Đề tài Đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc Thực trạng và giải pháp

Mục lục .1 Lời mở đầu .3 Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc .4 1.1 Tổng quan về tình hình phát triển các Khu công nghiệp phía Bắc 4 1.1.1 Tình hình phát triển của các Khu công nghiệp Việt Nam 4 1.1.2 Tình hình phát triển của các Khu công nghiệp phía Bắc: 6 1.2 Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển tại các KCN phía Bắc 19 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm về đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp 19 1.2.1.1 Khái niệm về đầu tư phát triển các Khu công nghiệp: .19 1.2.1.2 Đặc điểm của các Khu công nghiệp : .20 1.2.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của miền Bắc có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển của các Khu công nghiệp phía Bắc 21 1.2.3 Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển các Khu công nghiệp phía Bắc .24 1.2.3.1 Tình hình vốn đầu tư tại các Khu công nghiệp phía Bắc 24 1.2.3.2 Tình hình thực hiện vốn đầu tư tại các khu công nghiệp phía Bắc phân theo nguồn vốn 25 1.2.3.3 Tình hình thực hiện vốn đầu tư tại các khu công nghiệp phía Bắc phân theo các địa phương 29 1.2.3.4 Tình hình thực hiện vốn đầu tư tại các KCN phía Bắc phân theo nội dung đầu tư .30 1.2.3.4.1 Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN: .31 1.2.3.4.2 Đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh trong KCN .34 1.3 Đánh giá chung về hoạt động đầu tư tại các Khu công nghiệp phía Bắc .37 1.5.1 Những kết quả đạt được của các KCN phía Bắc 37 1.5.2 Hạn chế còn tồn đọng và nguyên nhân: .45 Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển tại các khu công nghiệp phía Bắc .48 2.1 Định hướng phát triển các khu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010-2020 .48 2.2 Kinh nghiệm đầu tư phát triển Khu công nghiệp của các nước và bài học cho Việt Nam: .50 2.2.1 Nhật Bản: 50 2.2.2 Đài Loan: 55 2.2.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: .59 2.3 Các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển tại các KCN phía Bắc .60 2.3.1. Giải pháp vĩ mô .60 2.3.2 Các giải pháp vi mô .68 2.3.2.1 Đối với Ban quản lý Khu công nghiệp các tỉnh, thành phố .68 2.3.2.2 Đối với các Khu côngnghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp 72 Kết luận 74 Phụ lục 75 Danh mục tài liệu tham khảo .78 Lời mở đầu Trong quá trình thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đạt hóa nền kinh tế quốc dân và thực hiện chính sách mở cửa, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và phát triển các Khu công nghiệp ở Việt Nam nói chung cũng như các tỉnh phía Bắc nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, sự phát triển này không những nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài mà còn nhằm nhanh chóng tạo nên một khu vực công nghiệp năng động có trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế quốc dân và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy có rất nhiều vấn để nảy sinh trong quá trình đầu tư phát triển Khu công nghiệp phía Bắc. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu mang tính thực tế cao về những thành công và hạn chế còn tồn tại trong suốt qua để từ đó tìm ra giải pháp tăng cường đầu tư phát triển Khu công nghiệp Với tầm quan trọng của những vấn đề có liên quan đến đầu tư phát triển khu công nghiệp phía Bắc, em xin phép được lựa chọn đề tài: “ Đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu thực tập. Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 2 chương: Chương I : Thực trạng đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc. Em xin chân thành cảm ơn giảng viên PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt cùng cán bộ Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Trong khuôn khổ của chuyên đề, với hạn chế về kiến thức cũng như hiểu biết thực tiễn, chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn.

doc78 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2890 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác KCN. Luật này khuyến khích di chuyển các xí nghiệp từ khu vực tập trung công nghiệp quá đông ra các vùng kém phát triển, ít có hoạt động công nghiệp; đồng thời đề cập đến các kế hoạch xây dựng nhà máy mới hay mở rộng các nhà máy hiện có, bảo vệ môi trường và ổn định lao động. Các vùng tập trung công nghiệp qúa đông được chỉ định là “khu vực khuyến khích di chuyển công nghiệp”(IRE-Industry Relocation-Encouraged Area) và những khu vực kém phát triển được chỉ định là “ Khu vực khuyến khích thiết lập công nghiệp” (IIE- Industrial Introduction-Encourage Area). Các cơ sở công nghiệp trong khu IRE được khuyến khích rời đi nơi khác để phát triển các khu đô thị mới, ngược lại các xí nghiệp công nghiệp được khuyến khích thành lập trong các khu IIE. Để khuyến khích việc di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp, Chính phủ áp dụng một số biện pháp như ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc cho vay vốn ưu đãi. Căn cứ vào Luật Xúc tiến di chuyển công nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Kế hoạch di chuyển công nghiệp với mục tiêu thu hẹp 20% diện tích các cơ sở công nghiệp trong các khu IRE từ năm 1985 đến năm 2000, theo đó giảm tỷ lệ hàng hoá bán ra từ các khu IRE từ 18% xuống 11%. Vào thập niên 1980-1990, mỗi năm có hơn 50% nhà máy được thành lập trong các khu công nghiệp và hơn 67% nhà máy mới hay mở rộng nằm trong các khu IIE. Điều này chứng tỏ các KCN hấp dẫn đối với các xí nghiệp và là một biện pháp hiệu quả để khuyến khích việc đặt các nhà máy ở những vùng xa xôi. Trên cơ sơ Luật Technopolis ban hành năm 1983, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Kế hoạch Technopolis là một chiến lược mới để phát triển các vùng xa xôi hẻo lánh bằng cách tạo ra những thành phố hấp dẫn trong đó các khu công nghiệp, khu vực nghiên cứu và khu dân cư được liên kết chặt chẽ với nhau. Khu công nghiệp ở đây tập trung các ngành công nghệ cao như điện tử, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu mới... Luật thúc đẩy các dự án đặc biệt để phát triển công nghiệp tiên tiến của vùng được ban hành năm 1988 nhằm di chuyển các cơ sở sản xuất và hình thành những trung tâm phát triển công nghiệp nòng cốt trong khu vực. Một số luật phát triển vùng có liên quan đến việc hình thành các KCN cũng được ban hành như Luật phát triển các thành phố công nghiệp mới được ban hành năm 1962 liên quan đến các KCN ven biển cho các ngành hoá chất và công nghiệp nặng; Luật các biện pháp đặc biệt để khai thác các mỏ than ban hành năm 1961. Ngoài ra còn có một số qui định của pháp luật điều chỉnh hoạt động phát triển các KCN và quản lý đất đai như: Luật đặt vị trí các nhà máy qui định điều kiện sử dụng đất để xây dựng nhà máy, theo đó các cơ sở sản xuất phải đảm bảo diện tích trồng cây xanh nhất định; Luật qui hoạch đô thị