Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường đương nhiên phả i
cạnh tranh với nhau sao cho doanh nghiệp mình hoạt động có hiệu quả, thu
được nhiều lợi nhuận. Cạnh tranh không phải là để chia rẽ, phân hóa các
doanh nghiệp bảo hiểm mà cạnh tranh sẽ tạo tiền đề để các doanh nghiệp bảo
hiể m tiến tới hợp tác song phương, đa phương, thậ m chí tiến tới việc mua
bán, hợp nhất, sáp nhập giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để tạo nên một sức
mạnh cạnh tranh cao hơn. Khi mà các yếu tố như vốn pháp định tăng (từ 70 tỷ
đồng lên 300 tỷ đồng với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 140 tỷ đồng
lên 600 tỷ đồng với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ); số lượng các doanh
nghiệp bảo hiểm trên thị trường ngày càng đông cùng với khả năng giữ lại lớn
(10% vốn chủ sở hữu) thì tất yếu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ tái
bảo hiểm lẫn nhau, tiến tới không phải tái bảo hiểm ra nước ngoài. Chính vì
vậy, các doanh nghiệp sẽ tạo ra sự thống nhất về sản phẩm bảo hiể m (quy tắc,
điều khoản, biểu phí) và sẽ có sự hợp tác với nhau trong tái bảo hiểm và đồng
bảo hiểm.
88 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả hai năm gia nhập WTO trong lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm vi cả nước.
3.3. Đời sống nhân dân đƣợc cải thiện
Tầng lớp dân cư có thu nhập cao ngày càng gia tăng, đó là giới chủ
doanh nghiệp tư nhân, các chuyên gia giỏi trong các doanh nghiệp Việt Nam
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các chủ hộ kinh doanh, các chủ
trang trại làm ăn có hiệu quả. Tất cả đều có nhu cầu bảo hiểm nhân thọ cho
mình và cho người thân. Đồng thời, thông qua công tác tuyên truyền của
ngành bảo hiểm, thông qua tập quán mua bảo hiểm của giới chủ đầu tư nước
ngoài, nhận thức của người dân về vai trò và tác dụng của bảo hiểm ngày
càng được nâng cao, những khách hàng tiềm năng có nhu cầu bảo hiểm sẽ
quyết định tham gia bảo hiểm sẽ ngày một đông đảo hơn.
3.4. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với
nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và của
doanh nghiệp. Chúng ta đã tiến hành sửa đổi một số nghị định, thông tư
hướng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm và ban hành nghị định 45, nghị định 46
54
ngày 17/03/2007 thay thế cho nghị định 42, Nghị định 43; Thông tư 155,
thông tư 156 ngày 20/12/2007 thay thế cho thông tư 98, 99; ban hành quyết
định 96 của Bộ Tài chính ngày 19/11/2007 ban hành quy chế triển khai sản
phẩm bảo hiểm liên kết chung và quyết định 102 ngày 14/12/2007 ban hành
quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị. Bộ Tài chính cũng đã
ban hành quyết định 23 ngày 09/04/2007 ban hành quy tắc biểu phí bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, quyết định 28 ngày 24/04/2007
ban hành quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Bộ Tài chính đang tiến
hành sửa đổi bổ sung nghị định 115 về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự chủ xe cơ giới, nghị định 118 về xử phạt hành chính trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. nghị định 45, nghị định 46, thông tư 155, thông tư 156
đã tạo ra được rào cản kỹ thuật để sàng lọc các doanh nghiệp bảo hiểm muốn
được thành lập và hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam như tăng vốn
pháp định từ 70 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, từ 140 tỷ đồng lên 600 tỷ đồng đối với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ; tổ chức nước
ngoài đứng ra thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải có trên 10 năm hoạt
động kinh doanh bảo hiểm và tổng tài sản trên 2 tỷ USD; quy định về năng
lực quản lý và chuyên môn cho các chức danh chủ tịch và ủy viên Hội đồng
Quản trị, Giám đốc và Phó Giám đốc chi nhánh; điều kiện mở thêm chi nhánh
và phòng kinh doanh. Cơ quan giám sát, quản lý Nhà nước về bảo hiểm đang
xúc tiến sửa đổi Luật kinh doanh bảo hiểm nhằm tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm. Điều
này sẽ tạo môi trường thuận lợi cho thị trường bảo hiểm phát triển nhanh và
bền vững.
55
4. Thách thức.
4.1. Số lƣợng doanh nghiệp bảo hiểm tăng, gây sức ép cạnh tranh lớn
Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nếu có đủ điều kiện theo luật
định đều có quyền xin phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có cả
các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài theo đúng cam kết WTO. Hơn nữa,
tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ và phi nhân
thọ Việt Nam còn đầy hứa hẹn, tốc độ tăng trưởng của ngành bảo hiểm tương
đối hấp dẫn, các doanh nghiệp bảo hiểm còn được sử dụng dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm vào đầu tư tài chính có khả năng sinh lời cao. Chính vì vậy, thị
trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng thu hút giới đầu tư tham gia thành lập
các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong năm 2008, Việt Nam đã có thêm 09 doanh
nghiệp bảo hiểm tham gia thị trường bảo hiểm, trong đó có 05 doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ, 02 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 02 doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên, việc có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm ra đời
làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm vốn đã gay gắt nay
càng gay gắt hơn. Đặc biệt là hiện tượng các doanh nghiệp cạnh tranh, chiếm
thị phần bằng cách hạ phí bảo hiểm đến mức quá thấp, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự an toàn tài chính của các doanh nghiệp. Sự gia tăng quá nhanh số
lượng các doanh nghiệp bảo hiểm trong khi việc đào tạo nhân viên trong lĩnh
vực bảo hiểm chưa đáp ứng kịp đã làm căng thẳng thêm tình trạng thiếu hụt
nguồn nhân lực trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý cấp
cao. Vì vậy, việc quản lý, quản trị rủi ro/chi phí đang thực sự là vấn đề
nghiêm trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Mặc dù các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, hết sức chú trọng vấn đề này,
nhưng để cải thiện tình hình cần phải có thời gian.
56
4.2. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo hiểm còn hạn chế.
Nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm hiện nay vừa thiếu,
vừa yếu, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Những người đang
hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm hầu hết chuyển từ các hoạt động kinh tế
khác sang hoặc chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ bảo hiểm nên tính
chuyên nghiệp chưa cao. Thực trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực
quản lý và điều hành; khả năng nghiên cứu, thiết kế các sản phẩm mới; việc
tiếp cận, cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng và khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho sự chảy
máu chất xám và nguồn nhân lực chất lượng cao đang diễn ra khá phổ biến
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm – một thách thức lớn đối với thị trường bảo
hiểm Việt Nam mà không phải dễ dàng và nhanh chóng khắc phục được.
4.3. Tình trạng trục lợi bảo hiểm.
Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ
chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo
hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến
trục lợi bảo hiểm là nói đến hành vi của tổ chức, cá nhân được thực hiện một
cách cố ý nhằm thu lợi bất chính. Hiện nay, tình trạng trục lợi bảo hiểm ở Việt
Nam diễn ra khá phổ biến, phức tạp và rất khó kiểm soát. Không chỉ có khách
hàng trục lợi mà bản thân một số cán bộ làm bảo hiểm cũng trục lợi và tiếp
tay cho trục lợi bảo hiểm. Hiện tượng này không những ảnh hưởng đến quyền
lợi chính đáng của khách hàng, kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp bảo hiểm, mà nguy hiểm hơn là ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng và
dư luận xã hội.
