Đề tài Diễn biến lạm phát Việt Nam và giải pháp kiềm chế linh hoạt

Mặc dù Việt Nam đã có những bước cải thiện vềcác chỉsốthống kê trong thời gian vừa qua, tuy nhiên những tiến bộnày chưa phải đạt được trên mọi lĩnh vực. Với tỷlệ lạm phát cao thì Việt Nam cần phải mất một thời gian dài để đưa tỷlệlạm phát này về khu vực an toàn ởmức 1 con số. Nhìn vào các bài học lịch sửphát triển kinh tếtừtrước tới nay, chưa có quốc gia nào vừa muốn kiểm soát được lạm phát, kiểm soát được thâm hụt thương mại mà lại vừa thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế. Đây rõ ràng là một sự đánh đổi. Chính phủnên đặt ra mục tiêu tăng trưởng thấp trong năm 2009 đểgiảm lạm phát và nhập siêu, tạo đà tăng trưởng cao hơn vào các năm tiếp theo. Bên cạnh việc giảm dựbáo tăng trưởng cho Việt Nam năm 2008 và 2009, Báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) còn dự đoán lạm phát trong năm 2008 và 2009 theo thứtựsẽlà 25,0% và 17,5%, so với mức dựbáo 18,3% và 10,2% được đưa ra trong Báo cáo ADO 2008 công bốhồi tháng 4 năm nay. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2008 được dựbáo ởmức 13,5% GDP, tăng so với dựbáo 10,3% GDP theo báo cáo ADO 2008. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2009 được dựbáo ởmức 7% GDP, thấp hơn so với mức dựbáo 9,4% GDP trước đây.

pdf16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Diễn biến lạm phát Việt Nam và giải pháp kiềm chế linh hoạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DIỄN BIẾN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LINH HOẠT PGS.TS. Phan Thị Cúc Khoa Tài chính – Ngân hàng - Trường ĐH Công Nghiệp TP. HCM TÓM TẮT Việt Nam, sau 12 năm kiểm soát đươc lạm phát (1995-2007), từ tháng 12 năm 2007, lạm phát quay trở lại với chỉ số CPI 2 con số. Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng vọt các tháng đầu năm 2008, Chính phủ đã thực hiện chiến lược kiềm chế lạm phát “cả gói” với 8 giải pháp. Nhờ những biện pháp kịp thời và linh hoạt của Chính phủ, tình hình lạm phát các tháng cuối năm 2008 đã được kiềm chế, tuy vậy giá cả vẫn ở mức cao và vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Lạm phát là một hiện tượng mà cả thế giới đều quan tâm, nghiên cứu về lạm phát để từ đó rút ra những bài học về lý luận và thực tiễn là nhiệm vụ của các học giả, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các diễn đàn nghiên cứu khoa học của chuyên ngành Kinh tế trong các trường Đại học. Đề tài đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về lạm phát, và phân tích các diễn biến thực tế của lạm phát ở Việt Nam qua chỉ số CPI, lãi suất ngân hàng, tỉ giá hối đoái, tốc độ giảm GDP….trong nước, chỉ số giá vàng, USD trên thế giới… trong giai đoạn từ tháng 12/2007 đến 11/2008, và dự báo rủi ro, thách thức, đề xuất hệ giải pháp trong thời gian tới với kỳ vọng tham gia hoạch định chính sách vĩ mô, bổ sung kiến thức về lý luận và thực tiễn, nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, học tập cho sinh viên và các bạn đồng nghiệp. ABSTRACT After 12 years of curbing inflation (1995-2007), Vietnam has seen inflation come back with the two-digit CPI (Customer Price Index) since December 2007. The prices of basic commodities sharply surged in the early 2008 when Vietnam’s government implemented a inflation-curbing strategy with “a packet” of 8 solutions. Through the government’s promptly and flexible solutions, the inflation in the late 2008 has been under control; however, the prices have still been high and fluctuated. In fact, inflation is known as a big concern of the world where inflation researches have been done to take lessons, both theoretical and practical, by scholars, researchers, and especially science research forums of economics at universities. My research aims to systemize fundamental theories of inflation, and analyze the inflation situation in Vietnam through the CPI, banks’ interest rates, foreign exchange rates, the GDP contraction rate in the country as well as the prices of gold and US dollars in the world in the period from December 2007 to November 2008. In addition, the research makes predictions about the risks and challenges in the field of business. Then it will suggest a variety of solutions to deal with them. Hopefully, this research could be considered as a contribution to the government’s macro economic plans and a supplement to theoretical and practical knowledge of economics in order to enhance the quality of teaching, researches, and studies of my students and colleagues. I. MỞ ĐẦU Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển. Nước ta sau 12 