và các qui định khác kiểm soát việc sử dụng đất đai theo các tiêu chuẩn xây dựng; Luật và qui định về bảo vệ môi trường nhằm kiểm soát chất lượng nước và không khí do các nhà máy thải ra, bao gồm cả qui định đánh giá tác động môi trường của dự án... * Lập kế hoạch và cơ chế điều phối Trong hệ thống quản lý nhà nước của Nhật Bản, có 3 cơ quan chính quản lý hoạt động phát triển của các KCN gồm: Bộ Thương mại và công nghiệp quốc tế (MITI), Cơ quan quản lý đất quốc gia (NLA) và Bộ Xây dựng (MOC). Theo đó MITI chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch di chuyển công nghiệp, xây dựng các thành phố công nghiệp và các chính sách về phát triển vùng trong đó đề ra cơ cấu công nghiệp, mục tiêu và chiến lược đặt vị trí các ngành công nghiệp, nhằm đảm bảo qui hoạch phát triển các KCN một cách cân bằng dựa trên cơ sở cung – cầu về phát triển công nghiệp của khu vực. Cơ quan NLA có kế hoạch tổng thể sử dụng đất, xác định rõ định hướng áp dụng cho các dự án phát triển cả nước và phát triển vùng trong giai đoạn dài (trên 10 năm), đồng thời đưa ra những hướng dẫn về sử dụng đất đai và quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng như đường xa lộ, xe điện cao tốc và viễn thông. Mỗi loại cơ sở hạ tầng được lập kế hoạch theo một hệ thống riêng, do đó vị trí các KCN trong tương lai có thể được dự kiến trước. Bộ Xây dựng (MOC) theo dõi việc sử dụng và phát triển đất đai, xây dựng hạ tầng như giao thông, xử lý chất thải công nghiệp. Ngoài ra Bộ Nông nghiệp (MOA) và Bộ Vận tải (MOT) quản lý những vấn đề khác có liên quan Kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và thành lập các KCN do các chính quyền địa phương chủ động lập dựa trên cơ sở các kế hoạch phát triển công nghiệp của cả nước và phát triển vùng của Chính phủ. Cộng đồng địa phương cũng tham gia vào việc thẩm định, đánh giá và quyết định dự án thông qua một uỷ ban được thành lập gồm các công ty kinh doanh hạ tầng, đại diện cộng đồng dân cư và các chủ sở hữu đất. Các giáo sư kỹ thuật và chuyên gia về phát triển vùng của các trường đại học cũng được mời tham gia uỷ ban này trong trường hợp phát triển các KCN công nghệ cao. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Để khuyến khích việc đặt các KCN trong vùng mình, các cơ quan địa phương còn áp dụng các biện pháp hỗ trợ đầu tư như trợ cấp vốn, miễn, giảm thuế... cho các doanh nghiệp Căn cứ vào kế hoạch phát triển các thành phố công nghiệp Technopolis, Chính phủ đã đề ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển các thành phố công nghiệp “technopolis”, bao gồm: (i) Xác định các khu vực dự kiến phát triển công nghiệp công nghệ cao; (ii) Xác định các mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ cao trong nền kinh tế địa phương; và (iii) Lập các dự án kinh doanh cần thiết để đạt được các mục tiêu trên. Căn cứ vào những nguyên tắc trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng các tiêu chí cụ thể để lựa chọn địa điểm xây dựng các KCN công nghệ cao “technopolis Nhìn chung Nhật Bản có một hệ thống qui hoạch ổn định và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương với các cơ quan và tổ chức khác. Tuy nhiên, một trong những vấn đề khó khăn là sự cạnh tranh mạnh giữa các vùng, vì các KCN do các chính quyền địa phương chủ động thiết lập và hoạt động theo cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp thường có huynh hướng đặt các xí nghiệp tại những khu vực có điều kiện tốt như gần các thị trường tiêu thụ, vì vậy các KCN ở xa rất khó thu hút các dự án đầu tư. Để đảm bảo sự phát triển được cân đối, Chính phủ đã có chính sách phát triển các KCN trên tất cả các vùng xa xôi, hẻo lánh của đất nước. Tuy nhiên vấn đề quan trọng đặt ra là mức độ tham gia của Chính phủ trung ương vào quá trình lập kế hoạch và xác định vị trí xây dựng các KCN để đảm bảo sự phát triển bền vững và cân bằng giữa các khu vực. Khó khăn thứ hai trong việc lập dự án phát triển KCN là việc chia sẻ rủi ro trong đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN giữa chính quyền địa phương và các nhà đầu tư hạ tầng. * Một số cơ chế hỗ trợ phát triển khu công nghiệp Nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận tiện cho sản xuất công nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã dành một lượng vốn đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này. Nếu như vào năm 1955, tổng vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng công nghiệp là 80 tỷ yên, tương đương 0,9% GDP thì vào năm 1970 số vốn này là 1.876 tỷ yên, tương đương 2,5% GDP và vào năm 1980 là 6.684 tỷ yên, tương đương 2,8% GDP. Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các xí nghiệp theo các luật về phát triển công nghiệp vùng và các qui định của các chính quyền địa phương như: hỗ trợ về thuế (miễn, giảm thuế; áp dụng mức khấu hao đặc biệt); hỗ trợ vốn kinh doanh từ nguồn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; tạo điều kiện vay vốn ưu đãi của các tổ chức thuộc Chính phủ... Các biện pháp về thuế được áp dụng khác nhau cho từng xí nghiệp trong các KCN theo các luật về phát triển vùng liên quan. Một số biện pháp hỗ trợ được áp dụng cho các vùng chỉ định như: (i) miễn thuế doanh nghiệp và thuế tài sản cố định trong vòng 3 năm; (ii) miễn thuế mua bất động sản: (iii) áp dụng chế độ thuế đặc biệt về sở hữu đất đai và khấu hao đặc biệt (16% các thiết bị sản xuất và 8% cho các công trình xây dựng và các cơ sở phụ thuộc). Những thiết bị và công trình xây dựng trong các thành phố technopolis được hưởng mức khấu hao đặc biệt 30% cho thiết bị và 15% cho công trình. Ngoài ra để khuyến khích việc di chuyển các cơ sở công nghiệp ra khỏi khu vực IRE và phát triển các KCN mới, Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ vốn ngân sách để xây dựng các cơ sơ phúc lợi cho xã hội và bảo vệ môi trường phục vụ cho các KCN, số tiền trợ cấp được tính theo số lượng và diện tích của các nhà máy mới xây dựng hay mở rộng. Tại những khu vực mới phát triển, khó thu hút đầu tư, xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm... cho những xí nghiệp mới được thành lập. Các tổ chức tài chính nhà nước như Ngân hàng phát triển Nhật Bản, Công ty phát triển khu vực Hokkaido-Tohoku... có các chương trình cho vay vốn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, các dự án đầu tư tại những khu vực khuyến khích phát triển công nghiệp hay tại các thành phố công nghệ cao. 2.2.2 Đài Loan: Đài Loan là quần đảo nhỏ nằm trên vịnh Bắc Bộ. Từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, các nhà hoạch định chính sách của Đài Loan luôn xác định để tồn tại và phát triển, Đài Loan phải xây dựng mô hình kinh tế theo “cơ chế hướng ngoại” và phát triển công nghiệp. Trong đó, mô hình khu công nghiệp (KCN) được coi là chiến lược tạo thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của Đài Loan.  