57
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LĨNH
VỰC BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VIỆT
NAM GIA NHẬP WTO
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC BẢO HIỂM ĐẾN
2010
Bảo hiểm đóng vai trò rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Kinh doanh bảo hiểm được coi như tấm lá chắn kinh tế của nền kinh
tế xã hội, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống khi những
rủi ro hiểm họa xảy ra. Chính vì vậy, ngành bảo hiểm nhận được sự quan tâm
rất lớn của Đảng và Chính phủ. Năm 2003, Chính phủ, cụ thể là Bộ Tài chính,
đã đưa ra “Báo cáo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ
năm 2003 đến năm 2010”. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm được
xây dựng trên cơ sở: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010; Chiến
lược phát triển thị trường tài chính tiền tệ; yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu của chiến lược là “Xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm với
đầy đủ các yếu tố của thị trường, tăng tỷ trọng hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trên tổng giá trị dịch vụ nói riêng và GDP nói chung, thực hiện chức
năng bảo hiểm là công cụ để bảo vệ nền kinh tế trước các nguy cơ rủi ro và là
công cụ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng
kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5% /năm trong 10 năm tới.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng tài chính vững mạnh,
năng lực kinh doanh và công nghệ quản lý được hiện đại hóa, đội ngũ cán bộ
công tác trong ngành bảo hiểm có trình độ đủ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh,
hội nhập. Người dân có điều kiện tiếp cận các loại sản phẩm bảo hiểm với
chất lượng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ khả
năng cung cấp các loại sản phẩm phục vụ các nhu cầu bảo hiểm cơ bản của
nền kinh tế và của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các chương trình bảo hiểm
58
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ dài hạn theo hướng phát
huy nội lực, chủ động thu hút ngoại lực. Quản lý, giám sát phải được thực
hiện dựa trên hệ thống các chỉ tiêu quản lý và chỉ tiêu tài chính khách quan,
phù hợp với yêu cầu, thực tiễn kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các
nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế; Công nghệ quản lý, giám sát được hiện đại
hóa, đội ngũ cán bộ quản lý có đủ tri thức và năng lực quản lý, bảo đảm thị
trường bảo hiểm hoạt động an toàn, hiệu quả”3.
Chiến lược đã đưa ra bảy chỉ tiêu cụ thể phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam cho đến năm 2010. Đó là các chỉ tiêu:
1. Nâng tỷ trọng dịch vụ bảo hiểm trên GDP và đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng doanh thu phí bảo hiểm. Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng doanh thu
phí bảo hiểm khoảng 24%/năm, nâng tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm của
toàn ngành bảo hiểm so với GDP từ 1,3% năm 2002 lên khoảng 2,5% năm
2005 và 4,2% năm 2010. Trong đó tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm phi
nhân thọ bình quân khoảng 16,5%/năm, tăng từ 2.600 tỷ đồng năm 2002 lên
9.000 tỷ đồng năm 2010; tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ bình
quân khoảng 28%/năm, tăng từ 4.400 tỷ đồng năm 2002 lên 31.000 tỷ đồng
năm 2010.
2. Ổn định kinh tế - xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đáp ứng
yêu cầu bồi thường và trả tiền bảo hiểm nhanh chóng và đầy đủ, bảo đảm ổn
định tài chính cho nền kinh tế và cuộc sống dân cư trước các rủi ro. Nâng tổng
dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp từ 8.400 tỷ đồng năm 2002 lên
100.000 tỷ đồng năm 2010 (tức tăng khoảng 12 lần). Nâng tổng vốn đầu tư
trở lại nền kinh tế từ 6.700 tỷ đồng năm 2002 lên 90.000 tỷ đồng năm 2010
(tức tăng khoảng 14 lần).
3 Trích “Báo cáo chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”.
59
3. Tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm một cách sâu rộng thông qua việc
phát triển hệ thống đại lý khai thác bảo hiểm, qua đó góp phần tạo thêm việc
làm cho xã hội. Tăng số lượng đại lý bảo hiểm và đội ngũ cán bộ, nhân viên
làm việc trong ngành bảo hiểm từ 76.600 người năm 2002 lên khoảng
150.000 người năm 2010. Tăng tốc độ tăng trưởng, nộp ngân sách Nhà nước
đạt bình quân khoảng 20%/năm cho đến năm 2010 (tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn 1993 – 2002 là 17%/năm).
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC BẢO HIỂM
TẠI VIỆT NAM
1. Những giải pháp đối với Nhà nƣớc:
1.1. Xây dựng hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập DN BH
Việc xây dựng hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập doanh nghiệp
bảo hiểm là một sự sàng lọc cần thiết, hợp lý, không vi phạm những nguyên
tắc của WTO nhằm lựa chọn tốt nhất các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước có nguyện vọng thành lập doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt
Nam lâu dài và đóng góp cho sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Những tiêu chuẩn cơ bản bao gồm:
Lịch sử và kinh nghiệm tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
người tham gia thành lập,
Dự kiến các sản phẩm bảo hiểm đưa ra thị trường phù hợp với nhu cầu
của nền kinh tế xã hội, không tạo ra sự cạnh tranh gay gắt và góp phần phát
triển thị trường bảo hiểm,
Có bộ máy tổ chức, lãnh đạo điều hành và năng lực nghiệp vụ bảo
hiểm, thể hiện ở kinh nghiệm và bằng cấp của người đảm nhiệm từng chức
vụ,
60
Có hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu triển khai, phát triển
sản phẩm bảo hiểm, quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Có nguồn vốn chủ sở hữu lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định để đảm
bảo kinh doanh bảo hiểm lâu dài tại Việt Nam, tạo điều kiện đầu tư công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và đảm bảo biên khả
năng thanh toán cho khách hàng.
1.2. Hoàn thiện từng bƣớc luật KDBH và các văn bản hƣớng dẫn
Trong hai năm qua, Chính phủ đã tiến hành sửa đổi và bổ sung một số
Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm để tạo
hành lang pháp lý ngày càng chặt chẽ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, để hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm phù hợp với các cam kết WTO,
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, chúng ta cần tiếp tục tiến hành những giải pháp
sau đây:
Điều chỉnh những quy định chưa hợp lý:
Vấn đề liên quan đến xử phạt hành chính trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm đã được quy định trong Nghị định 118; tuy nhiên, số tiền xử phạt
đối với doanh nghiệp bảo hiểm khi vi phạm chỉ là 70 triệu đồng, đây là khoản
tiền nhỏ, chưa đủ để răn đe và ngăn chặn các doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm
hoặc tái vi phạm Luật kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính, cụ thể là Cục quản
lý, giám sát bảo hiểm, cần có những nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra khoản
tiền xử phạt thích hợp, đủ sức răn đe các doanh nghiệp bảo hiểm. Có như vậy
thì thị trường bảo hiểm mới có thể phát triển an toàn và lành mạnh.
Vấn đề trích lập và trình bày dự phòng dao động lớn có sự đối lập giữa
các quy định. Chuẩn mực kế toán số 19 không cho phép các doanh nghiệp bảo
61
hiểm trích lập dự phòng dao động lớn nhưng quy định quản lý tài chính đối
với doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam lại yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
phải trích lập dự phòng dao động lớn. Việc trích lập dự phòng dao động lớn là
việc làm rất quan trọng trong các doanh nghiệp bảo hiểm, giúp các doanh
nghiệp ổn định tình hình tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán khi xảy ra
những thảm họa, rủi ro lớn như vụ ngập lụt cuối tháng 10 năm 2008 tại Hà
Nội. Bởi vậy, cần có sự điều chỉnh thích hợp để tạo sự đồng bộ, nhất quán
giữa các văn bản pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế. Báo cáo cho Hợp
phần 4 – ETV2 (Chương trình hỗ trợ kỹ thuật Châu Âu cho Việt Nam) đã đưa
ra đề xuất cho vấn đề này là cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm trích lập dự
phòng dao động lớn như quy định hiện tại song trình bày trên báo cáo tài
chính như một phần của vốn chủ sở hữu. Nhiều quốc gia cũng đã thực hiện
theo cách này khi áp dụng chuẩn mực hợp đồng bảo hiểm.
