Một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hồi chức năng vận động
- Tuổi bệnh nhân ≤ 60 cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và khá cao hơn 11,9
lần so với bệnh nhân >60 tuổi (p<0,05).
- Bệnh nhân nam cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và khá cao hơn 2,5 lần so
với bệnh nhân nữ với p<0,05.
- Kích thước của ổ xuất huyết não < 1cm cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và
khá cao hơn 7,4 lần so với bệnh nhân có ổ xuất huyết não 1-1,5cm (p<0,05).
- Không có mối liên quan giữa kết quả PHCN vận động với thời gian từ khi bị đột quỵ
đến khi được điều trị Hồi sức tích cực và thời gian từ sau khi kết thúc điều trị Hồi sức tích
cực đến khi được điều trị PHCN vận động
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả hồi phục chức năng vận động bằng phương pháp điện châm kết hợp với xoa bóp bấm huyệt trên bệnh nhân liệt nửa người do tai biến xuất huyết não tại Viện Y học cổ truyền Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng động - tĩnh
mạch thì thường gặp ở lứa tuổi trẻ hơn, xuất huyết não gặp ở nam nhiều hơn nữ từ 1,5
đến 2 lần [6], [15].
- Xuất huyết não thường xảy ra vào ban ngày nhiều hơn ban đêm, vào mùa
đông nhiều hơn và đặc biệt xảy ra vào các ngày thay đổi thời tiết [6], [15].
1.2.3.4. Các yếu tố nguy cơ
Theo tổ chức y tế thế giới có khoảng hai mươi yếu tố nguy cơ gây ra TBMMN,
những yếu tố nguy cơ này đóng vai trò quan trọng trong việc xuất hiện và phát triển
bệnh. Càng nhiều yếu tố nguy cơ thì khả năng mắc bệnh càng lớn [4], [15].
- Tăng huyết áp: đây là một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu của
TBMMN vì tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng. Gọi là tăng huyết áp khi
huyết áp tối đa ≥ 140mmHg và huyết áp tối thiểu ≥ 90mmHg.
Khi tăng huyết áp thì thành mạch dễ bị thoái hoá, đàn hồi kém, thành mạch dễ
bị tổn thương và hình thành các túi vi thành mạch, khi có tăng huyết áp đột ngột do
nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ gây vỡ các vi thành mạch đó gây ra hiện tượng xuất
huyết não.
Tăng huyết áp làm thúc đẩy xơ vữa động mạch và dưới áp lực của dòng máu
luôn tăng cao sẽ làm nứt mảng xơ vữa, tạo điều kiện hình thành cục máu đông. Đồng
thời tăng huyết áp làm tăng cường quá trình hoạt hoá, tăng đông trong lòng mạch,
6
cộng với tăng các yếu tố nguy cơ gây co mạch. Tất cả những thuận lợi trên có thể gây
ra tai biến mạch máu não [18], [20].
- Rối loạn lipid máu: cholesterol được vận chuyển trong máu, bao gồm 30% từ
thức ăn, 70% do gan sản xuất ra. Nguyên nhân làm tăng cholestelrol là ăn nhiều mỡ,
nhất là các loại bơ, sữa, thịt, dầu dừa. Theo một số nghiên cứu, tăng cholesterol máu
làm tăng tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu cục bộ. Khi cholesterol toàn phần tăng trên 5,7
mmol đến 7,28 mmol tỷ lệ nhồi máu não tăng từ 1,30 đến 2,55 lần [4], [6].
- Đái tháo đường: nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng đái tháo
đường là yếu tố nguy cơ gây ra các thể TBMMN. Đái tháo đường là yếu tố làm tăng
tình trạng xơ vữa mạch máu não. Khi mức đường huyết là 11 mmol/l so với mức
đường huyết 6,4 mmol/l nguy cơ tương đối của đái tháo đường với TBMMN là từ 1,5
– 2 lần [4], [6].
- Bệnh lý tim mạch: nhiều nghiên cứu cho rằng nguy cơ đột quỵ não tăng trong
bệnh lý tim mạch có liên quan đến cơ chế lấp mạch hoặc biểu hiện bệnh lý thành mạch
kết hợp với một bệnh lý về tim, như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, van tim, rung
nhĩ, huyết khối trong tim, kết hợp với yếu tố về tuổi, tăng huyết áp góp phần làm tăng
nguy cơ TBMMN [11], [22].
- Nghiện rượu: nghiện rượu nặng hay đi kèm với nghiện thuốc lá nặng sẽ dẫn
tới tăng hematocrit máu, ngộ độc rượu cấp ở những người trẻ tuổi là tiền đề cho
TBMMN xuất hiện [6].
- Nghiện thuốc lá: làm thay đổi thành phần lipid máu, làm giảm tỷ lệ
cholesterol HDL. Ngoài ra hút thuốc lá làm tăng fibrinogen, kích thích kết dính tiểu
cầu, tăng thể tích hồng cầu do đó làm tăng độ quánh của máu. Hút thuốc lá trực tiếp
hay thụ động đều làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch và nhất là phụ thuộc vào số
lượng hút và thời gian hút. Theo nhiều nghiên cứu đều thấy rằng hút thuốc lá có thể
gây ra TBMMN [6].
- Ít vận động: là yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến các bệnh tim mạch. Việc vận
động hàng ngày khoảng 30 phút có tác dụng tăng lưu thông tuần hoàn, duy trì huyết áp
ổn định, tác dụng tốt cho thành mạch, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, giảm béo phì
[6].
Thang Long University Library
7
1.2.3.5. Biểu hiện lâm sàng
- Xuất huyết não thường xảy ra ở những người đã có bệnh tăng huyết áp lâu năm
hoặc tăng huyết áp ác tính, huyết áp dao động, thường không có triệu chứng báo trước
[13].
- Bệnh khởi phát đột ngột, xảy ra đột quỵ trong ít phút với các triệu chứng thần
kinh tuỳ thuộc vị trí ổ xuất huyết.
- Biểu hiện nhức đầu dữ dội, nôn và rối loạn ý thức, hôn mê, liệt nửa người, rối
loạn thần kinh thực vật. Bệnh nhân có thể hôn mê ngay hoặc lú lẫn, u ám rồi đi vào
hôn mê, vì vậy người ta còn gọi là đột quỵ não (ĐQN).
- Biểu hiện ở các bệnh nhân hôn mê: mặt đỏ, mạch căng, huyết áp cao, thở sâu, thở
ngáy, thở tụt lưỡi, có thể rối loạn nhịp thở, tăng tiết đờm dãi, tiểu tiện không tự chủ,
thường thấy quay đầu và hai mắt nhìn về một phía (bên bán cầu não bị tổn thương),
giảm hoặc mất phản xạ gân xương, cứng gáy.
- Tuỳ vị trí của ổ xuất huyết não mà có các triệu chứng thần kinh khu trú riêng [13].
1.2.3.6. Hậu quả của tai biến xuất huyết não
Xuất huyết não có nhiều biến chứng nguy hiểm và tiên lượng tử vong cao. Nếu
được cấp cứu và điều trị kịp thời qua được giai đoạn cấp thì bệnh nhân chuyển sang
giai đoạn điều trị phục hồi dần các khiếm khuyết thần kinh do xuất huyết não để lại.
Đây là một quá trình phục hồi những di chứng liệt nửa người và các rối loạn chức
năng khác [13], [19].
1.3. THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN VỀ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
Căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng thì TBMMN thuộc phạm vi chứng “trúng
phong”. Đó là tình trạng bệnh có các biểu hiện chính là đột nhiên hôn mê, bất tỉnh, bán
thân bất toại (bại liệt nửa người), mồm méo, mắt lệch, nói khó hoặc không nói được,
chi thể tê bì. Bệnh thường xảy ra đột ngột, diễn biến nhanh, tình trạng nặng nề, phức
tạp [12], [14].
Nguyên nhân gây bệnh do 2 yếu tố sau:
- Do yếu tố bên ngoài (ngoại nhân) như khí hậu, thời tiết, môi trường, do lao
động quá sức, sinh hoạt không điều độ. Những biến đổi đó làm cho âm dương tạng
phủ mất điều hoà, khí huyết nghịch loạn phạm vào não làm cho mạch não bị ứ trở
hoặc huyết tràn ra ngoài mạch gây bệnh.
8
- Do yếu tố bên trong cơ thể (nội nhân) do tình chí bị kích thích quá độ như: quá
vui mừng, quá buồn rầu, tức giận quá mức làm cho khí huyết, âm dương trong cơ thể
bị rối loạn mất cân bằng, can dương nhiễu loạn mà gây nên bệnh.