Chính sách phát triển KCN của Đài Loan Về quy hoạch phát triển:  Công tác xây dựng quy hoạch phát triển các KCN ở Đài Loan được tổ chức khoa học và chặt chẽ. Trước hết, Cục Công nghiệp thuộc Bộ Kinh tế Đài Loan tiến hành khảo sát, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của từng vùng kết hợp với việc dự báo, đánh giá về xu hướng phát triển khoa học công nghệ, triển vọng thị trường đầu tư và thương mại quốc tế trong thời gian 10 - 20 năm để xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc dân, định hướng phát triển ngành nghề theo vùng và khu vực). Sau đó, trên cơ sở quy hoạch tổng thể định hướng phát triển của từng vùng và khu vực, các nhà đầu tư xác định khả năng xây dựng các KCN với quy mô thích hợp và lập quy hoạch chi tiết trình cơ quan có thẩm quyền xin phép đầu tư xây dựng KCN. Với cách làm này, việc xây dựng các KCN vừa đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể chung, vừa phù hợp với thực tế của địa phương và khả năng của nhà đầu tư, nên tính khả thi của dự án cao. Để đảm bảo cho các KCN hoạt động có hiệu quả, sự phát triển các KCN ở Đài Loan luôn gắn liền với việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên trong và bên ngoài KCN như: Hệ thống giao thông nội bộ, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện nước, các dịch vụ bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống xử lý chất thải tập trung... Xây dựng các khu đô thị xung quanh, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực và dịch vụ tiện ích công nghiệp và đời sống, trong đó, đặc biệt chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường. Tại các KCN của Đài Loan luôn đảm bảo tỷ lệ kết cấu hợp lý giữa diện tích đất dành cho sản xuất khoảng 60%, đất dành cho xây dựng khu dân cư từ 2,2 - 2,3%, đất dành cho công trình bảo vệ môi trường 33% (trong đó, đất trồng cây xanh khoảng 10%) và đất dành cho phát triển các công trình vui chơi giải trí khoảng 4,7 - 4,8%. Quy hoạch xây dựng và phát triển KCN của Đài Loan không phải cố định, mà thường xuyên được kiểm tra và đánh giá lại sự phù hợp giữa quy hoạch và thực tế, nhất là những vấn đề liên quan đến môi trường để kịp thời điều chỉnh, bổ sung. Theo quy định hiện hành, việc kiểm tra, đánh giá quy hoạch được tiến hành 3 năm một lần. Việc quy hoạch xây dựng các KCN của Đài Loan luôn tuân theo nguyên tắc là khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng và toàn lãnh thổ, hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào việc phát triển các KCN.  Vì vậy, nhiều KCN ở Đài Loan được xây dựng tại những vùng đất cằn cỗi hoặc đất lấn biển. Việc xây dựng các KCN ở những nơi này không chỉ tiết kiệm được quỹ đất nông nghiệp vốn rất khan hiếm, mà còn giảm thiểu được các chi phí về đền bù, giải phóng mặt bằng và có điều kiện để xây dựng ngay từ đầu một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Về định hướng phát triển KCN, các nhà hoạch định chính sách Đài Loan luôn xác định, để có thể bắt kịp với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế và sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trên thế giới, trong những năm tới, việc phát triển các KCN tập trung cần được đổi mới theo hướng chuyển thành các KCN có dịch vụ kỹ thuật, công nghệ cao, đáp ứng được nhiệm vụ là nơi tập trung chuyển và chế biến sản phẩm cao cấp cho xuất khẩu và thị trường trong nước. Về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KCN,  xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí sản xuất, vừa có điều kiện để xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, vừa giúp các doanh nghiệp có thể sớm triển khai các dự án đầu tư. Đây là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho các KCN. Ở Đài Loan, Ban quản lý KCN đồng thời là nhà đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng các KCN. Trên vùng đất đã được quy hoạch, Công ty Kinh doanh hạ tầng KCN xây dựng sẵn nhà máy, cung cấp kết cấu hạ tầng đồng bộ và phương tiện hỗ trợ cơ bản khác cho các nhà đầu tư công nghiệp thuê. Phương thức này đã giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (dưới 200 lao động) có thể triển khai ngay được dự án đầu tư mà không phải bỏ vốn xây dựng nhà xưởng sản xuất và các công trình phụ trợ khác. Về thu hút đầu tư và cơ cấu ngành nghề trong các KCN, bên cạnh việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, Đài Loan còn dành cho các nhà đầu tư vào các KCN nhiều ưu đãi, đặc biệt là chính sách thuế, với thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, thời gian miễn và giảm thuế dài, giá thuê đất để phát triển hạ tầng thấp, được hỗ trợ vốn vay cụ thể: miễn 5 năm đối với tất cả các dự án đầu tư mới, được vay vốn với lãi suất thấp (khoảng 6,2%/ năm).  Đối với công ty mới thành lập, sau khi hết thời hạn miễn thuế 5 năm, được giảm 80% thuế lợi tức trong   1 năm tiếp theo. Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính được giảm thiểu và đơn giản hóa. Các doanh nghiệp KCN được đảm bảo quyền sở hữu đối với vốn và tài sản, được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài,...nên các KCN đã thực sự là địa điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và đầu tư vào các KCN ở Đài Loan được thực hiện theo phương châm: Nhân dân có việc làm với thu nhập thỏa đáng, Chính quyền thu được nhiều thuế và doanh nghiệp có lãi. Khi sản xuất phát triển, thu nhập và đời sống của người lao động nâng lên, Ngân sách nhà nước lớn mạnh sẽ tạo ra nội lực mới để vươn lên tự lực, tự cường. Phương châm này chi phối việc xây dựng chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và tạo nên môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng và hấp dẫn. Đồng thời, chính sách phát triển KCN của Đài Loan được tiến hành theo 3 giai đoạn như sau: -  Giai đoạn 1, Chính quyền Đài Loan chủ trương phát triển mạnh các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu và những ngành sử dụng nhiều lao động. - Giai đoạn 2, bắt đầu từ năm 1965 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, trong giai đoạn này, các chính sách của Đài Loan chủ yếu tập trung vào việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, bằng việc Chính quyền thành lập nhiều KCN, đặc biệt là cho xây dựng 3 Khu Chế xuất và ban bố Luật về Khu Chế xuất với nhiều ưu đãi  về tài chính và thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế quản lý “một cửa” tại các Ban quản lý KCX. - Giai đoạn 3, từ năm 1990 đến nay, chính sách phát triển KCN, chuyển từ đầu tư theo chiều rộng sang chiều sâu, tức là nâng cao chất lượng các KCN bằng việc tập trung xây dựng các khu công nghệ cao, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học - công nghệ với công nghiệp, khuyến khích việc nghiên cứu và triển khai R/D trong các ngành công nghiệp, thành lập và tổ chức lại nhiều viện nghiên cứu,...phát triển các KCN với nhiều hình thức đa dạng: KCN đa ngành; KCN chuyên ngành: dầu khí, ô tô, xi măng; KCN dành cho các doanh nghiệp trẻ mới thành lập và các KCX, khu công nghệ cao. Về tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước đối với KCN, Cục Công nghiệp trực thuộc Bộ Kinh tế Đài Loan là cơ quan quản lý nhà nước, chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành công nghiệp và điều hành hoạt động của các KCN trong phạm vi toàn lãnh thổ; ban hành các văn bản pháp lý, xây dựng các chuẩn mực cho phát triển KCN. Căn cứ vào tiến trình phát triển, hình thức tổ chức quản lý được thay đổi cho thích hợp. Trong thời kỳ đầu, chính quyền Trung ương Đài Loan thống nhất quản lý đối với tất cả các KCN, KCX trên phạm vi toàn lãnh thổ, bao gồm từ việc xây dựng chiến lược phát triển các KCN, hoạch định chính sách phát triển ngành công nghiệp và các KCN, lựa chọn vị trí xây dựng KCN, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KCN, vận động xúc tiến đầu tư và triển khai các dự án đầu tư.  