Cần sửa đổi quy định liên quan đến thuế giá trị gia tăng đánh vào dịch
vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Chúng ta không nên thu thuế giá trị gia tăng đối
với dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ mà thay vào đó là huy động doanh nghiệp
bảo hiểm đóng góp vào Quỹ phòng chống thiên tai như các nước trên thế giới
đang làm. Hiện nay, thuế giá trị gia tăng đối với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ là 10% số tiền bảo hiểm và thuế này do doanh nghiệp bảo hiểm thu hộ
Nhà nước từ người tham gia bảo hiểm. Theo lý thuyết tài chính học thì “Bảo
hiểm là trung gian tài chính có chức năng huy động quỹ bảo hiểm tập trung để
phân phối lại cho những người đóng góp quỹ bị thiên tai, tai nạn. Vì vậy, bản
chất của bảo hiểm – trung gian tài chính – là không có giá trị gia tăng. Hơn
nữa, mục đích cơ bản của người tham gia bảo hiểm là khi kém may mắn, gặp
thiên tai, tai nạn thì tổn thất xảy ra sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường. Như vậy, người được bảo hiểm bị rủi ro tổn thất, hoạn nạn, đáng
được cứu trợ, không nên đánh thuế giá trị gia tăng với việc mua bảo hiểm của
62
họ. Lý do thứ hai là người tham gia bảo hiểm nếu không gặp rủi ro tổn thất thì
số phí của họ đã đóng sẽ được dùng để bồi thường cho người tham gia bảo
hiểm khác kém may mắn, gặp thiên tai, tai nạn, bị thiệt hại. Với giác độ này
thì người tham gia bảo hiểm trở thành nhà từ thiện, không nên đánh thuế giá
trị gia tăng đối với việc mua bảo hiểm. Lý do thứ ba là người dân càng mua
bảo hiểm đông đảo bao nhiêu thì tổn thất thiệt hại của họ được doanh nghiệp
bảo hiểm bồi thường cơ bản khắc phục được hậu quả, ổn định sản xuất kinh
doanh và đời sống. Nhờ đó mà ngân sách Nhà nước giảm bớt được khoản chi
hỗ trợ, cứu trợ xã hội. Vì vậy, người dân càng tham gia bảo hiểm nhiều thì
ngân sách càng mang tính chất ổn định bấy nhiêu. Với góc độ này, bảo hiểm
góp phần ổn định ngân sách Nhà nước, vì thế, không nên đánh thuế giá trị gia
tăng với người mua bảo hiểm.
Bổ sung các quy định còn thiếu
Cần bổ sung thêm quy định về mức sàn phí bảo hiểm của từng nghiệp
vụ bảo hiểm để hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh bằng việc hạ phí
bảo hiểm quá mức của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, đảm bảo
khả năng bồi thường khi có rủi ro, thảm họa xảy ra.
Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên mất
khả năng thanh toán cần được quy định chi tiết và cụ thể hơn. Các quy định
hiện hành trong Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 có đề cập tới việc chuyển
giao các hợp đồng bảo hiểm, nhưng không đề cập cụ thể tới trường hợp một
công ty bảo hiểm chủ động chấm dứt hoạt động trên thị trường. Luật cũng đã
liệt kê những biện pháp nhằm phục hồi khả năng thanh toán của một công ty
bảo hiểm, việc thành lập ban giám sát nhằm kiểm soát các công ty mất khả
năng thanh toán; tuy nhiên chưa quy định cụ thể các biện pháp này cần được
thực hiện như thế nào, ban giám sát được thành lập và hoạt động ra sao. Luật
cũng dẫn chiếu đến “Luật Phá sản Doanh nghiệp”, tuy nhiên, doanh nghiệp
63
bảo hiểm không giống như các doanh nghiệp khác. Quyền lợi của người mua
bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ hàng đầu. Áp dụng thủ tục phá sản như các
doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên thanh toán có thể không đảm bảo
được quyền lợi của người mua bảo hiểm. Do đó Nhà nước cần rà soát kỹ các
văn bản pháp lý có liên quan để đảm bảo các nguyên tắc của Luật Phá sản
Doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của người mua bảo
hiểm vẫn được bảo vệ tối đa.
Cần xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động điều tra tư
nhân và điều tra dân sự để các doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện chủ động
hơn về mặt thị trường. Các kết quả của hoạt động điều tra tư nhân và điều tra
dân sự cần được pháp chế hóa cụ thể để có giá trị pháp lý làm cơ sở cho các
doanh nghiệp bảo hiểm chủ động đánh giá và xử lý những trường hợp có dấu
hiệu trục lợi bảo hiểm trước khi vụ việc bị coi là mang yếu tố hình sự. Đây là
việc làm cần thiết bởi trong ngành bảo hiểm, để thực hiện hoạt động điều tra,
doanh nghiệp cần phải có những kỹ năng và chuyên môn phù hợp. Việc xây
dựng hành lang pháp lý này sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm tránh được
những trường hợp trục lợi bảo hiểm, mặt khác, nếu ở một mức độ có thể chấp
nhận được thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có cách xử lý mà vẫn đạt được mục
đích giao kết hợp đồng với khách hàng đó.
1.3. Hình thành bộ máy quản lý Nhà nƣớc về hoạt động kinh doanh BH
Tháng 02 năm 2009, Vụ Bảo hiểm đã được chuyển thành Cục Quản lý,
giám sát bảo hiểm. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc
quản lý, giám sát thị trường bảo hiểm. Cục quản lý, giám sát bảo hiểm được
thành lập với vai trò được củng cố hơn. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần phải
nâng cao hơn nữa quyền lực của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm; hình thành
bộ phận Thanh tra bảo hiểm trực thuộc Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, bộ
phận này có quyền ra quyết định xử phạt những vi phạm trong hoạt động kinh
64
doanh bảo hiểm; hình thành bộ phận Nghiên cứu định hướng phát triển thị
trường bảo hiểm trong từng giai đoạn, làm cơ sở cấp phép thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm và ban hành các văn bản pháp quy. Ngoài ra, Nhà nước cần
thành lập Cơ quan giám sát các dịch vụ tài chính trực thuộc Chính phủ. Cơ
quan này có chức năng tiếp nhận báo cáo hoạt động, kiểm tra xử phạt các hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính,
ngân hàng, tín dụng. Việc kiểm soát liên ngành sẽ không cho phép tạo kẽ hở
giấu rủi ro, khiếm khuyết của ngành đến khi được phát hiện ra ngành bảo
hiểm sẽ ảnh hưởng đến các ngành khác như ngân hàng, cho vay đầu tư quá
nhiều vào chứng khoán và bất động sản, dẫn đến tăng trưởng bong bóng. Hậu
quả là bất động sản đóng băng, chứng khoán giảm giá, ảnh hưởng đến sự suy
sụp của ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác.