năm kiềm chế được lạm phát (1995-2007) ở một con số, trong thời gian này chúng ta đã kiểm soát được lạm phát. Nhưng từ tháng 12 năm 2007, do tác động của tình hình phát triển kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới, chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức 2 con số, trong 8 tháng đầu năm 2008, tình hình diễn biến hết sức căng thẳng, Chính phủ đã kịp thời đưa ra 8 giải pháp cả gói để kiềm chế lạm phát. Vì vậy, có thể nói tình hình đã có phần dịu đi nhưng nền kinh tế vẫn chưa ổn định, giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát. Diễn biến của tình hình lạm phát ở Việt Nam vẫn hết sức phức tạp, thậm chí xuất hiện những dấu hiệu giảm phát ở cuối năm 2008 còn rất nhiều rủi ro, thách thức cần được đưa lên diễn đàn nghiên cứu khoa học để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu về cả mặt lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp can thiệp một cách linh hoạt có hiệu quả, tham gia các ý kiến thực hiện các chính sách vĩ mô của nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đó cũng chính là lý do tác giả đã lựa chọn đề tài này để trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm mục đích hệ thống hóa các kiến thức cơ bản về lạm phát và các phạm trù liên quan đến lạm phát, đặc biệt là lý luận về các giải pháp giảm thiểu lạm phát để ổn định và phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là đề tài đã đi vào thực tiễn về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 12/2007 đến cuối năm 2008, từ đó tìm ra tính quy luật phổ biến của diễn biến rất phức tạp của lạm phát trong một quốc gia đang phát triển như là nước ta và các bài học kinh nghiệm,các giải pháp can thiệp về kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế đã có yếu tố hội nhập ở Việt Nam. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế hiện đại của nước ngoài và Việt Nam, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước về kiềm chế lạm phát ở Việt Nam để phân tích, lý giải các chỉ số và đề xuất các giải pháp can thiệp thông qua các phương pháp: Nghiên cứu tài liệu, trao đổi, phỏng vấn tại Hội thảo của Hội đồng Khoa học cơ sở Tài chính-Kế toán (cũ) với lãnh đạo Viện Nghiên cứu thị trường, giá cả- Bộ Tài Chính tại TP.Nha Trang, Khánh Hòa vào tháng 8 năm 2008, tác giả phân tích tổng hợp tư liệu để hoàn thành đề tài. IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Cấu trúc của đề tài gồm 5 vấn đề lớn: 1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 1995-2007 2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2007-2008 3. Biện pháp cả gói về chống lạm phát của Việt Nam từ quý II năm 2008 4. Dự báo về lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới 5. Giải pháp can thiệp nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian tới NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI: 1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giao đoạn 1995-2007 Nước ta kiểm soát được lạm phát (giai đoạn 1995-2007), lạm phát chỉ dừng lại ở 1 con số, tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng CPI được thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1.1: (Nguồn : Viện NCKH thị trường và giá cả -BTC) Nhưng đến tháng 12/2007 thì lạm phát đã tăng lên 2 con số. Điều đó cũng được thể hiện ở biểu đồ trên. 2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giao đoạn 2007-2008 Biểu đồ 2.1 Tè c ®é t ¨ ng GDP v µ CPI g ia i ®o¹ n 1995-2007 9.34 8.15 5.76 4.77 7.79 8.43 8.17 8.56.79 6.89 7.08 7.34 9.54 12.7 4.5 3.6 9.2 0.1 -0.6 0.8 4.0 3.0 8.4 9.5 12.63 6.6 -2 0 2 4 6 8 10 12 14 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 % /n¨ m Tèc ®é t¨ ng GDP (%n¨ m) CPI (%/n¨ m) Nguồn: Tổng Cục Thống Kê Biểu đồ 2.2: Chỉ số giá tiêu dùng trong 10 tháng đầu năm 2008 Nguồn:www.tuoitre.com.vn Bảng 2.1: Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cả nước tháng 10 năm 2008 Chỉ số giá tháng 10 năm 2008 so với (%) Kỳ gốc năm 2005 Tháng 10 năm 2007 Tháng 12 năm 2007 Tháng 9 năm 2008 Chỉ số giá 10 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 148,20 126,72 121,64 99,81 123,15 1. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 172,14 140,56 132,12 99,58 136,95 Trong đó: 1- Lương thực 201,99 160,06 151,41 98,09 149,58 2- Thực phẩm 161,16 132,82 124,44 100,01 133,05 3. Ăn uống ngoài gia đình 169,86 139,54 131,37 100,47 131,92 2. Đồ uống và thuốc lá 128,32 113,27 111,34 100,67 110,21 3. May mặc, mũ nón, giầy dép 126,05 112,55 110,82 100,70 109,81 4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (*) 148,40 122,84 116,76 98,92 122,39 5. Thiết bị và đồ dùng gia đình 125,94 111,99 111,26 100,73 108,36 6. Dược phẩm, y tế 123,00 109,76 108,75 100,58 108,72 7. Phương tiện đi lại, bưu điện 138,44 124,82 119,56 99,06 116,66 Trong đó: Bưu chính viễn thông 83,46 89,21 90,39 99,82 88,44 8. Giáo dục 115,02 106,71 106,56 100,69 103,63 9. Văn hoá, thể thao, giải trí 115,74 109,50 109,30 100,38 105,03 10. Đồ dùng và dịch vụ khác 132,35 114,65 111,69 100,85 113,11 CHỈ SỐ GIÁ VÀNG 206,76 125,15 112,53 103,21 137,43 CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ 104,45 102,46 102,95 99,95 101,71 (*) Nhóm này bao gồm: nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng. Như vậy, sau 12 năm, tình hình lạm phát lại bùng phát ở Việt Nam và có nguy cơ bùng phát mạnh mẽ vào năm 2008, tình hình cụ thể thể hiện rõ ở biểu đồ 2.1, biểu đồ 2.2 và bảng 2.1. • Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong năm 2007: Năm 2007, giá lương thực, thực phẩm (LT-TP) trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18.9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5%, thực phẩm tăng 21,16%. • Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong các quý đầu năm 2008. Trong 4 tháng đầu năm, giá LT-TP đã tăng 18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của lạm phát CPI và cao tương đương bằng mức tăng giá LT-TP của cả năm 2007, trong đó lương thực tăng 25%, còn thực phẩm tăng 15,6%.  Nguyên nhân của tăng lạm phát: Ngày 22/5/2008, tăng giá xăng dầu từ 13.000đ lên 14.500đ (tương đương 11.5%). - Cuối tháng 3 đầu tháng 4, tình trạng thiếu lương thực trầm trọng trên thế giới làm cho giá gạo trong nước tăng nhanh có thời điểm từ 50% đến 100%. - Kể từ tháng 5 giá gạo đã có xu hướng giảm nhưng mức tăng vẫn 15%-20% so với trước khi sốt gạo. Dự báo từ nay đến cuối năm giá gạo sẽ bình ổn và không có sự tăng đột biến. Trong hai quý đầu năm, giá các loại nguyên vật liệu tăng mạnh trên TG khiến nước ta ảnh hưởng bởi NK lạm phát. Nếu giá dầu ổn định dưới 150 USD/ thùng, giá các nguyên, vật liệu sẽ có xu hướng giảm và ổn định trong giai đoạn còn lại của năm.  Hậu quả của tăng lạm phát: - Giảm chỉ tiêu tăng trưởng từ 8.5% xuống 7% làm giảm tốc độ phát triển tiền mặt trong XH không đưa được vào đầu tư gây ứ đọng vốn nguy cơ gây ra lạm phát ở các chu kỳ sau. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay tốc độ tăng trưởng có thể sẽ được giảm xuống 6%- 6.5%. - Sức tiêu thụ hàng hóa trong nước đang có dấu hiệu yếu dần, sản xuất công nghiệp bước vào tháng đầu quý 4 năm nay lại tăng chậm hơn các tháng trước, đây là một xu hướng ngược lại quy luật mọi năm. Giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng ước tính đạt 330.121 tỷ đồng tăng 12,1% so với cùng kỳ 2007, thấp hơn mức tăng trung bình của 9 tháng đầu năm là 12,4%. - Chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm mạnh sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nợ đọng, tính thanh khoản và độ an toàn của hệ thống ngân hàng. - Do nới lỏng tỷ giá hối đoái có thể dẫn đến đồng tiền Việt Nam (VNĐ) bị đánh giá quá cao. 3. Biện pháp cả gói về chống lạm phát của Việt Nam từ quý II năm 2008 Như chúng ta đã biết Chính phủ đã ban hành các biện pháp cả gói về chống lạm phát của Việt Nam từ quý II năm 2008 là: Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ. - Ngân hàng phát hành trái phiếu kho bạc trong 2008: 20.300 tỉ VNĐ - Thay đổi lãi suất huy động tiền gửi để thu hút tiền trong lưu thông Biểu đồ 3.1: Chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam từ tháng tư năm 2003 đến tháng 6 năm 2008 Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu và giảm nhập siêu. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền. 7.50 3.00 5.00 7.80 3.50 5.50 8.25 4.50 6.50 8.75 6.00 7.50 12.00 11.00 13.00 14.00 13.00 15.00 0.00 2.00 4.00 6.00 8.00 10.00 12.00 14.00 16.00 Chính sách lãi suất của NHNNVN LS cơ bản 7.50 7.80 8.25 8.75 12.00 14.00 LS tái chiết khấu 3.00 3.00 3.50 4.50 6.00 11.00 13.00 LS tái cấp vốn 5.00 5.00 5.50 6.50 7.50 13.00 15.00 April 1, 2003 February 1, 2005 Dec1.2005 Feb1.2008 May19.200 8 June11.200 8 (Theo nghị quyết 10/2008/NQCT-17/04/08 Nghị quyết về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững). 