MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 5
I. TỔNG QUAN VỀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED) . 5
1) Hoàn cảnh ra đời . 5
2)Cơ cấu của FED 5
3) Nhiệm vụ của FED 10
4) Tính độc lập của FED . 11
II. CÁC CHÍNH SÁCH FED SỬ DỤNG ĐỂ TÁC ĐỘNG VÀO NỀN KINH TẾ MỸ ĐẶC BIỆT LÀ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2007 -2009 12
1. Chính sách tiền tệ của FED 12
2. Các chính sách FED sử dụng trong cuộc khủng hoảng 2007-2009 . 23
III. GIẢI PHÁP FED ĐƯA RA CHO NỀN KINH TẾ MỸ 29
1. ndsjhls 29
2.dfgdsgsdh 34
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách. Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ ) và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một hệ thống Ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được.
Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, ngân hàng trung ương (NHTW) cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì NHTW có thể coi là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế.
Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang Mỹ. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn.Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia.
Bài tiểu luận này sẽ trình bày rõ hơn và cụ thể hơn những vai trò, tầm ảnh hưởng và các chính sách nổi bật của FED đối với nền kinh tế Mỹ nói riêng và toàn thế giới nói chung qua các phần chính sau:
Tổng quan về Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)Các chính sách FED sử dụng để tác động vào nền kinh tế Mỹ đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng năm 2007-2009
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6216 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cục dự trữ liên bang mỹ và các chính sách tài chính của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
BÀI TIỂU LUẬN
CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CỦA NÓ
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Minh Châu – NH8
Nguyễn Thu Hiếu – NH8
Diệp Bội Quỳnh Ngân – NH8
Lê Thị Minh THư – NH8
Lê Xuân Trinh – NH8
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 5
I. TỔNG QUAN VỀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED) 5
1) Hoàn cảnh ra đời 5
2) Cơ cấu của FED 5
3) Nhiệm vụ của FED 10
4) Tính độc lập của FED 11
II. CÁC CHÍNH SÁCH FED SỬ DỤNG ĐỂ TÁC ĐỘNG VÀO NỀN KINH TẾ MỸ ĐẶC BIỆT LÀ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2007 -2009 12
1. Chính sách tiền tệ của FED 12
2. Các chính sách FED sử dụng trong cuộc khủng hoảng 2007-2009 23
III. GIẢI PHÁP FED ĐƯA RA CHO NỀN KINH TẾ MỸ 29
1. ndsjhls 29
2.dfgdsgsdh 34
KẾT LUẬN 41
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách. Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ…) và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một hệ thống Ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay Ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được.
Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, ngân hàng trung ương (NHTW) cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì NHTW có thể coi là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế.
Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang Mỹ. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn.Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia.
Bài tiểu luận này sẽ trình bày rõ hơn và cụ thể hơn những vai trò, tầm ảnh hưởng và các chính sách nổi bật của FED đối với nền kinh tế Mỹ nói riêng và toàn thế giới nói chung qua các phần chính sau:
Tổng quan về Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Các chính sách FED sử dụng để tác động vào nền kinh tế Mỹ đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng năm 2007-2009
NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED)
Hoàn cảnh ra đời
Năm 1791, Alexander Hamilton (Hamilton là người đại diện cho quyền lợi của gia tộc Rothschild ) trình lên quốc hội phương án thành lập First Bank of the United States để giải quyết tình trạng “ thiếu tiền ”. First Bank of the United States (BUS) được vận hành theo đúng mô hình của Ngân hàng Bắc Mỹ. Thomas Willing, chủ tịch Ngân hàng Bắc Mỹ được mời giữ chức chủ tịch ngân hàng mới. Đối với quyền sở hữu, chính quyền liên bang nắm quyền sở hữu 1/5 ngân hàng trung ương này. 80% cổ phần còn lại, lẽ dĩ nhiên, thuộc về các đại gia tộc ngân hàng. Ngân hàng mới sẽ có quyền phát hành tiền và đầu tư vào các khoản nợ công và tài trợ tín dụng giá rẻ cho các nhà công nghiệp. Chính quyền liên bang cũng trao cho ngân hàng quyền được lưu ký quĩ và tài sản của chính phủ. Thời gian hoạt động được qui định là 20 năm.
Năm 1812, cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nổ ra. Chính phủ Hoa Kỳ phải phát hành rất nhiều nợ để tài trợ cho các hoạt động quân sự cực kỳ tốn kém. Từ 1811 đến 1815, số ngân hàng đã tăng 117 lên 246. Tổng số tiền kim loại các ngân hàng đã phát hành rơi vào khoảng từ 14,9 triệu đô-la (1811) đến 13,5 triệu đô-la (1815). Trong khi đó, tổng lượng tiền giấy và tiền gửi là 42,2 triệu đô-la (1811) đã tăng gần 90% sau 4 năm, đạt con số 79 triệu đô-la (1815).Việc phát hành quá nhiều tiền và tài trợ các khoản chi phí chiến tranh khổng lồ đẩy các ngân hàng vào tình trạng khó khăn và mất khả năng thanh toán. Lúc này, các cuộc tranh cãi về việc giải quyết hậu quả cho tình trạng trên trở nên gay gắt. Cuối cùng nước Mỹ một lần nữa lại lựa chọn việc thành lập ngân hàng trung ương.
Mô hình lần này cũng giống như First Bank of the United States, chỉ khác một chữ trong tên gọi: Second Bank of the United States. Cuộc chiến Anh-Pháp kết thúc cùng năm 1816. Và 80% sở hữu của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ “mới” thuộc về gia đình Rothschild và những người đại diện. Ngân hàng này có thời hạn 20 năm để thực hiện các chức năng tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, mua phần lớn nợ của chính phủ, và nhận tiền gửi của Bộ Tài chính.
