Trong những nă m qua, kim ngạch thương mại hai chiều Việt nam –
Australia luôn duy trì được mức tăng trưởng đều và khá, khẳng định được sự
chuyển biến về cả lượng và chất trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Cơ
cấu xuất nhập khẩu các mặt hàng cũng có những chuyển biến tích cực, phù
hợp với lợi thế so sánh của mỗi bên. Hơn thế nữa, Hiệp định thương mại Việt
Nam – Australia cùng Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN –
Australia – New Zealand cũng mở ra một cơ hội mới trong quan hệ thương
mại giữa hai nước đồng thời tạo nên một sân chơi mang tính cạnh tranh cao.
Để tận dụng những lợi thế mà các hiệp định mang lại nhằm mục đích chiế m
lĩnh thị phần lớn thị trường này, Việt Nam cần đổi mới công tác tổ chức quả n
lí, tăng cường khuyến khích đầu tư, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tiế n
hành công tác thị trường sâu rộng và có hiệu quả hơn, các doanh nghiệp Việt
Nam cần trang bị những hiểu biết sâu sắc về thị trường, khách hàng và các
quy định về hàng hoá trên thị trường này để từ đó đưa ra các biện pháp phù
hợp để cải tiến và đa dạng hoá sản phẩ m, tối đa hóa lợi ích thương mại điện
tử, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
108 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2262 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả chương trình ODA của Hà Lan về phát triển cơ sở hạ tầng giai đoạn 2005 – 2009 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoảng dưới 10% kim ngạch xuất khẩu-
tức khoảng gần 200 triệu USD năm 2010.
Về nhập khẩu
Máy móc, thiết bị, công cụ, dụng cụ dùng trong sản xuất công nghiệp,
nguyên vật liệu (kim loại, sắt thép…), là những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
từ Australia. Do trình độ của lực lượng sản xuất nước mình còn yếu kém về
23 Nguồn:
viet-nam-sang-australia-2005-2010
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
71
cả năng suất và hiệu quả cùng với đường lối xây dựng đất nước công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Việt Nam có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn các sản phẩm
có độ tinh vi cao từ các nước phát triển, tận dụng lợi thế của nước đi sau.
Ngoài ra các sản phẩm Việt Nam không có lợi thế như lúa mì, sữa và các sản
phẩm từ sữa, tân dược cũng sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập
khẩu từ Australia.
Đặc biệt, trong những năm tới, tiềm năng nhập khẩu than từ Australia là
rất lớn. Nếu như trong những năm trước, các doanh nghiệp Việt Nam còn
phàn nàn về việc khó có thể nhập khẩu số lượng lớn than từ Australia. Gần
đây, đại diện cho hai chính phủ đã ký biên bản ghi nhớ về xuất khẩu than, đề
cập đến vấn đề nhập khẩu với khối lượng lớn, tới cả trăm triệu tấn/năm với
thời gian dài hạn. Việc ký biên bản ghi nhớ này mở đường cho việc nhập
khẩu than từ Australia về Việt Nam. Với điều kiện như thế, trong những năm
tới, triển vọng nhập khẩu than từ Australia với số lượng lớn là rất cao.
Hiệp định AANZFTA đã và đang mở ra nhiều cơ hội lớn thúc đẩy quan
hệ thương mại giữa hai nước Australia và Việt Nam. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh
được thị trường này trong điều kiện còn nhiều khó khăn đòi hỏi phải có sự
vươn lên của các doanh nghiệp cũng như việc hỗ trợ tích cực từ phía nhà
nước.
II. Các giải pháp thúc đẩy quan hệ thƣơng mại hai nƣớc
Từ việc phân tích trên, chúng ta có thể thấy tiền năng phát triển quan hệ
thương mại giữa hai nước Việt Nam và Australia là rất to lớn. Để đẩy mạnh
hơn nữa quan hệ hợp tác thương mại giữa hai nước thì trong thời gian tới,
Việt Nam cần có những giải pháp đúng đắn không chỉ ở Nhà nước mà các
doanh nghiệp cũng cần có chiến lược thích hợp để thâm nhập thị trường đầy
tiềm năng này.
1. Các giải pháp vĩ mô
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
72
1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam tuy đã nhiều lần được sửa đổi
nhưng vẫn chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ, phong cách làm việc quan liêu
cửa quyền, các thủ tục còn rườm rà gây nhiều khó khăn cho không chỉ các
doanh nghiệp trong nước mà còn cả các công ty nước ngoài. Không chỉ thế,
hệ thống pháp luật Việt Nam và Australia còn nhiều điểm không tương đồng,
gây nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp. Chính vì thế, việc tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật là rất cần thiết. Đó là nền tảng cơ sở pháp lý vững vàng
bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào kinh doanh với
Australia đồng thời tạo niềm tin vào môi trường đầu tư ổn định cho các nhà
kinh doanh Australia. Hệ thống pháp luật hoàn thiện đem lại niềm tin ở các
nhà đầu tư về việc đỡ phải đối phó với sự thay đổi điều chỉnh quá nhiều về
pháp lý kinh tế, đầu tư, và trong điều kiện có thay đổi thì họ có thể yên tâm về
bồi thường thiệt hại do những thay đổi quy định trong luật, và nhờ đó, các
doanh nghiệp Australia cũng dễ dàng tiếp cận với thị trường Việt nam hơn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là một khối lượng công việc khổng lồ liên
quan đến nhiều bộ ngành quản lý nhà nước, đòi hỏi sự thống nhất, tập trung.
Rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và
xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản (luật hoặc
dưới luật) đã lỗi thời, đã bất cập, các cơ chế, chính sách không còn phù hợp
cũng cần được thay đổi như cơ chế xuất nhập khẩu, nên tiến tới có quy định
điều hành dài hạn trong một thời kỳ thay vì mỗi năm có một quyết định riêng.