4. Dự báo về lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới - Trong giai đoạn còn lại trong năm, giá lương thực và dầu thế giới hiện biến động mạnh làm cho giá trong nước sẽ biến động, chính vì vậy lạm phát sẽ diễn biến hết sức phức tạp(có dấu hiệu giảm phát). - Nhiều yếu tố cho thấy lạm phát trong những tháng cuối năm sẽ giảm khi các biện pháp tài chính tiền tệ được áp dụng có tác dụng đáng kể : +NHNN chỉ đạo hoạt động tín dụng của các NHTM phải phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát. +Tập trung vốn cho các dự án có hiệu quả cao và khả năng trả nợ đúng hạn. -Từ nay đến cuối năm, nếu mỗi tháng, CPI giữ ổn định mức tăng 1,1% thì cuối năm con số này vào khoảng 25%. Tuy nhiên, nếu giá xăng dầu TG tiếp tục tăng cao thì mục tiêu 25% này sẽ bị phá vỡ. -Nếu CPI chỉ tăng trung bình 1% so với tháng trước thì lạm phát tháng 12/2008 so với cùng thời điểm năm 2007 chỉ tăng 25%. -Nếu CPI mỗi tháng tăng 1,2% so với tháng trước thì tháng 12/2008 so với 2007 sẽ tăng khoảng 27,25%. -Nếu CPI mỗi tháng tăng 1,5% thì lạm phát có thể lên tới 30%. Bảng 4.1: Thống kê và dự báo chỉ số lạm phát năm 2008 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 CPI 2.44 6.2 9.19 11.6 15.4 17.6 19.2 21.1 22.6 23 22.5 23.2 (Chỉ số phần trăm so với cuối năm 2007) Bảng 4.2 : Tốc độ tăng của chỉ số CPI trong các tháng so với tháng trước năm 2008 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 CPI 2.44 3.76 2.99 2.41 3.8 2.2 1.6 1.9 1.5 0.4 -0.5 0.7 Nguồn: Vneconomy.com.vn Câu hỏi đặt ra là: Việt Nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng. Việc ưu tiên cái nào và hi sinh giữa cái gì với cái gì cần phải rất linh hoạt. Một khi lạm phát quá cao thì rõ ràng cần phải áp dụng các biện pháp kiềm chế lạm phát và tất nhiên khi đó, tăng trưởng sẽ bị chậm lại. Ở các nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng cao bao giờ cũng kèm theo chỉ số lạm phát tăng cao. Dự báo, tăng trưởng GDP sẽ sụt giảm đáng kể trong năm nay và năm 2009. Cụ thể, mức dự báo lần lượt là 7,3% và 7,8% (mức tăng trưởng năm ngoái là 8,5%). Con số này cũng khá phù hợp với sự điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng năm 2008 của Quốc hội mới đây, với mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm sẽ là 7%. Từ 2001 đến 2004, những năm đầu khi mức độ tăng trưởng của chúng ta ở mức thấp dưới 7%, chỉ số lạm phát chỉ là 3-4%. Nhưng đến 2004 có mức tăng trưởng 8%, chỉ số giá tăng lên đến mức 9,5%. Đến 2005, khi tốc độ tăng trưởng của chúng ta đạt mức 8,43% chỉ số giá của chúng ta là 8,40%. Do vậy, lạm phát thể hiện khi chúng ta bắt đầu tăng trưởng cao, kèm theo tăng giá. Mặc dù Việt Nam đã có những bước cải thiện về các chỉ số thống kê trong thời gian vừa qua, tuy nhiên những tiến bộ này chưa phải đạt được trên mọi lĩnh vực. Với tỷ lệ lạm phát cao thì Việt Nam cần phải mất một thời gian dài để đưa tỷ lệ lạm phát này về khu vực an toàn ở mức 1 con số. Nhìn vào các bài học lịch sử phát triển kinh tế từ trước tới nay, chưa có quốc gia nào vừa muốn kiểm soát được lạm phát, kiểm soát được thâm hụt thương mại mà lại vừa thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế. Đây rõ ràng là một sự đánh đổi. Chính phủ nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng thấp trong năm 2009 để giảm lạm phát và nhập siêu, tạo đà tăng trưởng cao hơn vào các năm tiếp theo. Bên cạnh việc giảm dự báo tăng trưởng cho Việt Nam năm 2008 và 2009, Báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) còn dự đoán lạm phát trong năm 2008 và 2009 theo thứ tự sẽ là 25,0% và 17,5%, so với mức dự báo 18,3% và 10,2% được đưa ra trong Báo cáo ADO 2008 công bố hồi tháng 4 năm nay. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2008 được dự báo ở mức 13,5% GDP, tăng so với dự báo 10,3% GDP theo báo cáo ADO 2008. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2009 được dự báo ở mức 7% GDP, thấp hơn so với mức dự báo 9,4% GDP trước đây. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tuy tốc độ tăng giá đã chững lại nhưng hầu hết những mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống đều đứng ở mức cao, nền kinh tế VN đã có dấu hiệu tích cực song chưa thể ổn định, vì vậy cần tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ, kiểm soát hoạt động thương mại, sản xuất kinh doanh nói chung và các tập đoàn, tổng công ty lớn nói chung. Có thể tham khảo một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Công ty Business Monitor International Ltd tổng hợp và dự báo như sau: Bảng 4.3: Tổng hợp và dự đoán các chỉ tiêu kinh tế - xã hội từ năm 2005-2012 Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 GDP danh nghĩa (tỷ USD) 53,05 60,99 71,38 77,69 95,75 118,98 144,39 172,58 Tỷ lệ tăng GDP thực (%) 8,4 8,2 8,5 5,5 7,0 8,5 8,5 8,2 Dân số (triệu người) 85,02 85,90 87,00 88,20 89,50 90,84 92,00 93,10 GDP theo đầu người (USD) 638 710 821 881 1.070 1.310 1.569 1.854 Tỷ lệ thất nghiệp (% lực lượng lao động) 5,3 4,8 4,5 5,0 4,8 4,4 4,3 4,3 Nguồn: Business Monitor International Ltd. Biểu đồ 4.1: Tỷ lệ tăng GDP thực từ năm 