Các ông chủ của Second Bank of the United States (BUS2) bắt tay cùng đại diện các ngân hàng lớn ở ngoại ô Boston và thống nhất cung cấp một khoản tín dụng trị giá 6 triệu đô-la bằng tiền đúc tại New York, Philadelphia, Baltimore, và Virginia trước khi phải nhất nhất tuân theo yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc với những khoản nợ phải thanh toán cho ngân hàng các bang. Lượng tiền đúc này được tính toán sẽ vượt xa nhu cầu chuyển đổi tiền giấy sang tiền đúc có thể phát sinh khi đạo luật mới được thực thi. Như vậy, các ngân hàng có thể thoải mái phát hành mới tiền giấy mà không lo lắng tới việc vi phạm pháp luật. “Thương vụ” giữa BUS2 và ngân hàng tại các bang đã biến qui định phải qui đổi ra tiền đúc để thanh toán chỉ còn mang tính hình thức. Nền kinh tế tiếp tục ở trong tình trạng lạm phát. Đến năm 1819, yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc bị dỡ bỏ cùng lúc với khủng hoảng kinh tế trong thời gian 1819-1821.
Cho đến năm 1836, Second Bank of United States giải tán sau khi điều lệ của ngân hàng không được gia hạn. Sau nhiều năm nội chiến của nước Mỹ, gia tộc Rothschild đã quay trở lại và lần thứ ba xác lập mô hình ngân hàng trung ương ở nước Mỹ - Hệ thống Dự trữ Liên bang, vào năm 1913.
Kế hoạch thành lập ngân hàng trung ương Hoa Kỳ lần thứ ba được một nhóm các nhà ngân hàng bí mật bàn bạc và thông qua vào tháng 11 năm 1910 sau chín ngày hội họp tại đảo Jekyll. Với những mục tiêu và kế hoạch bàn bạc đề ra. Cho tới ngày 23/12/1913, FED chính thức được quốc hội phê chuẩn thành lập và đi vào hoạt động chính thức từ năm 1915.
Cơ cấu của FED
Cục dự trữ liên bang (Federal Reserve System – Fed) là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913.
Cục dự trữ liên bang bề ngoài là ngân hàng của chính phủ nhưng thực ra là sở hữu tư nhân, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Fed hiện nay là Ben Bernanke.
FED bao gồm 12 ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên nó là một hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu. Mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo tên thành phố mà nó đặt trụ sở, chẳng hạn như Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Freancisco, trong đó Ngân hàng dự trữ New York có một vai trò nổi bật hơn so với các Ngân hàng còn lại.
Theo tòa án tối cao Mỹ, các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của chính quyền liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang cũng có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một số phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng. Các Ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do FED phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Bản đồ các khu vực quản lý của các ngân hàng Fed khu vực
12 ngân hàng khu vực dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.
Cổ tức được trả dưới dạng khoản bù vào lãi suất cho phần dự trữ thiếu hụt được giữ tại Fed. Theo quy định của luật pháp, mỗi ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà phần lớn đặt tại Fed. Cục dự trữ liên bang không trả lãi suất cho các khoản dự trữ này.
Mỗi ngân hàng Fed khu vực được ký hiệu bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành.
Boston A
New York B
Philadelphia C
Cleveland D
Richmond E
Atlanta F
Chicago G
St Louis H
Minneapolis I
Kansas City J
Dallas K
San Francisco L
Các ngân hàng thành viên
Tất cả các ngân hàng đều là thành viên của FED, phải tuân thủ một mức dự trữ bắt buộc nhất định, được vay tiền từ FED, được thanh toán bù trừ tại FED, chịu sự giám sát về các hoạt động bởi FED
Hội đồng thống đốc
Lãnh đạo FED là Hội đồng thống đốc, gồm có 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. Bảy thành viên của ban Thống đốc đóng vai trò là cơ quan quyết định các chính sách tiền tệ Mỹ. Nhiệm kì của mỗi thành viên Hội đống thống đốc kéo dài 14 năm, các thành viên chỉ có thể đựoc tái bổ nhiệm nếu nhiệm kì trước của thành viên đó không phải là một nhiệm kì trọn vẹn. Hội đồng ấn định mức dự trữ bắt buộc và kiểm soát lãi suất tái chiết khấu.
Ủy ban thị trường tự do liên bang (FOMC)
Ủy ban bao gồm 12 thành viên, trong đó có 7 thành viên của hội đồng thống đốc, chủ tịch ngân hàng Dự trữ liên bang New York và các chủ tịch của 4 ngân hàng Dự trữ liên bang khác thường xuyên tiến hành việc chỉ đạo các nguồn vụ thị trường tự do. Vì các nghiệp vụ thị trường tự do là một công cụ quan trọng của FED để kiểm soát cung ứng tiền tệ nên FOMC là tiêu điểm cho việc hoạch định chính sách của hệ thống Dự trữ liên bang.
Vị trí của các thành viên xoay vòng theo nhóm 4 thành viên, trong đó có 1 ngân hàng chủ tịch từ mỗi nhóm:
Boston, Philadelphia, Richmond.
Cleveland và Chicago.
Atlanta, St. Louis và Dallas
Minneapolis, Kansas City và San Francisco
Những chủ tịch ngân hàng dự trữ không bầu cử tham gia vào những cuộc họp của Ủy ban, tham gia thảo luận, và xây dựng những đánh giá của Ủy ban đối với nền kinh tế và sự lựa chọn các chính sách.
FOMC tổ chức 8 cuộc họp thường kì hằng năm. Trong những cuộc họp này, Ủy ban xem lại nền kinh tế và những điều kiện tài chính, quyết định quan điểm về chính sách tiền tệ thích hợp, đánh giá rủi ro của mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn.
Những thành viên của FOMC trong năm 2012:
Ben S. Bemanke, Board of Governors, Chairman
William C. Dudley, New York, Vice Chair man
Elizabeth A. Duke, Board of Governors
Jeffrey M.Lacker, Richmond
Dennis P. Lockhart, Atlanta
Sandra Bloom Raskin, Board of Governors
Daniel K. tarullo, Board of Governors
John C. Williams, San Fransisco
Janet L. Yellen, Board of Governors.
