn của CTCK bộc lộ rõ rệt. Bảng 1. Cơ cấu tài sản của một số CTCK năm 2007 Bảng 2. Cơ cấu tài sản của các công ty đến năm 2009 Nguyên nhân chính của tình trạng này chính là sự suy giảm của TTCK khiến nhiều NĐT thoái lui trong khi số lượng các CTCK vẫn không ngừng tăng lên. Doanh thu từ môi giới trung bình không phủ hết chi phí hoạt động. Doanh thu từ các mảng hoạt động ngoài môi giới và tự doanh chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ, và đa phần là lỗ. Thị phần môi giới chứng khoán Bước sang năm 2009, TTCK Việt nam đã được khôi phục đáng kể so với sự thất bại nặng nề của năm 2008,thị phần môi giới của Top 10 chiêm hơn 50% thị phần môi giới của cả năm ở Bảng 3 dưới đây, đánh dấu mức khả quan hơn cho thị trường nước nhà. (Nguồn: cafef.vn) Không bất ngờ khi dẫn đầu Top 10 thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ là CTCK Thăng Long (TLS) – thành viên dẫn đầu kết quả 9 tháng đầu năm công bố trước đó. Cụ thể, TSC chiếm 9,13% tổng thị phần. Thấp hơn TSC một mức nhỏ, chiếm 8,26% là CTCK Sài Gòn (SSI). Đứng thứ 3 là CTCK Sacombank – SBS với 7,77%. Thứ 4 là CTCK Tp.HCM (HSC) với 5,63%. Thứ 5 là CTCK Ngân hàng Á châu (ACBS) với 4,37%. Thành viên mới tham gia thị trường là CTCK FPT (FPTS) đứng vị trí thứ 6 với 3,84%. Kế tiếp là CTCK KimEng (KEVS) chiếm 3,4%. Thành viên thâm niêm là CTCK Bảo Việt (BVSC) chỉ đứng thứ 8 và chiếm 3,37%. CTCK Ngân hàng Ngoại thương (VCBS) chiếm 2,9% và đứng thứ 9. Thành viên còn lại trong Top 10 là CTCK Quốc tế Việt Nam (VIS) với 2,59%. Tổng các thành viên trong Top 10 chiếm 51,26% thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ tại HOSE trong năm 2009. Trong khi đó, ở thị phần môi giới trái phiếu, CTCK An Bình (ABS) dẫn đầu khi chiếm 18,21%; VCBS đứng thứ 2 với 17,38%; HSC thứ 3 với 11,31%; SBS thứ 4 với 10,7%; SSI thứ 5 với 9,43%; CTCK Đại Dương (OCS) đứng thứ 6 với 8,75%; CTCK Ngân hàng Nhà Hà Nội (HBBS) ở thứ 7 với 7,71%; thứ 8 là CTCK Ngân hàng Công thương (Vietinbanksc) với 3,6%; FPTS và TLS chiếm các vị trí còn lại của Top 10. lần lượt có 3,06% và 2,57%. Riêng trong quý 4/2009, TSC vẫn dẫn đầu thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ (11,31%); SBS thứ 2 (7,93%); SSI thứ 3 (6,78%); HSC thứ 4 (4,99%); FPTS thứ 5 (4,3%); VIS thứ 6 (3,33%); ACBS thứ 7 (3,29%); KEVS thứ 8 (3,26%); VCBS thứ 9 (2,43%); cuối cùng trong Top 10 là CTCK VNDirect (VNDS) (2,31%). Sang năm 2010, bản tổng kết thị phần giá trị giao dịch môi giới chứng khoán trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) đã có bất ngờ lớn. Nếu qua các quý từ năm 2009 đến 2010, bất ngờ tập trung ở sự lấn sân của những CTCK mới gia nhập thị trường, thì kết quả mới nhất cho thấy sự quyết liệt trong cạnh tranh ở hai vị trí dẫn đầu. TLS là CTCK khẳng định vị trí dẫn đầu ở thị phần giá trị môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ; khoảng cách của vị trí dẫn đầu so với các vị trí tiếp theo là đáng kể.