Trúng phong gồm hai thể lớn là trúng phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ, căn
cứ vào tình trạng ý thức của người bệnh: nếu không có hôn mê thì biện chứng theo
trúng phong kinh lạc, có hôn mê thì biện chứng theo trúng phong tạng phủ [12], [14].
1.3.1. Trúng phong kinh lạc
Trúng phong kinh lạc gồm hai thể:
- Thể mạch lạc hư, thống phong tà xâm nhập: đột nhiên mồm méo, mắt xếch, da
tê bì, nói ngọng, có thể bị liệt nửa người [14].
- Thể can thận âm hư, phong đàm quấy nhiễu: thường đau đầu chóng mặt, tai ù
mắt mờ, ngủ ít, tự nhiên thấy cứng lưỡi không nói được, mồm méo, mắt xếch, lưỡi đỏ
nhờn, mạch huyền hoạt [14].
1.3.2. Trúng phong tạng phủ
Trúng phong tạng phủ gồm hai thể:
- Bế chứng: đột nhiên hôn mê bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai bàn
tay nắm chặt, chân tay co giật [14].
- Thoát chứng: đột nhiên hôn mê bất tỉnh, nhắm mắt, miệng há, mũi thở rất nhẹ,
tay chân ra mồ hồi nhiều, đại tiểu tiện tự chảy, người mệt, lưỡi rụt [14].
1.4. PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG SAU TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
BẰNG ĐIỆN CHÂM KẾT HỢP XOA BÓP BẤM HUYỆT
Điện châm, xoa bóp, bấm huyệt là những phương pháp điều trị có nhiều hiệu
quả. Theo lý luận của y học phương đông: cơ thể phát sinh bệnh tật là do sự mất cân
bằng âm dương, các phương pháp phục hồi chức năng vận động có tác dụng cơ bản là
điều hoà cân bằng âm dương. Xoa bóp, bấm huyệt, điện châm là tác động vào huyệt để
điều chỉnh các rối loạn chức năng của kinh mạch, tác động trực tiếp lên cân cơ và da
của người bệnh, có tác dụng làm lưu thông khí huyết [14].
Những phương pháp trên có tác dụng điều trị di chứng TBMMN nhằm tác động
thông kinh lạc, điều hoà khí huyết, đồng thời điều hoà chức năng của tạng phủ, chủ
yếu là hai tạng can, thận và điều khí dẫn huyết tới nơi bị liệt [14].
Thang Long University Library
9
1.4.1. Xoa bóp bấm huyệt
1.4.1.1. Định nghĩa và nguyên tắc xoa bóp bấm huyệt
- Định nghĩa:
+ Xoa bóp là phương pháp thao tác của bàn tay, ngón tay tác động lên da thịt
của bệnh nhân ở các vùng nhất định để đạt mục đích phục hồi chức năng tại chỗ và
toàn thân, phòng và chữa một số bệnh [12].
+ Bấm huyệt là kỹ thuật dùng đầu ngón tay tác động lên các huyệt vị để chữa
bệnh [12].
- Nguyên tắc: xoa nhẹ nhàng liên tục trong vòng 20 – 25 phút và tăng dần để
đạt được một ngưỡng kích thích tốt nhất trên từng bệnh nhân khác nhau.
1.4.1.2. Tác dụng
- Đối với hệ thần kinh và hệ nội tiết: kích thích vật lý bằng xoa bóp, bấm huyệt
làm thay đổi trạng thái thần kinh và dịch thể, đặc biệt là hệ thần kinh thực vật, tác
động đến chức năng nội tiết và kích thích hoạt động của vỏ não.
- Đối với da:
+ Những động tác xoa bóp, bấm huyệt tác động trực tiếp đến bề mặt da, lớp sừng của
biểu bì được bong ra làm cho hô hấp của da được tốt và làm tăng cường chức năng của
tuyến bã, tuyến mồ hôi, nên sự đào thải các chất cặn bã qua các tuyến được tốt hơn.
+ Xoa bóp làm cho mạch máu giãn, tăng cường tuần hoàn, có lợi cho việc dinh dưỡng
ở da, làm cho da co giãn tốt. Mặt khác xoa bóp có thể làm cho nhiệt độ của da tăng lên
do mạch tại chỗ và toàn thân giãn.
+ Giảm cản trở lưu thông máu, điều chỉnh huyết áp.
+ Hấp thu oxy và đào thải cacbonic hiệu quả hơn.
- Đối với cơ: xoa bóp có tác dụng phục hồi cấu trúc và chức năng của cơ làm
tăng tính đàn hồi của cơ, tăng năng lực làm việc, tăng sức bền của cơ.
- Đối với gân và khớp: xoa bóp có tác dụng phục hồi hoạt động của gân, dây
chằng, thúc đẩy việc tiết dịch trong khớp giúp nuôi dưỡng tốt, hoạt động trong và
ngoài ổ khớp được dẻo dai, tránh được thoái hoá xương, khớp và hạn chế quá trình lão
hoá.
- Đối với tiêu hoá: giúp tăng cường nhu động ruột, tăng tiết dịch tiêu hoá, kích
thích ăn ngon miệng.
10
1.4.2. Điện châm
Định nghĩa: Châm là kỹ thuật chích kim vào huyệt vị, châm phối hợp với tác
dụng của dòng điện một chiều, xung một pha hay hai pha và sau đó kích thích gây
phản ứng (đắc khí) của cơ thể nhằm giúp điều hoà chức năng lưu thông khí huyết toàn
thân để chữa bệnh [12].
Tác dụng:
- Những kích thích của xung điện có tác dụng làm dịu cơn đau, ức chế cơn đau
và kích thích hoạt động của các cơ, các mô, tăng cường dinh dưỡng cho các mô.
- Điện châm thường dùng nhất là để cắt đứt cơn đau của một số bệnh đau khớp,
đau dây thần kinh. Chữa tê liệt, teo cơ do di chứng liệt, liệt dây thần kinh ngoại biên,
đám rối thần kinh cánh tay.
1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG TRÊN
BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƢỜI DO TBMMN
1.5.1. Trên thế giới
- Jorgensen và cộng sự (1995) tiến hành chương trình PHCN vận động cho
bệnh nhân TBMMN với thời gian trung bình là 37 ngày. Sau khi kết thúc liệu trình 37
ngày thấy tỉ lệ các đối tượng có chỉ số Barthel dưới 70 điểm chiếm từ 40% - 50%. Sau
thời gian 3 tháng PHCN thì chỉ số Barthel từ 70-100 điểm đạt 90% [19].
- Sonde L (2000), tiến hành nghiên cứu tại trung tâm vật lý và phục hồi chức
năng cho 28 người tai biến mạch máu não với thời gian là 3 tháng sử dụng thang điểm
Barthel để đánh giá sự thay đổi của quá trình PHCN vận động ở tay và chân. Kết quả
sau 3 tháng có sự thay đổi rõ rệt khả năng vận động, đạt 78,16 % [23].
- Schutte T và cộng sự (1994), tiến hành chương trình điều trị phục hồi chức
năng vận động cho 72 bệnh nhân tai biến mạch máu não với thời gian 70 ngày thấy
rằng kết quả phục hồi chức năng vận động đạt kết quả tốt là 61,2% [22].
1.5.2. Tại Việt Nam
Những năm gần đây ở Việt Nam đã hình thành mạng lưới chuyên khoa phục
hồi chức năng, bước đầu đã làm tốt công tác phục hồi chức năng vận động cho các
bệnh nhân TBMMN và người khuyết tật ở tất cả các tuyến bệnh viện.
Tại trung tâm phục hồi chức năng bệnh viện Bạch Mai đã có nhiều công trình
đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân liệt nửa người do
TBMMN đã có kết quả tốt.
Thang Long University Library
11
Kết quả nghiên cứu của Lưu Tiến Lam (2009) về phục hồi chức năng vận động
trên 60 bệnh nhân liệt nửa người do TB xuất huyết não bằng phương pháp xoa bóp
bấm huyệt đã cho kết quả tốt là 63% [7].
Kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Lan (2012) về phục hồi chức năng cho 50 bệnh
nhân liệt nửa người do TB xuất huyết não bằng phương pháp tập vận động nhờ có
dụng cụ trợ giúp đã cho kết quả tốt 64% [8].