2003 -2012 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Nguồn: Business Monitor International Ltd. Bảng 4.4 : Dự đoán các chỉ tiêu kinh tế - xã hội từ năm 2010-2017 Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 GDP danh nghĩa (tỷ USD) 118,98 144,39 172,58 200,19 232,22 269,38 312,48 362,47 Tỷ lệ tăng GDP thực (%) 8,5 8,5 8,2 8,0 8,0 8,0 8,0 8,0 Dân số (triệu người) 90,84 92,00 93,10 94,20 95,30 96,47 97,6 98,7 GDP theo đầu người (USD) 1.310 1.569 1.854 2.125 2.437 2.792 3.202 3.672 Tỷ lệ tăng giá tiêu dùng (%) 7,8 5,2 5,3 4,6 4,8 4,5 4,0 3,7 Tài khoản vãng lai ( %GDP) -7,56 -4,85 -2,90 1,5 2,15 3,34 4,48 4,69 Tỷ giá hối đoái (VND/USD) 15.500 14.700 14.200 14.000 13.500 13.000 12.000 11.000 Biểu đồ 4.2 : Tỷ lệ tăng GDP thực từ năm 2010 -2017 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Business Monitor International Ltd. Cơn bão khủng hoảng kinh tế Mỹ đang tiếp tục lan nhanh ra toàn cầu. Việt Nam tuy không chịu những tác động trực tiếp, nhưng gián tiếp liệu có bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này? Lãi suất vay quốc tế tăng cao sẽ ảnh hưởng tới các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn của các NHTM và DN Việt Nam. Các khoản cho vay và đầu tư của các NH, tổ chức tài chính quốc tế tại các NH, DN trong nước sẽ gặp khó khăn, đặc biệt là về xuất nhập khẩu. 5. Giái pháp can thiệp nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian tới • Một là, cần thực thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. + Hạ lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước và xuất nhập khẩu, cung cấp hàng hóa cho nền kinh tế + Hạn chế giải chấp CK , đề nghị các NH, Cty CK tạm ngừng giải chấp, tiếp tục gia hạn hoặc NHNN hỗ trợ tài chính thông qua hoạt động tái chiết khấu để tạo thanh khoản cho các NH + Xử lý cầu đầu tư nước ngoài: Giữ tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK VN như hiện nay (49%-đối với CP các ngành khác, riêng CP ngành NH là 30% ) nhưng tháo gỡ thủ tục hành chính. +Mở rộng đối tượng kiều bào nước ngoài mua nhà ở Việt Nam: Hiện nay, Quốc Hội đang dự thảo nghị định cho người VIỆT NAM định cư ở nước ngoài mua nhà ở VN. Đây là một giải pháp tốt đáp ứng được nguyện vọng của bà con xa xứ nhưng cũng là một biện pháp cứu được sự đóng băng của thị trường bất động sản. +Tiếp tục siết chặt chi tiêu công đối với các dự án không hiệu quả: đề nghị Quốc Hội và Chính phủ tiếp tục cắt giảm để tập trung vào đầu tư xuất khẩu góp phần thăng bằng cán cân thương mại. +Phòng chống giảm phát. • Hai là, đề xuất với Chính phủ thành lập quỹ kích cầu để kích thích tiêu dùng để kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời gian tới. Trước thực trạng nền kinh có dấu hiệu giảm phát, cần phải giảm tốc độ tăng lãi suất huy động của ngân hàng, duy trì tốc độc tăng trưởng 7% là hợp lý. Bên cạnh đó, Chính phủ cần phải bố trí ngân sách quỹ kích cầu để kích thích tiêu dùng để kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong thời gian tới. Trước mắt cần đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tăng năng suất lao động làm cho giá trị của nền kinh tê “thật” không bị thoát li giá trị của nó do nền kinh tế “ảo” (các hàng hóa của nền kinh tế ảo là các chứng từ có giá: chứng khoán, quyền chọn mua, quyền chọn bán…) • Ba là, tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công và tư Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất xã hội. Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động. Đồng thời tiết kiệm chi tiêu công của nhà nước, từng gia đình, cá nhân. • Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của chi tiêu công.. Cần soát xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Công khai minh bạch, thông qua sự giám sát chi tiêu công của các tổ chức phi Chính phủ, các đoàn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng. • Năm là, phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản. • Sáu là, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia. • Bảy là, đẩy mạnh phong trào sản xuất cung cấp sản phẩm dịch vụ cho xã hội, hạn chế những tệ nạn xã hội, giải quyết các vấn đề thuộc an sinh xã hội cho người nghèo, đối tượng chính sách trong xã hội. Lạm phát năm 2007 vượt mức hơn 12%/năm, chỉ số giá tiêu dùng chỉ trong 2 tháng đầu năm đã phi mã tới hơn 6% so với cuối năm ngoái. Cho đến tháng 11 năm 2008, lạm phát lại diễn biến phức tạp sang chiều hướng có những đấu hiệu giảm phát, vì vậy kiểm soát lạm phát là một nhiệm vụ mục tiêu hàng đầu của Chính phủ và toàn dân tộc Việt Nam. V. KẾT QUẢ THẢO LUẬN 1. Ý nghĩa của chỉ số đo lường lạm phát ở Việt Nam (CPI-Consumer