Khi các KCN đã đi vào hoạt động ổn định, Chính quyền trung ương tiến hành phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương (trừ những KCN có vị trí chiến lược, sản xuất các mặt hàng mũi nhọn, có tác động lớn đối với nền kinh tế). Hiện tại, Cục Công nghiệp thuộc Bộ Kinh tế trực tiếp quản lý theo hình thức thành lập Ban điều hành KCN, do các doanh nghiệp KCN cử đại diện. chính quyền Trung ương không thành lập cơ quan quản lý riêng cho từng khu, hoặc cụm khu công nghiệp. Các doanh nghiệp KCN chịu sự quản lý của chính quyền địa phương và các ngành chức năng như những doanh nghiệp ngoài KCN. Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của các KCN ở Đài Loan như cấp phép đầu tư, hải quan, thuế... được tiến hành theo cơ chế “một cửa”. Chính quyền Trung ương quy định rất rõ, người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến một nơi, ở đó sẽ được thông báo công khai tiến trình, thời hạn xử lý công việc. Nơi nhận hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn đốc, xử lý công việc ở các khâu tiếp theo và trả kết quả đúng hẹn cho người có nhu cầu. Có thể nói, hệ thống chính sách kinh tế của Đài Loan luôn được hoạch định và điều chỉnh kịp thời khi tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế thay đổi, nên nó có tính năng động và tính khả thi cao, thực sự trở thành kim chỉ nam, là đòn bẩy kích thích sự phát triển của các KCN và nền kinh tế. 2.2.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Việc phát triển các KCN của Nhật Bản, Đài Loan diễn ra trong những thập niên đầu và giữa thế kỷ 20, trong bối cảnh thế giới khác nhiều so với thời kỳ hiện nay - thời kỳ của toàn cầu hoá, thương mại tự do và động lực tri thức. Tuy nhiên, đối với nước ta – một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách đầu tư phát triển các KCN của các nước này vẫn rất bổ ích đối với Việt Nam. Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về KCN, tiến tới ban hành Luật về KCN làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các KCN ở Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển KCN phải rõ ràng, minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu công nghiệp hoá cho từng thời kỳ. Thứ hai, qui hoạch phát triển các KCN của từng địa phương phải phù hợp với qui hoạch tổng thể các KCN trên cả nước và qui hoạch phát triển công nghiệp, qui hoạch phát triên kinh tế – xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc đầu tư phát triển các KCN. Cần tăng cường cơ chế phối hợp và tạo sự liên thông giữa các KCN của các địa phương để hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển theo một qui hoạch chung thống nhất của cả nước, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương, làm phá vỡ mặt bằng ưu đãi chung và môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững lâu dài của các KCN. Các KCN cần được qui hoạch xây dựng đồng bộ với các khu thương mại, đô thị, dịch vụ theo mô hình tổ hợp liên hoàn trong đó phát triển khu công nghiệp là trọng tâm, còn các khu vệ tinh khác về thương mại, dịch vụ, đô thị mới là hết sức quan trọng, có vai trò tác nhân thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái của các khu công nghiệp tại địa phương. Thứ ba, cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các KCN theo hướng khuyến khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu đầu tư trong các KCN phải tính tới lộ trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tận dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phát huy lợi thế so sánh của các ngành công nghiệp trong nước để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ tư, sớm hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về KCN theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền trực tiếp cho các Ban quản lý các KCN của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Nhà nước cần có chiến lược ưu tiên phát triển và tăng cường năng lực thể chế, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý các KCN tại các địa phương. Thứ năm, đổi mới vai trò hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước trong đầu tư phát triển KCN, chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào các quan hệ thị trường, phát triển của các KCN, đảm bảo cơ cấu các nguồn lực cơ bản được phân bố theo cung cầu thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước theo các mục tiêu đã xác định. Nhà nước chỉ hỗ trợ phát triển các KCN ở các khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, môi trường đầu tư hạn chế trong giai đoạn phát triển ban đầu và với những hình thức hỗ trợ đa dạng, lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác để đảm bảo đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất. 2.3 Các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển tại các KCN phía Bắc 2.3.1. Giải pháp vĩ mô: 2.3.1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế phân cấp, quản lý hành chính đối với Khu công nghiệp: Khung pháp lý tạo ra sân chơi công bằng cho các hoạt động kinh tế nói chung và các KCN nói riêng trên cả nước và miền Bắc còn đang ở tình trạng thiếu đồng bộ, không thống nhất và do đó chưa thể trở thành một công cụ nhằm giải quyết nhanh chóng và hiệu quả những bất cập nảy sinh trong quá trình đầu tư vào các KCN. Hơn nữa khung pháp lý hiện hành chưa thể xác định rõ cơ chế phân cấp và ủy quyền trong hệ thống quản lý nhà nước đối với các KCN. Tính không minh bạch trong phân cấp và ủy quyền quản lý đầu tư, cấp phép dẫn đến hiện tượng tranh giành quyền cấp phép giữa Trung Ương và các tỉnh, thành phố; thậm chí là giữa các Sở, Ban, Ngàng với Ban quản lý gấy ra nhiều phiền nhiễu, mất thời gian và chi phí của nhà đầu tư. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật và cơ chế phân cấp, quản lý hành chính đối với các KCN cần hoàn thiện theo những nội dung sau: - Tiến hành phân tích, tổng hợp thực trạng hoạt động, những bất cập đã và đang nảy sinh, những yêu cầu trong hoạt động KCN và trong mối liên hệ với các lĩnh vực khác. Từ cơ sở đó rà soát lại hệ thống những văn bản pháp luật có liên quan và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật theo hướng tháo gỡ những bất cập, thúc đầy sự phát triển của các KCN. - Cần xác định cơ chế phân cấp, phân quyền một cách thích hợp giữa Trung Ương và địa phương; giữa các Sở, Ban, Ngành. Cơ chế phân cấp, phân quyền phải tạo ra được một hệ thống trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng cấp trong quản lý quá trình xây dựng và hoạt động của KCN trên từng địa bàn cụ thể. - Trên cơ sở hệ thống pháp luật được hoàn thiện đó, cần nhanh chóng ban hành những hướng dẫn cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quy đinh pháp lý được vận dụng vào thực hiện một cách có hiệu quả. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý hành chính đối với KCN theo hướng “ một cửa, tại chỗ” theo hướng đề nghị các Bộ, Sở, Ban, Ngành ủy quyền rộng hơn cho Ban quản lý. 2.3.1.2 Hoàn thiện cơ chế chính sách về quy hoạch hình thành và phát triển các Khu công nghiệp: Quy hoạch là một bộ phận trong tổng thể công nghiệp của miền Bắc và của cả nước, trong đó các ngành công nghiệp kết hợp theo nguyên tắc hợp quy hoạch ngành với vùng lãnh thổ. Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng. Còn quy hoạch cụ thể cho từng ngành nghề, loại hình KCN trên từng địa bàn là vấn đề lớn, mất nhiều thời gian và công sức của các cấp, các ngành mà thành phố phải thực hiện. Để đảm bảo tính khả thi trong việc quy hoạch phát triển KCN, cần thực hiện một số vấn đề sau: + Các KCN được lựa chọn hình thành phải phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng. Các ngành nghề thu hút vào KCN phải phù hợp với định hướng phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật. + Các loại hình và quy mô doanh nghiệp hoạt động trong KCN đa dạng có quy mô lớn, vừa và nhỏ đặc biệt khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối quan hệ hợp tác liên kết cùng tham gia sản xuất các loại sản phẩm, phát triển cụm công nghiệp và điểm công nghiệp ở các thị trấn, thị xã, hình thành mạng lưới công nghiệp vừa và nhỏ phân bổ rộng khắp trên địa bàn. + Bảo đảm sự đồng bộ giữa phát triển cơ sở hạ tầng và quá trình đô thị hóa. Cần xác định giới hạn của các KCN trên cơ sở cân đối các điều kiện từ đó xác định bước đi với những quy mô phù hợp. Về nguyên tắc, cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước. Đảm bảo đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đảm bảo sự phát triển thuận lợi và lâu bền cho KCN. Trong quy hoạch phát triển KCN, ngoài việc nghiên cứu những điều kiện trên, còn chú ý nghiên cứu dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm cung cấp nguồn lao động. Đảm bảo đồng bộ việc xây dựng hạ tầng trong và ngoài KCN. + Nhược điểm lớn của chúng ta trong quy hoạch là tham quy mô lớn, đa ngành, chưa chú ý đúng mức việc lấp đầy. Vì vậy, trên cơ sở các KCN đã có cần rà soát lại không chú ý tăng khối lượng mà hướng vào lấp đầy KCN. Cần qui định về qui mô tối thiểu cho từng loại KCN. Việc phát triển các KCN có qui mô quá lớn hoặc nhỏ sẽ khó đảm bảo tính chất bền vững của chính KCN. Với KCN có diện tích quá lớn sẽ khó lấp đầy, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất; còn KCN quá nhỏ thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý môi trường và các dịch vụ đi kèm sẽ gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo hiệu quả hoạt động. Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển của các quốc gia khác, kết hợp với phân tích thực tế các KCN của vùng, nhận thấy nên qui định qui mô tối thiểu để đưa vào qui hoạch KCN là 200 ha; đối với các địa phương không có thế mạnh trong thu hút vốn đầu tư, qui mô KCN tối đa là 500 ha.  + Mọi quy hoạch sau khi phê duyệt phải được công bố công khai để các cấp Chính quyền và nhân dân thực hiện. Về nguyên tắc, các KCN cần được bố trí ở ngoại vi thành phố có tính đến xu hướng mở rộng Thành phố và quá trình đô thị hóa để chống ô nhiễm môi trường. + Trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư có cơ chế hấp dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào KCN. + Ưu tiên thành lập KCN trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp nay mở rộng thêm hoặc cải tạo các KCN cũ, sau đó xây dựng các KCN mới phục vụ cho việc chỉnh trang đô thị quy hoạch lại việc phát triển công nghiệp hóa trên địa bàn. 2.3.1.3 Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nhằm hình thành cơ cấu hợp lý trong các Khu công nghiệp: Hoạt động trong các KCN chủ yếu là hoạt động sản xuất công nghiệp bao gồm cả công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Do đó, sự phát triển của chúng phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước đối với phát triển từng ngành công nghiệp nhất định. Điều này có nghĩa là những vấn đề thuộc về chiến lược, quy hoạch phát triển các KCN phải dựa trên những định hướng và nội dung của chính sách phát triển công nghiệp vùng. Tuy nhiên trong thực tế những chính sách phát triển công nghiệp thường vì nhiều yếu tố khách quan, chủ quan chưa tính hết những điều kiện có liên quan đến lợi thế so sánh vùng và so sánh quốc gia, chưa kịp thời quan tâm chú ý đến sự ra đời và phát triển của các KCN. Cơ chế, chính sách phát triển nhằm hình thành cơ cấu hợp lý trong các KCN cần hoàn thiện theo các nội dung sau: - Trong chính sách phát triển công nghiệp cần xác định rõ cơ cấu các ngành công nghiệp cũng như lộ trình cho sự chuyển dịch cơ cấu nhằm phát triển hoạt động sản xuất công nghiệp dựa trên những thực trạng về điều kiện kinh tế, xã hội. Chính sách này sẽ tạo ra một cách khách quan và cung cấp những tín hiệu cho những quy hoạch phát triển KCN cũng như quy hoạch cơ cấu ngành trong hệ thống KCN cũng như từng KCN. - Hình thành và phát triển cơ sở hạ tầng cho tất cả các ngành công nghiệp đặc biệt là trong KCN, cụ thể là hỗ trợ vốn để xây dựng hệ thống đường xá, cầu cảng, cơ sở cung cấp điện, nước công nghiệp; thúc đẩy sự phát triển công nghệ và tăng cường phổ biến thông tin cũng như khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đầy di dời các cơ sở công nghiệp theo hướng bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng. - Cần đấy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thông qua các công cụ hỗ trợ như hỗ trợ tín dụng, giảm thiểu, xóa bỏ những bất bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp. 2.3.1.4 Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai: Đất đai là một trong những yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hiện nay, những bất cập về tình hình sử dụng cũng như quy định phức tạp trong chính sách về đất đang là cản trở lớn cho sự phát triển các KCN. Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay là công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Những năm vừa qua, đền bù giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề gay cấn, vừa bức xúc, căng thẳng, vừa tốn kém và làm cho công trình kéo dài làm chậm quá trình phát triển KCN, gây khó khăn cho các Nhà đầu tư. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng phải dựa trên cơ sở quy hoạch dài hạn về tình hình phát triển KCN. Phải có chỉ dẫn, có ranh giới và phải được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Điều này là một bảo đảm chắc chắn để giảm gánh nặng cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng. Đồng thời luôn xem xét trong việc định mức giá đền bù cho hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế, để tạo điều kiện cho việc giải quyết mâu thuẫn giữa các cấp với nhân dân trong việc đền bù. Đối với đối tượng đền bù, một mặt chưa hiểu hết chủ trương phát triển KCN, chính sách đền bù hoặc chính sách đền bù không thống nhất, mặt khác một số hộ cố tình không di dời… Khi luật lại thiếu điều khoản mang tính cưỡng chế đối với những trường hợp cần xử lý. Chính các nguyên nhân trên đã tác động đến tư tưởng, tình cảm đối với các đối tượng giao đất làm KCN, khiến cho một số người không đồng tình, gây khó khăn cản trở. Chính vì vậy, công tác quy hoạch phải đi trước một bước, tuyên truyền giáo dục cho nhân dân về đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ trương phát triển KCN. Việc tính đền bù phải thỏa đáng theo nguyên tắc thị trường và có sự quản lý của Nhà nước thông qua quy định quy chế ban hành cho dân có điều kiện tái lập cơ sở mới. 2.3.1.5 Hoàn thiện hệ thống tài chính, tiền tệ đối với các doanh nghiệp trong các Khu công nghiệp : Điều kiện tiên quyết cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng nói cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh là vốn. Tuy nhien việc tiếp cận vốn hiện này đối với các nhà đầu tư là tương đối khó khăn, bên cạnh đó lại phải trả giá cao cho dịch vụ vay cũng như lãi suất. Để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận dịch vụ tài chính, tín dụng, cơ chế cho vấn đề này cần được hiện đại hóa theo các nội dung sau : - Bãi bỏ những quy định vế lãi trần, mức lãi suất trên cho vay sẽ để các ngân hàng tự quyết trên nguyên tắc cạnh tranh và mỗi quan hệ cung cầu trên thị trường. - Tạo dựng cơ chế công bằng và rõ ràng cho cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân khi họ muốn tiếp cận nguồn vốn tín dụng bằng việc xóa bỏ những quy định mang tính phân biệt đối xử giữa các lọai hình doanh nghiệp trong lĩnh vực tín dụng. - Hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp từ chính quyền Trung Ương và các địa phương tới hoạt động tín dụng. -Tạo một lộ trình cho phép các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam - Áp dụng nguyên tắc kế toán và kiểm toán quốc tế, tăng cường hoạt động kiểm toán để đảm bảo cho vay trên cơ sở năng lực tài chính thực tế của các doanh nghiệp 2.3.1.6 Hoàn thiện cơ chế, chính sách về thuế : Sự ổn định, tính thiếu hợp lý của chính sách thuế cũng là vấn đề mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp rất quan tâm. Sự trồng chéo giữa các loại thuế, thủ tục nộp thuế rườm rà, mất thời gian sẽ làm các nhà đầu tư nản lòng. Chính vì vậy, cơ chế và chính sách về thuế cần hoàn thiện theo các nội dung sau : - Rà soát lại toàn bộ hệ thống thuế nhằm làm căn cứ xây dựng hệ thống thuế ổn định và kích thích sản xuất từ đó giúp các nhà đầu tư, doanh nghiệp chủ động và có khả năng xây dựng phương án kinh doanh phù hợp. - Hoàn thiện và đưa lộ trình về chính sách thuế theo hướng giảm tối đa sự chênh lệch trong thuế suất giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. - Cần đơn giản hóa hệ thống bảng tính thuế theo hướng giảm số lượng các loại thuế suất; minh bạch, công khai, cụ thể hóa các cơ chế về ưu đãi thuế. - Lành mạnh hóa cơ cấu thu thuế và đa dạng hóa cơ cấu nguồn thu theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất khẩu và tăng tỷ trọng thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, tăng hiệu quản thu thuế. 2.3.1.7 Hoàn thiện chính sách về lao động và phát triển thị trường lao động cho các Khu công nghiệp : Lao động là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển của mọi quá trình hình thành và phát triển của các KCN. Chất lượng lao động hiện nay phần lớn vẫn chưa đáp ứng và thích nghi tốt với trình độ công nghệ hiện đại đặc biệt là đối với các ngành mũi nhọn. Chính vì vậy chính sách lao động cần phải ngày càng hoàn thiện theo hướng sau : - Linh hoạt hơn trong hình thành các tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp, cụ thể việc hình thành tổ chức công đoàn không bắt buộc đối với doanh nghiệp nhỏ mà nên căn cứ vào điều kiện và đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp cụ thể. - Linh hoạt hơn trong việc tuyển dụng và sa thải lao động nhằm kích thích người lao động luôn có ý thức nâng cao kiến thức, tay nghề lao động; cụ thể là các doanh nghiệp có quyền chủ động và tự do tuyển lao động không cần thông qua các tổ chức trung gian; thải hồi lao động cần dựa trên cơ sở chủ yếu là hiệu quả kinh doanh, tình hình thị trường chứ không nhất thiết là phải có ý kiến của công đoàn. - Xác định cơ chế linh hoạt hơn trong ký kết hợp đồng lao động như nới rộng khung thị trường lao động, các cam kết về bồi thường, sa thải và chế độ nghỉ phép. - Chú trọng tăng cường chất lượng lao động, Sở lao động – thương binh xã hội, Sở Giáo dục – Đào tạo phối hợp cùng các doanh nghiệp trong các KCN tiến hành đào tạo nghề theo hướng: tỉnh, thành phố xây dựng cơ sở đào tạo, doanh nghiệp cử người đi học và chịu chi phí đào tạo, đảm bảo người học sau khi được đào tạo sẽ làm việc trong doanh nghiệp cử đi đào tạo bằng hợp đồng ký kết cụ thể. 2.3.1.8 Hoàn thiện chính sách, cơ chế về xử lý chất thải và quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường : Phát triển bền vững là mục tiêu và là định hướng tới của tất cả các quốc gia trên thế giới. Thực tế hiện nay nhiều nước trong quá trình công nghiệp đã bị ô nhiễm môi trường rất nặng và khó khăn khắc phục ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng các nguồn tài nguyên cũng như sự phát triển lâu dài của đất nước. Việt Nam nói chung và các tỉnh phía Bắc nói riêng, tuy mới bước vào giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hóa nhưng ô nhiễm môi trường đã ở mức báo động ở một số khu vực đặc biệt có nhiều chất thải nguy hiểm. Do vậy, đi đôi với việc quy hoạch phát triển công nghiệp phải chú ý tới việc bảo vệ môi trường. Cần ban hành những quy định rõ ràng về khen thưởng các Ban quản lý và các doanh nghiệp trong KCN làm tốt công tác xử lý chất thải nói chung và bảo vệ môi trường nói riêng cũng như xử lý nghiêm các Ban quản lý và các doanh nghiệp làm đúng quy định. Về lâu dài nhà nước cần có định hướng xây dựng các Khu công nghệ cao để phát triển các ngành công nghiệp sạch, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Một thực tế cho thấy rằng chi phí cho công tác bảo vệ môi trường là khá cao. Điều này làm ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp trong các KCN. Vì vậy nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hơn nữa trong xây dựng hệ thống xử lý hoặc tiến hành cho vay ưu đãi, giảm thuế cho các doanh nghiệp. 