Kết quả nghiên cứu của Vũ Xuân Tú (2012) về phục hồi chức năng vận động
cho 80 bệnh nhân TB thiếu máu não cục bộ bằng phương pháp xoa bóp bấm huyệt kết
hợp với tập vận động chủ động đã cho kết quả tốt và khá là 96,25% [16].
Nhiều năm qua Viện Y học cổ truyền Quân đội đã điều trị và chăm sóc phục
hồi chức năng cho nhiều bệnh nhân tai biến xuất huyết não, song chưa có công trình
nào nghiên cứu tổng kết cụ thể về kết quả công tác chăm sóc của người điều dưỡng
giúp phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân. Đây chính là lý do để chúng tôi tiến
hành đề tài này.
12
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân từ 40 tuổi đến 80 tuổi cả hai giới được
chẩn đoán liệt nửa người do tai biến xuất huyết não, được điều trị nội trú tại khoa hồi
sức cấp cứu Viện Y học cổ truyền Quân đội.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân bị tai biến xuất huyết não lần đầu đã được khám lâm sàng và điều trị qua
giai đoạn cấp.
- Tất cả các bệnh nhân đều được chụp cắt lớp vi tính sọ não tại Viện Y học Cổ truyền
Quân đội, kết quả khẳng định có kích thước tổn thương xuất huyết não ≤ 1,5cm.
- Bệnh nhân không còn nguy cơ đe dọa chức năng sống:
+ Tỉnh táo (Glagosw là 12 điểm), phối hợp được.
+ Không còn hội chứng tăng áp lực nội sọ do phù não.
+ Tuần hoàn, hô hấp ổn định.
+ Không còn biểu hiện tiến triển nặng lên của bệnh.
- Bệnh nhân tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Dị dạng mạch máu não, nhiễm khuẩn, di căn ung thư, viêm não, u não, viêm màng
não.
- Bệnh nhân bị đột quị não lần thứ hai trở lên.
- Bệnh nhân có kèm bệnh HIV/AIDS, lao.
- Bệnh nhân không có đủ hồ sơ bệnh án.
- Bệnh nhân không tuân thủ liệu trình điều trị.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chọn toàn bộ bệnh nhân trong thời gian nghiên cứu đủ tiêu chuẩn đưa vào
nghiên cứu.
Thang Long University Library
13
2.2.3. Phƣơng tiện và dụng cụ nghiên cứu
- Dung cụ: gồm có máy điện châm mã ký hiệu KWD-808II do Trung Quốc sản xuất,
kim châm, hộp đựng dụng cụ, khay inox, que đo thốn, bột tal, hộp đựng bông cồn,
khăn lau, cồn 700, kìm Kose.
- Phiếu thu thập thông tin nghiên cứu (xem phần phụ lục 1).
2.2.4. Các biến số nghiên cứu:
- Các biến số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, địa dư, nghề
nghiệp, trình độ văn hoá, thời gian từ khi bị bệnh đến khi được điều trị chuyên khoa,
thời gian từ khi kết thúc điều trị chuyên khoa đến khi được điều trị PHCN vận động,
kích thước tổn thương, phía nửa người bị liệt, điểm thần kinh theo Orgogozo, độ liệt
theo Henry.
- Các biến số về kết quả PHCN vận động: thay đổi thang điểm thần kinh Orgogozo
trước và sau điều trị PHCN vận động, thay đổi độ liệt theo Henry trước và sau điều trị
PHCN vận động, mức độ dịch chuyển độ liệt sau điều trị theo Henry (3độ, 2 độ, 1 độ,
không dịch chuyển).
- Các biến số về một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị PHCN vận động: tuổi,
giới, kích thước ổ xuất huyết não, thời gian từ khi bị đột quị đến khi được điều trị Hồi
sức tích cực, thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực đến khi điều trị PHCN
vận động.
2.2.5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Nhóm tham gia nghiên cứu được tập huấn từng động tác của kỹ thuật xoa bóp bấm
huyệt và điện châm. Các thành viên trong nhóm thống nhất cách thu thập thông tin
theo phiếu thu thập thông tin nghiên cứu.
2.2.5.1. Phương pháp xoa bóp bấm huyệt
Các động tác của phương pháp XBBH bao gồm:
+ Động tác Xát: điều dưỡng viên (ĐDV) dùng gốc bàn tay, mô ngón tay út hoặc mô
ngón tay cái xát lên da người bệnh theo đường thẳng lên xuống hoặc sang phải, sang
trái, từ 15-20 lần, chú ý xát nhẹ nhàng tuần tự.
Tác dụng: lưu thông khí huyết, làm dẻo gân cốt, lý khí, làm giảm đau, hết sưng, khu.
+ Động tác Xoa: ĐDV dùng gốc gan bàn tay hoặc mô ngón tay út, ngón tay cái xoa
tròn trên da chỗ đau, tay di chuyển trên da người bệnh, xoa nhẹ nhàng, hướng đi quay
vòng liên tục.
Tác dụng: giảm căng thẳng thần kinh, phục hồi co giãn da, nâng cao sức đề kháng.
14
+ Động tác Day: ĐDV dùng gốc bàn tay, mô ngón tay út, mô ngón tay cái dùng sức
ấn xuống da người bệnh và di chuyển theo đường tròn, tay của ĐDV và da của người
bệnh sát nhau, da người bệnh di động theo tay của ĐDV.
Tác dụng: tiêu sưng, giảm đau, tán phong, thanh nhiệt.
+ Động tác Ấn: ĐDV dùng ngón tay cái, gốc bàn tay, mô ngón tay út và mô ngón tay
cái ấn vào nơi đau hoặc vùng huyệt. Tác động chính là lực ấn từ tay qua da thịt vào
huyệt hoặc những vùng ở sâu dưới bề mặt da.
Tác dụng: làm thông kinh lạc, giải thoát tình trạng ứ tắc, giảm đau.
+ Động tác Miết: ĐDV dùng vân ngón tay cái miết chặt vào da người bệnh theo
hướng lên, xuống, sang phải, trái, tay của ĐDV di động và kéo căng da của người
bệnh.
Tác dụng: khai khiếu, trấn tĩnh, giảm căng thẳng thần kinh, giảm co cứng da, cơ.
+ Động tác Bấm: ĐDV dùng đầu ngón tay cái bấm vào huyệt từ 15-20 giây, làm lần
lượt từng huyệt, làm lại 1 đến 2 lần, động tác làm phải đủ mạnh, tập trung vào huyệt.
Tác dụng: làm hồi tỉnh người bị choáng, ngừng thở, ngất.
Hình 2.1: Động tác bấm huyệt Hình 2.2: Động tác bấm huyệt
.
Thang Long University Library
15
Hình 2.3: Động tác bóp huyệt Hình 2.4: Động tác bóp huyệt
+ Động tác Bóp: ĐDV dùng ngón tay cái và các ngón còn lại bóp da, cơ gân ở nơi bị
bệnh. Có thể bóp bằng hai, hoặc cả năm ngón tay, vừa bóp vừa kéo cả khối da, cơ lên,
không để da, cơ hoặc gân trượt dưới tay sẽ gây đau. Hoặc dùng đầu ngón tay bóp
không gây cảm giác đau.
Tác dụng: giãn da mềm cơ, lưu thông huyết dịch, làm nóng ấm vùng bóp, tiêu sưng,
giảm đau, thông kinh lạc.
+ Động tác Chặt: ĐDV lần lượt liên tục chặt lên vùng cần chặt, dùng cho nơi có
nhiều cơ bắp.
Tác dụng: lưu thông khí huyết, phục hồi vận động vùng cơ bắp bị tổn thương.
+ Động tác Lăn: ĐDV dùng sức vận động khớp cổ tay, bàn tay, ngón tay lần lượt lăn
trên bộ phận da cần lăn. Các ngón tay, bàn tay và cổ tay lần lượt chạm vào mặt da. Kỹ
thuật này làm mạnh hơn xoa xát, thấm sâu tới lớp cơ, để phục hồi vận động cơ, khớp.
Tác dụng: thông kinh lạc, lưu thông khí huyết, giảm đau, làm cho khớp vận động tốt
hơn.
+ Động tác Phát: ĐDV dùng bàn tay hơi khum, giữa lòng bàn tay lõm. Phát từ nhẹ
đến mạnh vào chỗ bị bệnh. Khi phát do áp lực không khí trong lòng bàn tay thay đổi
làm cho da ửng đỏ là được.
Tác dụng: thông kinh lạc, mềm cơ, giãn các cơ bám ở da.