2. Những giải pháp đối với Hiệp hội bảo hiểm
Hiệp hội bảo hiểm được thành lập năm 1999 với vai trò xây dựng một
ngôi nhà chung, nói lên tiếng nói chung cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam, xây dựng chế độ tự quản của các doanh nghiệp bảo hiểm. Thời gian
qua, Hiệp hội bảo hiểm đã phát huy được vai trò tuyên truyền về bảo hiểm, tư
vấn, thẩm định, đóng góp ý kiến xây dựng văn bản pháp quy; tổng hợp cung
cấp thông tin, đánh giá tình hình thị trường bảo hiểm Việt Nam; tổ chức các
buổi hội thảo, đào tạo, tập huấn, xây dựng chế độ hợp tác và tự quản; mở rộng
mối quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Song,
thực tế, không ít doanh nghiệp bảo hiểm chưa tôn trọng Hiệp hội. Các quy tắc
ứng xử, quy chế, thỏa thuận hợp tác luôn bị các doanh nghiệp bảo hiểm vi
phạm mà chưa có chế tài xử phạt. Thực chất, chi phí hoạt động của Hiệp hội
vẫn do các doanh nghiệp bảo hiểm đóng góp. Để Hiệp hội có tiếng nói khách
quan, có thể phát huy vai trò của mình thì cần từng bước tăng thu nhập của
Hiệp hội, giảm dần sự đóng góp kinh phí từ các doanh nghiệp bảo hiểm. Để
65
làm được điều này thì Nhà nước nên giao cho Hiệp hội bảo hiểm thực hiện
các công việc hành chính công. Trước mắt, có thể quy định Hiệp hội bảo hiểm
là nơi duy nhất tổ chức kiểm tra, cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm nhân thọ, phi
nhân thọ. Nếu làm được việc này thì chúng ta sẽ nâng cao rõ rệt được chất
lượng đào tạo, tuyển dụng đại lý, đồng thời ngăn chặn được việc tạo ra đội
ngũ đại lý bảo hiểm khống, chi hoa hồng khống cho đại lý khi hiện nay doanh
nghiệp bảo hiểm vừa là người đào tạo, cấp chứng chỉ vừa là người sử dụng và
chi hoa hồng đại lý. Sau đó, Hiệp hội bảo hiểm sẽ là người được quyền thu
các dịch vụ tư vấn phản biện, đóng góp ý kiến văn bản pháp quy, thu từ dịch
vụ duy trì hợp đồng và cung cấp thông tin từ phần mềm quản lý dữ liệu, quản
lý bảo hiểm thống nhất, thu từ dịch vụ đào tạo.
3. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
3.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh
Các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước, cần tập trung nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng hội
nhập quốc tế sâu rộng, phù hợp với mô hình phát triển doanh nghiệp bảo hiểm
theo chuẩn mực quốc tế. Để làm được điều này thì các doanh nghiệp nên tập
trung thực hiện tốt các vấn đề sau:
Đầu tiên, các doanh nghiệp bảo hiểm phải tập trung nâng cao hệ thống
công nghệ thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý từ khâu khai thác,
theo dõi hợp đồng, theo dõi khách hàng, tiếp nhận thông tin từ khách
hàng, xử lý sự cố thiên tai, tai nạn, giám định bồi thường, tính phí, đánh
giá rủi ro. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các
doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất quan trọng và đem lại hiệu quả rất
cao, doanh nghiệp bảo hiểm nào càng ứng dụng được nhiều công nghệ
thông tin vào trong hoạt động quản lý kinh doanh thì càng đem lại hiệu
quả thiết thực trong việc phát triển kinh doanh bảo hiểm, chăm sóc
66
khách hàng, quản lý rủi ro và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trước đây,
các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã đầu tư nhiều vào công nghệ thông
tin nhưng lại thiếu đồng bộ, dẫn đến thất bại hoặc hiệu quả ứng dụng
điều hành không cao. Để giải quyết được vấn đề này, mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam nên lựa chọn đối tác chiến lược, đặc biệt là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để tiếp thu kinh nghiệm, năng
lực quản lý điều hành doanh nghiệp cũng như tiếp thu những phần
mềm quản lý điều hành mang tính hệ thống và có thực tiễn ứng dụng
hiệu quả cao của các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ hai là tập trung vào công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
mang tính hệ thống, bài bản với những nội dung, chương trình đào tạo
phù hợp với chuẩn mực quốc tế thay cho lối đào tạo truyền bá kinh
nghiệm, kiến thức của người đi trước dạy bảo người đi sau. Đối với các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, cần từng bước tăng dần tỉ trọng
khai thác bảo hiểm qua khâu trung gian là môi giới và đại lý bảo hiểm,
tinh giảm biên chế đội ngũ cán bộ khai thác trước đây để đào tạo những
cán bộ quản lý bảo hiểm giỏi, nghiên cứu thị trường, phát triển sản
phẩm, mở rộng dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày một tốt hơn. Ngoài
ra, các doanh nghiệp bảo hiểm cả trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và
phi nhân thọ cần có những chương trình tuyển dụng, đào tạo, sử dụng
chế độ đãi ngộ thích hợp cho những đại lý bảo hiểm từ lúc mới được
tuyển dụng đến bước thăng tiến sau này sao cho có chất lượng và đảm
bảo thu nhập ngày càng cao, tạo ra đội ngũ đại lý bảo hiểm chuyên
nghiệp, chuyên tâm với nghề, cống hiến cho doanh nghiệp.
Thứ ba, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần tạo cho mình lợi thế
hơn hẳn về địa lý, văn hóa, pháp luật để cạnh tranh với các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài không hoạt động tại Việt Nam. Thế mạnh
67
địa lý tạo cơ hội cho doanh nghiệp bảo hiểm tiếp cận trực tiếp với
khách hàng, đầu tư, mở rộng các dịch vụ gia tăng cho khách hàng, ví dụ
như khám bệnh, điều trị tại bệnh viện có đội ngũ y bác sĩ nổi tiếng Việt
Nam, bảo dưỡng xe, sửa chữa xe không thuộc tai nạn bảo hiểm được
giảm giá…Thế mạnh địa lý cũng tạo cơ hội cho doanh nghiệp giải
quyết việc giám định cũng như bồi thường nhanh nhất, trực tiếp tới
khách hàng, từ đó đem đến sự hài lòng và tin tưởng về chất lượng dịch
vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở khách hàng. Thế mạnh về văn hóa tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm hiểu biết được mục đích, nhu
cầu, mong muốn của khách hàng tiềm năng trước khi lựa chọn sản
phẩm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Từ đó, các doanh nghiệp
đưa ra những giải pháp phù hợp để đáp ứng tốt những nhu cầu đó của
khách hàng; đó là phương pháp tiếp cận khách hàng, cách thức tuyên
truyền vận động khách hàng mua bảo hiểm, tìm hiểu nhu cầu của khách
hàng về sản phẩm bảo hiểm để có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm hoặc
đưa ra sản phẩm bảo hiểm mới, cũng như nghiên cứu những khó khăn
vướng mắc mà khách hàng cần doanh nghiệp bảo hiểm cùng tháo
gỡ…Thế mạnh về pháp luật là điều quan trọng nhất vì người được bảo
hiểm sẽ được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp trước pháp luật Việt
Nam. Hồ sơ và thủ tục đòi bồi thường, biên bản giám định, chứng từ
chứng minh thiệt hại dễ dàng thực hiện tại Việt Nam và được pháp luật
Việt Nam công nhận. Nếu có gì không thỏa thuận được, khách hàng có
thể kiện doanh nghiệp bảo hiểm ra tòa án Việt Nam. Đây là lợi thế vượt
trội. Nếu một số khách hàng tham gia bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo
hiểm đang hoạt động tại nước ngoài, có thể doanh nghiệp nước ngoài sẽ
yêu cầu chứng thư giám định tổn thất cấp bởi một công ty giám định có
uy tín quốc tế mà không công nhận những kết quả của cơ sở y tế, cơ
quan công an, chính quyền địa phương như các doanh nghiệp bảo hiểm
68
Việt Nam vẫn làm. Mặt khác, hồ sơ bồi thường của khách hàng nếu có
một loại giấy tờ nào đó do sơ suất về ngày tháng năm, số lượng, đơn
giá, trị giá, người lập không phù với với những giấy tờ còn lại có thể bị
từ chối bồi thường mà không được làm lại. Giải quyết tranh chấp với
doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động ở nước ngoài rất khó khăn về
ngôn ngữ, luật sư, nguồn luật và tòa án đứng ra xét xử nên người được
bảo hiểm sẽ khó theo đuổi vụ kiện hoặc thắng kiện. Chính vì những lợi
thế trên mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam
nên tận dụng tối đa lợi thế của mình, tổ chức tuyên truyền đến từng
khách hàng để họ hiểu và mua sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp
mình.