Đặc biệt cần lưu ý tới hệ thống thuế, đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu để hội nhập và hợp tác thuế quan với các nước ASEAN, mở rộng hệ
thống hiệp định thuế song phương, theo dõi và thực hiện tốt các hiệp định đã
ký là những phương cách tốt để thúc đẩy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Pháp lệnh đưa việc thu phí và lệ phí thống nhất cần được ban hành, công tác
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
73
quản lý phải đi vào nề nếp để tránh tình trạng nhiều phí và lệ phí tuy không
lớn nhưng không hợp lý làm phiền hà nhiều người đặc biệt là các nhà đầu tư
nước ngoài. Ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh
tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của
các doang nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Việc thực hiện hoàn thiện hệ thống pháp luật đòi hỏi sự đầu tư lớn của
Nhà nước về kinh phí, nhân lực và thời gian. Công cuộc hoàn thiện không
phải là việc ngày một ngày hai mà có thể kéo dài đến hàng năm. Nhưng sự
đầu tư thích hợp và đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu không đầu tư
thích đáng khiến cho việc rà soát chỉ có tính chất cục bộ, nửa vời thì rất khó
có cơ sở chắc chắn để khẳng định văn bản nào cần loại bỏ ngay và văn bản
nào còn có thể xử dụng được, dẫn đến việc các thủ tục luật lệ ngày càng rườm
rà và phức tạp, tạo bước cản lớn trong hoạt động thương mại giữa hai nước.
Chính phủ Việt Nam cũng cần thực hiện việc minh bạch hoá Luật lệ,
thực hiện các cam kết đã đưa ra về minh bạch hoá luật pháp. Trong thời gian
qua nhiều nhiều doanh nhân và đại diện doanh nghiệp nước ngoài hiện vẫn
phàn nàn về sự thiếu minh bạch trong các văn bản pháp luật của ta, gây cản
trở cho việc đầu tư và kinh doanh của họ tại Việt Nam. Do đó, việc minh bạch
hoá hơn lúc nào là hết sức cần thiết đối với phía Việt Nam. Việc minh bạch
hoá không chỉ giúp các doanh nghiệp trong nước kinh doanh được thuận lợi
mà còn giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm hơn khi kinh doanh tại
Việt Nam.
1.2. Hỗ trợ thông tin về thị trƣờng và xúc tiến thƣơng mại
Như đã phân tích ở trên, một trong những khó khăn của các doanh
nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Australia là thiếu thông tin trầm
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
74
trọng. Việc tìm hiểu thị trường cũng như việc thực hiện các hoạt động xúc
tiến bán sản phẩm gặp nhiều khó khăn.Vì vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các
doanh nghiệp về vấn đề này.
Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, việc hiểu biết về thị trường
có vai trò rất quan trọng, thậm chí đóng vai trò quyết định tới việc kinh doanh
thành công trên thị trường này hay không. Các doanh nghiệp phải nắm được
những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các
thương nhân Australia trong Luật Thương mại của Australia cùng những điểm
khác biệt so với Luật Thương mại Việt Nam. Mặt khác, luật và các quy định
về thuế và hải quan của Australia như Danh bạ thuế thực hiện, Chế độ ưu đãi
thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ
hàng hoá... có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp
khi xuất khẩu sang Australia. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể thành
công trên thị trường nếu không nghiên cứu hệ thống hàng rào phi thuế quan
với những quy định chi tiết về danh mục hàng hoá hạn chế nhập khẩu, cấm nhập
khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, những quy định về vệ sinh dịch tễ đối với hàng hoá
nhập khẩu… Để có được thông tin đầy đủ về thị trường này, sự hỗ trợ tích cực
của Nhà nước là rất cần thiết, cụ thể bằng một số biện pháp như sau:
Thông qua thương vụ của Việt Nam tại Australia, Bộ Thương mại phải
thu thập và phổ biến về thông tin thị trường Australia cho các doanh nghiệp.
Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính
chất… của hàng hóa, cơ quan đại diện của Bộ Thương mại và Ngoại giao Việt
Nam tại Australia cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường để
giúp các doanh nghiệp trọng việc định hướng sản xuất và xây chiến lược xuất
khẩu cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản
xuất và với chất lượng ra sao, với mức giá là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh
trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ…
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
75
Nhà nước cũng cần tổ chức các khóa đào tạo, các lớp tập huấn hay hội
nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại của Australia nhằm nâng cao
hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp luật trong kinh doanh với
Australia . Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, bộ, ngành
liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm về vấn đề này
dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình… nhằm tạo
ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo.
Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp
một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh nghiệp.
Không chỉ có thế, Nhà nước còn phải phổ biến rộng rãi thông tin thị
trường qua các kênh thông tin đại chúng; thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến việc
tìm hiểu thị trường Australia và cử các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng
thâm nhập thị trường Australia đi khảo sát bằng nguồn kinh phí hỗ trợ của
Nhà nước.
Về công tác xúc tiến bán sản phẩm, Nhà nước cần nhanh chóng thành
lập Cục Xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông
tin và tiếp thị. Chức năng của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin
và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược xâm
nhập thị trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến thương mại có nhiệm vụ
xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hoá
Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
1.3. Xây dựng – bổ sung – hoàn thiện các hệ thống chính sách tạo thuận lợi
cho việc phát triển ngoại thƣơng
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam thâm nhập
dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Australia, nhà nước nên
tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ thương mại
mạnh mẽ hơn nữa.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
76
Về chính sách ngoại hối Việt Nam đang từng bước nới lỏng việc kiểm
soát ngoại hối đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu giúp cho doanh
nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh. Nhà nước điều hành linh hoạt lãi suất,
áp dụng chế độ tỉ giá hối đoái theo hướng vừa có lợi cho xuất khẩu, vừa đảm
bảo ổn định kinh tế, thích hợp với từng đối tượng xuất- nhập khẩu và khu vực
thị trường. Đối với các mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu, nhà nước cần
áp dụng một chế độ tỉ giá theo hướng khuyến khích.
Nhà nước cũng cần đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường
Australia thông qua đàm phán, ký kết các hiệp định, thoả thuận thương mại
song phương và đa phương, tạo tiền đề về hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy
mạnh xuất khẩu. Các hiệp định, thỏa thuận thương mại từ trước đến nay vẫn
luôn mở ra những cơ hội lớn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Nhà nước nên hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và
tiếp cận thị trường thông qua các quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc tài trợ xuất khẩu.