16
2.2.5.2. Phương pháp điện châm
- Kỹ thuật châm kim:
Trước khi tiến hành thủ thuật trên bệnh nhân, tất cả các điều dưỡng viên đã được
huấn luyện thành thạo các thao tác, động tác châm kim, cách xác định đúng vị trí
huyệt đánh dấu, sau đó tiến hành động tác châm kim qua da phải nhanh dứt khoát.
+ Châm kim có dùng ngón tay tì: tì đầu ngón tay cái hoặc ngón tay trỏ của bàn tay
trái vào cạnh huyệt, ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm chuôi kim, sau đó châm kim
nhanh vào huyệt vị. Phương pháp này dùng khi ta châm kim ngắn.
+ Châm kim nhanh qua da: ngón cái và ngón trỏ tay phải cầm thân kim, cách mũi
kim từ 0,2-0,3 tấc, xác định chính xác huyệt vị, châm kim nhanh qua da. Phương pháp
này áp dụng cho cả kim ngắn và kim dài.
+ Châm kim kết hợp véo da: ngón cái và ngón trỏ tay trái véo da vùng quanh huyệt,
sau đó châm kim vào huyệt bằng tay phải. Phương pháp này áp dụng cho vị trí cơ
mỏng như các cơ vùng mặt.
+ Châm kim kết hợp căng da: ngón cái và ngón trỏ hoặc ngón giữa tay trái căng da
quanh huyệt, sau đó dùng tay phải châm kim nhanh qua da. Phương pháp này áp dụng
ở vị trí da lỏng lẻo có nhiều nếp nhăn hay nếp gấp.
- Kỹ thuật thao tác máy:
A
B
Hình 2.5(A,B): Máy điện châm
Thang Long University Library
17
- Kiểm tra lại máy trước khi vận hành, tất cả các núm điện ở vị trí số 0, (công tắc
tắt). Sau khi đã châm kim xong, chọn để lắp điện cực theo chỉ định bệnh, nối điện cực
vào kim.
- Tiến hành bật công tắc cho máy chạy, xem đèn báo, sau đó điều khiển công suất
điện kích thích tăng từ từ đạt đến mức độ yêu cầu về điện thế và cường độ thích hợp
với từng người bệnh, đồng thời thấy cơ hoạt đông nhịp nhàng theo nhịp đèn báo ở
vùng kích thích điện thì được.
- Chú ý trong khi làm cần tránh mọi tác động vội vàng gây cường độ kích thích quá
ngưỡng làm cơ co giật mạnh, bệnh nhân sẽ hoảng sợ.
- Thời gian kích thích điện khoảng 20-30 phút và ngày một lần.
A
B
C
D
Hình 2.6(A,B,C,D): Hình ảnh điện châm
18
2.2.5.3. Huyệt vị điện châm, xoa bóp bấm huyệt:
- Với vùng đầu mặt cổ:
+ Kinh dương minh vị: Phong long, Giải khê, Suất cốc, Đầu duy, Địa thương, Giáp xa.
+ Mạch đốc: Nhân trung, Bách hội, Phong phủ, Á môn.
- Đối với vùng chi trên:
+ Kinh thủ thái âm phế: Liệt khuyết, Xích trạch, Trung phủ.
+ Kinh thủ dương minh đại trường: Hợp cốc, Thủ tam lý, Khúc trì, Tý nhu, Kiên
ngung, Kiên tỉnh.
+ Kinh quyết âm tâm bào: Đại Lăng, Nội quan, Khúc trạch.
+ Kinh thiếu dương tam tiêu: Ngoại Quan.
- Với vùng lƣng và vùng bụng:
+ Kinh túc thái dương bàng quang: Đại trữ, Phong môn, Phế du, Tâm du, Can du,
Thận du, Đại trường du.
+ Mạch nhâm: Liêm tuyền, Thiên đột, Đản trung, Trung quản, Quan nguyên, Khí hải.
- Với vùng mông và chi dƣới:
+ Kinh túc thiếu dương đởm: Hoàn khiêu, Dương quan, Dương lăng tuyền, Huyền
chung.
+ Kinh túc thái dương bàng quang: Bàng quang du, Trật biên, Côn lôn, Thái khê,
Thừa sơn, Uỷ trung, Thừa phù.
+ Kinh túc thái âm tỳ: Tam âm giao, Âm lăng tuyền, Huyết hải.
+ Huyệt ngoài kinh: Kim tân, Ngọc dịch.
2.2.5.4. Đánh giá kết quả điều trị PHCN vận động
- Đánh giá theo thang điểm thần kinh của Orgogozo (1989 )
+ Đánh giá chức năng thần kinh theo thang điểm Orgogozo trước và sau khi điều trị
bệnh nhân. Thang điểm thần kinh của Orgogozo được tổ chức Y tế Thế giới sử dụng
để đánh giá tình trạng thần kinh, các khiếm khuyết và mức độ liệt [21].
Mức độ Điểm
Mức độ nặng 0 – 25
Mức độ trung bình 26- 55
Mức độ nhẹ 56 - 90
Mức độ bình thường 91- 100
Thang Long University Library
19
+ Thang điểm này có từ 0 – 100 điểm, được theo dõi và cho điểm những thiếu hụt về
thần kinh như ý thức, ngôn ngữ, trương lực cơ và vận động, còn những rối loạn về cảm
giác, thị giác không được đưa vào thang điểm để nghiên cứu.
(Thang điểm thần kinh Orgogozo - Phụ lục 2)
- Đánh giá độ liệt theo Henry
Độ liệt Mức độ Tình trạn Biểu hiện
I
Liệt nhẹ
Giảm sức cơ, còn vận động chủ động
II
Liệt vừa Còn nâng được chi lên khỏi giường
III
Liệt nặng Còn co duỗi chi khi có điểm tỳ
IV Liệt rất nặng
Chỉ còn biểu hiện co cơ nhẹ
V Liệt hoàn toàn Không có biểu hiện co cơ
- Đánh giá kết quả điều trị dựa trên mức độ dịch chuyển độ liệt theo Henry sau 40
ngày điều trị. Đánh giá kết quả dịch chuyển độ liệt như sau:
+ Tốt: là dịch chuyển giảm 3 độ liệt.
+ Khá: là dịch chuyển giảm 2 độ liệt.
+ Trung bình: là dịch chuyển giảm 1 độ liệt.
+ Kém: là không dịch chuyển độ liệt.
(Đánh giá độ liệt theo Henry - phụ lục 3)
2.2.6. Xử lý số liệu
- Các số liệu đựơc tính theo các thuật toán thống kê y sinh học bằng phần mềm SPSS
19.0.
- So sánh 2 tỷ lệ % bằng kiểm định χ2. So sánh 2 số trung bình bằng kiểm định
t-Student. Xác định mối liên quan giữa hai biến bằng kiểm định χ2.
Khi p>0,05 là không có sự khác biệt.
Khi p<0,05 là khác biệt có ý nghĩa thống kê.
20
2.2.7. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: khoa hồi sức cấp cứu Viện Y học Cổ truyền Quân đội.
- Thời gian: từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2013.
2.2.8. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu này nhằm mục đích phục hồi chức năng vận động và nâng cao sức khoẻ
cho bệnh nhân tai biến xuất huyết não, ngoài ra không nhằm mục đích gì khác.
- Nghiên cứu này được sự cho phép của lãnh đạo Viện Y học cổ truyền Quân đội.
- Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được giải thích rõ ràng về mục đích nghiên cứu.
Các thông tin cá nhân của bệnh nhân được giữ kín.
- Bệnh nhân có quyền không tham gia, rút khỏi quá trình nghiên cứu.
Thang Long University Library
21
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới
Bảng 3.1: Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới
Giới
Tuổi
Nam Nữ Tổng
Số BN % Số BN % BN %
Từ 41 – 50 7 11,7 2 3,3 9 15,0
Từ 51 – 60 23 38,3 10 16,7 33 55,0
Từ 61 – 70 8 13,4 5 8,3 13 21,7
Từ 71 – 80 2 3,3 3 5,0 5 8,3
Tổng 40 66,7 20 33,3 60 100
Biều đồ 3.1: Tỷ lệ độ tuổi theo giới
Nhận xét: Tuổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu từ 41-80, tuổi thấp nhất là 41 và cao
nhất là 80, độ tuổi trung bình là 58 ± 8. Trong đó nhóm tuổi từ 51-60 chiếm tỷ lệ cao
nhất là 55,0%. Số bệnh nhân nam nhiều gấp đôi so với số bệnh nhân nữ giới (40/20 -
66,7% / 33,3%).