Price Index) Vấn đề đề ra chỉ số đo lường lạm phát ở Việt Nam rất khác biệt so với các nước trong khu vực: tỉ trọng nhóm hàng lương thực, thực phẩm trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng chung ở Việt Nam chiếm trên 48%, chứng tỏ nền kinh tế nước ta vẫn còn phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp, giá trị hàng hóa thấp, đặc biệt trong xuất khẩu, vì vậy lạm phát vừa ảnh hương đến kinh tế và an sinh xã hội. Vì vậy trong giải pháp can thiệp cần có những giải pháp về kinh tế ( tài chính, ngân hàng, xuất khẩu,…) vừa phải có những giải pháp về an sinh xã hội (hỗ trợ người nghèo, nâng lương cho cán bộ về hưu, tăng chế độ trợ cấp cho đối tượng chính sách, …) 2. Những thành công trong thực hiện chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát của Chính phủ: • Một là, tiết kiệm chi thường xuyên gần 3 nghìn tỷ đồng Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ về tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong năm 2008 (trừ các khoản liên quan đến người lao động). Đến nay, theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương sẽ tiết kiệm được khoảng 2.700 tỷ đồng, bằng 25% tổng dự phòng ngân sách Nhà nước 2008, trong đó các Bộ, ngành tiết kiệm được khoảng 700 tỷ đồng, các địa phương tiết kiệm khoảng 2 nghìn tỷ đồng. Số tiền tiết kiệm này được bổ sung vào nguồn thực hiện chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác. • Hai là, đình hoãn, giãn tiến độ gần 2 nghìn dự án, công trình Tổng số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai thực hiện và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.736 dự án, với tổng số vốn là 5.625 tỷ đồng. Trong đó, tổng số dự án điều chỉnh giảm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 290 dự án với tổng số vốn là 4.775 tỷ đồng. • Ba là, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu Về điều hành xuất khẩu, các Bộ, ngành chức năng đã thực hiện các chính sách để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó tiếp tục xuất khẩu gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá gạo thế giới. Căn cứ vào khả năng cân đối thực tế và bảo đảm an ninh lương thực trong nước, năm nay nước ta có thể xuất khẩu gạo từ 4 đến 4,5 triệu tấn. Do tác động trực tiếp của một số chính sách hạn chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu ô tô, linh kiện ô tô...; kiểm soát chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu nên nhập khẩu đang có xu hướng giảm dần, đặc biệt là nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu (quý I/2008 nhập siêu bằng 62,7% kim ngạch xuất khẩu, quý II bằng 39,2%, riêng tháng 6 bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu). • Bốn là, đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu Các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì tốt, giá các mặt hàng trọng yếu trên thị trường về cơ bản được bình ổn, đặc biệt là kịp thời hạ nhiệt giá gạo và xi măng; cơ bản bảo đảm cung - cầu các mặt hàng trên thị trường; góp phần đưa GDP đạt mức tăng trưởng khá trong 6 tháng đầu năm (6,5%) trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn. • Năm là, cấp hơn 7.300 tỷ đồng thực hiện chính sách an sinh xã hội Trong thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, tích cực, kịp thời giải quyết tình trạng thiếu đói, hỗ trợ sản xuất, sinh hoạt và đời sống cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, khó khăn; giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập; tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo; bảo đảm cung - cầu những mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân. Đến nay, ngân sách Trung ương đã cấp hơn 7.300 tỷ đồng để thực hiện các chính sách an sinh xã hội. 3. Những tồn tại trong thực hiện chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát của Chính phủ: • Một là : Do nới lỏng tỷ giá hối đoái có thể dẫn đến đồng tiền Viêt Nam (VNĐ) bị đánh giá quá cao. Hàng xuất khẩu tăng giá sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu vì 90% hàng xuất khẩu của nước ta được thanh toán bằng Đôla Mỹ. Nhập siêu tăng – theo Bộ Tài Chính 7 tháng đầu năm 2008 cán cân thương mại thâm hụt, mức nhập siêu tăng cao tới hơn 15 tỷ USD bằng gần 70% kim ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Nhà Nước 7 tháng qua tỏ ra lúng túng trong điều hành quản lý ngoại tệ vì trong khi chỉ đạo bắt buộc các ngân hàng thương mại chỉ được mua vào USD với giá sàn cao hơn nhiều so với giá trên thị trường để duy trì tỉ giá danh nghĩa thì ngân hàng nhà nước lại không mua lại số ngoại tệ này theo giá sàn chỉ đạo khiến các ngân hàng thương mại từ chối