Những thành viên thay thế:
James Bullard, St. Louis
Charles L. Evan, Chicago
Esther George, Kanas City
Eric S. Rosengren, Boston
Christine M. Cumming, First Vice president, New york
Thành viên Ủy ban thay đổi vào cuộc họp thường niên đầu tiên của năm nay.
2013
2014
2015
Thành viên
New York
Chicago
Boston
St. Louis
Kansas City
New York
Cleveland
Philadelphia
Dallas
Minneapolis
New York
Chicago
Richmond
Atlanta
San fransisco
Thành viên thay thế
New York+_
Cleveland
Philadelphia
Dallas
Minneapolis
New York+_
Chicago
Richmond
Atlanta
San fransisco
New York+_
Chicago
Boston
St. Louis
Kansas City
Nhìn bề ngoài cơ cấu phức tạp của FED, hẳn không phải ai cũng đặt ra câu hỏi “Ai thực sự nắm giữ FED?”. Theo Eustace Mullins, tác giả cuốn sách “ Bí mật của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ”- Secrets of Federal Reserve thì Ngân hàng New York là ngân hàng “khống chế thực tế” của hệ thống Cuc Dự trữ Liên bang Mỹ.
Tuy nhiên Ban Thống đốc của FED vẫn chịu “sự thao túng” của các nhà tài phiệt. Vấn đề là ở chỗ, bên cạnh sự tồn tại của Hội đồng Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn liên bang. Hội đồng Tư vấn liên bang này do 12 đại diện của ngân hàng điạ phương thuộc cục dự trữ Liên bang, có quyền bỏ phiếu như nhau khi thông qua các quyết định. Chính hội đồng tư vấn liên bang này là người đề xuất các kiến nghị về chính sách tiền tệ cho Hội đồng Thống đốc. Bề ngoài là công bằng, khách quan nhưng không ai đảm bảo rằng quyền của Ngân hàng nhỏ ở Dallas có quyền ngang hàng với ngân hàng ở New York mà ngân hàng ở Ngân hàng ở New York thì luôn là đại diện cho các nhà tài phiệt phố Wall. Vậy ai thực sự nắm giữ FED? Câu trả lời là các nhà tài phiệt phố Wall- nhưng cụ thể họ là ai thì chưa ai xác định rõ, họ vẫn đứng đằng sau tấm rèm chỉ đạo hoạt động của FED.
Nhiệm vụ của FED
Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn định và lãi suất hợp lí.
Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (FED) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi FED bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ FED: Các ngân hàng thành viên của FED vay tiền từ FED để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, đến số lượng tiền các thành viên sẽ được vay.
Giám sát và quản lí các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an toàn để gửi tiền và bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng. chính phủ Mỹ và Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát hành tiền,….
Tiến hành các nghiên cứu về nên kinh tế Mỹ cũng như kinh tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo giáo dục qua website.
Tính độc lập của FED
Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW: (1) NHTW độc lập với chính phủ; (2) NHTW là một cơ quan thuộc chính phủ; và (3) NHTW thuộc Bộ Tài chính. Trong đó, hai mô hình đầu tiên là phổ biến hơn cả.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTW được xem như nền tảng của những cải cách về mặt thể chế để giảm sự can thiệp bất hợp lý của chính trị đến quá trình xây dựng và thực thi CSTT nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Lý do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng và điều hành CSTT mà có sự can thiệp chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm gia tăng tính tạm thời và không bền vững của kinh tế vĩ mô, đặt biệt là nguy cơ bùng nổ lạm phát và theo đó hạn chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra.
Mặc dù Chính phủ giữ quyền thông qua đạo luật cho ra đời Hệ thống Dự trữ Liên bang, FED hoạt động rất độc lập. Chi tiết các giao dịch của FED chưa bao giờ được công bố. Quốc hội và Bộ Tài chính chỉ biết chính xác số tiền mà FED nộp hàng năm vào ngân sách quốc gia. Một con số lớn. Doanh thu thực sự của FED vẫn luôn là ẩn số.
Các bộ phận của Cục dự trữ liên bang (Fed) có tư cách pháp lý khác nhau.Hội đồng Thống đốc của Fed là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ.
Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung.
Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Các ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do Fed phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Nói chung, các nghiên cứu về NHTW thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTW chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc lập của NHTƯ cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTW độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.
CÁC CHÍNH SÁCH FED SỬ DỤNG ĐỂ TÁC ĐỘNG VÀO NỀN KINH TẾ MỸ ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG 2008
Chính sách tiền tệ của FED
Chính sách lãi suất
Về cơ bản FED đang điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng đó là Lãi suất chiết khấu (Discount rate) và Lãi suất quĩ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
Các loại lãi suất FED áp dụng
Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
FFR là công cụ được FED sáng tạo muộn hơn so với công cụ lãi suất chiết khấu. Nó bắt đầu được FED sử dụng từ những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ XX. Trong khi đó công cụ lãi suất chiết khầu được sử dụng ngay từ khi FED thành lập.
Quỹ dự trữ liên bang hình thành từ lượng tiền dự trữ bắt buộc của tất cả các trung gian tài chính nhận tiền gửi tại FED. Cũng chính vì thế mà FFR có tên gọi là “lãi suất quỹ dự trữ liên bang”. FFR được ủy ban thị trường mở công bố sau các phiên họp định kỳ và nó không mang tính chất ấn định cụ thể mà thực chất chỉ là lãi suất mục tiêu để Fed thực hiện trên thị trường mở nhằm đạt đến lãi suất mục tiêu đã công bố. FFR là lãi suất thấp nhất mà các trung gian nhận tiền gửi có thể vay để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc .
Mặc dù công cụ này được FED áp dụng chưa lâu nhưng FED lại thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu thông qua định hướng loại lãi suất này. Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường.
Lãi suất chiết khấu
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo dự trữ bắt buộc, các trung gian tài chính còn có nhu cầu đảm bảo thanh khoản, an toàn chi trả. Lãi suất chiết khấu của Fed chính là lãi suất cho các trung gian tài chính vay để đáp ứng các nhu cầu này. Về nguyên tắc, lãi suất liên ngân hàng thông thường sẽ thấp hơn lãi suất chiết khấu vì nếu không, trung gian tài chính sẽ không vay liên ngân hàng mà sẽ vay từ Fed để được hưởng lãi suất chiết khấu thấp hơn.
Lãi suất chiết khấu thường thường cao hơn lãi suất FFR và có ba mức lãi suất chiết khấu áp dụng cho ba loại cho vay khác nhau là tín dụng chính (Primary credit), tín dụng mở rộng (Secondary credit) và tín dụng thời vụ (Seasonal credit) .
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khái niệm
Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu tiên được sử dụng ở Mỹ vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM.
Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi các loại mà các ngân hàng thương mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại Cục dự trữ liên bang.
Trong thời hạn giới hạn quy định của pháp luật, Hội đồng thống đốc có quyền duy nhất đối với các thay đổi trong dự trữ bắt buộc. Tổ chức lưu ký phải có dự trữ dưới các hình thức tiền mặt, tiền gửi kho quỹ tại Cục dự trữ Liên bang. Số tiền dự trữ bắt buộc của một tổ chức lưu ký được xác định bằng cách áp dụng tỷ lệ dự trữ quy định tại Quy chế của Hội đồng Dự trữ Liên bang.
Các tài khoản dự trữ bắt buộc bao gồm tài khoản giao dịch ròng, tiền gửi không kỳ hạn và nợ EURO.
Kể từ ngày 27 tháng 12 năm 1990, tiền gửi có kỳ hạn và nợ EURO đã có một tỷ lệ dự trữ bằng không. Tỷ lệ dự trữ trên tài khoản giao dịch ròng phụ thuộc vào số lượng tài khoản giao dịch ròng tại tổ chức lưu ký.
Sơ lược về tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Fed năm 2011
Ngày 20/12, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã đề xuất những quy định mới về vốn và tính thanh khoản đối với các ngân hàng lớn nhất nước Mỹ để đảm bảo trụ vững trước cuộc khủng hoảng có thể xảy đến trong tương lai.
FED cho biết, các quy định về vốn và tính thanh khoản đối với các đại gia ngân hàng tại Phố Wall sẽ được thực hiện trong hai giai đoạn.
Giai đoạn một dựa vào các chính sách FED đã công bố, ví dụ như kế hoạch kiểm soát nguồn vốn hồi tháng 11 qua. Theo đó, các ngân hàng Mỹ có tổng tài sản trên 50 tỷ USD sẽ phải duy trì lượng tiền mặt tối thiểu tương đương 5% giá trị tài sản của mình nhằm đối phó với các khoản nợ xấu. Ngoài mức bắt buộc trên, các "đại gia" có tài sản từ 500 tỷ USD trở lên cũng phải trích riêng 10% giá trị các khoản cho vay và hợp đồng giao dịch với nhau.
FED cũng thông qua quy định đối với các ngân hàng có tài sản dưới 10 tỷ USD. Theo đó những ngân hàng này sẽ phải trải qua các cuộc sát hạch về khả năng sẵn sàng ứng phó với cuộc suy thoái kinh tế mới.
Giai đoạn thứ hai, các ngân hàng sẽ phải tuân thủ những quy định chặt chẽ theo thỏa thuận quốc tế Basel III về mức dự trữ tiền mặt tối thiểu, dự kiến sẽ có hiệu lực từ năm 2019. Ngoài ra, các nhà băng cũng phải nâng tỷ lệ vốn cấp 1 dựa trên rủi ro bắt buộc lên 7%. Riêng đối với yêu cầu về tính thanh khoản, FED đang chờ Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel bổ sung những khuyến nghị về vấn đề này trước khi đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với các ngân hàng Mỹ.
Những quy định mới chặt chẽ hơn của FED đã vấp phải sự phản đối của hầu hết các ngân hàng tại Mỹ. Họ cho rằng việc duy trì lượng tiền mặt bắt buộc quá cao sẽ ảnh hưởng tới khả năng cho vay. Tuy nhiên, FED cho rằng những lợi ích xã hội từ một hệ thống ngân hàng mạnh mẽ sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích từ các khoản tín dụng ngắn hạn.
Trước động thái này, các chuyên gia tài chính của thị trường Wall Street nhận định rằng, đây thực sự được xem là các quy định khá chặt chẽ. Trong đó, yêu cầu gia tăng vốn dự trữ có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính phái sinh, cũng như lợi nhuận thu được ngoài hoạt động cho vay của các ngân hàng. Tuy nhiên, việc tăng dự trữ bắt buộc là một bước đi quan trọng để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng trở nên an toàn hơn.
Các quy định mới của FED được đề xuất áp dụng cho 31 ngân hàng, trong đó có các ngân hàng siêu lớn như: JP Morgan Chase, Bank of America và Citibank, với khối tài sản khoảng trên 50 tỷ USD.
Các quy định mới được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản được công bố tháng trước, nhằm giúp cho các ngân hàng lớn có đủ nguồn lực tài chính cần thiết, tránh một cuộc sụp đổ của thị trường chứng khoán tương tự như năm 2008 và sự sụt giảm lớn trong hoạt động kinh tế toàn cầu, bao gồm cả tỷ lệ thất nghiệp 13%.