22
3.1.2. Phân bố bệnh nhân theo địa dƣ, nghề nghiệp và trình độ văn hoá
Bảng 3.2: Phân bố bệnh nhân theo địa dư, nghề nghiệp và trình độ văn hoá
Đặc điểm
Bệnh nhân
n %
Địa dƣ
Thành phố 14 23,4
Nông thôn 41 68,3
Miền núi 5 8,3
Nghề nghiệp
Công nhân 2 3,3
Cán bộ, nhân viên 5 8,3
Hưu trí 18 30,0
Bộ đội 12 20,0
Nghề tự do 23 38,3
Trình độ văn hoá
Cấp 1 2 3,3
Cấp 2 21 35,0
Cấp 3 27 45,0
Đại học và sau đại học 10 16,7
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân theo địa dư mắc bệnh chủ yếu là các đối tượng ở nông thôn
(68,3%), đối tượng đến từ miền núi chiếm tỷ lệ thấp nhất (8,3%).
- Tỷ lệ bệnh nhân theo nghề nghiệp chủ yếu là làm nghề tự do (38,3%), sau đó đến
cán bộ về hưu (30%).
- Tỷ lệ bệnh nhân theo trình độ văn hoá cho thấy cấp 3 chiếm tỷ lệ cao nhất (45%),
thấp nhất là cấp 1 (3,3%).
Thang Long University Library
23
3.1.3. Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi bị đột quỵ đến khi đƣợc điều trị
Hồi sức tích cực
Bảng 3.3: Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi bị đột quỵ
đến khi được điều trị Hồi sức tích cực
Thời gian (Giờ)
Bệnh nhân
n %
<6 giờ 25 41,7
6 - <12 giờ 21 35,0
12 - <24 giờ 11 18,3
≥24 giờ 3 5,0
Tổng 60 100
Nhận xét: Số bệnh nhân đến điều trị trước 12 giờ chiếm tỷ lệ là 76,7% và số bệnh
nhân đến sau 24 giờ có tỷ lệ thấp nhất (5,0%).
3.1.4. Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực
đến khi đƣợc điều trị phục hồi chức năng vận động
Bảng 3.4: Phân bố bệnh nhân theo thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực
đến khi được điều trị PHCN vận động
Thời gian (tháng)
Bệnh nhân
n %
< 1 23 38,3
1- < 3 25 41,7
3 - < 6 8 13,3
≥ 6 4 6,7
Tổng 60 100
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân đến điều trị phục hồi chức năng vận động sớm trước 3
tháng chiếm tỷ lệ cao 80,0%, tỷ lệ bệnh nhân đến điều trị sau 6 tháng thấp nhất (6,7%).
24
3.1.5. Phân bố bệnh nhân theo kích thƣớc tổn thƣơng
Biểu 3.2: Phân bố bệnh nhân theo kích thước tổn thương
Nhận xét: Số bệnh nhân có kích thước tổn thương nhỏ hơn 1cm có 45 bệnh nhân
chiếm tỷ lệ cao là 75%, số bệnh nhân có kích thước tổn thương từ 1 - 1,5 cm có 15
bệnh nhân chiếm tỷ lệ 25%.
3.1.6. Phân bố bệnh nhân theo bên liệt
Biểu đồ 3.3: Phân bố bệnh nhân theo bên liệt
Nhận xét: Số bệnh nhân liệt nửa người phải có 31 bệnh nhân và liệt nửa người trái có
29 bệnh nhân chiếm tỷ lệ gần tương đương nhau (tỷ lệ lần lượt 51,7% và 48,3%).
Thang Long University Library
25
3.1.7. Phân bố bệnh nhân theo thang điểm thần kinh Orgogozo
Bảng 3.5: Phân bố bệnh nhân theo thang điểm thần kinh Orgogozo
Điểm
Bệnh nhân
n %
0 - 25 12 20,0
26 - 55 46 76,7
56 - 90 2 3,3
91 - 100 0 0
Tổng 60 100
Điểm trung bình: 39,3 ± 10,4
Nhận xét:
- Số bệnh nhân có tổng điểm từ 26-55 chiếm tỷ lệ cao nhất (76,7%), số bệnh nhân có
tổng điểm từ 56-90 chỉ chiếm tỷ lệ thấp là 3,3%. Không có bệnh nhân nào có điểm
Orgogozo trong khoảng từ 91-100.
- Bệnh nhân có điểm thấp nhất là 18 và bệnh nhân có điểm cao nhất là 57 điểm
Orgogozo, điểm trung bình là: 39,3 ± 10,4.
3.1.8. Phân bố bệnh nhân theo độ liệt Henry
Bảng 3.6: Phân bố bệnh nhân theo độ liệt Henry
Độ liệt
Bệnh nhân
n %
I 0 0
II 7 11,7
III 34 56,7
IV 15 25,0
V 4 6,6
Tổng 60 100
Độ liệt trung bình: 3,3 ± 0,8
26
Nhận xét:
- Không có bệnh nhân nào liệt nhẹ ở mức độ I. Số bệnh nhân liệt độ III chiếm tỷ lệ cao
nhất (56,7%) và tỷ lệ liệt ở mức độ V là 6,6%.
- Độ liệt trung bình là: 3,3 ± 0,8
3.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG
3.2.1. Điểm Orgogozo trƣớc và sau điều trị
Bảng 3.7: Điểm Orgogozo trước và sau điều trị
Điểm Orgogozo
Trƣớc điều trị (a) Sau điều trị (b)
pa-b
n % n %
0 - 25 12 20,0 2 3,3
<0,05
26 - 55 46 76,7 6 10,0
56 - 90 2 3,3 13 21,7
91 - 100 0 0 39 65,0
Tổng 60 100 60 100
Điểm trung bình 39,4 ± 10,4 82,4 ± 18,4 <0,05
Nhận xét:
- Trước khi điều trị số bệnh nhân có tổng điểm từ 0-25 chiếm tỷ lệ 20%, sau điều trị
chỉ còn 3,3%. Trước điều trị không có bệnh nhân nào có tổng điểm từ 91-100, sau điều
trị đã có 39 bệnh nhân có số điểm này, chiếm tỷ lệ 65%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05.
- Sau điều trị bệnh nhân có điểm Orgogozo thấp nhất là 22, cao nhất là 95. Điểm
Orgogozo trung bình sau điều trị cao hơn trước điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05.
Thang Long University Library
27
3.2.2. Độ liệt trƣớc và sau điều trị theo Henry
Bảng 3.8: Độ liệt trước và sau điều trị theo Henry
Độ liệt Henry
Trƣớc điều trị (a) Sau điều trị (b)
pa-b
n % n %
I 0 0 38 63,4
<0,05
II 7 11,7 11 18,3
III 34 56,7 8 13,3
IV 15 25,0 2 3,3
V 4 6,6 1 1,7
Tổng 60 100 60 100
Độ liệt trung bình 3.3 ± 0,8 1.6 ± 0,9 <0,05
Nhận xét:
- Trước điều trị số bệnh nhân bị liệt độ III chiếm tỷ lệ cao nhất là 56,7%. Sau điều trị
số bệnh nhân liệt độ I chiếm tỷ lệ cao nhất (63,4%). Trước điều trị số bệnh nhân bị liệt
độ V chiếm tỷ lệ 6,6%, sau điều trị chỉ còn 1,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
- Độ liệt trung bình trước điều trị là 3,3 ± 0,8, sau điều trị giảm xuống còn 1,6 ± 0,9.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
3.2.3. Mức dịch chuyển độ liệt sau điều trị PHCN vận động theo Henry
Bảng 3.9: Mức dịch chuyển độ liệt sau điều trị PHCN vận động theo Henry
Mức dịch chuyển (kết quả)
Sau điều trị
n %
Giảm 3 độ (tốt) 7 11,7
Giảm 2 độ (khá) 39 65,0
Giảm 1 độ (trung bình) 12 20,0
Không dịch chuyển (kém) 2 3,3
Tổng 60 100
Nhận xét: Mức dịch chuyển độ liệt chủ yếu là từ 1 đến 2 độ, chiếm lần lượt 20% và
65,0%. Số bệnh nhân không dịch chuyển hoặc dịch chuyển 3 độ chiếm tỷ lệ thấp, lần
lượt là 3,3% và 11,7%.