(10,04 – 8,94) Tuy nhiên, bất ngờ lớn đã xuất hiện trong quý 4/2010, khi SSI có sự bứt phá mạnh, vươn lên dẫn đầu chiếm 11,61% thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ trên HOSE. TLC đã lùi về vị trí thứ ba với 8,35%; thị phần cũng giảm đáng kể khi trong quý 3/2010 là 11,34%. Sự bứt phá mạnh của SSI cũng thể hiện rõ trong kết quả chung của 6 tháng cuối năm 2010 trên HOSE: chiếm vị trí dẫn đầu Top 10 với 9,90%, nhỉnh hơn TLS ở vị trí thứ hai là 9,87%. TOP 10 thị phần giá trị giao dịch môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ năm 2010 trên HOSE 1 Công ty cổ phần CK Thăng long TLS 10,04 2 Công ty cổ phần CK Sài Gòn SSI 8,94 3 Công ty cổ phần Ck Tp HCM HSC 7,02 4 Công ty cổ phần Ck NH Sài Gòn Thương Tín SBS 6,02 5 Công ty TNHH Ck ACB ACBS 4,21 6 Công ty cổ phần Ck FPT FPTS 4,16 7 Công ty cổ phần Ck VN Direct VNDS 2,86 8 Công ty cổ phần Ck Bảo Việt BVSC 2,49 9 Công ty cổ phần Ck Kim Eng Việt Nam KEVS 2,32 10 Công ty cổ phần Ck Hòa Bình HBS 2,08 50,14 (Nguồn bsc.com.vn) Bảng 4. Top 10 thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ tại HOSE năm 2010 Chung cuộc, kết quả Top 10 thị phần môi giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ trên HOSE năm 2010, vị trí dẫn đầu vẫn thuộc về TLS với 10,04%. SSI đứng thứ hai với 8,94%, nhưng rõ ràng sự bứt phá trong 6 tháng cuối năm và đặc biệt là trong quý 4 có thể xem là một xu hướng mà TLS phải “dè chừng”. Ngoài những bất ngờ về sự cạnh tranh của 2 công ty, năm 2010 cũng là năm đánh dấu mốc của nhiều sự thay đổi lớn. CTCK Kim Long (Một trong hai CTCK có vốn điều lệ lớn nhất trên TTCK Việt Nam) Mặc dù có hơn ngàn tỉ đồng gửi vào ngân hàng, tuy nhiên, theo báo cáo tài chính năm 2010, Kim Long đã lỗ 172,81 tỉ đồng. Trong tổng số doanh thu 272,26 tỉ đồng, doanh thu từ hoạt động đầu tư chứng khoán góp vốn – hoạt động tự doanh chiếm 37,5%; doanh thu hoạt động môi giới chỉ chiếm 6,71%.Nguyên nhân cũng là do doanh thu môi giới chiếm tỉ lệ thấp. Kết quả, KLS đã rút khỏi lĩnh vực kinh doanh chứng khoán CTCP Chứng khoán Sài gòn - Hà Nội (một trong số những CTCK hàng đầu Việt Nam) Năm 2010, SHS không có tên trong danh sách các CTCK bị lỗ, nhưng SHB không được lọt vào TOP 10 thị phần môi giới trên cả hai sàn giao dịch. Do SHS tập trung từ thị phần môi giới sang vực dậy hoạt động tư vấn và hoạt động nghiên cứu phân tích để làm trọng tâm cho chiến lược phát triển chung. Tổng kết, trong năm 2010 tổng thị phần môi giới của top 10 công ty có sự sụt giảm hơn so với năm 2009 (50,14 – 51,26),cho thấy được hoat động môi giới càng ngày càng cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty Thị phần BLPH chứng khoán Trong mấy năm trở lại đây, có nhiều công ty xin cho rút bớt nghiệp vụ BLPH chứng khoán như cty CPCK Tràng An (TAS), Công ty CPCK Quốc tế Việt Nam (VIS)….. nhưng đồng thời thì lại có nhiều công ty cung cấp dịch vụ BLPH chứng khoán đảm bảo thành công chắc chắn của đợt phát hành cũng như đảm bảo nguồn vốn huy động cho kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà điển hình là ACBS Tình trạng giá bảo lãnh được chiết khấu cao còn xảy ra giữa SCR – SBS, giữa CTCK Khoáng sản Ra Rì Hamico – và KSS hồi cuối tháng 7/2010, mà điển hình là công ty CPCK NH Sài Gòn Thương Tin được mua với