Ngoài ra, các ngân hàng lớn nhất có thể sẽ được yêu cầu duy trì thêm một quỹ dự trữ khác, tương đương ít nhất 5% các tài sản có an toàn. Ở giai đoạn thứ hai, FED có thể sẽ ban hành quy định về việc các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn dự trữ nhất định đối với các tài sản có tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, FED còn phải chờ đợi Ủy ban Basel (Cơ quan Giám sát Ngân hàng quốc tế) xem xét.
Trong hai thập kỷ qua, số tiền mà các ngân hàng sử dụng để cho vay và thực hiện các dịch vụ tài chính phái sinh đã tăng lên mạnh mẽ so với tiền gửi của khách hàng mà họ có được, nhưng những thay đổi như vậy được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Trong các điều khoản về cải cách tài chính, Quốc hội Mỹ đã quyết định các ngân hàng nên duy trì vốn dự trữ với mức độ phù hợp với quy mô và trình độ quản lý thực tế. Và với quy định mới này về dự trữ bắt buộc, các ngân hàng có thể sẽ có được khả năng tốt hơn để vượt qua khủng hoảng.
Hiện Ủy ban Basel yêu cầu đến năm 2019 các ngân hàng phải duy trì tổng mức dự trữ bắt buộc là 10,5% (tăng 2,5% so với mức 8% trước đó). Trong khi đó, trước thời gian khủng hoảng, một số công ty, ngân hàng của Wall Street chỉ duy trì ở mức 3%. Điều này cho thấy các quy định của FED đã khá dễ dãi so với những quy tắc được thiết lập bởi Ủy ban Basel.
Theo FED, các quy tắc mà FED đề xuất sẽ được lấy ý kiến từ công chúng và sớm nhất cũng phải đến cuối năm 2012 mới có hiệu lực. Theo đó, các ngân hàng Mỹ sẽ có một khoảng thời gian để nắm bắt và thực hiện, có nghĩa là phải đến 2013 các quy định về vốn dự trữ mới này mới được đáp ứng.
Nhóm ngân hàng và các nhà phân tích tài chính bước đầu đã có phản hồi rằng, các tiêu chí mà FED đặt ra cần phải tính toán để không gây ra nhiều khó khăn hơn so với tiêu chuẩn quốc tế của Basel, hoặc các điều khoản đã công bố trước đó đối với các ngân hàng lớn của Mỹ. Tuy nhiên, đề xuất của FED được xem như một giải pháp tạm thời cho đến khi có quyết định cuối cùng.
Các chính sách FED sử dụng trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua .
Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái từ tháng 12 năm 2007. Đây là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2008 có 84 nghìn lượt lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm, hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ bị phá sản đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng.
Những thay đổi trong chính sách lãi suất
Điều chỉnh FFR
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008).
Diễn biến lãi suất cơ bản của FED 2007-2009
Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED)
Điều chỉnh lãi suất chiết khấu
FED cũng hạ lãi suất chiết khấu áp dụng với các khoản vay trực tiếp từ FED cho các ngân hàng và các công ty chứng khoán từ mức 1,25% xuống còn 0,5%.
Diễn biến lãi suất chiết khấu
Ngày, tháng
Năm
Lãi suất chiết khấu
19-2
2010
0,75
16-12
2008
0,5
29-10
2008
1,25
8-10
2008
1,75
30-4
2008
2,25
18-3
2008
2,5
17-3
2008
3,25
30-1
2008
3,5
22-1
2008
4,00
11-12
2008
4,75
31-10
2008
5,00
18-9
2008
5,25
17-8
2008
5,75
Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED)
Tác dụng của chính sách lãi suất trong việc đối phó khủng hoảng
Đối với Mỹ
FED mong muốn rằng việc cắt giảm các loại lãi suất có thể giúp khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư, giảm bớt chi phí vay bao gồm các khoản cho vay doanh nghiệp và cho vay tiêu dùng. Từ đó giúp các doanh nghiệp khôi phục và mở rộng kinh doanh, kích thích tiêu dùng nội địa làm đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế .
Tuy nhiên, mong muốn và thực tế không phải lúc nào cũng song hành. Giới đầu tư Mỹ thực sự nắm được thực trạng nền kinh tế Mỹ. Họ đã tin rằng động thái của FED cũng không thể cứu vãn gì được nếu như suy thoái đã thực sự diễn ra.
Với thực trạng là khủng hoảng tín dụng cho vay bất động sản (BĐS) từ tháng 7 của Mỹ đang ngày một lún sâu hơn. Điển hình là hàng loạt các ông lớn trên thị trường tài chính Mỹ như Citygroup, JPMorgan Chase, Merill Lynch... đồng loạt thông báo các khoản thua lỗ liên quan đến cho vay BĐS lên đến 97 tỷ đôla Mỹ (theo Bloomberg), Với tỉ lệ thất nghiệp cao nhất trong vòng 3 năm qua (5%), giá BĐS tiếp tục giảm mạnh (thấp nhất kể từ năm 1991), khủng hoảng trong cho vay thế chấp ngày càng lún sâu, cộng với sự căng thẳng chính trị quốc tế đang làm cho các nhà đầu tư Mỹ tin rằng một cuộc suy thoái kinh tế đã và đang xảy ra, giải pháp của FED là muộn và cần thời gian để phát huy tác dụng.
Hơn thế nữa, chính động thái gấp gáp của FED càng làm cho nhận định trên là có thật và thị trường chứng khoán Mỹ có chiều hướng xấu đi là khó tránh khỏi .
Đối với các nước khác
Động thái của FED đã tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư từ hai châu lục Á và Âu rằng chính phủ Mỹ sẽ bằng mọi cách cứu vãn thị trường tài chính mà rộng hơn là nền kinh tế nước này cũng giống như những lần cắt giảm lãi suất trước của FED (năm 2001)
Ở Việt Nam, trong khi quyết định của NHNN về việc tăng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM phần nào sẽ tiếp tục làm giảm cung tiền thì thông báo của FED làm cho giá đô la chưa kịp phục hồi (do chính sách mua ngoại tệ của NHNN) lại tiếp tục xuống dốc, thị trường vàng bất ngờ tăng trở lại, khiến nhiều nhà đầu tư ngắn hạn vốn đã thiếu niềm tin với thị trường và nhà quản lý đã quyết định chuyển qua đầu tư trên thị trường vàng làm cho TTCK Việt Nam đã ảm đạm lại càng ảm đạm thêm.