28
3.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHCN VẬN ĐỘNG
3.3.1. Tuổi bị bệnh
Bảng 3.10: Tuổi bị bệnh và kết quả PHCN vận động
Kết quả
Tuổi
TB và Kém Tốt và Khá Tổng OR p
n % n % n %
> 60 10 55,6 8 44,4 18 100
11,9
<0,05 ≤ 60 4 9,5 38 9,5 42 100
Tổng 14 23,3 46 76,7 60 100
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân có độ tuổi ≤ 60 có khả năng đạt được kết quả điều trị tốt
hơn 11,9 lần so với nhóm có độ tuổi trên 60 (OR=11,9). Mối liên quan này có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).
3.3.2. Giới bị bệnh
Bảng 3.11: Giới bị bệnh và kết quả PHCN vận động
Kết quả
Giới
TB và Kém Tốt và Khá Tổng OR p
n % n % n %
Nữ 7 35,0 13 65,0 20 100
2,5
<0,05 Nam 7 17,5 33 82,5 40 100
Tổng 14 23,3 46 76,7 60 100
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân nam giới có khả năng đạt được kết quả điều trị tốt hơn 2,5
lần so với nhóm bệnh nhân là nữ giới (OR=2,5). Mối liên quan này có ý nghĩa thống
kê (p<0,05).
3.3.3. Kích thƣớc ổ xuất huyết não
Bảng 3.12: Kích thước ổ xuất huyết não và kết quả PHCN vận động
Kích thƣớc TB và Kém Tốt và Khá Tổng OR p
n % n % n %
1 - 1,5 cm 8 53,0 7 46,7 15 100 7,4 <0,05
< 1cm 6 13,3 39 86,7 45 100
Tổng 14 23,3 46 76,7 60 100
Thang Long University Library
29
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân có kích thước ổ xuất huyết não nhỏ hơn 1cm đạt được kết
quả điều trị tốt hơn 7,4 lần so với những bệnh nhân có kích thước ổ xuất huyết từ
1-1,5cm (OR=7,4). Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
3.3.4. Thời gian từ khi bị đột quỵ đến khi đƣợc điều trị Hồi sức tích cực
Bảng 3.13: Thời gian từ khi bị đột quỵ đến khi được điều trị Hồi sức tích cực và
kết quả PHCN vận động
Kết quả
Thời gian
TB và Kém Tốt và Khá Tổng OR p
n % n % n %
≥ 12 giờ 2 14,3 12 85,7 14 100 0,6 >0,05
< 12 giờ 12 26,1 34 73,9 46 100
Tổng 14 23,3 46 76,7 60 100
Nhận xét: Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy không có mối liên quan giữa thời gian từ khi
bị đột quỵ đến khi được điều trị Hồi sức tích cực với kết quả điều trị PHCN vận động
(p>0,05).
3.3.5. Thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực đến khi đƣợc
PHCN vận động
Bảng 3.14: Thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực
đến khi được PHCN vận động và kết quả PHCN
Kết quả
Thời gian
TB và Kém Tốt và Khá Tổng OR p
n % n % n %
≥ 3 tháng 4 33,3 8 66,7 12 100 1,9 >0,05
< 3 tháng 10 20,8 38 79,2 48 100
Tổng 14 23,3 46 76,7 60 100
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân được phục hồi chức năng vận động sớm, trước 3 tháng có
kết quả điều trị tốt hơn 1,9 lần so với nhóm bệnh nhân được phục hồi chức năng vận
động muộn, sau 3 tháng (OR=1,9), song mối liên quan này chưa có ý nghĩa thống kê
(p>0,05)
30
CHƢƠNG 4
BÀN LUẬN
Từ các kết quả thu được chúng tôi có một số nhận xét và bàn luận sau:
4.1. VỀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU
- Đặc điểm về tuổi và giới
Qua bảng 3.1 cho thấy những bệnh nhân tai biến xuất huyết não (TBXHN) trong
nghiên cứu gặp ở nhiều lứa tuổi khác nhau, tuổi thấp nhất là 41, tuổi cao nhất là 80. Tuổi
gặp nhiều trong nghiên cứu là từ 51-60 chiếm tỷ lệ 55%, sau đó đến độ tuổi từ 61-70
chiếm tỷ lệ 21,7%. Tuổi trung bình là 58 ± 8. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với kết quả của Nguyễn Văn Thông. Theo Nguyễn Văn Thông TBXHN gặp ở mọi lứa
tuổi nhưng hay gặp ở người có độ tuổi trên 50 và tỷ lệ nam nhiều gấp 1,5-2 lần so với nữ
giới [13].
Nguyễn Văn Đăng [5], Phạm Thị Thanh Hoà [6] và nhiều tác giả khác cũng cho rằng
lứa tuổi bị xuất huyết não nhiều nhất là trên 50. Có lẽ do ở lứa tuổi này số người bị xơ
vữa mạch và cao huyết áp chiếm tỷ lệ cao, nên khi có tăng huyết áp đột ngột do nhiều
nguyên nhân khác nhau rất rễ bị vỡ mạch não, gây xuất huyết não.
Trong 60 bệnh nhân nghiên cứu số đối tượng là nam giới nhiều gấp đôi số đối tượng
là nữ giới (66,7% so với 33,3%). Tỷ lệ bệnh nhân nam nhiều hơn nữ đã phản ánh được
phần nào sự căng thẳng về thể chất và tinh thần của nam giới do họ thường phải chịu
trách nhiệm gia đình và xã hội nhiều hơn nữ giới, mặt khác phản ứng về tâm lý của nam
giới cũng mạnh hơn nữ giới nên rất rễ bị stress. Ngoài ra nam giới thường có các thói
quen như uống rượu, hút thuốc lá, ít vận động, ăn uống không điều độ đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các yếu tố nguy cơ gây ra xơ vữa mạch máu, cao huyết áp và tai biến mạch
máu não.
- Đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và trình độ văn hoá
- Về địa dư: kết quả ở bảng 3.2 cho thấy hầu hết các đối tượng thuộc vùng ngoại thành
và nông thôn (68,3%), đối tượng đến từ thành phố là 23,4%. Viện y học cổ truyền quân
đôị là tuyến cuối điều trị bằng phương pháp y học cổ truyền của quân đội, song cũng nhận
điều trị cho các bệnh nhân là dân thường. Vì vậy từ các cơ sở khám chữa bệnh khác
chuyển bệnh nhân về rất đông, nên đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở các vùng nông thôn.
Thang Long University Library
31
- Về nghề nghiệp: nghề nghiệp của bệnh nhân tương đối đa dạng, phần lớn các bệnh
nhân làm nghề tự do (38,3%), tiếp đến là cán bộ đã về hưu (30,0%). Với đối tượng làm
nghề tự do thì họ ít quan tâm đến sức khoẻ. Có bệnh nhân biết về bệnh nhưng không tuân
thủ chế độ điều trị nên đến khi bị TBXHN mới đưa vào bệnh viện điều trị thì đã muộn.
Đối tượng là cán bộ nghỉ hưu cũng chiếm tỷ lệ cao do độ tuổi của đối tượng này là trên 55
tuổi ở nữ và trên 60 tuổi ở nam là độ tuổi hay gặp TBXHN như đã bàn luận ở trên.
- Về trình độ văn hoá: đa phần đối tượng nghiên cứu có trình độ cấp 3 và cấp 2, chiếm
tỷ lệ lần lượt là 45,0% và 35,0%. Đối tượng tốt nghiệp đại học và sau đại học chiếm tỷ lệ
ít hơn là 16,7%. Các đối tượng có trình độ văn hoá cấp 3 hoặc cao hơn (đại học, sau đại
học) đa phần là bộ đội và cán bộ đương chức hoặc cán bộ nghỉ hưu.
- Đặc điểm về thời gian từ khi bị đột quỵ đến khi đƣợc điều trị Hồi sức tích cực
Qua bảng 3.3 cho thấy đa số bệnh nhân được đến điều trị tại các cơ sở Hồi sức tích
cực trước 12 giờ tính từ khi bị đột quỵ có tỷ lệ 76,7%. Số bệnh nhân đến điều trị Hồi sức
tích cực muộn sau 24 giờ chiếm tỷ lệ thấp (5,0%). Với các bệnh nhân bị tai biến mạch
máu não thì trong những giờ đầu phải được cấp cứu, chăm sóc và hồi sức kịp thời, đúng
cách. Do vậy việc bệnh nhân được chuyển càng sớm tới các cơ sở Hồi sức tích cực để
điều trị là vô cùng quan trọng, nếu để thời gian kéo dài sẽ khó điều trị và có thể để lại các
di chứng nặng nề rất khó hồi phục sau này [3], [11].