3.2. Tăng cƣờng hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường đương nhiên phải
cạnh tranh với nhau sao cho doanh nghiệp mình hoạt động có hiệu quả, thu
được nhiều lợi nhuận. Cạnh tranh không phải là để chia rẽ, phân hóa các
doanh nghiệp bảo hiểm mà cạnh tranh sẽ tạo tiền đề để các doanh nghiệp bảo
hiểm tiến tới hợp tác song phương, đa phương, thậm chí tiến tới việc mua
bán, hợp nhất, sáp nhập giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để tạo nên một sức
mạnh cạnh tranh cao hơn. Khi mà các yếu tố như vốn pháp định tăng (từ 70 tỷ
đồng lên 300 tỷ đồng với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 140 tỷ đồng
lên 600 tỷ đồng với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ); số lượng các doanh
nghiệp bảo hiểm trên thị trường ngày càng đông cùng với khả năng giữ lại lớn
(10% vốn chủ sở hữu) thì tất yếu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ tái
bảo hiểm lẫn nhau, tiến tới không phải tái bảo hiểm ra nước ngoài. Chính vì
vậy, các doanh nghiệp sẽ tạo ra sự thống nhất về sản phẩm bảo hiểm (quy tắc,
điều khoản, biểu phí) và sẽ có sự hợp tác với nhau trong tái bảo hiểm và đồng
bảo hiểm. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm cần hợp tác với nhau trong
69
việc xây dựng dữ liệu quản lý bảo hiểm, đánh giá rủi ro, phân tích rủi ro, cung
cấp thông tin về bồi thường, nguyên nhân tổn thất, phòng chống trục lợi bảo
hiểm để hoạt động hiệu quả hơn.
3.3. Nâng cao chất lƣợng phục vụ
Như đã đề cập ở trên, chất lượng phục vụ là yếu tố rất quan trọng giúp
các doanh nghiệp tạo uy tín và niềm tin nơi khách hàng. Tuy nhiên hiện nay
các doanh nghiệp trong nước lại chưa chú trọng nhiều đến dịch vụ chăm sóc
khách hàng, đặc biệt là khâu giải quyết bồi thường, khiến cho khách hàng
thiếu tin tưởng vào vai trò của bảo hiểm. Vì vậy mà các doanh nghiệp bảo
hiểm cần nâng cao chất lượng phục vụ của doanh nghiệp mình. Trước hết là
doanh nghiệp bảo hiểm cần công khai, minh bạch hóa hơn nữa về hồ sơ, thủ
tục giải quyết bồi thường. Thứ hai là doanh nghiệp cần đơn giản hóa hồ sơ,
thủ tục bồi thường, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, giảm tối đa phiền
phức. Thứ ba, các doanh nghiệp bảo hiểm nên tăng cường hỗ trợ, giúp đỡ
khách hàng trong việc thu thập hồ sơ chứng từ để giải quyết bồi thường cho
nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc phải lấy từ cơ quan có thẩm
quyền như công an, bệnh viện bằng cách thiết lập các mối liên hệ với các cơ
quan này. Thứ tư, các doanh nghiệp bảo hiểm cần lập đội ngũ nhân viên
chuyên nghiệp trong việc giám định bồi thường tổn thất để giám định tổn thất
một cách chính xác và nhanh chóng, nhất là khi có rủi ro bảo hiểm xảy ra.
Ngoài việc nâng cao chất lượng khâu giải quyết bồi thường thiệt hại, các
doanh nghiệp bảo hiểm nên chú trọng tới khâu chăm sóc khách hàng như các
gói dịch vụ hỗ trợ khách hàng. Chẳng hạn đối với bảo hiểm ô tô, xe cơ giới
doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng dịch vụ cứu hộ giao thông
miễn phí, khi khách hàng gặp rắc rối trong quá trình tham gia giao thông như
gặp tắc đường hoặc bị lạc mà không thể thoát ra được thì thông qua hệ thống
đường dây nóng của doanh nghiệp bảo hiểm, khách hàng sẽ được chỉ dẫn tận
70
tình để nhanh chóng giải quyết vấn đề đó. Dịch vụ này đã được các công ty
bảo hiểm ở nước ngoài thực hiện từ rất lâu và rất có hiệu quả, hiện nay thì
nước ta đã có công ty bảo hiểm Liberty đang tiến hành triển khai thực hiện
gói dịch vụ này và nhận được sự hưởng ứng cao của khách hàng. Hoặc đối
với bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp bảo hiểm nên chú trọng quan tâm
đến từng khách hàng bằng cách tặng thiếp, quà vào những dịp đặc biệt như
sinh nhật, ngày quốc tế phụ nữ…Nếu các doanh nghiệp gây được niềm tin
trong lòng khách hàng của mình thì sẽ giữ được khách hàng cũ và ngày càng
thu hút thêm được nhiều khách hàng tiềm năng.
3.4. Nâng cao năng lực quản lý điều hành, quản trị rủi ro.
Các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải nâng cao năng lực quản trị doanh
nghiệp, đặc biệt cần phải chú trọng tới việc đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ
cán bộ quản lý cấp cao để có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý, quản trị rủi
ro/chi phí với hiệu quả cao. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nên cử
người đi học hỏi kinh nghiệm tại các công ty bảo hiểm nước ngoài có uy tín,
hoạt động lâu năm trên thị trường bảo hiểm và tổ chức các lớp đào tạo, nâng
cao năng lực của nhân viên.
71
KẾT LUẬN
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính nhạy cảm, việc mở cửa thị
trường theo lộ trình cam kết WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức
cho toàn thị trường và cho mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Thị
trường bảo hiểm đã trải qua hai năm thực hiện các cam kết mở cửa trong
WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã tận dụng được nhiều cơ hội và
vượt qua nhiều thách thức để phát triển, tăng trưởng doanh thu. Hai năm qua
cũng là hai năm các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước bộc lộ những yếu kém
trong hoạt động quản trị, điều hành doanh nghiệp. Mặc dù doanh thu toàn thị
trường bảo hiểm vẫn tăng nhưng hoạt động kinh doanh nghiệp vụ lại lỗ, lỗ
toàn thị trường là 163 tỷ đồng. Để có thể tiếp tục đứng vững trên thị trường
bảo hiểm trong thời gian tới, đòi hỏi các nhà quản lý và các doanh nghiệp bảo
hiểm phải cố gắng tìm được lối đi phù hợp cho riêng mình. Trong hai năm
qua, Chính phủ cũng đã nỗ lực xây dựng hành lang pháp lý, sửa đổi và bổ
sung các quy định cần thiết, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục
nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành
mạnh, an toàn.