Đặc biệt đối với nông sản – mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, Chính
phủ cần cho thành lập các quỹ như Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín
dụng hàng hóa nông nghiệp, đồng thời xây dựng các chương trình hỗ trợ và
bảo lãnh tín dụng xuất khẩu mặt hàng thuộc hải sản và sản phẩm nông nghiệp,
xây dựng chương trình hỗ trợ đặc biệt đối với một số mặt hàng nông nghiệp
như: ngô, sắn.v.v… Việc tài trợ xuất khẩu được thực hiện theo hướng xác
định mặt hàng tài trợ trên cơ sở so sánh kết quả tài trợ với chi phí bỏ ra. Khi
tài trợ xuất khẩu cần xác định rõ mục đích, phương thức và cơ chế bảo đảm để
tránh tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại, trì trệ và không cố gắng để vươn ra thị
trường thế giới…Đối với mặt hàng nông sản, Nhà nước cần hỗ trợ và bảo vệ
hơn nữa thu nhập ổn định cho người nông dân để họ yên tâm sản xuất hàng
nông nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp, song song với việc đầu tư công
nghệ cho việc sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp, hải sản….
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
77
Ngoài ra, nhà nước cũng cần đẩy mạnh, nâng cao vai trò của các Hiệp
hội ngành hàng. Hiện tại, hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng vẫn có
nhiều hạn chế, chưa thực sự có được tiếng nói quyết định chưa hỗ trợ được
đúng mức các mặt hàng cũng như xúc tiến thương mại Việt Nam – Australia.
Trong thời gian tới, các Hiệp hội ngành hàng của Việt Nam cần nâng cao hơn
nữa vai trò của mình, giúp các doanh nghiệp có được những thông tin vi mô
về đối tác và dự báo thị trường. Có sự phối hợp, theo dõi giữa các doanh
nghiệp trong cơ chế định giá xuất khẩu đồng thời với việc đẩy mạnh công tác
kiểm soát chống gian lận thương mại.
1.4. Phát triển và hoàn thiện các lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ, đặc biệt là
lĩnh vực tài chính
Gần đây, Việt Nam đã mở cửa khá thông thoáng tất cả các lĩnh vực dịch
vụ. Một nền tảng dịch vụ tốt cũng là một trong những yếu tố đẩy mạnh
thương mại giữa hai nước. Dịch vụ cần sự điều chỉnh đầu tiên của Nhà Nước
trong hệ thống kinh doanh dịch vụ thương mại là dịch vụ tài chính. Thực tế là
không có các ngân hàng mạnh thì doanh nghiệp không thể vay tiền. Một thị
trường tài chính phát triển là nền tảng tốt để kinh doanh. Vì thế, Nhà nước cần
phát huy cai trò và chức năng của hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp các
dịch vụ vay vốn, bảo lãnh, cầm cố, tư vấn …cho các hoạt động xuất khẩu,
thẩm định các dự án vay vốn của doanh nghiệp. Việc mở cửa lĩnh vực tài
chính cần phải thực hiện song song với việc minh bạch hoá luật lệ, tránh tình
trạng các văn bản pháp lý còn chồng chéo và không đồng bộ; và nhanh chóng
đưa ra các văn bản chung điều chỉnh các hoạt động kinh doanh dịch vụ. Điều
này không chỉ thúc đẩy quan hệ kinh tế – thương mại song phương mà còn
giúp các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh yên tâm hơn và có hiệu quả hơn.
Cơ sở vận tải, viễn thông cũng cần được Nhà nước lưu ý phát triển hơn
nữa bởi đây là những dịch vụ gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu và đầu
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
78
tư. Cần đẩy mạnh hoạt động nâng cấp cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống kho
tàng, sân bay, bến cảng để phục vụ cho các hoạt động vận chuyển hàng hoá,
chuyển khẩu, tạm nhập, tái xuất và các dịch vụ kho vận, phát triển mạnh các
phương tiện vận tải đa phương thức….Trước mắt cần đầu tư vào cơ sở hạ
tầng của các thành phố lớn, những nơi có mật độ giao dịch thương mại quốc
tế dày đặc như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng bởi vì theo xu
hướng phát triển các thành phố lớn này có thể được xây dựng thành các trung
tâm giao lưu kinh tế quốc tế, trong đó hoạt động thương mại quốc tế là một
nội dung quan trọng. Thực hiện tốt điều này mức phí đầu tư, vốn bị đánh giá
là còn khá cao sẽ giảm xuống đáng kể tạo lợi thế cạnh tranh trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Đẩy mạnh quá trình hiện đại hoá hệ thống thông tin về thị trường
xuất-nhập khẩu, xây dựng hệ thống thông tin thị trường xuất nhập khẩu, xây
dựng thông tin thương mại từ các nước trong khu vực và trên thế giới thông
qua các đại sứ quán, các đại lí, chi nhánh công ty, văn phòng đại diện, cơ
quan xúc tiến xuất- nhập khẩu để đảm bảo tính cập nhật và tính toàn diện
thông tin về thương mại.
Đối với các khu công nghiệp, cần thành lập các kho ngoại quan dưới
các hình thức trung tâm phân phối hàng hoá với các chức năng kinh doanh
kho bãi, giao nhận vận chuyển hàng hoá xuất-nhập khẩu, cung ứng nguyên
vật liệu, vật tư cho các xí nghiệp và chức năng môi giới hải quan. Các trung
tâm này sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu chế
xuất, khu công nghiệp tập trung và phân loại kiểm tra chất lượng một số loại
sản phẩm nhập khẩu chuyên ngành trước khi làm thủ tục hải quan.
1.5 Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
79
Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ, dồi dào, nhưng thực tế kỹ
năng chuyên môn chưa cao. Nhà nước cần có những chính sách tăng cường
đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đạo tạo chuyên sâu về
thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty thương mại
có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Đồng thời phải chú trọng công tác đào tạo
nguồn nhân lực bao gồm việc đào tạo những nhà hoạch định chính sách như
chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, đào tạo các chuyên gia về nghiệp vụ xuất
nhập khẩu, về pháp luật thương mại quốc tế, về thị trường của từng ngành
hàng như gạo, cà phê, cao su, dầu khí….
Hàng năm, Nhà nước cũng nên cử cán bộ sang học tập, nghiên cứu tại
Australia để có được nhiều cán bộ thương mại giỏi ngoại ngữ và am hiểu về
văn hoá các nước Australia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán, ký kết
hợp đồng, hợp tác liên doanh liên kết, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam sang Australia.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ của các cán bộ thương mại, Nhà
nước cần tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật
để có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và có trình độ đồng đều..