- Đặc điểm về thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực đến khi được phục
hồi chức năng vận động
Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy hầu hết bệnh nhân có thời gian từ sau khi kết thúc
điều trị Hồi sức tích cực đến khi được PHCN vận động là dưới 3 tháng chiếm tỷ lệ cao
(80%). Kết quả này cho thấy đa phần bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đã nhận thức
được việc PHCN vận động sớm cho các bệnh nhân liệt nửa người do TBMMN là rất quan
trọng, vì nếu đưa bệnh nhân đến muộn thì khả năng PHCN sẽ khó khăn, kết quả đạt được
sẽ thấp.
- Đặc điểm theo kích thước tổn thương
Qua biểu đồ 3.2 cho thấy số bệnh nhân có kích thước tổn thương nhỏ hơn 1cm chiếm
75% tổng số bệnh nhân, nhiều gấp 3 lần số bệnh nhân có kích thước tổn thương từ 1 - 1,5
cm. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng kết quả PHCN vận động cho
32
bệnh nhân phụ thuộc rất nhiều vào kích thước tổn thương. Tổn thường càng lớn thì kết
quả phục hồi càng kém và để lại nhiều di chứng cho bệnh nhân.
- Đặc điểm theo bên liệt
Qua biểu đồ 3.3 cho thấy trong số 60 bệnh nhân nghiên cứu có 31 bệnh nhân liệt nửa
người bên phải, chiếm tỷ lệ 51,7% và có 29 bệnh nhân liệt nửa người bên trái chiếm tỷ lệ
48,3%. Kết quả này cho thấy tỷ lệ bệnh nhân liệt phải và trái gần tương đương nhau. Theo
kết quả nghiên cứu của tác giả Lưu Tiến Lam thì liệt nửa người trái là 47% và liệt nửa
người phải là 53%, cũng tương tự kết quả thu được của chúng tôi [7].
- Đặc điểm chức năng thần kinh theo thang điểm thần kinh Orgogozo
Phần lớn bệnh nhân bị tai biến mạch máu não trong giai đoạn nặng thường được điều
trị hồi sức tích cực, sau khi bệnh nhân đã ổn định các chức năng sống người bệnh mới
chuyển sang PHCN. Do vậy theo thang điểm thần kinh Orgogozo ở bảng 3.5 thì số bệnh
nhân có điểm trong khoảng từ 26-55 (mức độ trung bình) chiếm tới 76,7%. Số bệnh nhân
có điểm Orgogozo trong khoảng từ 0-25 (mức độ nặng) chiếm 20%. Trước khi được điều
trị PHCN, số bệnh nhân có điểm Orgogozo cao 56-90 (mức độ nhẹ) rất ít chỉ chiếm 3,3%
và không có bệnh nhân nào có số điểm 91-100 (mức độ bình thường).
- Đặc điểm theo độ liệt Henry
Qua bảng 3.6 cho thấy trong 60 bệnh nhân nghiên cứu được đánh giá theo độ liệt
Henry thì số bệnh nhân bị liệt ở mức độ trung bình (độ III) là 56,7% và mức độ nặng, rất
nặng (độ IV và độ V) là 31,6%. Điều này nói lên rằng sau khi bệnh nhân bị tai biến xuất
huyết não tỷ lệ bệnh nhân để lại mức độ liệt trung bình, nặng và rất nặng là rất lớn.
4.2. VỀ KẾT QUẢ PHCN VẬN ĐỘNG TRÊN BỆNH NHÂN TAI BIẾN XUẤT
HUYẾT NÃO BẰNG ĐIỆN CHÂM KẾT HỢP XOA BÓP BẤM HUYỆT
Đánh giá kết quả PHCN vận động trên 60 bệnh nhân liệt nửa người do xuất huyết
não sau 40 ngày điều trị bằng điện châm kết hợp với xoa bóp bấm huyệt chúng tôi nhận
thấy tỷ lệ đạt kết quả tốt và khá là rất cao.
- Đánh giá chức năng thần kinh theo thang điểm Orgogozo
Kết quả ở bảng 3.7 cho thấy điểm Orgogozo trung bình sau điều trị (82,4±18,4) cao
hơn điểm trung bình trước điều trị (39,3±10,4), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Sự khác biệt này cho thấy tác dụng của điện châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt đã
Thang Long University Library
33
cải thiện được chức năng thần kinh và khả năng vận động trên các bệnh nhân liệt nửa
người do tai biến xuất huyết não. Trước điều trị số bệnh nhân có điểm Orgogozo 26-55
chiếm tỷ lệ cao nhất (76,7%). Nhưng sau điều trị số bệnh nhân có điểm 91-100 chiếm tỷ
lệ cao nhất (65%). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Vũ
Thị Lan [8] là số bệnh nhân liệt nửa người được PHCN vận động bằng dụng cụ trợ giúp
có số điểm 91-100 chiếm tỷ lệ 64%. Kết quả nghiên cứu của Lưu Tiến Lam [7] cũng cho
kết quả tốt là 63% trên bệnh nhân liệt nửa người do xuất huyết não được điều trị PHCN
vận động bằng xoa bóp bấm huyệt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau 40 ngày điều trị
PHCN vận động, những bệnh nhân có mức tăng điểm cao đã có thể nâng cánh tay và làm
được các động tác đơn giản như cầm nắm được vật nhẹ. Với những bệnh nhân có mức
tăng điểm ít hơn thì vẫn bị liệt ở bàn tay và cổ tay, cổ chân, nên việc cầm, nắm vẫn còn
khó khăn.
- Đánh giá độ liệt theo Henry
Theo bảng 3.8 cho thấy mức thay đổi độ liệt theo Henry sau 40 ngày điều trị theo
hướng kết quả tốt rõ rệt. Độ liệt trung bình sau điều trị là 1,6 ± 09, thấp hơn nhiều so với
trước điều trị là 3,3 ± 0,9, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Số bệnh nhân liệt
ở mức độ I có 38/60 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 63,4%. Ở mức độ I thì bệnh nhân có thể thực
hiện được các động tác thông thường như vận động chủ động, có thể tự phục vụ được
sinh hoạt cá nhân, nhưng sức cơ vẫn giảm. Bệnh nhân liệt ở mức độ II có 11/60 bệnh
nhân chiếm tỷ lệ 18,3%. Ở độ II bệnh nhân vận động chủ động hạn chế, còn nâng được
chân, tay lên khỏi mặt giường, đi lại phải có người giúp đỡ. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Đình Nhân cũng cho thấy sau điều trị PHCN vận động tỷ lệ bệnh nhân bị liệt
mức độ I là 63,5% [11].
Kết quả ở bảng 3.9 cho thấy mức dịch chuyển độ liệt theo Henry sau 40 ngày điều trị
là có 7 bệnh nhân dịch chuyển 3 độ liệt (kết quả tốt) chiếm tỷ lệ 11,67%, có 39 bệnh nhân
dịch chuyển 2 độ liệt (kết quả khá) chiếm tỷ lệ 63,33%, có 12 bệnh nhân dịch chuyển 1 độ
liệt (kết quả trung bình) chiếm tỷ lệ 20%, có 2 bệnh nhân không dịch chuyển độ liệt nào
(kết quả kém) chiếm tỷ lệ 3,3%. Hai bệnh nhân không dịch chuyển độ liệt nào là đối
tượng có tuổi cao >60 tuổi, sức khoẻ yếu, sự đàn hồi của cơ kém, thời gian bị bệnh quá
34
lâu và có kích thước tổn thương lớn hơn 1cm. Có lẽ vì những lý do đã nêu trên mà hai
người này không có tiến triển về chức năng vận động.
Các kết quả đã thu được ở trên về sự tăng điểm chức năng thần kinh theo Orgogozo
và giảm độ liệt theo Henry cho thấy tác dụng của phương pháp PHCN vận động bằng
điện châm kết hợp với xoa bóp bấm huyệt đã có thể có các tác dụng sau:
Khi điện châm các xung điện kích thích vào các huyệt vị giúp điều hoà chức năng,
lưu thông khí huyết, có tác dụng làm dịu cơn đau, kích thích hoạt động của các cơ, các mô
và tăng cường dinh dưỡng cho các mô, đặc biệt là mô cơ và dây thần kinh ngoại biên nên
đã cải thiện được chứng liệt [12].