Cơ chế điều hành lãi suất của FED thời kì hậu khủng hoảng
Đối với lãi suất FFR
Ngày 10/8/2010 trong thông báo được đưa ra sau cuộc họp của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC), FED cho biết sẽ tiếp tục duy trì tỷ lệ lãi suất ở mức thấp kỷ lục thêm một thời gian nữa, đồng thời sẽ kéo dài các khoản đầu tư thời kỳ hậu khủng hoảng và bơm tiền vào nền kinh tế.
Dưới sự đánh giá của một số chuyên gia, việc duy trì lãi suất ở mức thấp này là một con dao hai lưỡi. Duy trì tỷ lệ lãi suất thấp kỷ lục (0,25%) là chơi một canh bạc nguy hiểm, về lâu dài có thể gây tổn thương cho nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi mong manh của Mỹ.
Đây là nhận định đáng lưu tâm của Thomas Heonig, Chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ tại thành phố Kansas, được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Cục dự trữ liên bang (FED) quyết định mua các khoản nợ chính phủ, tiếp tục các gói kích thích đồng thời duy trì mức lãi suất thấp kỷ lục nhằm hỗ trợ đà phục hồi kinh tế đang có chiều hướng chậm lại trong những tháng gần đây.
Nguyên nhân mà ông Heonig đưa ra là tỷ lệ lãi suất gần 0% này đã duy trì gần 2 năm qua có thể dẫn tới tình trạng lạm phát và tạo ra các bong bóng đầu cơ mới. Ngoài ra, lãi suất thấp khuyến khích người dân và các doanh nghiệp ỷ lại vào các khoản nợ và đòn bẩy tài chính của chính phủ. Điều này sẽ vô hình trung đẩy Mỹ rơi trở lại những sai lầm trước đây mà hậu quả chính là cuộc suy thoái được đánh giá là tồi tệ nhất kể từ năm 1930. Theo ông Heonig, trong giai đoạn ngắn hạn, ngân hàng trung ương cần tăng lãi suất cơ bản lên mức 1% và chờ đợi để nền kinh tế tự điều chỉnh trước khi tiếp tục tăng lên mức 2% - là thời điểm nền kinh tế đã đi đúng quỹ đạo phục hồi.
Đối với lãi suất chiết khấu
Ban điều hành chính sách của FED đã nâng lãi suất chiết khấu đối với các ngân hàng vay tiền trực tiếp của FED thêm 0.25% lên mức 0.75% và cho rằng điều này đảm bảo cho các thể chế tài chính hoạt động vững chắc hơn trong thị trường tiền tệ hơn là tập trung giải quyết những khoản vay ngắn ngày để giải quyết tính thanh khoản.
Quyết định tăng lãi suất chiết khấu của FED bắt đầu có hiệu lực từ 19-2-2010. Ban điều hành FED cho biết họ vẫn điều hành chính sách tiền tệ như trước và cho biết ngân hàng trung ương này thấy rằng các điều kiện kinh tế đảm bảo lãi suất sẽ ở mức thấp trong một thời gian dài nữa.
Tuy FED nói rằng không thắt chặt tiền tệ nhưng đồng đô la ngay lập tức tăng điểm khiến thị trường trái phiếu giảm điểm nhanh. Cụ thể là đồng đô la tăng 0.7% lên mức $1.3514 so với euro vào lúc 5:19 p.m. giờ New York. Trước đó, đồng eur đã ở mức $1.3607 trong ngày hôm trước. Cặp tỷ giá này đã giảm xuống $1.3502, mức giảm thấp nhất kể từ tháng 5 năm ngoái .
Thị trường cho rằng FED đã tiến một bước nữa trong việc thu hồi các khoản tiền kích thích kinh tế. Khoản tiền này lên tới hàng trăm tỷ đô la được cung cấp bằng các khoản tín dụng cho các ngân hàng, cho các nhà môi giới trái phiếu, bằng các giấy nợ thương mại và bằng các khoản tiền cứu trợ các thể chế tài chính sắp phá sản như AIG là một ví dụ.
Có thể nói điều này hoàn toàn là một bất ngờ khi các nhà đầu tư đang trông chờ FED sẽ không thay đổi đường lối giữ nguyên lãi suất ở mức thấp trong thời gian đến cuối năm 2010.
Đây là lần nâng lãi suất chiết khấu đầu tiền của FED trong ba năm vừa qua. Các chuyên gia Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ Ltd tại New York cho rằng FED đang quay trở lại đường lối hoạt động khi môi trường kinh tế kinh doanh diễn ra bình thường. Họ cho rằng ngày hôm nay FED nâng lãi suất, cho dù thời gian gần họ chưa nâng lãi suất ngay thì sớm hay muộn FED cũng sẽ nâng lãi suất cơ bản.
Khi tăng mức lãi suất chiết khấu mà các ngân hàng phải trả cho các khoản vay khẩn cấp, FED nói rằng không nên coi bước đi này là dấu hiệu cho thấy họ sẽ sớm tăng lãi suất đối với các khoản vay tiêu dùng và doanh nghiệp.
Các chính sách khác của FED
Chính sách của FED trước năm 2008
Tháng 8/2007, cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn đã nổ ra ở Mỹ mà không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào. Khủng hoảng đã lan đến các trung tâm tài chính lớn khác như: London, Tokyo, Paris, Frankfurt. Lần đầu tiên nhiều ngân hàng lớn rơi vào khủng hoảng cho vay thế chấp kiểu này.