mua USD. Điều này đã gây ra tác đông ngược chiều: lạm phát tiền VNĐ bị đẩy cao trong khi các nhà đầu tư nước ngoài thiếu VNĐ nhưng lại thừa USD, trong khi dự trữ ngoại tệ của nhà nước ta vẫn còn mỏng. • Hai là: Lãi suất ở Việt Nam là lãi suất thực âm. Để chống được lạm phát thì một trong các nguyên tắc căn bản là phải thực hiện lãi suất thực dương( tức là lãi suất tiền cho vay của các ngân hàng phải cao hơn lãi suất huy động và lãi suất huy động phải cao hơn lạm phát, trên thực tế từ năm 2007 đến nay các ngân hàng của nước ta chỉ đảm bảo 1 chiều là lãi suất tiền cho vay cao hơn lãi suất huy động còn lãi suất huy động lại thấp hơn hẳn so với mức lạm phát. Điều này đã dẫn tới chính sách lãi tiền gửi thực âm (chứ không phải thực dương), khiến đồng tiền Việt Nam bị mất giá và kéo dài tình trạng thừa tiền trong lưu thông, tính thanh khoản của các ngân hàng yếu, hoạt động cho vay tắc nghẽn vì lãi suất huy động (khoảng 18-19%) < mức lạm phát (dự kiến 25%) VND bị mất giá và kéo dài tình trạng thừa tiền trong lưu thông, tính thanh khoản của các NH yếu, hoạt động cho vay tắc nghẽn. Tuy rằng hiện nay NHNN đã có những điều chỉnh: không khống chế lãi suất tiền gửi mà khống chế trần lãi suất cho vay nhưng việc vay vốn của các doanh nghiệp vẫn hết sức khó khăn. • Ba là: Hội chứng lập ngân hàng mới gây nên tình trạng tăng vốn điều lệ, gia tăng phương tiện lưu thông không kiềm chế được lạm phát. Các công ty tài chính ở các tổng công ty nhà nước và các ngân hàng cổ phần,các gây nên tình trạng các đơn vị mới đua nhau tăng vốn điều lệ và phát hành các loại chứng khoán mới đưa giá lên cao một cách thiếu cơ sở, các hoạt động cho vay chéo gia tăng, tín dụng chạy theo bề rộng, các nhà đầu tư không chuyên về đầu tư mà chủ yếu đầu cơ làm gia tăng phương tiện lưu thông, làm gia tăng thêm lạm phát, nền kinh tế và người dân thiệt hại trong khi ngân hàng hưởng lãi suất cao. Vì vậy, bên cạnh các tác động thuận chiều các chính sách tiền tệ của NHNN trong thời gian qua cũng gây nên những tác động ngược chiều khiến hoạt động của các Ngân hàng đã, đang và sẽ hạn chế tích cực chống lạm phát trong thời gian tới. • Bốn là: Chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho TTCK và TTBĐS sụt giảm mạnh sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nợ đọng, tính thanh khoản và độ an toàn của hệ thống NH. • Năm là:Giảm chỉ tiêu tăng trưởng từ 8,5% xuống 7% làm giảm tốc độ phát triển, tiền mặt trong xã hội không đưa được vào đầu tư gây ứ đọng vốn nguy cơ gây ra lạm phát ở các chu kỳ sau Để chống lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phải trả một cái giá nhất định. QH đã đồng ý hạ chỉ tiêu tăng trưởng năm 2008 xuống còn 7% (GDP trong 6 tháng đầu năm 6,5%). Đây là một giải pháp bất đắc dĩ để kiềm chế lạm phát trong thời gian trước mắt nhìn về lâu dài đây lại chính là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát vì nguồn gốc gây ra lạm phát do sản xuất kinh doanh kém phát triển không tương ứng với nhu cầu xã hội. Mặt khác sản xuất không phát triển kéo theo thất nghiệp, không giải quyết được việc làm cho xã hỗi và gây nên tác động ngược chiều trong kiềm chế lạm phát. 4. Dự báo về lạm phát ở VN trong thời gian tới Việc dự đoán diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chỉ tiêu lạm phát, từ nay đến cuối năm có ý nghĩa sống còn với các hoạt động đầu tư, thương mại, tài chính trong thời gian tới. Nguyên nhân gây ra lạm phát được xác định, nhiều biện pháp kiềm chế cũng đã đưa ra song câu hỏi lớn nhất vẫn là: những tháng còn lại của năm chỉ số CPI sẽ dừng ở ngưỡng nào. Trong giai đoạn còn lại trong năm, giá lương thực và dầu thế giới hiện cao hơn Việt Nam, vì vậy giá trong nước sẽ tăng lên. Lạm phát, do vậy, sẽ còn ở mức cao. Tuy nhiên, nhiều yếu tố cho thấy lạm phát trong những tháng cuối năm mặc dù vẫn còn cao nhưng sẽ giảm khi các biện pháp tài chính tiền tệ được áp dụng. Việc Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại phải phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tập trung vốn cho các dự án có hiệu quả cao và khả năng trả nợ đúng hạn cũng có tác dụng đáng kể. Từ nay đến cuối năm, nếu mỗi tháng, CPI giữ ổn định mức tăng 1,1% thì cuối năm con số này vào khoảng 25%. Tuy nhiên, nếu giá xăng dầu thế giới tiếp tục tăng cao thì mục tiêu 25% này sẽ bị phá vỡ. Nếu CPI chỉ tăng trung bình 1% so với tháng trước thì lạm phát tháng 12/2008 so với cùng thời điểm năm 2007 chỉ tăng 25%. CPI mỗi tháng tăng 1,2% so với tháng trước thì tháng 12/2008 so với 2007 sẽ tăng khoảng 27,25%. CPI mỗi tháng tăng 1,5% thì lạm phát có thể lên tới 30%. Câu hỏi đặt ra là: Việt nam nên chọn cái nào giữa lạm phát và tăng trưởng. Việc ưu tiên cái nào và hy sinh giữa cái gì với cái gì cần phải rất linh hoạt. Một khi lạm phát quá cao thì rõ ràng cần phải áp dụng các biện pháp kiềm chế lạm phát và tất nhiên khi đó, tăng trưởng sẽ bị chậm lại. Ở các nước đang phát triển, tốc độ tăng trưởng cao bao giờ cũng kèm theo chỉ số lạm phát tăng cao. Dự báo, tăng trưởng GDP sẽ sụt giảm đáng kể trong năm nay và năm 2009. Cụ thể, mức dự báo lần lượt là 7,3% và 7,8% (mức tăng trưởng năm ngoái là 8,5%). Con số này cũng khá phù hợp với sự điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng năm 2008 của Quốc hội, với mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm sẽ là 7%, gần đây chỉ còn 6-6,5%. Từ 2001 đến 2004, những năm đầu khi mức độ tăng trưởng của chúng ta ở mức thấp dưới 7%, chỉ số lạm phát chỉ là 3-4%. Nhưng đến 2004 có mức tăng trưởng 8%, chỉ số giá tăng lên đến mức 9,5%. Đến 2005, khi tốc độ tăng trưởng của chúng ta đạt mức 8,43% chỉ số giá của chúng ta là 8,40%. Do vậy, lạm phát thể hiện khi chúng ta bắt đầu tăng trưởng cao, kèm theo tăng giá. Mặc dù Việt Nam đã có những bước cải thiện về các chỉ số thống kê trong thời gian vừa qua, tuy nhiên những tiến bộ này chưa phải đạt được trên mọi lĩnh vực. Với tỷ lệ lạm phát cao thì Việt Nam cần phải mất một thời gian dài để đưa tỷ lệ lạm phát này về khu vực an toàn ở mức 1 con số. Nhìn vào các bài học lịch sử phát triển kinh tế từ trước tới nay, chưa có quốc gia nào vừa muốn kiểm soát được lạm phát, kiểm soát được thâm hụt thương mại mà lại vừa thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế. Đây rõ ràng là một sự đánh đổi. Chính phủ nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng thấp trong năm 2009 để giảm lạm phát và nhập siêu, tạo đà tăng trưởng cao hơn vào các năm tiếp theo. Bên cạnh việc giảm dự báo tăng trưởng cho Việt Nam năm 2008 và 2009, Báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) còn dự đoán lạm phát trong năm 2008 và 2009 theo thứ tự sẽ là 25,0% và 17,5%, so với mức dự báo 18,3% và 10,2% được đưa ra trong Báo cáo ADO 2008 công bố hồi tháng 4 năm nay. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2008 được dự báo ở mức 13,5% GDP, tăng so với dự báo 10,3% GDP theo báo cáo ADO 2008. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 2009 được dự báo ở mức 7% GDP, thấp hơn so với mức dự báo 9,4% GDP trước đây. 5. Giải pháp can thiệp - Chính sách tài chính - tiền tệ năng động và linh hoạt - Tiếp tục hi sinh tăng trưởng kinh tế để ưu tiên kiềm chế lạm phát - Hạn chế tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, xã hội - Quản lý chặt chẽ chi tiêu công - Quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường - Chính phủ nên bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. - Thực hành tiết kiệm. VI. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU Giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, đặc biệt đối với một nền kinh tế mới bước vào ngưỡng cửa của hội nhập kinh tế như nước ta. Sự hi sinh tăng trưởng năm 2008 để kiềm chế lạm phát như quyết sách của Chính phủ Việt Nam đã đủ nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Trong thời gian tới, nền kinh tế của nước ta cũng đang có những thách thức, khó khăn cần phải vượt qua, và vấn đề lạm phát vẫn còn tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp. Nhiệm vụ nghiên cứu những lý luận cũng như những trải nghiệm về lạm phát ở nước ta đặt ra cho chúng ta những trách nhiệm nặng nề, những dự báo về tình hình, những giải pháp can thiệp mà tác giả đưa ra trong đề tài là những gợi mở cho chính bản thân tác giả vả các đồng nghiệp những diễn đàn nghiên cứu để xây dựng, đóng góp những chính sách của đất nước đồng thời cũng có ý nghĩa thiết thục là nâng cao kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy trong Nhà trường. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp của các bạn đồng nghiệp để đề tài tiếp theo được thành công hơn nữa. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO. [1]. “Nghị quyết 10/2008/NQCT-17/04/08 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững) của Chính phủ”. [2]. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, “Kết quả thực hiện 8 nhóm giải pháp: Những chuyển biến bước đầu”. [3]. UBTV QHB thảo luận về KT-XH 2008 về kế hoạch năm 2009, “Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát”, www.laodong.com.vn số 235/2008, ngày 11 tháng 10 năm 2008. [4]. Http:// www.gso.gov.vn [5].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfDiễn biến lạm phát việtnam và giải pháp kiềm chế linh hoạt.pdf
Luận văn liên quan