Song song với đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta
cần kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ kém phẩm chất, cán bộ
không đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động quản lí thương mại.
2. Các giải pháp vi mô
2.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Hiệp định AANZFTA đi vào hiệu lực mở ra nhiều cơ hội lớn cho Việt
Nam đồng thời tạo ra nhiều sức ép cho doanh nghiệp. Bởi trong sân chơi
FTA, việc tồn tại của các doanh nghiệp chủ yếu dựa trên sức cạnh tranh. Hiện
tại, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam phần đa đang có quy mô nhỏ, sức
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
80
cạnh tranh không lớn. Để thâm nhập một cách có hiệu quả vào thị trường
Australia cần có những biện pháp cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa trình độ quản lý doanh nghiệp
(đối với doanh nghiệp xuất khẩu), nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất
khẩu (đối với doanh nghiệp sản xuất) bằng cách xây dựng các kế hoạch như:
đào tạo tích cực hơn nữa đội ngũ thợ lành nghề , có tri thức. Kiến thức chuyên
môn và ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên cũng cần được bổ sung và nâng cao,
đảm bảo được sự thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới. Các
doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lí
chất lượng hiện đại trong hoạt động của doanh nghiệp. Chú trọng đến việc
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể các dịch vụ phục
vụ trước trong và sau khi bán hàng. Lựa chọn các khâu quan trọng trong dây
chuyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản
phẩm để tiến hành hiện đại hoá sớm. Xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng
nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị
trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu về thuế quan, chính
sách ngoại thương và qui chế nhập khẩu của Australia để tìm ra cánh cửa mới
cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Ngoài ra, còn cần phải nắm bắt thị hiếu tiêu
dùng, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng và duy trì chất
lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tiến hành khảo sát,
đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận
dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản
phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai
đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng
điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
81
tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Các doanh nghiệp có
thể tìm hiểu đối tác của mình qua các Hiệp hội ngành nghề, báo chí về thương
mại, các tổ chức hội chợ, các cơ quan nhà nước,địa phương, các trường dạy
kinh doanh, các nhà chức trách ở các cảng biển, các website,…để phục vụ tốt
nhất cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, các doanh nghiệp phải có chính sách đối với việc tìm kiếm
nguồn hàng và xúc tiến xuất khẩu để có thể chiếm lĩnh thị trường Australia.
Ngoài việc chủ động nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng
sức cạnh tranh của hàng hoá, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải nâng cao
năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị
trường Australia như chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng qua các hội chợ,
triến lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam hay tại Australia.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và ứng dụng các nghiệp vụ
marketing để phát hiện những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị
trường Australia. Tăng cường đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào quá trình
sản xuất để cho ra đời các sản phẩm đó và thực hiện những hoạt động khuếch
trương cần thiết.
2.2 Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang thị
trƣờng Australia
Một trong những khó khăn trong quá trình xuất khẩu sang thị trường
Australia của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu Việt Nam là năng lực
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn rất thấp. Các doanh nghiệp Việt Nam,
do đó, muốn đứng vững tại thị trường Australia cần có các biện pháp nhằm
tăng sức cạnh tranh của hàng hoá sản phẩm, phát triển tiềm năng sản xuất và
xuất khẩu và phải thâm nhập được vào thị trường Australia. Để làm được điều
này các doanh nghiệp cần có những biện pháp nhất định.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
82
Người tiêu dùng Australia rất coi trọng vấn đề chất lượng sản phẩm,
luôn đặt ra tiêu chí mua hàng là “ Giá cả tương ứng với giá trị”. Chính vì thế,
để cạnh tranh với rất nhiều mặt hàng từ các nước khác, hàng hóa Việt Nam
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều cách. Các doanh
nghiệp Việt Nam cần tăng cường áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, loại
bỏ dần các công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất thấp để nâng cao chất lượng
sản phẩm. Ngoài những nguồn đầu tư trong nước, thu hút và tận dụng một
cách tối đa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) hoặc là vốn viện trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất
hàng xuất khẩu, đặc biệt là các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm
tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị
trường. Các doanh nghiệp nhất thiết phải áp dụng phương pháp quản lý chặt
chẽ từ quản lý doanh nghiệp, quản lý quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm
theo tiêu chuẩn ISO 9000 và các quy định của các cơ quan kiểm soát chất
lượng của Mỹ đối với những mặt hàng mà mình tham gia kinh doanh. Thị
trường Australia cũng yêu cầu rất khắt khe về vấn đề kiểm dịch. Chính vì thế
các doanh nghiệp cần chú trọng kiểm tra các mặt hàng, đảm bảo tốt vấn đề
kiểm dịch trước khi xuất sang thị trường này.
Một mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Australia
không chỉ tốt về chất lượng mà còn phải cạnh tranh về giá cả. Để có thể nâng
cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị
trường Australia, các doanh nghiệp cần tận dụng đến mức tối đa các nguyên
phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể.
Các doanh nghiệp cũng nên đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí
thấp: nhập khẩu các thiết bị nước ngoài, học tập các nguyên tắc thiết kế, tự
thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt
Nam. Cùng lúc đó các doanh nghiệp Việt Nam nên mở rộng qui mô sản xuất
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
83
để có thể đáp ứng được những đơn hàng có khối lượng lớn. Trong điều kiện
chưa thể mở rộng qui mô sản xuất ngay thì các doanh nghiệp hãy liên kết chặt
chẽ , cùng nhau đáp ứng đơn hàng để không phải đi thuê gia công lại từ
nước thứ ba, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ở Australia, vấn đề bao bì rất được coi trọng. Hàng hóa có khả năng
xuất khẩu sang Australia cao cần có bao bì đóng gói hàng bán lẻ với thông tin
chi tiết, hấp dẫn và có chất lượng cao. Các doanh nghiệp Việt Nam trước giờ
chỉ thường chú ý tới bao gói, nhãn mác và các tiêu chuẩn đối với những lô
hàng đa kiện mà ít khi để ý tới bao bì của hàng bán lẻ, dẫn đến sức cạnh tranh
thấp. Chính vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao chất lượng, mẫu
mã của bao bì xuất khẩu sang Australia. Điều này có thể thực hiện đơn giản
như nâng cao chất lượng túi poly hay in ấn trang trí bao bì theo mẫu mã mới.
Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được cải thiện nếu doanh nghiệp muốn
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên
giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến
ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm làm tăng khả năng
cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu và đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
2.3 Nâng cao hình ảnh sản phẩm, nhãn hiệu và thƣơng hiệu
Hiện nay, mặc dù đạt kim ngạch xuất khẩu sang Australia khá cao
nhưng hình ảnh và tên tuổi của các nhà xuất khẩu Việt Nam tại thị trường
Australia vẫn còn khá trầm lắng, gần như nhà nhập khẩu Australia còn khá xa
lạ với hàng hóa Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho
mình thương hiệu hàng hóa nhất định nhằm tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp
cũng như đẩy mạnh việc buôn bán hàng hóa.
Doanh nghiệp cần chủ động đăng ký thương hiệu với các cơ quan chức
năng để tránh bị các công ty, cá nhân khác lợi dụng và lấy cắp thương hiệu.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
84
Các doanh nghiệp cũng cần chú trọng xây dựng uy tín, từ đó nâng cao
uy tín của thương hiệu. Các nhà nhập khẩu Australia đạt mối quan tâm lớn
đến khả năng sản xuất những sản phẩm có chất lượng ổn định, giao hàng đúng
hạn và liên lạc đều đặn; đồng thời nhà cung cấp phải sẵn sàng chấp nhận
những đơn đặt hàng có giá trị vừa phải. Khi xuất khẩu sang thị trường này,
các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nghiêm túc thực hiện các cam kết trong
hợp đồng với khách hàng Australia nếu không sẽ dẫn tới các vụ kiện cáo phức
tạp, gây ảnh hưởng tới uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Việt Nam.
2.4 Tối đa hóa lợi ích của thƣơng mại điện tử
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại điện tử không còn xa lạ với
các doanh nghiệp. Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát
triển rất nhanh và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm
ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của
doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với
nhau, không có hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp
có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương
mại điện tử mà các doanh nghiệp giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận
chuyển, đặc biệt là đối với hàng hóa là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi
phí khác như chi phí giao dịch… Dù mới làm quen với thương mại điện tử
trong những năm gần đây nhưng các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết nhận
thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này. Để đáp ứng với
xu thế, các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng
như các mặt các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp
Việt Nam cần tận dụng hơn nữa, khai thác tối đa những lợi ích mà thương mại
điện tử mang lại. Thông qua các sàn giao dịch B2B, các doanh nghiệp cần chủ
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
85
động liên hệ với các đối tác Australia, mở rộng thị trường mới, tạo dựng một
mối quan hệ thân thiết với các bạn hàng, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
2.5 Thành lập các hiệp hội doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại phần lớn đang hoạt động nhỏ lẻ và
riêng rẽ, thiếu tính quy mô. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc
tế, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên
kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn
hoá, hợp tác hoá sản xuất trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm
mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Có nghĩa
là cần tiếp tục cải tổ để tăng cường năng lực cho hệ thống doanh nghiệp. Tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, tạo môi
trường tâm lý xã hội ủng hộ rộng rãi cho khu vực này phát triển. Hoàn thiện
các cơ chế chính sách phát triển kinh tế tư nhân.
2.6 Nâng cao chất lƣợng con ngƣời trong hoạt động doanh nghiệp
Con người luôn là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
thương mại hai nước. Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá
nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động,
có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo
lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng
quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát
triển.
Các doanh nghiệp cần chú trọng tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách
nhiệm của người lao động với doanh nghiệp. Nâng cao trình độ, năng lực kinh
doanh, điều hành, quản lí doanh nghiệp nhất là nâng cao trình độ và kinh
nghiệm kinh doanh của giám đốc. Các doanh nghiệp phải quan tâm đào tạo cả
cán bộ quản lý và cán bộ thương mại, đào tạo lại và đào tạo chuyên sâu để có
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
86
một đội ngũ cán bộ giỏi. Đối với các cán bộ thương mại, phải chú trọng đồng
thời cả lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ vì kém ngoại ngữ
thường rất khó thành công trong đàm phán và thường bị ở thế bất lợi trong
giao dịch kinh doanh.
Đối với người lao động, cần đa dạng hoá kĩ năng cho người lao động và
đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động với các khâu hoạt động của
doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp.
Tổ chức hoạt động đào tạo lao động tại chỗ, nâng cao khả năng thích ứng lao
động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm
được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến.
Việc đào tạo cán bộ và người lao động cần phải được kiểm tra định kỳ
để đảm bảo được hiệu quả và có những thay đổi thích hợp.
3. Các giải pháp cho một số mặt hàng cụ thể.
3.1 Hàng thủy sản
Thiên nhiên đã cho Việt Nam nhiều khả năng phát triển ngành thuỷ sản.
Nằm trải dài hơn 3.200km đường bờ biển nhiệt đới có trữ lượng hải sản lớn
và đa dạng, với hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ cùng hệ thống sông ngòi dày đặc,
hàng vạn hécta đầm phá, hàng trăm nghìn hecta rừng ngập mặn, cửa sông ven
biển... thuỷ sản thực sự là một lợi thế của nước ta. Vì vậy cần có những biện
pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này.
Khó khăn chủ yếu mà các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản đang gặp
phải là áp lực từ các hành vi bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm
dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới hơn về dư lượng
kháng sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước nhập khẩu. Nhiều
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản hiện nay đang thiếu nguyên liệu trong nước
để sản xuất trong khi thuế nhập khẩu ở mức cao 10% - 20%, hầu hết các nhà
máy chế biến thủy sản chỉ hoạt động được khoảng 70% công suất do thiếu
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
87
nguyên liệu chế biến. Để đáp ứng được các đơn hàng đó ký từ trước, nhiều
doanh nghiệp buộc phải chọn giải pháp nhập khẩu nguyên liệu. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản còn phải đối mặt với những yếu kém
trong khâu marketing, sử dụng internet để tiếp thị cũng như đội ngũ quản lý,
lao động đáp ứng trình độ...