Những diễn biến đầu tiên của khủng hoảng:
1. Bear Stearns, ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ, đã thông báo hai trong nhiều quỹ bảo hiểm của họ đã mất hơn 1/2 tài sản do sự sụt giảm mạnh giá trị danh mục đầu tư cho vay thế chấp. Khách hàng không thể rút tiền và điều duy nhất họ có thể làm là theo dõi một cách vô vọng sự mất giá của các khoản đầu tư.
2. Banque Nationale Paribas (BNP), ngân hàng lớn nhất của Pháp đã đình chỉ hoạt động các quỹ bảo hiểm của họ do thị trường chứng khoán thế chấp mất thanh khoản.
3. Hai ngân hàng lớn của Trung Quốc, Ngân hàng Công thương Trung Quốc và Ngân hàng Trung Quốc, đã thông báo khoản lỗ trị giá 11 tỷ USD vì những rủi ro liên quan đến cho vay thế chấp.
4. Ở Anh, lần đầu tiên kể từ sau cuộc Đại suy thoái, dân chúng đã xếp hàng trước cửa ngân hàng Northern Rock để rút tiền.
5. Tin tức về các sự kiện này đã lan toả và tạo ra cú sốc tài chính toàn cầu.
Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ lĩnh vực cho vay thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ. Vào tháng 8/2007, tỷ lệ thanh toán chậm đã tăng 36%, đạt kỷ lục cao nhất trong 16 năm qua. Năm 2007, vị thế tài sản của những người sở hữu nhà đã thay đổi từ “thanh toán chậm” đến “tịch thu tài sản” để thế nợ và tỷ lệ này đã tăng gấp đôi so với năm 2006. Các khoản vay thế chấp dưới chuẩn chỉ chiếm 16% tổng số vốn vay thế chấp, nhưng lại chiếm tới 50% các khoản vỡ nợ.
Ngày 20/08/2007, Fed đã quyết định bơm thêm 3,5 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng trên thị trường tín dụng. Ngày 18/09/2007, Fed đã quyết định cắt giảm lãi suất từ mức 5,25% xuống còn 4,75%. Thị trường chứng khoán phố Wall ngày 18/09/2007 cũng đã có những phản ứng tích cực sau quyết định của FED, trong đó, 3 chỉ số quan trọng nhất đều tăng hơn 1%.
Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%
Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của Cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).Những khoảng thời gian tiếp theo lãi suất của Fed liên tục giảm.
Bảng lãi suất của FED công bố từ tháng 08/2006 đến cuối năm 2008.
Ngày
Lãi suất (%)
Giảm (%)
08/08/2006
5,25
-----
18/09/2007
4,75
-0,50
31/10/2007
4,50
-0,25
11/12/2007
4,25
-0,25
22/01/2008
3,50
-0,75
30/01/2008
3,00
-0,50
18/03/2008
2,25
-0,75
30/04/2008
2,00
-0,25
08/10/08
1,50
-0.5
Mục đích của những chính sách của Fed trong khoảng thời gian này là nhằm hỗ trợ cho các định chế tài chính và nhằm ổn định thị trường, đồng thời thúc đẩy kinh tế. Và đến tháng 9/2008, lãi suất cho vay của Fed chỉ là 2%. Tuy nhiên, những phản ứng của Fed và chính phủ Mỹ cũng không thể cứu vớt được thị trường bởi lẽ cuộc khủng hoảng đã được hình thành từ quá lâu với những nguyên nhân mà Fed và chính phủ Hoa Kỳ không kiểm soát được. Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng thực sự bùng nổ với sự sụp đổ của nhiều định chề tài chính lớn. Nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong 7 thập niên trở lại đây.
Chính sách của FED từ lúc cuộc khủng hoảng xảy ra cho đến nay
Cuộc khủng hoảng đã gây ra những hậu quả nặng nề đối với kinh tế Hoa Kỳ. GDP của quý IV năm 2008 ngay lập tức giảm 5,4%, tỷ lệ thất nghiệp tăng 1% từ mức 6,2% lên đến 7,2%, niềm tin của người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực.
Khi cuộc khủng hoảng xảy ra, Chính phủ Hoa Kỳ và Fed đã có những biện pháp rất rất mạnh mẽ để giúp nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng.
Về phía Chính phủ Mỹ, hai gói cứu trợ đã được đưa ra. Vào tháng 10/2008, gói cứu trợ 700 tỷ USD đã được Thượng viện Mỹ thông qua nhằm tập trung cấp vốn trực tiếp vào các hãng tài chính nhằm củng cố lại thị trường tín dụng. Vào tháng 3/2009, Chính phủ Mỹ lại thông qua gói kích cầu 787 tỷ USD nhằm chi tiêu liên bang, cắt giảm thuế và tạo ra việc làm.
Về phía Fed, hành động đầu tiên mạnh tay nhất là mua lại các khoản nợ xấu trị giá 1450 tỷ USD chứng khoán thế chấp và giấy tờ nợ, do ngân hàng Fannie Mae, Freddie Mac và Ginnie Mae phát hành, mua lại mua lại 300 tỷ USD trái phiếu chính phủ. Hành động này giúp cho các ngân hàng này tăng tính thanh khoản và tiếp tục đi vào hoạt động.
Nhìn vào quy mô của khoản mua lại phần nào đó làm cho giới đầu tư tin tưởng vào quá trình khôi phục của thị trương tài chính. Trong cuộc đại khủng hoảng lần này, ngoài 3 công cụ truyền thống là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, công cụ thị trường mở, Fed đã đưa ra 7 công cụ mới: TAF (đấu thầu cho vay kỳ hạn), TSLF (cho vay chứng khoán kỳ hạn), PDCF (tín dụng cho các trung gian tài chính hàng đầu), AMLF( cho vay dựa trên thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản), CPFF( quỹ thương phiếu), MMIFF( công cụ quỹ dành cho các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ), TALF (cho vay dựa trên chứng khán được đảm bảo bằng tài sản). Ngoài ra, Fed cũng cùng phối hợp cùng với 14 ngân hàng trung ương các nước khác, để trong một khoảng thời gian ngắn cơ cấu tiền tệ các nước cùng có thể liên minh với nhau, đồng thời tăng thêm vị thế của đồng đô-la ra thị trường các nước. Từ đó, việc nước Mỹ dựa vào đồng đô-la để vực dậy nền kinh tế là hoàn toàn có lợi.