Kích thích vật lý bằng xoa bóp, bấm huyệt làm thay đổi trạng thái thần kinh và thể
dịch, đặc biệt là hệ thần kinh thực vật và kích thích hoạt động của vỏ não. Xoa bóp có tác
dụng phục hồi chức năng của cơ, làm tăng tính đàn hồi của cơ, tăng khả năng hoạt động
và sức bền của cơ [12], [14] nên đã cải thiện được chức năng thần kinh và giảm độ liệt
trên các bệnh nhân liệt nửa người do tai biến xuất huyết não.
4.3. VỀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHCN VẬN ĐỘNG
TRÊN BỆNH NHÂN TAI BIẾN XUẤT HUYẾT NÃO
- Tuổi bị bệnh
Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy nhóm bệnh nhân có độ tuổi ≤ 60 cho kết quả phục hồi
tốt và khá cao hơn 11,9 lần so với nhóm bệnh nhân có độ tuổi > 60, mối liên quan này có
ý nghĩa thống kê với p<0,05. Qua thời gian nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng bệnh
nhân có độ tuổi càng trẻ thì kết quả PHCN vận động càng tốt có lẽ do khả năng hoạt động
của hệ cơ, xương, khớp, phản xạ thần kinh, thể lực còn tốt. Còn những bệnh nhân có độ
tuổi càng cao thì khả năng phục hồi kém hơn so với người trẻ tuổi vì tuổi càng cao khả
năng bù trừ của hệ tuần hoàn, phản xạ thần kinh và vận động của hệ cơ, xương, khớp
giảm sút so với người trẻ.
Qua kết quả ở trên của chúng tôi cũng như kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác
cho thấy rằng tuổi là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả PHCN vận động
trên bệnh nhân liệt nửa người do TBMMN [22], [23].
Thang Long University Library
35
- Giới bị bệnh
Qua bảng 3.11 cho thấy nhóm bệnh nhân nam giới cho kết quả phục hồi chức năng
tốt hơn 2,5 lần so với bệnh nhân là nữ giới, mối liên quan này là có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Có được kết quả này có lẽ bệnh nhân nam có thể lực và khả năng luyện tập tốt
hơn nữ, vì vậy nam giới phục hồi chức năng vận động tốt hơn nữ giới. Tuy nhiên, để
khẳng định kết quả này cần có những nghiên cứu tiếp theo với số đối tượng nhiều hơn.
- Kích thước ổ xuất huyết não
Qua bảng 3.12 cho thấy nhóm bệnh nhân có kích thước tổn thương < 1cm cho kết quả
phục hồi tốt và khá cao hơn 7,4 lần so với nhóm bệnh nhân có kích thước tổn thương 1-
1,5cm, mối liên quan này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này có nghĩa là quá trình
phục hồi chức năng vận động phụ thuộc nhiều vào kích thước ổ xuất huyết. Kích thước
tổn thương càng nhỏ thì khả năng phục hồi vận động càng nhanh hơn. Qua kết quả trên
kích thước là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả phục hồi chức năng vận
động cho bệnh nhân TBXHN.
- Thời gian từ khi bị đột quỵ đến khi được điều trị Hồi sức tích cực
Qua bảng 3.13 cho thấy nhóm bệnh nhân đến điều trị Hồi sức tích cực trước 12 giờ cho
kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và khá cao hơn 0,6 lần so với nhóm bệnh nhân
đến điều trị Hồi sức tích cực sau 12 giờ, tuy nhiên mối liên quan này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Nguyễn Đình Nhân [11] và nhiều tác giả khác đã nhận định rằng
những bệnh nhân được đến điều trị Hồi sức tích cực càng sớm thì khả năng để lại di
chứng càng ít hơn so với những bệnh nhân có thời gian đến điều trị Hồi sức tích cực. Vì
vậy cấp cứu và chăm sóc ban đầu cho bệnh nhân tai biến mạch máu não là vô cùng quan
trọng, nếu không sẽ để lại di chứng nặng nề cho bệnh nhân và trở thành gánh nặng cho
gia đình và cộng đồng. Chính vì thế thời gian để được điều trị Hồi sức tích cực đúng ảnh
hưởng rất nhiều đến quá trình phục hồi chức năng của bệnh nhân. Rất tiếc kết quả nghiên
cứu của chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa kết quả PHCN với thời gian đến
điều trị Hồi sức tích cực. Kết quả này có thể do số đối tượng nghiên cứu của chúng tôi
còn chưa đủ lớn.
36
- Thời gian từ khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực đến khi được điều trị
PHCN vận động
Qua bảng 3.14 cho thấy nhóm bệnh nhân đến điều trị phục hồi chức năng trước 3
tháng cho kết quả phục hồi tốt và khá cao hơn 1,9 lần so với nhóm bệnh nhân đến điều trị
sau 3 tháng. Song mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Nguyễn Văn Đăng và
các tác giả khác [3], [5] nhận định rằng thời gian đến điều trị PHCN sớm (trước 3 tháng)
thì cho kết quả hồi phục nhanh hơn, những bệnh nhân có thời gian đến điều trị PHCN
muộn (3 tháng trở lên) cho kết quả phục hồi chậm hơn và các bệnh nhân có thời gian từ
khi kết thúc điều trị Hồi sức tích cực đến khi được PHCN trên 6 tháng thì khả năng hồi
phục gần như không có. Các tác giả cũng nhận xét rằng thời gian không được điều trị
PHCN càng dài thì khả năng để lại di chứng càng nhiều, vì thế càng khó khăn và ảnh
hưởng lớn đến quá trình chăm sóc và điều trị PHCN vận động cho các bệnh nhân liệt nửa
người do xuất huyết não [3], [5], [19], [21]. Song cũng rất tiếc rằng kết quả của chúng tôi
chưa tìm thấy mối liên quan giữa kết quả PHCN vận động với thời gian từ khi kết thúc
điều trị Hồi sức tích cực đến khi được PHCN vận động.
Thang Long University Library
37
KẾT LUẬN
1. Kết quả hồi phục chức năng vận động bằng phƣơng pháp điện châm kết hợp với
xoa bóp bấm huyệt trên bệnh nhân liệt nửa ngƣời do tai biến xuất huyết não.
- Sau 40 ngày điều trị PHCN vận động bằng phương pháp điện châm kết hợp xoa bóp
bấm huyệt số bệnh nhân có số điểm Orgogozo mức bình thường (91-100 điểm) chiếm tỷ
lệ 65%, mức độ nhẹ (56-90 điểm) chiếm tỷ lệ 21,7%, mức độ trung bình (26-55 điểm)
chiếm tỷ lệ 10%, mức độ nặng (0-25 điểm) chiếm tỷ lệ 3,3%.
Điểm Orgogozo trung bình sau điều trị (82,4 ± 18,4) cao hơn có ý nghĩa thống kê so
với trước điều trị (39,4 ± 10,4) với p<0,05.
- Số bệnh nhân có mức dịch chuyển 3 độ liệt (kết quả tốt) chiếm tỷ lệ 11,7%, số bệnh
nhân có mức dịch chuyển 2 độ liệt (kết quả khá) chiếm tỷ lệ 65%, số bệnh nhân có mức
dịch chuyển 1 độ liệt (kết quả trung bình) chiếm tỷ lệ 20%, có 2 bệnh nhân không dịch
chuyển độ liệt nào (kết quả kém) chiếm tỷ lệ 3,3%.
Độ liệt Henry trung bình sau điều trị là (1,6 ± 0,9) giảm hơn có ý nghĩa thống kê so
với trước điều trị (3,3 ± 0,8) với p<0,05.
2. Một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hồi chức năng vận động
- Tuổi bệnh nhân ≤ 60 cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và khá cao hơn 11,9
lần so với bệnh nhân >60 tuổi (p<0,05).
- Bệnh nhân nam cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và khá cao hơn 2,5 lần so
với bệnh nhân nữ với p<0,05.
- Kích thước của ổ xuất huyết não < 1cm cho kết quả phục hồi chức năng vận động tốt và
khá cao hơn 7,4 lần so với bệnh nhân có ổ xuất huyết não 1-1,5cm (p<0,05).
- Không có mối liên quan giữa kết quả PHCN vận động với thời gian từ khi bị đột quỵ
đến khi được điều trị Hồi sức tích cực và thời gian từ sau khi kết thúc điều trị Hồi sức tích
cực đến khi được điều trị PHCN vận động.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- b00212_7656.pdf