Về cơ bản, khóa luận đã chỉ ra đƣợc một số vấn đề sau:
1. Sau hai năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, thị trường
bảo hiểm Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn, thách thức, tuy nhiên, hầu hết
các doanh nghiệp bảo hiểm đều có lãi, thị trường bảo hiểm vẫn đạt được mức
tăng trưởng 11,78% năm 2008. Thị trường bảo hiểm của chúng ta được mở
cửa khá sớm, các doanh nghiệp bảo hiểm có một thời gian dài để chuẩn bị nên
thích ứng khá nhanh. Mặc dù doanh thu toàn thị trường bảo hiểm năm 2008 là
26.938 tỷ đồng tăng 2.839 tỷ đồng so với năm 2007 nhưng thị trường đang có
dấu hiệu đi xuống. Khi đi sâu phân tích, chúng ta nhận thấy doanh thu của các
72
công ty bảo hiểm chủ yếu là từ hoạt động đầu tư tài chính. Hầu hết các công
ty bảo hiểm trên thị trường đều lỗ trong hoạt động kinh doanh nghiệp vụ, toàn
thị trường lỗ 163 tỷ đồng, chỉ có một vài doanh nghiệp bảo hiểm lớn là có lãi
trong hoạt động nghiệp vụ. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là các doanh
nghiệp đua nhau hạ phí bảo hiểm để cạnh tranh, giành thị phần nên khi rủi ro
xảy ra, phí bảo hiểm không đủ để bồi thường. Hơn nữa, năm 2008 cũng là
năm nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lạm phát, thiên tai, lũ lụt và
chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới trong những tháng cuối năm. Vì
vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm phải cố gắng, nỗ lực hết sức, đưa ra những
chiến lược cụ thể cùng với các chính sách phát triển thị trường có tính chất
định hướng của Nhà nước thì thị trường bảo hiểm mới có thể tiếp tục phát
triển lành mạnh, ổn định trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều
khó khăn trong năm 2009.
2. Hệ thống pháp lý về bảo hiểm của Nhà nước ngày càng hoàn thiện,
minh bạch hơn, các quy định tiệm cận hơn với tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh
nghiệp Việt Nam được tiếp cận với nguồn vốn đầu tư lớn, tiếp thu công nghệ
và các kỹ năng quản lý tiên tiến của các tập đoàn bảo hiểm nổi tiếng nước
ngoài. Tuy nhiên, hiện giờ hệ thống pháp luật bảo hiểm vẫn còn nhiều điểm
chưa hợp lý, cần phải sửa đổi, bổ sung, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
vẫn còn nhiều điểm yếu về năng lực tài chính, khả năng quản lý, quản trị rủi
ro cần phải khắc phục.
3. Trên cơ sở các phân tích trên, tác giả đã đưa ra một số giải pháp phát
triển thị trường bảo hiểm. Về phía Nhà nước, cần phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bảo hiểm theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực quản lý và
giao thêm quyền lực cho bộ máy quản lý giám sát thị trường bảo hiểm, cụ thể
là Cục quản lý, giám sát bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính. Đồng thời, Bộ Tài
chính cũng cần xem xét và đưa ra những hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn
73
thành lập doanh nghiệp bảo hiểm để sàng lọc những doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài có năng lực tài chính và khả năng quản lý tốt, giúp thị trường bảo
hiểm phát triển an toàn. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm, cần đưa ra
những chiến lược phát triển thích hợp, nâng cao kỹ năng quản lý, ứng dụng
công nghệ thông tin và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Có như vậy
thị trường bảo hiểm của chúng ta mới có thể đứng vững được trong bối cảnh
nền kinh tế đang suy thoái hiện nay và vững bước phát triển trong tương lai.
Tác giả hy vọng phần nào đã đưa ra được một số giải pháp mang tính
gợi mở, giúp thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục phát triển trong thời gian
tới. Hy vọng rằng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực hết mình của
các doanh nghiệp bảo hiểm và ý thức bảo hiểm ngày càng cao của người dân
sẽ giúp cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển bền vững và mạnh mẽ./.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2006), Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2005, NXB
Tài chính
2. Bộ Tài chính (2007), Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006, NXB
Tài chính
3. Bộ Tài chính (2008), Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2007, NXB
Tài chính
4. Bộ Tài chính, Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (2009), Tài liệu hội nghị
ngành bảo hiểm Việt Nam năm 2009
5. Ban công tác gia nhập WTO (2006), Biểu cam kết về thương mại dịch vụ
6. Chính phủ, Nghị định 118/2003/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
7. Chính phủ, QĐ 153/2003/QĐ-BTC về hệ thống chỉ tiêu giám sát hoạt động
của các doanh nghiệp bảo hiểm
8. Chính phủ, QĐ 175/2003/QĐ-TTg, Chiến lược phát triển thị trường bảo
hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010
9. Luật Kinh doanh bảo hiểm, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
10. GS.TS Hoàng Văn Châu, PGS.TS Vũ Sĩ Tuấn, PGS.TS Nguyễn Như Tiến
(2002), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh, NXB Khoa học và kỹ thuật
11. PGS.TS Nguyễn Như Tiến (2006), Thị trường bảo hiểm Việt Nam cơ hội
và thách thức trong quá trình hội nhập, NXB Lý luận chính trị
12. PGS.TS Nguyễn Văn Định (2004), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo
hiểm, NXB Thống kê
13. PSG.TS Nguyễn Văn Định, Giáo trình Bảo hiểm, NXB Thống kê
14. Tạp chí Thị trường bảo hiểm, Tái bảo hiểm Việt Nam số 1/2009
15. Tạp chí Bảo hiểm
75
16. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, Bản tin Bảo hiểm và Đời sống số 1/2009
17. www.vnexpress.net, Bản tóm tắt biểu cam kết WTO
18. www.avi.org.vn, website Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
19. www.baohiem.pro.vn, Đặng Ngọc Thanh, Dự báo thị trường bảo hiểm
Việt Nam
20. www.webbaohiem.net, Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam 2008
21. www.webbaohiem.net, Bảo hiểm Liberty mở rộng phạm vi kinh doanh
22. website Tổng công ty tái bảo hiểm quốc gia
Việt Nam Vinare
23. www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com, Nguyễn Thị Thủy (2007),
Chống trục lợi bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm
24. www.taichinh24h.com, Lịch sử phát triển ngành bảo hiểm
76
PHỤ LỤC 1. DANH SÁCH CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM, MÔI GIỚI BẢO HIỂM NĂM 2008
STT TÊN CÔNG TY
NĂM
THÀNH
LẬP
HÌNH THỨC SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU
LỆ ĐÃ GÓP
(tỷ đồng)
I. Công ty bảo hiểm phi nhân thọ: 27 công ty
Trong nƣớc: 16 công ty
1 Tổng Cty cổ phần bảo hiểm Bảo Việt (Bảo hiểm Bảo Việt) 1964 Cổ phần 1000
2 Tổng Cty cổ phần Bảo Minh (Bảo Minh) 1994 Cổ phần 755
3 Cty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) 1995 Cổ phần 335,104
4 Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) 1995 Cổ phần 167,2
5 Cty cổ phần bảo hiểm dầu khí (PVI) 1996 Cổ phần 1035,5
6 Cty cổ phần bảo hiểm Bưu điện (PTI) 1998 Cổ phần 300
7 Cty TNHH Bảo hiểm ngân hàng công thương Việt Nam 2002 Cổ phần 92,6
8 Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông (VASS) 2003 Cổ phần 300
9 Công ty cổ phần bảo hiểm AAA (AAA) 2005 Cổ phần 675,027
10 Cty bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIC) 2005 Nhà nước 500
11 Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC) 2006 Cổ phần 300
12 Cty ty cổ phần bảo hiểm ngân hàng NN &PTNT Việt Nam (Agrinco) 2006 Cổ phần 380
13 Cty cổ phần bảo hiểm Bảo Tín (Bảo Tín) 2006 Cổ phần 80
14 Cty cổ phần bảo hiểm Quân Đội (MIC) 2007 Cổ phần 300
15 Cty cổ phần bảo hiểm Hàng không Việt Nam (VNI) 2008 Cổ phần 477,6
16 Cty cổ phần Bảo hiểm Hùng Vương 2008 Cổ phần 166,124
17 Cty Bảo hiểm Than Khoáng Sản 2008 Cổ phần −
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: 11 công ty
18 Cty LD bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA) 1996 Liên doanh 300
19 Cty LD bảo hiểm Liên hiệp (UIC) 1997 Liên doanh 63
20 Cty LD TNHH bảo hiểm Samsung Vina (Samsung Vina) 2002 Liên doanh 76,746
21 Cty bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam (Groupama) 2001 100% vốn nước ngoài 116,53
22 Cty TNHH bảo hiểm QBE Việt Nam (QBE) 2005 100% vốn nước ngoài 89,618
23 Cty TNHH bảo hiểm phi nhân thọ AIG Việt Nam (AIG) 2005 100% vốn nước ngoài 318,575
24 Cty TNHH bảo hiểm ACE (ACE) 2006 100% vốn nước ngoài 300
25 Cty TNHH bảo hiểm Liberty (Liberty) 2006 100% vốn nước ngoài 321,062
26 Cty TNHH Bảo hiểm Mitsui Sumitomo (MSIG) 2008 100% vốn nước ngoài −
27 Cty TNHH Bảo hiểm Fubon Việt Nam 2008 100% vốn nước ngoài 300
II. Công ty bảo hiểm nhân thọ: 11 công ty
Trong nƣớc: 1 công ty
28 Bảo Việt nhân thọ 2004 Cổ phần 1,500 tỷ đồng
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: 10 công ty
29 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam (Prudential) 1999 100% vốn nước ngoài 75 triệu USD
30 Cty TNHH Manulife Việt Nam (Manulife) 1999 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD
31 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ AIG Việt Nam 2000 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD
32 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Ace (Ace life) 2005 100% vốn nước ngoài 20 triệu USD
33 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prévoir Việt Nam (Prevoir) 2005 100% vốn nước ngoài 10 triệu USD
34 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Cathay Việt Nam (Cathay) 2007 100% vốn nước ngoài 60 triệu USD
35 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Great Eastern Việt Nam 2007 100% vốn nước ngoài 600 tỷ đồng
36 Cty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam (Dai-ichi) 2007 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD
37 Cty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Vietcombank Cardif (VCLI) 2008 Liên doanh 600 tỷ đồng
38 Cty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc 2008 100% vốn nước ngoài 60 triệu USD
III. Công ty tái bảo hiểm: 1 công ty
39 Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) 1994 Cổ phần 672,2 tỷ đồng
IV. Công ty môi giới bảo hiểm: 10 công ty
Trong nƣớc: 6 công ty
40 Cty cổ phần môi giới bảo hiểm Việt Quốc (Việt Quốc) 2001 Cổ phần 6 tỷ đồng
41 Cty cổ phần môi giới bảo hiểm Á Đông 2003 Cổ phần 6 tỷ đồng
42 Cty cổ phần môi giới bảo hiểm Đại Việt (Đại Việt) 2003 Cổ phần 6 tỷ đồng
43 Cty cổ phần môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương (PIB) 2005 Cổ phần 6 tỷ đồng
44 Cty cổ phần môi giới bảo hiểm Cimeco (Cimeco) 2006 Cổ phần 4 tỷ đồng
45 Cty môi giới bảo hiểm Sao Việt 2008 Cổ phần -
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: 4 công ty
46 Cty TNHH Aon Việt Nam (Aon) 1993 100% vốn nước ngoài 300.000 USD
77
47 Cty TNHH môi giới bảo hiểm Grass Savoye Willis Việt Nam (Grassavoye) 2003 100% vốn nước ngoài 300.000 USD
48 Cty TNHH môi giới bảo hiểm Marsh Việt Nam (Marsh) 2003 100% vốn nước ngoài 300.000 USD
49 Cty môi giới bảo hiểm Jardine Lloy Thompson (JLT) 2008 100% vốn nước ngoài −
77
PHỤ LỤC 2. DOANH THU - THỊ PHẦN PHÍ BH GỐC NĂM 2004, 2005, 2006, 2007
VÀ ƢỚC NĂM 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
STT TÊN CÔNG TY
DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM GỐC THỊ PHẦN PHÍ BẢO HIỂM GỐC
2004 2005 2006 2007 2008 2004 2005 2006 2007 2008
I. Công ty bảo hiểm phi nhân thọ 4.767 5.486 6.404 8.258 10.899 100% 100% 100% 100% 100%
Trong nƣớc 4.470 5.217 6.062 7.793 10.198 93,77% 95,10% 94,66% 94,37% 93,95%
1 Bảo Việt 1.929 2.106 2.246 2.602 3.305 40,47% 38,39% 35,07% 31,51% 30,45%
2 Bảo Minh 1.058 1.178 1.387 1.611 1.886 22,19% 21,47% 21,66% 19,51% 17,38%
3 Pjico 600 729 670 823 1.061 12,59% 13,29% 10,46% 9,97% 9,78%
4 PVI 208 703 1.164 1.650 2.016 4,36% 12,81% 18,18% 19,98% 18,57%
5 PTI 552 266 281 288 433 11,58% 4,85% 4,39% 3,49% 3,99%
6 Bảo Long 93 113 114 165 254 1,95% 2,06% 1,78% 2,00% 2,34%
7 VASS 30 91 108 167 221 0,63% 1,66% 1,69% 2,02% 2,04%
8 AAA ‾ 5 49 155 203 ‾ 0,09% 0,77% 1,88% 1,87%
9 GIC ‾ ‾ 3 166 193 ‾ 0,05% 2,01% 1,78%
10 BIC ‾ 26 40 147 264 ‾ 0,47% 0,62% 1,78% 2,43%
11 Agrinco ‾ ‾ ‾ 18 131 ‾ ‾ ‾ 0,22% 1,21%
12 Bảo Tín ‾ ‾ ‾ 1 8,65 ‾ ‾ ‾ 0,01% 0,08%
13 MIC ‾ ‾ ‾ ‾ 143 ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