Bên cạnh đó là việc tăng cường tính ổn định cho môi trường tiền tệ, đặc biệt đó là tăng cường cứu trợ đối với các cơ cấu tiền tệ có vấn đề. Minh chứng rõ nét nhất cho nhận định này đó là lần lượt các tập đoàn lớn như AIG, Citigroup và hai đại gia tài chính Fannie Mae và Freddie Mac lần lượt được giải cứu.
Hành động tiếp theo là thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm khôi phục nền kinh tế, kích thích đầu tư. Thật vậy, trong quý IV năm 2008, lãi sất cho vay của Fed chỉ là 1% và kể từ đầu năm 2009 đến nay, mức lãi suất này chỉ là 0-0,25%, là mức lãi suất cơ bản thấp nhất từ năm 1954.
Cả hai hành động trên của Fed được đánh giá là đúng đắn và đủ liều lượng đối với nền kinh tế Hoa Kỳ vào lúc này. Đặc biệt là mức lãi suất cho vay thấp trong thời gian qua. Mức lãi suất thấp này sẽ giúp giảm bớt chi phí vay, bao gồm các khoản cho vay doanh nghiệp và tiêu dùng.
Những chính sách của Fed và chính phủ Mỹ đã mang lại những tác động tích cực đối với kinh tế Hoa Kỳ. Trong quý III năm 2009 vừa qua, GDP của Hoa Kỳ đã tăng 4,3% sau 3 quý sụt giảm
Thời gian
GDP(b.USD)
GDP change
2008 q3
14,546.7
2008 q4
14,347.3
-5.4%
2009 q1
14,178.0
-4.6%
2009 q2
14,151.2
-0.8%
2009 q3
14,301.5
4.3%
Thị trường chứng khoán đã có những khôi phục mạnh mẽ kể từ cuộc khủng hoảng xảy ra từ tháng 9 năm 2008. Chỉ số Dow Jones đã lấy lại được mức trên 10000 điểm. Lòng tin của nhà đầu tư đã dần được khôi phục. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán luôn lên xuống cùng với những quyết định của Fed và Chính phủ Hoa Kỳ.
Có thể nói rằng nền kinh tế lúc này chưa thực sự hồi phục. Tình trạng thất nghiệp hiện nay đang ở mức cao. Kể từ tháng 9 năm 2008 đến nay, tỷ lệ thất nghiệp luôn ở mức báo động. Và hiện nay tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức 10,2 %.
Thời gian
Tỷ lệ
thất nghiệp
Sep-08
6,2%
Oct-08
6,6%
Nov-08
6,8%
Dec-08
7,2%
Jan-09
7,6%
Feb-09
8,1%
Mar-09
8,5%
Apr-09
8,9%
May-09
9,4%
Jun-09
9,5%
Jul-09
9,4%
Aug-09
9,7%
Sep-09
9,8%
Oct-09
10,2%
Nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng chưa thể tự lực đứng dậy nếu không có sự trợ giúp của các cơ quan điều tiết như chính phủ Hoa Kỳ và Fed. Đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 6%, là mức có thể chấp nhận được. Với mức thất nghiệp hơn 10% như thời điểm hiện tại quả thực Chính phủ hoa Kỳ và Fed đang đứng trước một bài toán vô cùng nan giải, nhất là khi các cói cứu trợ của Chính phủ và Chính sách của Fed gần như đã đi đến giới hạn.
Giới hạn của Chính phủ Mỹ chính là mức thâm hụt GDP đã lên đến 1400 tỷ USD, chiếm 10% GDP. Đây là mối lo ngại rất lớn của Chính phủ Hoa Kỳ bởi lẽ mức thâm hụt ngân sách cho phép theo lý thuyết kinh tế chỉ nên ở mức 3-5%. Nợ của chính phủ Hoa Kỳ sẽ được trả bằng thuế của người dân trong tương lai. Dưới áp lực của dư luận về mức chịu thuế trong tương lai, Chính phủ Mỹ không dễ dàng để nâng mức chi tiêu trong thời gian tới.
Giới hạn của Fed chính là mức lãi suất cho vay đã gần đến 0% như hiện tại. Với chức năng cho vay chiết khấu này, hầu như Fed đã hết cách bởi lẽ lãi suất cho vay không thể xuống dưới 0%. Fed chỉ có thể củng cố lòng tin của nền kinh tế bằng cách công bố mức lãi suất tiếp tục thấp như hiện tại qua các cuộc họp của mình khi trước đó có áp lực về việc tăng lãi suất. Đối với Fed, vấn đề tăng lãi suất vào thời điểm hiện tại hầu như là không thể bởi nền kinh tế vẫn chưa thực sự hồi phục. Đối với nghiệp vụ thị trường mở, việc mua vào 300 tỷ trái phiếu chính phủ là một cách làm gần đây được coi là một công cụ hiệu quả của Fed. Với công cụ này, Fed đã chủ động hơn trong chính sách nhưng liệu cách làm này có thể sử dụng trong một thời gian dài? Hàm ý trong những chính sách đó là nới lỏng tiền tệ, khiến cho mức lãi suất thấp, kích thích tiêu dùng và đầu tư. Tuy nhiên, sẽ có những vấn đề xuất hiện với chính sách tiền tệ nới lỏng và lãi suất thấp của Fed như hiện tại.
KẾT LUẬN
Viết phần kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cục dự trữ liên bang mỹ và các chính sách tài chính của nó.doc