2.3.2 Các giải pháp vi mô : 2.3.2.1 Đối với Ban quản lý Khu công nghiệp các tỉnh, thành phố: * Đa dạng hóa phương thức đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của các KCN : Việc đa dạng hóa phương thức huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đang gặp phải một bất cập lớn đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng không phải là để các tỉnh, thành phố thu ngân sách từ các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng cơ sở mà chủ yếu là để tạo điều kiện phát triển công nghiệp một cách tập trung, có quy hoạch, thu hút công nghệ mới, trong khi đó mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng lại chính là lợi nhuận. Sự mâu thuẫn lợi ích này làm cho tiến độ và chất lượng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN phía Bắc còn nhiều hạn chế. Việc đa đạng hóa và lựa chọn phương thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với từng KCN cụ thể cần thực hiện theo nội dung sau : Các tỉnh, thành phố cần cân đối ngân sách nhằm tạo ra một nguồn ngân sách thường xuyên hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN; các Ban quản lý KCN các tỉnh, thành phố; các chủ đầu tư xây dựng KCN cần xác định điều kiện của từng KCN để kêu gọi các nguồn vốn đầu tư hợp lý nhất. * Giải pháp xúc tiến đầu tư vào KCN : Ban quản lý KCN cần phối hợp với các cơ quan chức năng như phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ kế hoạch và Đầu tư đại diện ngoại giao, các công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN trong công tác tuyên truyền giới thiệu các KCN phía Bắc nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời có kế hoạch mời các đoàn doanh nghiệp có tiềm năng đến thăm các KCN và cùng Phòng thương mại và Công nghiệp thu hút các nhà đầu tư trong nước để hướng dẫn tạo điều kiện cho họ hiểu kỹ về KCN, từ đó giúp họ hình thành phương án khả thi đầu tư vào KCN. Ban quản lý KCN cấp tỉnh cần phối hợp với các công ty phát triển hạ tầng KCN tập trung sức vào việc tổ chức vận động đầu tư vào KCN dưới nhiều hình thức thỏa đáng. Để chủ động đầu tư vào KCN cần mạnh dạn mở một số chi nhánh đại diện của ta theo hình thức thích hợp ở một số khu vực quan trọng như: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu… Ban hành các chính sách hướng dẫn đầu tư vào KCN tại Việt Nam, trong đó nêu rõ các chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng, giá thuê đất, giá thuê hạ tầng, các ưu đãi… Tổ chức các đoàn đi xúc tiến đầu tư tại các nước có tiềm năng, tổ chức các cuộc hội thảo tại các tỉnh, thành phố ; các Hội nghị, hội thảo tuyên truyền về môi trường đầu tư và các chính sách pháp luật và ưu đãi. Về phía các công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, song song với việc tập trung xây dựng tốt cơ sở hạ tầng phải chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng để xây dựng, có chiến lược Marketing hữu hiệu, cụ thể phải thực hiện các công việc sau: - Nghiên cứu thị trường gồm thị trường trong nước, nước ngoài, nắm rõ nhu cầu đòi hỏi của thị trường để xây dựng, sửa đổi, tu chỉnh cơ sở hạ tầng cho phù hợp. - Nghiên cứu người tiêu dùng: Người tiêu dùng ở đâu là Nhà đầu tư. Cần nghiên cứu để biết Nhà đầu tư nào sẽ đến với mình, họ thích sản phẩm thế nào, giá cả ra sao. Cần nghiên cứu lợi thế so sánh giữa các KCN. - Nghiên cứu động cơ mua hàng: Nhà đầu tư đến với ta để thuê đất xây dựng nhà xưởng để sản xuất, xuất phát từ động cơ, động cơ xuất phát từ nhu cầu, nhưng không có nghĩa là cứ có nhu cầu là đầu tư. - Nghiên cứu sản phẩm: cần xem xét KCN của mình đã đáp ứng được nhu cầu thị trường hay chưa, cần cải tiến vấn đề ra sao. * Không ngừng hoàn thiện Bộ máy của Ban quản lý các KCN và KCX tại các tỉnh, thành phố : Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” và thực hiện tốt cơ chế này theo đúng nghĩa của nó ; xóa bỏ hoàn toàn chế độ xin – cho trong quá trình cho phép đầu tư. Duy trì hoạt động của Ban quản lý ổn định, thực hiện tốt công tác lãnh đạo, sự phối hợp của Ban quản lý với các cơ quan chức năng và sự phối hợp giữa các Phòng ban trong ban quản lý. Tiếp tục đào tạo và nâng cao trình độ cũng như ý thức trách nhiệm, kỷ luật của các cán bộ quản lý, chuyên viên của Ban quản lý để có thể đáp ứng các yêu cầu của công việc. Có thể cử cán bộ sang các địa phương khác thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích lũy thêm kinh nghiệm. * Chủ động tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN : Trong khi lực lượng lao động ở khu vực phía Bắc rất đông nhưng các doanh nghiệp trong KCN vẫn khó khăn trong khi thuê lao động. Để khắc phục tình trạng này và tạo nguồn lao động lâu dài cho KCN cần thực hiện một số giải pháp: - Dựa vào dự báo và quy hoạch phát triển KCN để xây dựng kế hoạch đào tạo trong đó có yêu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề. - Nhà nước có cơ chế khuyến khích các cơ sở đào tạo lao động thông qua bổ sung kinh phí, miễn giảm thuế cho các cơ sở đào tạo như tổng cục dạy nhgề, các cơ quan trung ương khác… - Xúc tiến việc thành lập cơ sở đào tạo công nghệ và quản trị kinh doanh. * Phát triển công nghệ thông tin : Là các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp, việc quản lý nhân sự, tiền lương, vật tư sản xuất chiếm một ví trí rất quan trọng trong việc quản trị doanh nghiệp. Hệ thống thông tin tại doanh nghiệp sẽ hỗ trợ rất tích cực cho công tác quản lý, giúp đạt hiệu quả tối đa. Doanh nghiệp có thể quảng cáo sản phẩm của mình trên mạng ở mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy ngay bây giờ các KCN phải xây dựng mạng lưới thông tin hiện đại, không chỉ đáp ứng nhu cầu hoạt động đơn thuần của Ban quản lý các KCN & KCX mà còn là một tiện ích nhằm đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh cũng như thu hút các nhà đầu tư cho KCN. Ngoài ra, phía Ban quản lý phải xây dựng danh mục các ngành hàng lợi thế để thu hút mời gọi đầu tư. Giúp cho việc đẩy nhanh tốc độ lấp đầy các KCN, chuẩn bị hình thành và xây dựng các KCN mới. 2.3.2.2 Đối với các Khu côngnghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp: *Đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong KCN: Trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng. Nếu không có năng lực cạnh tranh sẽ dấn đến kết quả các doanh nghiệp sẽ hoạt động không có hiệu quả thậm chí dẫn đến phá sản. Thực trạng trong những năm gần đây, việc sản xuất của các doanh nghiệp trong các KCN phía Bắc chưa đạt hiệu quả cao. Vì vậy, những doanh nghiệp cần có chiến lược cụ thể hơn nữa để sản phẩm của mình có khả năng canh tranh cao hơn , đóng góp hơn nữa và tăng trưởng kinh tế chung Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, cần