Trên cơ sở xác định những khó khăn mà ngành thủy sản phải đối mặt,
một số giải pháp cơ bản đã được đưa ra, trong đó nhấn mạnh đến việc duy trì
tốc độ phát triển của ngành thủy sản hiện nay trên cơ sở tăng cường các yếu tố
đảm bảo phát triển bền vững như: tái tạo nguồn lợi, an toàn cho ngư dân, từng
bước điều chỉnh cơ cấu nghề cá, giảm khai thác ven bờ, phát triển đánh bắt xa
bờ. Ngoài ra, việc nuôi trồng thủy sản cũng cần được đẩy mạnh. Đặc biệt cần
tập trung vào những mặt hàng thủy sản chiếm được kim ngạch xuất khẩu cao
như cá basa, tôm đông lạnh…
Đối với mặt hàng thủy hải sản, khi xuất khẩu sang Australia, phải đối
mặt với chế độ kiểm dịch chặt chẽ. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cần phải
được đảm bảo trong từng doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý và các doanh
nghiệp cũng cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất
lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng - nguyên liệu tới thành phẩm đề giữ
uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam cũng như đáp ứng được yêu cầu của
thị trường nhập khẩu, nghiên cứu và lai tạo các giống mới có chất lượng cao.
Để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này cần sự hỗ trợ lớn từ phía Nhà
Nước. Chính phủ cần hỗ trợ kinh phí cho trang bị máy móc, thiết bị và chi phí
kiểm tra dư lượng kháng sinh và vệ sinh an toàn thực phẩm (kể cả khâu thu
mua nguyên liệu, sơ chế, sản xuất và xuất khẩu) cho doanh nghiệp; xem xét
giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thủy sản trên cơ sở tham khảo các đối thủ
cạnh tranh của Việt Nam như Trung Quốc, ASEAN; đơn giản hoá các thủ tục
hải quan, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xúc tiến việc nhập khẩu nguyên
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
88
liệu, góp phần giảm giá thành sản xuất thuỷ sản xuất khẩu và tăng tính cạnh
tranh. Ngoài ra, đẩy mạnh việc cho vay vốn ưu đãi nuôi trồng thuỷ sản đối với
người dân và doanh nghiệp cũng là một trong các giải pháp quan trọng giúp
doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam thâm nhập hơn nữa vào thị trường Australia.
3.2 Hàng thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của
Việt Nam, và được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp
tích cực vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời có một vai trò quan
trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn. Đây cũng
chính là một trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường
Australia cần được đẩy mạnh.
Để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ sang Australia, các
doanh nghiệp phải cải tiến mẫu mã sản phẩm, cập nhật mặt hàng, kiểu dáng
mới phù hợp với thói quen tiêu dùng của người Australia. Sản phẩm cũng cần
đảm bảo được tính đồng bộ, tính hoàn thiện sản phẩm cao, có công dụng rõ
nét, bao bì hấp dẫn. Các doanh nghiệp cần tăng cường việc kiểm tra chất
lượng sản phẩm khi sản xuất, đồng thời khắc phục những sản phẩm có khuyết
điểm, để hoàn thiện sản phẩm đảm bảo về tính thẩm mỹ, tính an toàn khi sử
dụng, xây dựng lại niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm mỹ nghệ của
mình. Đặc biệt, cần tạo dựng nét đặc trưng cho những mặt hàng được sản
xuất, tạo sự khác biệt, hấp dẫn người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nên chủ động liên
kết lại xây dựng làng nghề hoặc cụm sản xuất thủ công mỹ nghệ. Mỗi cụm
hay làng nghề có thể do 5-10 doanh nghiệp cộng tác thành lập, hỗ trợ lẫn nhau
trong hoạt động sản xuất kinh doanh như chia sẻ các hợp đồng lớn hoặc phân
công phân khúc sản xuất. Tận dụng và phát huy hết công năng cơ sở vật chất
và năng suất của máy móc thiết bị tại các đơn vị. Bổ sung lẫn nhau và ổn định
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
89
việc làm cho lực lượng lao động. Thông qua cụm sản xuất hoặc làng nghề để
phô trương khả năng sản xuất, nâng tính phong phú đa dạng sản phẩm thu hút
sự quan tâm và lòng tin của người mua hàng.
Các doanh nghiệp cũng cần tăng cường công tác thu thập thông tin
bằng nhiều hình thức để đảm bảo nắm bắt những nhu cầu, tập quán và phong
tục của từng địa phương, cũng như các chính sách quy định về tiêu chuẩn
nhập khẩu thiết kế sản xuất sản phẩm thích hợp để xúc tiến mở rộng thị
trường xuất khẩu. Đồng thời, bố trí lại sản xuất, xây dựng quy trình sản xuất
cho từng loại sản phẩm để tăng năng suất lao động, để giảm giá thành sản
phẩm, và đảm bảo tiến độ giao hàng
Các Hiệp Hội cũng nên phát huy vai trò bằng cách phát động và xây
dựng phong trào thiết kế sáng tạo kiểu dáng sản phẩm bằng các giải thưởng
trong giới doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cũng như các nghệ
nhân, sinh viên học sinh để bổ sung mẫu mã sản phẩm mới cho ngành thủ
công mỹ nghệ Việt Nam được đa dạng hoá và phong phú thêm.
Về phía Nhà nước, cần có chính sách ưu đãi tạo điều kiện dễ dàng về
thủ tục, khuyến khích phát triển và tổ chức các làng nghề hoặc cụm sản xuất
thủ công mỹ nghệ tại các nơi có điều kiện phát triển sản xuất ngành thủ công
mỹ nghệ: cụ thể là ở nông thôn và vùng ven đô thị để tận dụng nguyên liệu và
nguồn lao động tại chỗ, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp.
Nhà nước cũng nên có chủ trương tài trợ cho vay ưu đãi các dự án phát
triển ngành thủ công mỹ nghệ, tạo điều kiện cho các đơn vị thủ công mỹ nghệ
mở rộng và phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; có vay tín chấp với
các đơn vị đã có hợp đồng xuất khẩu, tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp thu
mua nguyên liệu thực hiện hợp đồng (có thể thông qua sự giới thiệu của hội).
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
90
Nguyên liệu đầu vào của ngành thủ công mỹ nghệ cần có chế độ thuế
riêng, chú ý đến tính đặc thù của từng loại nguyên liệu, đặc biệt không bắt
buộc phải có hoá đơn tài chính đối với các nguyên liệu thuộc phế liệu, thứ
liệu, chất thải từ nông sản sau thu hoạch hoặc chế biến được thu mua hoạch
thu gom từ nông dân. Nếu sợ thất thu thuế thì nên có chế độ cho phép đơn vị
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thu mua nguyên liệu nộp thuế thay người
bán, để doanh nghiệp yên tâm thu mua nguyên liệu tập trung sản xuất tránh để
doanh nghiệp vừa làm vừa sợ bị xuất toán chi phí giá thành nguyên liệu, ảnh
hưởng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại cho ngành thủ công mỹ
nghệ cần được tổ chức thường xuyên trong và ngoài nước đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ để mở rộng thị trường xuất khẩu trực tiếp đến nhà phân
phối, nâng cao hiệu quả sản xuất; cung cấp thông tin dự báo thường xuyên về
diễn biến thị trường, giá cả và các thay đổi qui định về pháp luật nhập khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ của các nước, để tránh rủi ro cho doanh nghiệp hoặc
định hướng mở rộng thị trường.
3.3 Hàng dệt may
Hàng dệt may cũng là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam, cần được xúc tiến xuất khẩu sang thị trường Australia hơn nữa.
Trước hết, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang Australia, các
doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt được đặc điểm, thị hiếu của thị trường
này. Thị trường hàng may mặc Australia khó có thể được xem như một sự mở
rộng của thị trường Mĩ. Nó là thị trường nhỏ hơn nhưng cạnh tranh hơn. Kiểu
dáng màu sắc được yêu cầu nói chung không phải là sáng màu hay pha màu như
ở thị trường Mĩ. Mùa đông ở Australia tương đối ấm áp và ngắn nên nhu cầu về
quần áo ấm, màu tối thường chỉ có ở Châu Âu, nơi có mùa đông dài và lạnh. Để
cạnh tranh với Trung Quốc – nước có thị phần xuất khẩu hàng dệt may vào thị
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
91
trường Australia lớn nhất, hàng dệt may Việt Nam cần có chất lượng cao hơn, và
có khả năng đáp ứng thời trang cao hơn cùng với giá cả hợp lý.
Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đặc biệt lưu ý đến tập
quán thương mại của Australia. Australia thường có thói quen thường mua
hàng theo giá FOB, tức là mua thẳng hàng thành phẩm và như vậy doanh
nghiệp phải đảm nhiệm từ công đoạn tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất cho
đến khâu bao bì, đóng gói giao cho khách hàng. Trong thực tế, ngành may
mặc Việt Nam lại chủ yếu kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu vì
một mặt, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tự đáp ứng được nguyên liệu chất
lượng cao, thiết kế mẫu hàng phục vụ nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu, mặt
khác, kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu ít rủi ro hơn. Vì vậy,
muốn tăng cường xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Australia, các
doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục các trở ngại và xuất
khẩu hàng may mặc sang Australia. Muốn vậy, ngành dệt may Việt Nam
trước hết phải tăng tốc đầu tư để tạo nguyên liệu mới, phụ liệu may mặc đủ
chất lượng làm hàng xuất khẩu. Đồng thời, một số lượng lớn vốn cần được
đầu tư vào trang thiết bị, máy móc sản xuất và hạn chế đến mức thấp nhất
việc nhập khẩu vải thành phẩm để gia công, sợi để dệt vải, bông để kéo sợi.
Australia là một thị trường tương đối nhỏ nên các nhà nhập khẩu may
mặc Australia thường có yêu cầu số lượng hàng đặt ở mức độ tối thiếu thấp
hơn so với các nhà nhập khẩu Mỹ và Australia. Khi xuất khẩu vào thị trường
này, các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh tính linh hoạt, có thể đáp ứng
những mặt hàng có số lượng bé, đảm bảo tính đúng hạn và đều đặn
Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tăng cường hoạt động hơn nữa, từng
bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may. Mặt
khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp hội cần tích
cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến lĩnh
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
92
vực dệt may như Hiệp hội Dệt May ASEAN, Diễn đàn ngành Dệt May vùng
Châu Á - Thái Bình Dương… để trao đổi thông tin và truyền đạt những kiến
nghị của ngành dệt may trong nước đối với khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp dệt may trong quá trình kinh doanh xuất khẩu nói chung và
xuất khẩu sang thị trường Australia nói riêng.
Chính phủ cũng cần hỗ trợ tích cực vào việc xuất khẩu mặt hàng này
bằng cách hỗ trợ một phần chi phí để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu xúc
tiến thương mại. Chính phủ cũng cần hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách
cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo và vốn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật
nhằm nâng cao năng lực cho các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo cho
ngành Dệt May, đồng thời dành vốn tín dụng của nhà nước, vốn ODA và vốn
của quỹ môi trường cho các dự án đầu tư xử lý môi trường của các doanh
nghiệp trong ngành dệt may. Không chỉ thế, Chính phủ cũng nên mở rộng thị
trường xuất khẩu thông qua cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực
thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, và tăng
cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế cho doanh nghiệp xuất
khẩu.
3.4 Hàng giày dép
Nhóm hàng giày dép đang được đánh giá là có khả năng cạnh tranh vào
thị trường Australia.
Thị trường Australia là một thị trường khó tính với những tiêu chuẩn
khắt khe về chất lượng. Nên triển vọng cho các nhà xuất khẩu Việt Nam là
phân đoạn thị trường dành cho sản phẩm giá rẻ. Nhưng ở phân đoạn thị
trường này, Trung Quốc đang có lợi thế giá rẻ nhất định. Để chiếm lĩnh được
thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam nên tăng cường thúc đẩy xuất khẩu
dịch vụ và chất lượng để tăng tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam
cần đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
93
thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong
cách riêng với khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm, phương thức kinh doanh
Các doanh nghiệp cũng cần tăng cường tìm kiếm bạn hàng và ký kết
hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng cường năng lực thiết kế mẫu mã
sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu trong nước tự đáp ứng được. Đẩy
mạnh khai thác những thị trường ngách, thị trường nhỏ nhưng chấp nhận mức
giá cao và ưa thích các sản phẩm đặc thù.
Các chợ nguyên phụ liệu cho ngành dệt may và da giày nên được hình
thành nhiều hơn để phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất của ngành này. Đồng
thời, Nhà nước cũng cần xem xét kỹ việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
vào đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ nguyên phụ liệu cho dệt may, da giày.