14 VNI ‾ ‾ ‾ ‾ 72 ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
15 Hùng Vương ‾ ‾ ‾ ‾ 6,81 ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
16 Than Khoáng Sản ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 297 269 342 463 701 6,23% 4,90% 5,34% 5,61% 6,43%
17 UIC 101 115 131 164 176 2,12% 2,10% 2,05% 1,99% 1,61%
18 VIA 68 72 94 107 160 1,43% 1,31% 1,47% 1,30% 1,47%
19 IAI 9 17 24 25 23,82 0,19% 0,31% 0,37% 0,30% 0,22%
20 Samsung Vina 16 26 48 66 84,12 0,34% 0,47% 0,75% 0,80% 0,77%
21 Groupama 0 1 2 2 3,87 0% 0,02% 0,03% 0,02% 0,04%
22 QBE ‾ 38 24 29 37,08 0,69% 0,37% 0,35% 0,34%
23 AIG ‾ ‾ 19 62 103,65 ‾ 0,30% 0,75% 0,95%
24 ACE ‾ ‾ ‾ 4 21,71 ‾ ‾ 0,05% 0,20%
25 Liberty ‾ ‾ ‾ 4 45,20 ‾ ‾ 0,05% 0,41%
26 MSIG ‾ ‾ ‾ ‾ 45,20 ‾ ‾ ‾ 0,41%
27 Fubon Việt Nam ‾ ‾ ‾ ‾ 0,44 ‾ ‾ ‾ 0,004%
* LD Việt Úc4 22 ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
* Allianz Việt Nam5 81 ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
II. Công ty bảo hiểm nhân thọ 7.711 8.130 8.495 9.438 10.339 100% 100% 100% 100% 100%
Trong nƣớc 3.043 3.064 3.113 3.286 3.425 33,13% 37,69% 36,65% 34,82% 33,13%
28 Bảo Việt nhân thọ 3.043 3.064 3.113 3.286 3.425 33,13% 37,69% 36,65% 34,82% 33,13%
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 4.668 5.006 5.382 6.152 6.914 66,87% 61,57% 63,35% 65,18% 66,87%
29 Dai-ichi
6
212 287 369 473 586 5,67% 3,53% 4,34% 5,01% 5,67%
30 Prudential 3.104 3.355 3.529 3.958 4.270 41,30% 41,27% 41,54% 41,94% 41,30%
31 Manulife 889 523 897 968 1.081 10,46% 6,43% 10,56% 10,26% 10,46%
32 AIG life
7
463 898 518 547 629 6,08% 11,05% 6,10% 5,80% 6,08%
33 Ace life ‾ 3 52 162 308 2,98% 0,04% 0,61% 1,72% 2,98%
34 Prevoir ‾ ‾ 17 44 30 0,29% ‾ 0,20% 0,47% 0,29%
35 Cathay ‾ ‾ ‾ ‾ 10 0,10% ‾ ‾ ‾ ‾
36 Great Eastern ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
37 VCLI ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
38 Bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
TỔNG CỘNG 12.478 13.616 14.928 17.696 21.238
4
Năm 2006 Cty LD Việt Úc đã được vốn hóa và đổi tên thành Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC)
5
Năm 2006 Cty Bảo hiểm QBE (Australia) đã mua lại toàn bộ phần vốn góp của các đối tác trong Cty TNHH Bảo hiểm Allianz Việt
6
Trước kia là Cty BH nhân thọ Bảo Minh CMG
7
Trước kia là Cty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ Việt Nam (AIA)
79
PHỤ LỤC 3: CƠ CẤU ĐẦU TƢ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Danh mục đầu tƣ
Giá trị (tỷ đồng) Tỷ trọng
So sánh
08/07
2007 2008 2007 2008
Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng 5.346,142 7.327,931 52,68% 48,27% 37,07%
Trái phiếu Chính phủ 580,157 552,979 5,72% 3,64% -4,68%
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh 341,806 0 3,37% 0,00% -100,00%
Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
không có bảo lãnh 819,270 1.263,306 8,07% 8,32% 54,20%
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác 792,785 1.380,716 7,81% 9,10% 74,16%
Kinh doanh bất động sản 467,905 79,775 4,61% 0,53% -82,95%
Cho vay 352,588 97,915 3,47% 0,65% -72,23%
Ủy thác đầu tư 1.248,319 3.526,200 12,30% 23,23% 182,48%
Khác 198,986 950,980 1,96% 6,26% 377,91%
2. Tổng nguồn vốn đầu tƣ 10.147,956 15.179,803 100% 100% 49,58%
3. Thu nhập hoạt động đầu tƣ 921,434 915,879 -0,60%
4. Lãi suất đầu tƣ (%) 9,08% 6,03% -33,55%
CƠ CẤU ĐẦU TƢ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1. Danh mục đầu tƣ
Giá trị (tỷ đồng) Tỷ trọng
So sánh
08/07 2007 2008 2007 2008
Tiền gửi ngân hàng 4.743 6.311 14,57% 16,24% 24,85%
Trái phiếu chính phủ 18.422 22.581 56,58% 58,10% 18,42%
Cổ phiếu, góp vốn 3.674 2.951 11,28% 7,59% -24,50%
Cho vay 2.932 3.930 9,01% 10,11% 25,39%
Đầu tư khác 2.788 3.095 8,56% 7,96% 9,92%
2. Tổng nguồn vốn đầu tƣ 32.559 38.868 100% 100% 16,23%
3. Thu nhập hoạt động đầu tƣ 5.127 4.010 -27,86%
4.Lãi suất đầu tƣ 15,75% 10,32% -52,63%
*Ghi chú: Số liệu bảng này không tính Cathay và Great Eastern
80
PHỤ LỤC 4: BỒI THƢỜNG, TRẢ TIỀN BẢO HIỂM GIAI ĐOẠN 2004 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
STT TÊN CÔNG TY 2004 2005 2006 2007 2008
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ 1.717 2.168,1 2.459 3.216 4.537
Trong nƣớc 1.676 2.110,9 2.402 3.100 4.419
1 Bảo Việt 892 952,0 1.073 1.306,70 1.573,25
2 Bảo Minh 354 498,9 611 725,26 1.010,98
3 Pjico 283 378,7 323 326,07 399,32
4 PVI 43 144,4 158 417,66 872,07
5 PTI 63 60,5 101 137,59 141,26
6 Bảo Long 39 54,8 68 80,96 111,91
7 VASS 2 16,2 54 51,06 95,67
8 AAA ‾ 0,5 8 27,26 60,03
9 GIC ‾ ‾ ‾ 11,04 36,492
10 BIC ‾ 4,9 6 15,38 72,112
11 Agrinco ‾ ‾ ‾ 1,42 28,147
12 Bảo Tín ‾ ‾ ‾ 0,025 0,368
13 MIC ‾ ‾ ‾ ‾ 17,64
14 VNI ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
15 Hùng Vương ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
16 Than Khoáng Sản ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 41 57,2 57 115 118
17 UIC 14 12,5 14 26,702 29,15
18 VIA 16 23,6 26 43,749 39,41
19 IAI 0 1,5 4 26,666 7,72
20 Samsung Vina 1 10,5 3 4,119 15,09
21 Groupama 1 0,1 1 0,426 0,45
22 QBE ‾ 9,0 4 6,020 3,42
23 AIG ‾ ‾ 5 7,299 15,85
24 ACE ‾ ‾ ‾ 0 0,18
25 Liberty ‾ ‾ ‾ 0,180 6,25
26 MSIG ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
27 Fubon Việt Nam ‾ ‾ ‾ ‾ ‾
28 LD Việt Úc 2 ‾ ‾ ‾ ‾
29 Allianz Việt Nam 7 ‾ ‾ ‾ ‾
Công ty bảo hiểm nhân thọ 1.418 2.301,2 3.231 3.389
Trong nƣớc 1.086 1.516,7 1.984 1.938
30 Bảo Việt Nhân thọ 1.086 1.516,7 1.984 1.938
Có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 332 784,5 1.247 1.451
31 *Dai-ichi 3 32,7 64 83
32 Prudential 308 571,4 805 899
33 Manulife 13 124,9 230 310
34 **AIG life 8 55,5 147 154
35 Ace life ‾ ‾ 1 4
36 Prevoir ‾ ‾ ‾ 1
37 Cathay ‾ ‾ ‾ ‾
38 Great Eastern ‾ ‾ ‾ ‾
39 VCLI ‾ ‾ ‾ ‾
40 Bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc ‾ ‾ ‾ ‾
Tổng thị trƣờng 3.135 4.469,3 5.690 6.605
81
* Trước kia Dai-ichi là công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CMG
**Trước kia AIG life là AIA
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4547_9196.pdf