giá chiết khấu tới 55,12% giá phát hành , nó đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của Doanh Nghiệp và các NĐT nhỏ lẻ. Như vậy, ta thấy được, nghiệp vụ BLPH chứng khoán là một nghiệp vụ khó, đòi hỏi các CTCK phải có kinh nghiêm lâu năm và đội ngũ quản lý tốt.Vì thế doanh thu của nghiệp vụ này thường chiếm không cao trong tổng doanh thu cả năm. Do vậy cũng có ít CTCK thực hiện việc BLPH này. Phần 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM Giải pháp từ phía Nhà nước Tăng cường quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của CTCK trên cơ sở phân loại các tiêu chí rủi ro để có phương án xử lý phù hợp; tăng cường hoạt động giám sát thực thi và xử lý vi phạm đối với các CTCK. Yêu cầu các CTCK đảm bảo chỉ tiêu an toàn tài chính theo quy định và tăng cường công tác kiểm tra việc thực thi này. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động CTCK, nghiên cứu xem xét xây dựng văn bản hướng dẫn đối với nghiệp vụ Repo, Margin theo tình hình phát triển của thị trường và khả năng quản lý rủi ro của CTCK. Khuyến khích các CTCK đầu tư vào công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao công tác quản trị điều hành và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng của các CTCK. Giải pháp từ phía các CTCK Về nguồn vốn Các CTCK cần nâng cao vốn chủ sở hữu bằng cách đảm bảo khả năng kinh doanh và sinh lời. Để thực hiện được cách này có thể hợp nhất hoặc sáp nhập công ty, đồng thời, kêu gọi các NĐT, trong đó có các NĐT nước ngoài tham gia vào công ty. Về nhân lực và công nghệ Nâng cao khả năng chuyên môn từng bộ phận Xem xét lại cơ cấu tổ chức, lãnh đạo, điều hành công ty một cách có hiệu quả hơn. Nâng cấp công nghệ, hệ thống mạng vi tính. Về nghiệp vụ môi giới chứng khoán Cung cấp đầy đủ thông tin và kịp thời Có chính sách thích đáng về phí môi giới để nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi. Về nghiệp vụ BLPH chứng khoán Xem xét cẩn trọng các công ty có nhu cầu phát hành chứng khoán, tránh rủi ro có thể phát sinh Đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện hoạt động bảo lãnh KẾT LUẬN Thị trường càng phát triển, vai trò của các CTCK sẽ càng quan trọng, ngoài nhiệm vị trung gian nó còn đóng vai trò là NĐT lớn trên thị trường và là nhà tư vấn cho các đợt phát hành chứng khoán, cho các NĐT thiếu kinh nghiệm, ít có thời gian… TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, việc nghiên cứu lý luận về CTCK cũng như áp dụng vào thực tiễn trong việc xây dựng và phát triển các CTCK Việt Nam là một công việc cần thiết cho việc phát triển các CTCK nói riêng và cho TTCK nói chung. Tài liệu tham khảo GS, TS Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân. Thị trường chứng khoán. NXB Thống kê. Luật các tổ chức Tín dụng năm 2010, Luật Chứng khoán năm 2006 và các Thông tư, Nghị định bổ sung, hướng dẫn thi hành www.atpvietnam.com.vn ; www.bsc.com.vn và các trang web có liên quan khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCông ty chứng khoán và vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán việt nam- hvnh.docx