Ngoài ra, triển vọng cung cấp phụ kiện giày dép cho các nhà sản xuất
giày dép ở Australia cũng khá lớn. Thuế nhập khẩu các loại phụ kiện này
tương đối thấp và các nhà sản xuất Australia ngày càng quan tâm hơn đến
việc tìm nguồn cung cấp mũi giày từ các nhà cung cấp có khả năng cạnh tranh
của nước ngoài. Nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đánh vào phân đoạn thị
trường này để giảm áp lực từ các nhà nhập khẩu khác.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
94
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, kim ngạch thương mại hai chiều Việt nam –
Australia luôn duy trì được mức tăng trưởng đều và khá, khẳng định được sự
chuyển biến về cả lượng và chất trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Cơ
cấu xuất nhập khẩu các mặt hàng cũng có những chuyển biến tích cực, phù
hợp với lợi thế so sánh của mỗi bên. Hơn thế nữa, Hiệp định thương mại Việt
Nam – Australia cùng Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN –
Australia – New Zealand cũng mở ra một cơ hội mới trong quan hệ thương
mại giữa hai nước đồng thời tạo nên một sân chơi mang tính cạnh tranh cao.
Để tận dụng những lợi thế mà các hiệp định mang lại nhằm mục đích chiếm
lĩnh thị phần lớn thị trường này, Việt Nam cần đổi mới công tác tổ chức quản
lí, tăng cường khuyến khích đầu tư, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tiến
hành công tác thị trường sâu rộng và có hiệu quả hơn, các doanh nghiệp Việt
Nam cần trang bị những hiểu biết sâu sắc về thị trường, khách hàng và các
quy định về hàng hoá trên thị trường này để từ đó đưa ra các biện pháp phù
hợp để cải tiến và đa dạng hoá sản phẩm, tối đa hóa lợi ích thương mại điện
tử, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Với những thành
quả đạt được cùng sự nỗ lực không ngừng từ hai phía, quan hệ thương mại
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
95
Việt Nam – Australia đảm bảo ngày càng được thắt chặt hơn, kim ngạch xuất
nhập khẩu tương xứng tiềm năng của cả hai phía.
Đây là một đề tài rộng, trong thời gian cho phép, tác giả chỉ mới đưa
ra được cái nhìn khái quát về mối quan hệ này, góp phần cung cấp một số
thông tin và hiểu biết cần thiết khi tìm hiểu và quan hệ với Australia. Những
nội dung được phân tích trong đề tài này sẽ là cụ thể hơn, chuyên sâu hơn,
nếu được đầu tư thời gian và thời lượng đầy đủ hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Australia: Tình hình nhập khẩu và nguồn cung cấp nước ngoài – Tạp
chí công nghiệp, ngày 25/11/2009
2. Bộ Công thương (2010), Hiệp định tự do thương mại ASEAN –
Australia – New Zealand.
3. Bộ Công thương (2009), Các quy định về nhập khẩu hàng thủ công
vào Australia
4. Bộ Công thương (1990), Hiệp định thương mại Việt Nam – Australia
1990
5. Hồng Văn. AANZFTA: Hơn 1000 mặt hàng nhập khẩu được ưu đãi
thuế - Thời báo kinh tế Sài Gòn online, ngày 2/12/2009
6. Tuấn Anh. Thị trường Australia – Tạp chí Kinh tế đối ngoại, ngày
9/2/2009
7. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2007), Trị giá xuất nhập khẩu phân
theo nước và vùng lãnh thổ chủ yếu sơ bộ năm 2007
8. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2008), Trị giá xuất nhập khẩu phân
theo nước và vùng lãnh thổ chủ yếu sơ bộ năm 2008
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
96
9. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2009), Trị giá xuất nhập khẩu phân
theo nước và vùng lãnh thổ chủ yếu sơ bộ năm 2009
10. Trương Đình Tuyền, ASEAN hội nhập kinh tế khu vực, thành
tựu và thách thức đối với Việt Nam trong cộng đồng ASEAN
II. Tài liệu nƣớc ngoài
11. Australian Bureau of Statistics, Business Indicators, Australia,
December 2009
12. Australian Bureau of Statistics, International Trade in Goods and
Services, 2009
13. Australian Customs and Border protection service (1995),
Customs Tariff Act 1995
14. Australian Department of Foreign Affair and Trade (2009),
ASEAN–Australia–New Zealand Free Trade Agreement
15. Australian Department of Foreign Affair and Trade, Vietnam
brief
16. Australian Department of Foreign Affair and Trade, Direction of
Merchandise Exports 2008 -2009
17. Australian Department of Foreign Affair and Trade, Direction of
Merchandise Imports 2008 -2009
18. Australian Department of Foreign Affair and Trade, Vietnam
country/economy fact sheet
19. Australian Department of Foreign Affair and Trade, Australia -
Viet Nam Comprehensive Partnership
20. Australian Department of Foreign Affair and Trade (2008),
Australia's Trade with East Asia, 2008
21. Australian Quarantine and Inspection Service, Live animals and
Reproductive material.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
97
III. Các trang web
22.
kim-ngach-xuat-khau-cua-viet-nam-sang-australia-2005-2010
23.
24.
25.
05.291709/03/2009-03-26.377864
26.
Giang.gplist.207.gpopen.1414.gpside.1.gpnewtitle.chinh-sach-thue-va-thue-
suat-cua-australia.asmx
27.
ap-thue-0-voi-hang-VN-vao-nam-2020/20094/133405.laodong
28.
sydney.org/vi/nr070521165956/news_object_view?newsPath=/vnemb.vn/tink
hac/ns080807094742
29.
=article&id=25768:du-tho-chim-7367-kim-ngch-xut-khu-sang-
australia&catid=38:travel-tips&Itemid=398
30.
id=638&id_sub_loai_tin=55
31.
70095
32. ự-kiện/ỳc-xem-việt-nam-là-đối-tỏc-
chiến-lược-sau-khi-ký-fta
33.
Nguyễn Thị Kim Ngân Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
98
34.
cong-nghiep-va-thu-cong-my-nghe-trong-thoi-gian-toi/
35.
tang-manh/20458871/87/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5470_4844.pdf