quy hoạch xây dựng các KCN theo hướng tập trung nhóm ngành vào cùng một khu vực. Bản thân các doanh nghiệp cần có chiến lược cụ thể như đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng xây dựng sản phẩm có chất lượng cao,.... * Nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam: - Đẩy mạnh hoạt động chuyển giao và tích hợp công nghệ thông qua các dự án FDI và thông qua trao đổi, thuê chuyên gia, nhằm tạo dựng và khai thác kênh chuyển giao hiệu quả. Các hoạt động nghiên cứu cần hướng đến khai thác và nội địa hóa công nghệ, giải quyết vấn đề nhân rộng công nghệ ngoại nhập. - Hướng đến lựa chọn ứng dụng các công nghệ hoàn chỉnh, các công nghệ tốt nhất, nhằm phổ biến và tiếp cận nhanh công nghệ tiên tiến, hiện đại. - Để phát huy tác động tích cực của KCN và các doanh nghiệp FDI về mặt đổi mới công nghệ, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho mình một “năng lực hấp thu” đủ mạnh. Năng lực này thể hiện tập trung ở trình độ phát triển nguồn nhân lực; mức độ trang bị cơ sở vật chất hiện đại được đảm bảo bởi tiềm lực tài chính vững mạnh và năng lực quản lý công nghệ của doanh nghiệp. * Hoàn thiện các chính sách phòng chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường các KCN: - Xây dựng năng lực tự kiểm soát và chủ động bảo vệ môi trường của doanh nghiệp thông qua việc lựa chọn cải tiến, đổi mới về sản phẩm, công nghệ theo hướng cùng lúc đạt cả lợi ích về môi trường và hiệu quả kinh doanh. - Kiểm soát ô nhiễm sản xuất: áp dụng kiểm soát theo chuỗi hệ thống và tăng cường sự tham gia của cộng đồng thay thế cho tiếp cận kiểm soát đầu - cuối. Chú trọng đến chế độ báo cáo và quan trắc môi trường doanh nghiệp. - Kiểm soát môi trường tại doanh nghiệp: xuyên suốt từ nguyên liệu đầu vào, nguồn cung cấp đến quá trình sản xuất và sản phẩm đầu ra. Các quy định và nội dung kiểm soát được chi tiết hóa theo đặc điểm từng ngành là cơ sở để đánh giá Báo cáo môi trường của doanh nghiệp. - Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào việc giám sát các hoạt động công nghiệp, các quá trình ra quyết định liên quan tới các dự án gây ô nhiễm. Khuyến khích doanh nghiệp cam kết với cộng đồng, tăng cường tiếp xúc và trao đổi thông tin với cộng đồng về những hoạt động sản xuất của mình. - Khuyến khích phát triển các công nghệ sản xuất sạch, theo triết lý bảo vệ môi trường từ ngay trong quá trình sản xuất, nhấn mạnh đến tiết kiệm và giảm chi phí, trên cơ sở đó giảm chất thải. Điểm mấu chốt trong cách tiếp cận sản xuất sạch ở Việt Nam là chọn bước đi phù hợp, hướng đến áp dụng trên diện rộng. Kết luận Sau công cuộc đổi mới cho đến nay, kinh tế xã hội của các tỉnh phía Bắc đã có nhiều chuyển biến tích cực, an ninh chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, hợp tác dầu tư với nước ngoài được đẩy mạnh tạo nguồn lực bổ sung nhanh, tăng tốc độ tăng trưởng của vùng. Trong những thành tựu đó có sự đóng góp không nhỏ của các KCN nhất là tiếp cận công nghệ mới, mở rộng thị trường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy nội lực và mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Quá trình phát triển các KCN để lại nhiều bài học quý báu và cũng còn nhiều vấn đề phải nghiên cứu thử nghiệm. Tốc độ phát triển KCN phía Bắc còn chậm chưa tương xứng với tiềm năng. Công tác quy hoạch chưa thực sự đi trước một bước gây khó khăn trong đền bù giải phóng mặt bằng, tiến độ triển khai các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng vẫn còn chậm, xây dựng cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng trong và ngoài KCN. Công tác xúc tiến vận động đầu tư còn gặp nhiều khó khăn, thiếu vốn đầ tư xây dựng hạ tầng, trong khi vẫn còn những nguồn lực tiềm ẩn chưa được khai thác. Cơ chế khuyến khích đầu tư chưa thực sự hấp dẫn nên một số KCN còn trống, các đối tác mạnh có uy tín đầu tư vào chưa nhiều. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng việc phát triển KCN là con đường thích hợp, một hướng đi đúng đắn để tiến thành CNH - HĐH nền kinh tế phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung, sự đóng góp của KCN sau một thời gian hoạt động tuy không dài nhưng đã khẳng định được vai trò tất yếu của nó trong sự phát triển kinh tế nước ta. Việc vạch ra những vấn đề còn tồn tại bất cập và đề ra được những giải pháp phát triển phù hợp là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay để KCN tiếp tục phát triển ổn định, vững chắc trong những điều kiện hiện nay. Để đạt được những thành công mới, chúng ta phải vượt qua khó khăn, đòi hỏi phải nỗ lực, phối hợp với các cấp, các ngành để tháo gỡ các cản trở, vướng mắc trên con đường phát triển các KCN. Phụ Lục (Chi tiết các khu công nghiệp tại các tỉnh, thành phố Phía Bắc năm 2009) STT Tỉnh, Thành phố Số KCN Tên KCN Diện tích (ha) 01 Bắc Giang 05 Đình Trám 98 Quang Trai 426 Song Khê - Nội Hoàng 180 Văn Trương 433 Việt Hàn 102 02 Bắc Kạn 01 Thanh Bình 74 03 Bắc Ninh 09 Đại Đồng – Hoàn Sơn 272 Quế Võ 755 Thuận Thành I 140 Tiên Sơn 410 Yên Phong I 351 Nam Sơn – Hạp Lĩng 403 Quế Võ II 273 Thuận Thành II 250 VSJP Bắc Ninh 441 04 Hà Giang 01 Bình Vang 143 05 Hà Nam 03 Đồng Văn I 138 Châu Sơn 170 Đồng Văn II 264 06 Hà Nội 11 Hà Nôi – Đài Tư 40 Nội Bài 114 Sài Đồng B 40 Thăng Long 276 Năm Thăng Long 31 Phú Nghĩa 170 Thạch Thất – Quốc Oai 155 Quang Minh 407 Bắc Thường Tín 403 Phong Hiệp 175 Quang Minh II 266 07 Hải Dương 09 Đại An 604 Nam Sách 64 Phúc Điền 87 Tàu Thủy Lai Vũ 213 Cấm Điền – Long Điền 185 Công Hòa – Chí Linh 357 Lai Cách 132 Tân Trường 199 Việt Hoa – Kenmark 46 08 Hải Phòng 6 Đình Vũ 541 Đồ Sơn 155 Nomura - Hải Phòng 153 An Dương 209 Nam Cầu Kiên 263 Trung Duệ 150 09 Hòa Bình 01 Lương Sơn 71 10 Hưng Yên 06 Phố Nối A 390 Phố Nối B 135 Thăng Long II 220 Cơ khí năng lượng Agrimeco Tân Tạo 197 Minh Đức 198 Minh Quang 325 11 Nam Định 02 Hòa Xã 328 Mỹ Trung 144 12 Ninh Bình 02 Khánh Phúc 334 Gian Khâu 162 13 Phú Thọ 02 Thụy Vân 306 Trung Hà 126 14 Quảng Ninh 03 Cái Lân 278 Hải Yên 193 Việt Hưng 30 15 Cao Bằng 01 Đề Thám 62 16 Thái Bình 02 Nguyễn Đức Cảnh 68 Phúc Khanh 120 17 Thái Nguyên 01 Sông Cống I 69 18 Thanh Hóa 01 Lệ Môn 88 19 Tuyên Quang 01 Long Bình An 109 20 Vĩnh Phúc 06 Bình Xuyên 271 Khai Quang 262 Bá Thiên 327 Kim Hoa 80 Bình Xuyên II 485 21 Yên Bái 01 Phía Nam Yên Bái 138 Tổng 74 16274 Nguồn: Tạp chí “ Xúc tiến đầu tư vào các KCN, KCX, KKT Việt Nam” Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, giáo trình “Kinh tế đầu tư” – 2007. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển các KCN – KCX ở Việt Nam” 4. Tạp chí điện tử Khu công nghiệp Việt Nam (www.khucongnghiep.com.vn); 5. Vụ Quản lý các KKT, Số liệu các KCN qua các năm. 6. Đại học Đà Nẵng , Tạp chí khoa học và công nghệ - Số 4(27).2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư phát triển tại các Khu công nghiệp phía Bắc Thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan