LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Cùng với xu thế đó, trong những năm gần đây, Việt Nam bằng những thành tựu phát triển kinh tế trong tiến trình đổi mới cũng đang tích cực hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết trung ương 4 (khoá VIII) của Đảng cũng đã xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, tạo ra những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực và tăng nhanh giá trị kim ngạch xuất khẩu trong những năm tới. Trong bối cảnh đó, “ Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam đến năm 2010” là một trong những đề tài nghiên cứu hết sức cần thiết, với mục tiêu: một là, xem xét, đánh giá tổng thể các xu hướng phát triển chung của thị trường các sản phẩm nông nghiệp chế biến trên thế giới; hai là, trên cơ sở đó, xây dựng định hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hướng đến thị trường hàng nông sản thế giới, góp phần phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá trong nước và tham gia, hội nhập với nền kinh tế thế giới; ba là, không ngừng nâng cao khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trên thị trường thế giới cả về số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói riêng và hàng hoá nói chung của Việt Nam. Nội dung của Khoá luận tốt nghiệp được kết cấu thành ba phần sau:
Phần thứ nhất nghiên cứu chung về thị trường hàng nông sản chế biến thế giới theo các nhóm nước, các khu vực và các nhóm sản phẩm nông nghiệp chế biến trong nước và thế giới trong giai đoạn chủ yếu từ năm 1995 đến nay.
Tính Cấp thiết
Tập trung phân tích những xu hướng sản xuất, tiêu thụ và buôn bán các sảnphẩm nông nghiệp chế biến trên thị trường thế giới, nhằm đưa ra những đánh giá chung, cần thiết cho sự nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong xu hướng tự do hoá thương mại và những vấn đề toàn cầu khác.
Phần thứ hai là những nội dung nghiên cứu về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến chủ yếu của Việt Nam theo các sản phẩm và các thị trường chủ yếu. Qua đó, Khoá luận tốt nghiệp muốn đề cập đến những lợi thế và hạn chế trong sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến của Việt Nam. Đồng thời, Khoá luận tốt nghiệp cũng đưa ra đánh giá về định tính và định lượng đối với yêu cầu tăng cường xuất khẩu các nông sản chế biến chủ yếu của Việt Nam đến năm 2010.
Phần thứ ba là mục tiêu và định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam đến năm 2010 và các kiến nghị nhằm nâng cao khả năng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau như: mở rộng danh mục nông sản chế biến xuất khẩu; nâng cao giá trị và khối lượng của nông sản chế biến xuất khẩu, đề cao vai trò Chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề chung về thị trường xuất khẩu, môi trường kinh doanh xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản chế biến Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
Bố cục của Khóa luận
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN THẾ GIỚI
---o0o---
I. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản chế biến trên Thế giới:
II. Mậu dịch hàng nông sản chế biến thế giới trong những năm 90 và đầu
thế kỷ 21:
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM
---o0o---
I. Tình hình chung về sản xuất nông nghiệp và thực trạng công nghiệp chế biến nông sản:
II. Thực trạng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam - Đánh giá:
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
I. Định hướng tổng thể:
II. Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010:
76 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3083 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thái tốt, đồng Bath lại mất giá nên Thái có thể bán
thịt với giá quy ra USD hết sức cạnh tranh. Đầu ra khó khăn nên chính các
doanh nghiệp của ta cũng cạnh tranh lẫn nhau, cùng kéo giá xuống khiến
nông dân phải chịu thiệt thòi.
Trước những khó khăn nội tại và khó khăn về thị trường tiêu thụ như vậy,
nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu về thịt lợn trong những năm tới đây sẽ hết sức
nặng nề.
Qua thực trạng xuất khẩu các mặt hàng nông sản chế biến của Việt Nam
như đã trình bày ở trên, có thể thấy được những vấn đề sau:
Một là, thành tích xuất khẩu nông sản chế biến trong giai đoạn vừa qua, mới
chỉ có thể được xem là “lớp váng” sẵn có trên bề mặt của sản xuất nông
nghiệp nước ta. Nhiều tiềm năng về sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông
sản chế biến khác chưa được khơi dậy và phát triển. Chính điều này đang làm
cách biệt nhiều hơn giữa các vùng sản xuất nông nghiệp trong nước và hạn
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 47 -
chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm nông nghiệp chế biến xuất khẩu
của Việt Nam.
Hai là, sự manh mún về ruộng đất, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao
động thấp, trình độ phát triển thị trường ở các khu vực nông thôn thấp,... đã
gây nên trì trệ trong quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
đặc biệt là nền sản xuất nông sản chế biến hướng đến xuất khẩu. Các nguồn
hàng nông sản phần lớn chỉ có quy mô nhỏ, phân tán, do đó, không kích thích
được các hoạt động chế biến nông sản phát triển, tạo ra các sản phẩm có tính
xã hội hoá cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ba là, những khó khăn về vốn đầu tư và trình độ hiểu biết về công nghệ chế
biến các sản phẩm nông nghiệp cũng đã góp phần làm hạn chế sự phát triển
của công nghiệp chế biến nói chung và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp
chế biến xuất khẩu nói riêng. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp
Việt Nam giảm sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhất là các thị
trường có sức mua cao và yêu cầu chất lượng sản phẩm cao.
Bốn là, trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn chưa hoàn toàn tỏ ra thích ứng với cơ chế mới, từ sự chuyển đổi mô
hình tổ chức quản lý, cũng như năng lực của các cán bộ kinh doanh. Các sản
phẩm nông nghiệp chế biến xuất khẩu của Việt Nam không được đầu tư, chú
trọng đúng mức đến những vấn đề marketing sản phẩm, từ các nội dung về
bao bì sản phẩm, các yêu cầu về chất lượng sản phẩm của từng thị trường
nhập khẩu đến việc xây dựng kế hoạch xúc tiến tiêu thụ và tiêu thụ sản phẩm.
Trong điều kiện đó, yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu và các sản phẩm
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 48 -
nông nghiệp chế biến xuất khẩu của Việt Nam sớm định hướng đến các thị
trường có tính cạnh tranh cao, xem ra hơi khiên cưỡng.
Năm là, cùng với sự phát triển của trào lưu tự do hoá thương mại ở cả cấp độ
quốc tế và cấp độ khu vực, thị trường ngày càng trở nên cạnh tranh hơn, trong
hoàn cảnh đó, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu cũng ngày càng trở nên cần
thiết cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng
nông sản nói chung và hàng nông sản chế biến nói riêng của Việt Nam chậm
phát triển cả ở tầm quốc gia và tầm doanh nghiệp, trong chừng mực nào đó,
đã làm hạn chế khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Cùng với xu hướng phục hồi giá xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp trên thị
trường thế giới trong những năm qua, giá xuất khẩu các nông sản chế biến của
Việt Nam cũng được cải thiện đáng kể, mặc dù còn thấp hơn so với giá xuất
khẩu các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới. Có thể thấy rằng:
Trước hết, giá mua nông sản chế biến tăng nhanh hơn giá bán tư liệu sản xuất
và mang đậm nét những quy luật của thị trường trong sản xuất các sản phẩm
nông nghiệp. Giá cả các sản phẩm nông nghiệp chế biến của Việt Nam mới
“ăn nhập” với xu hướng mậu dịch và giá cả trên thị trường hàng nông sản thế
giới.
Thứ hai, giá cả các sản phẩm nông nghiệp chế biến trong nước và quốc tế có
xu hướng tiệm cận nhau hơn. Xu hướng tiệm cận giữa giá quốc gia và quốc tế
đối với các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, trong chừng mực nào đó,
được thể hiện qua sự so sánh giữa chỉ số giá mua nông sản và chỉ số giá xuất
khẩu trong cùng giai đoạn.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 49 -
Thứ ba, giữa giá quốc gia và giá quốc tế của các sản phẩm nông nghiệp nói
chung và nông sản chế biến nói riêng còn bị điều chỉnh bởi tỷ giá ngoại hối.
Xu hướng giá cả quốc tế chỉ ảnh hưởng nguyên vẹn đến sản xuất và xuất khẩu
của mỗi quốc gia khi quan hệ tỷ giá ngoại hối ít thay đổi.
III. Triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt
Nam đến năm 2010:
Một là, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, nông nghiệp Việt Nam vẫn chủ
yếu chú trọng vào việc quy hoạch, mở rộng diện tích và tăng cường sản lượng
của một số sản phẩm trồng trọt có giá trị xuất khẩu đã được khẳng định trong
những năm vừa qua.
Hai là, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đến
năm 2010 vẫn tập trung vào việc nâng cao chất lượng các sản phẩm ở giai
đoạn sơ chế đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Ba là, do khả năng đầu tư cho công nghiệp chế biến trong giai đoạn từ nay
cho đến năm 2010 nên các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu đưa ra
trong giai đoạn này vẫn dưới dạng các sản phẩm thô, sơ chế là chính.
Bốn là, các chỉ tiêu khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến
Việt Nam từ nay cho đến năm 2010 được đưa ra căn cứ vào khả năng sản
lượng sản xuất của Việt Nam trong giai đoạn.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 50 -
Các dự báo chủ yếu: Tăng số lượng và khối lượng nông sản hàng hoá, đồng
thời nâng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ 2,4 tỷ USD lên
4,0 tỷ USD vào năm 2000 và 8,5-9 tỷ USD vào năm 2010 – tương đương với
mức kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản bình quân nhân khẩu nông nghiệp là
41 USD/người; 60 USD/người và 110 USD/người.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 51 -
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHẾ BIẾN
CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2010
I. Định hướng tổng thể:
Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam từ nay đến năm 2010 là tiếp tục
xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng sinh thái bền vững, thực
hiện đa canh, đa dạng hoá sản phẩm, kết hợp nông nghiệp và công nghiệp chế
biến, từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh chất
lượng và nâng cao chất lượng nông sản chế biến, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao đời sống nhân dân và xây
dựng nông thôn mới. Đồng thời, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập
trung theo quy hoạch đồng bộ và hoàn chỉnh với công nghệ tiên tiến, bảo đảm
cân đối giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát huy
các lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả tiềm năng của tất cả các vùng trong
cả nước.
II. Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam giai đoạn 2001
- 2010:
Trong giai đoạn từ 2001 đến năm 2005, tình hình xuất khẩu nông sản chế biến
sẽ diễn ra trong những điều kiện như sau:
Thuận lợi:
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 52 -
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), mức độ phục hồi của kinh tế, thương mại thế
giới tuy chậm nhưng triển vọng sẽ khả quan hơn trong những năm tới. Đây là
một trong những nhân tố thúc đẩy xuất khẩu nông sản của nước ta nói chung,
xuất khẩu nông sản chế biến nói riêng.
Kinh tế đất nước tiếp tục phát triển ổn định. Sản xuất nông nghiệp đạt mức
tăng trưởng cao sẽ tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất tiếp tục được thực hiện theo hướng nâng cao chất
lượng, tăng khả năng cạnh tranh, ngày càng đáp ứng được yêu cầu thị trường.
Các chính sách phát triển kinh tế Nhà nước ban hành đã và đang phát huy
hiệu lực, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao sẽ
tạo điều kiện tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh trong nước cũng như
xuất khẩu.
Giá cả nhiều loại nông sản trong nước được cải thiện, có lợi cho nông dân; giá
một số nông sản chế biến xuất khẩu như cà phê, gạo, hạt tiêu đang có xu
hướng phục hồi sẽ khuyến khích phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
Tuy nhiên, những thuận lợi chính của ngành nông sản Việt Nam bao gồm: i)
tính đa dạng sinh học, nhiều loại tiểu khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho việc đa
dạng hoá cây trồng; ii) các chính sách của Chính phủ về nông nghiệp và nông
thôn; iii) Việt Nam đang có một số mặt hàng quan trọng chiếm thị phần lớn
trên thế giới như gạo, cà phê, chè, điều, tiêu,...
Khó khăn:
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 53 -
Tình hình kinh tế, thương mại thế giới còn nhiều yếu tố khó lường, môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số thị trường lớn cho hàng nông sản
chế biến không ổn định do tình hình chính trị như I-rắc, các nước Trung
Đông,... tác động lớn đến xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam.
Tiến trình hội nhập khu vực ngày càng gấp rút. Theo lịch trình AFTA, đến
1/1/2003, đối với hàng nông sản, ta phải đưa nốt 135 dòng thuế còn lại trong
danh mục loại trừ tạm thời vào chương trình cắt giảm có hiệu lực chung
(CFPT), Hàng nông sản chế biến Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh quyết
liệt hơn với hàng hoá các nước trong khu vực ASEAN cả trên thị trường trong
nước và quốc tế.
Việc Trung Quốc là thành viên WTO và thực hiện Hiệp định thương mại Việt
- Mỹ sẽ tiếp tục tạo cơ hội cũng như nhiều thách thức cho hàng nông sản chế
biến nước ta.
Gạo:
Bất chấp triển vọng chung của nhóm hàng, sản xuất, tiêu thu và xuất - nhập
khẩu gạo trên thị trường thế giới đều tăng với nhịp độ cao và đặc biệt là nhịp
độ tăng khối lượng xuất - nhập khẩu gạo lại cao hơn nhịp độ tăng của sản xuất
và tiêu thụ. Hơn nữa, do nhu cầu nhập khẩu tăng và tác động của vòng đàm
phán U-ru-guay, nên giá xuất khẩu gạo tăng ở mức khá cao (khoảng
1,4%/năm). Trong giai đoạn từ nay đến năm 2005, Việt Nam có khả năng
thực hiện chỉ tiêu dự báo xuất khẩu gạo không chỉ về khối lượng mà cả về giá
trị xuất khẩu thu được do giá xuất khẩu tăng và sự cải thiện về chất lượng gạo
xuất khẩu,
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 54 -
Xuất khẩu gạo trong thời kỳ 2001 - 2010 dự kiến sẽ ổn định ở mức 4,0 - 4,5
triệu tấn/năm.
Trong thời kỳ 2001 - 2005, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ phải tiến hành mở cửa
thị trường gạo theo các cam kết của họ với Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Hai nước được hưởng lợi ích trực tiếp và ngay lập tức sẽ là Mỹ và
Thái Lan bởi chỉ có họ mới đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của hai thị
trường này. Việt Nam cũng sẽ có lợi ích nhưng là lợi ích gián tiếp do nhu cầu
chung về gạo trên thế giới tăng.
Như đã trình bày ở phần trên, xuất khẩu gạo hiện nay đang gặp hai vấn đề lớn
là thị trường xuất khẩu và tổ chức xuất khẩu. Các doanh nghiệp của ta nhìn
chung chưa có được hợp đồng lớn, ổn định và cũng chưa bán trực tiếp được
gạo sang Châu Phi. Về tổ chức, cơ quan quản lý Nhà nước vẫn đang lúng túng
tìm cách xử lý vấn đề hạn ngạch và đầu mối trong bối cảnh các mục tiêu đặt
ra mâu thuẫn lẫn nhau và sức ép tự do hóa của ADB, của IMF và WB ngày
càng gia tăng.
Để giải quyết vấn đề hợp đồng lớn, cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm
những thoả thuận ở cấp Chính phủ. Để hỗ trợ cho quá trình đàm phán và ký
kết những thoả thuận như vậy, nước xuất khẩu thường phải có những thoả
hiệp nhất định với nước nhập khẩu, thí dụ như bán trả chậm hoặc chấp nhận
mua lại một lượng hàng hoá nào đó. Vấn đề thứ nhất (bán trả chậm) đã được
Chính phủ ta bàn bạc nhiều lần và gần đây chấp nhận cho Bộ Thương mại
được đàm phán bán gạo trả chậm với khối lượng trước mắt là 300,000 tấn,
thời hạn thanh toán sau 1 năm. Quyết định này chắc chắn sẽ mở ra những
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 55 -
hướng mới cho việc tiêu thụ gạo. Tuy nhiên, việc đàm phán và ký kết những
hợp đồng lớn ở cấp Chính phủ sẽ gặp thuận lợi nhiều hơn nữa nếu được phép
sử dụng một số chỉ tiêu nhập khẩu hàng hoá, thí dụ như phân bón, sắt thép, xe
tải,... để tăng sức “mặc cả”. Một trong những thị trường có thể áp dụng biện
pháp này là Hàn Quốc bởi hàng năm ta thường nhập khẩu trên dưới 200 triệu
USD phân bón, sắt thép và ô tô các loại từ thị trường này.
Việc trực tiếp xuất khẩu gạo sang Châu Phi gặp khó khăn duy nhất là khả
năng thanh toán của bạn. Để giải quyết vấn đề này, trước mắt vẫn phải dựa
vào các nước, các tổ chức cung cấp viện trợ cho Châu Phi, nhưng có thể thăm
dò một hướng đi mới là đổi hàng. Hiện nay, ngành điều của ta đang có nhu
cầu nhập khẩu lớn đối với hạt điều thô của Châu Phi. Nhu cầu hàng năm có
thể từ 70 - 100 ngàn tấn, ổn định cho đến năm 2005. Lượng ngoại tệ cần thiết
để nhập khẩu sẽ từ 70 - 100 triệu USD/năm, tương đương với khoảng 300 -
450 ngàn tấn gạo. Nếu có thể kết hợp nhập khẩu điều với xuất khẩu gạo thì sẽ
tạo ra một hướng đi mới trong việc thâm nhập thị trường Châu Phi. Ngoài ra,
cơ quan đại diện cho ta tại các nước cung cấp nhiều viện trợ cho Châu Phi,
đặc biệt là Hoa Kỳ, cần tìm hiểu kỹ hơn về khả năng thuyết phục các nước
này mua, hoặc mua thêm gạo của Việt Nam để cung cấp cho Châu Phi.
Vấn đề hạn ngạch và đầu mối, do nhiều nguyên nhân, đến nay vẫn tồn tại và
là một trong những vật cản lớn cho tiến trình đàm phán các khoản vay điều
chỉnh cơ cấu với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Hệ thống này cũng làm
giảm tính năng động và tính hiệu quả của hoạt động xuất khẩu gạo. Cần
nghiên cứu thực hiện cơ chế lập dự trữ lương thực từ chính nguồn vốn của các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, trên cơ sở đó xoá bỏ dần chế độ hạn
ngạch và đầu mối xuất khẩu gạo. Theo đó, bất cứ doanh nghiệp nào đã có
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 56 -
trong kho từ 5,000 tấn gạo trở lên đều được quyền xuất khẩu ẵ số lượng này.
Nếu có 50 doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) tham gia xuất khẩu gạo
thì nhà nước sẽ thường xuyên có trong tay một khoản dự trữ tối thiểu là 125
ngàn tấn, đủ để cung cấp cho 10 triệu người trong 1 tháng. Kết hợp với dự trữ
quốc gia, lượng dự trữ này có thể đáp ứng được các nhu cầu đột xuất phát
sinh do thiên tai. Trong trường hợp mất mùa lớn, ta vẫn có thể ban hành lệnh
tạm ngừng xuất khẩu gạo theo đúng quy định của WTO mà không gặp vướng
mắc gì.
Cà phê:
Theo số liệu dự báo, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong giai đoạn từ nay
đến năm 2005 sẽ tăng bình quân 2,77 - 3,80%/năm, nghĩa là mức tăng gấp đôi
so với thế giới. Trong điều kiện buôn bán quốc tế, Việt Nam vẫn có thể đạt
được nhịp độ tăng khối lượng xuất khẩu, nhưng cần phải duy trì tốt các thị
trường xuất khẩu đã có và mở rộng các thi trường mới, nâng cao chất lượng
cà phê và tạo được danh tiếng của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Xuất khẩu cà phê năm 1999 đạt 420 ngàn tấn, trị giá 520 triệu USD. Tuy tăng
khoảng 10% về lượng so với năm 1998 nhưng lại giảm 14 - 16% về trị giá do
cung đã vượt cầu trên thị trường thế giới. Do sản lượng phụ thuộc mạnh vào
điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về sản lượng cà phê xuất
khẩu trong những năm sau. Tuy nhiên, nếu dựa vào diện tích và năng suất
bình quân hiện nay thì có thể dự báo lượng xuất khẩu vào năm 2003 có thể
đạt 500 ngàn tấn.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 57 -
Giá thành sản xuất thấp, sức cạnh tranh cao, thị trường tiêu thụ ổn định, khả
năng tiêu thụ không phụ thuộc nhiều vào tỷ giá VND/USD ... là những lý do
để người trồng cà phê Việt Nam chưa cần đến sự hỗ trợ tài chính của Nhà
nước, ít nhất là trong những năm tới đây. Hiếm có loại nông sản nào của nước
ta được như vậy.
Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả xuất khẩu, ngành cà phê vẫn cần
được quan tâm đầy đủ, nhất là trên các phương diện sau đây:
Việc phát triển cây cà phê phải được tiến hành theo quy hoạch chặt chẽ, đảm
bảo cân đối nước - vườn và cân đối giữa hai chủng loại robusta - arabica:
Vấn đề này đã được đề cập trong chương trình phát triển cà phê Việt Nam do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng phối hợp với Hiệp hội Cà phê
Cacao Việt Nam soạn thảo. Về cà phê chè, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 172/QĐ-TTg ngày 24/3/1997 cho phép ngành cà phê Việt Nam được
vay Quỹ phát triển Pháp (CFD) 42 triệu USD để có thêm 40,000 ha trong thời
kỳ 1997 - 2001. Công tác thuỷ lợi cũng đã được đề cập chi tiết trong chương
trình phát triển khu vực Tây Nguyên đến năm 2010 của Chính phủ. Tuy
nhiên, do các khó khăn về vốn, kể cả vốn đối ứng, việc triển khai còn tương
đối chậm. Đề nghị Chính phủ cần tập trung hơn nữa cho vấn đề này. Trong
thời gian chờ giải quyết vấn đề thủy lợi, đề nghị không tăng thêm diện tích
robusta tại Tây Nguyên để không làm ảnh hưởng thêm đến cân bằng sinh thái
của vùng này. Ngoài ra, việc phát triển diện tích arabica tại Trung bộ và vùng
cao Bắc bộ cũng cần được tiến hành theo quy hoạch chặt chẽ, phù hợp với
điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu, tránh tình trạng phong trào, tỉnh nào cũng
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 58 -
trồng, huyện nào cũng trồng, đến khi cây cà phê cho năng suất thấp thì lại yêu
cầu trợ giá, không được trợ giá thì chặt bỏ gây lãng phí rất lớn.
Chủ trương nâng diện tích vườn cây lên 500,000 ha cần được đi kèm với
những biện pháp cần thiết để nâng cao năng suất và hạ giá thành. Việt Nam
đã trở thành một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Sản
lượng càng tăng càng làm ảnh hưởng tới giá xuất khẩu. Năm 1997 là năm
Việt Nam đạt sản lượng cao và cũng là năm mà giá robusta (giá FOB) lên tới
1.200USD/T. (số liệu Bộ Thương mại).
Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến để nâng cao tỷ trọng cà phê cấp độ cao và
tỷ trọng cà phê chế biến sâu:
Hiện nay, cà phê Việt Nam đang được phân loại theo các tiêu chuẩn ngoại
quan như độ ẩm, tạp chất, hạt đen vỡ và kích thước hạt.
Để nâng tỷ trọng cà phê cấp độ cao, ngành cà phê cần một khoản vốn đầu tư
ban đầu vào khâu chế biến khoảng 30 triệu USD, tương đương với mức mà
ngành đã nộp cho Nhà nước trong hai năm 1994 và 1995 theo chế độ phụ thu.
Nếu được chế biến và phân loại 100% (không phải chỉ 25 - 30% như hiện
nay) thì mỗi năm kim ngạch sẽ tăng lên được khoảng 30 triệu USD. Trong
tổng vốn đầu tư này, khoảng 70% sẽ được dành cho thiết bị sơ chế, phân loại
để làm ra cà phê nhân sống chất lượng đồng đều. 30% còn lại được dành để
nâng cấp Nhà máy Cà phê Biên Hoà, nhà máy duy nhất 100% vốn Việt Nam
sản xuất cà phê rang xay và cà phê hoà tan, hoặc xây dựng mới 1 nhà máy chế
biến cà phê rang xay - hoà tan công suất 1000T/năm.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 59 -
Đổi mới tiêu chuẩn chất lượng và hoàn thiện công tác quản lý, kiểm tra chất
lượng để vừa nâng cao uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, vừa
góp phần tăng thêm kim ngạch xuất khẩu:
Công tác quản lý chất lượng xuất khẩu đã được cải thiện đáng kể trong những
năm qua. Thị trường Mỹ, nơi có hệ thống kiểm tra chất lượng chặt chẽ nhất
thế giới, cũng đã thừa nhận những bước tiến về chất lượng của cà phê Việt
Nam. Tuy nhiên, những chuyển biến này mới chỉ là bước đầu. Về ngoại quan,
cà phê Việt Nam vẫn thua kém cà phê Thái Lan và cà phê Indonesia nên, dù
hơn hẳn về hương vị, vẫn phải bán với giá thấp hơn Thái Lan và Indonesia từ
10 đến 30USD/T.
Để tăng giá trị cà phê xuất khẩu, ngoài các biện pháp nâng cao cấp độ như đã
trình bày, cần có biện pháp để quản lý chất lượng cà phê từ khâu trồng đến
khâu chế biến và bảo quản. Việc này từ trước tới nay vẫn làm nhưng chỉ tập
trung vào các nông trường lớn, chưa thực hiện trong khu vực cà phê nhân dân.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam:
Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, ngoài chức năng tập hợp các nhà sản xuất,
kinh doanh và cung ứng thiết bị kỹ thuật trong ngành cà phê để phối hợp hành
động và nâng cao sức cạnh tranh, còn có nhiều chức năng quan trọng khác
như phối hợp xây dựng quy hoạch phát triển ngành, phổ biến kỹ thuật canh
tác - thu hoạch - chế biến - bảo quản đến người trồng cà, trọng tài xử lý mâu
thuẫn phát sinh trong nội bộ thành viên và hợp tác quốc tế. Thời gian vừa qua,
do nhiều nguyên nhân khách quan (thiếu nguồn tài chính, thiếu người, thiếu
cơ sở vật chất, thiếu sự trợ giúp của Nhà nước thông qua chuyển giao quyền
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 60 -
hạn, ...) nên dù đã rất cố gắng nhưng Hiệp hội vẫn chưa thể hiện được trọn
vẹn các chức năng của mình. Tính hấp dẫn của Hiệp hội, vì vậy, còn khá thấp.
Có chính sách đúng đắn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến
cà phê:
Các doanh nghiệp của Việt Nam cho đến nay đã đủ lực để đầu tư vào khâu sơ
chế nâng cao cấp độ cà phê. Rất tiếc là trong một số hoàn cảnh đặc biệt, nhà
nước đã cấp một số giấy phép đầu tư cho nước ngoài được đầu tư vào khâu sơ
chế. Việc này không giúp gì cho công nghiệp chế biến cà phê của Việt Nam.
Nghiên cứu tổ chức thị trường cà phê kỳ hạn tại Việt Nam để người trồng cà
phê có thể tự bù đắp rủi ro, không cần đến các Quỹ Bảo hiểm của Nhà nước.
Hạt điều:
Do vườn cây bị thoái hoá nên sản lượng điều thô năm 1999 đã giảm xuống
mức thấp nhất từ trước tới nay, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lượng nhân điều
xuất khẩu. Ngay cả trong trường hợp nhập khẩu được điều thô để bù đắp cho
lượng nguyên liệu thiếu hụt, xuất khẩu cũng chỉ có khả năng đạt từ 15,000
đến 16,000 tấn, giảm tới 40% so với 25,600 tấn của năm 1998. Năm 2000, sản
lượng đạt 20,000 tấn. Chỉ từ sau năm 2002 mới có thể phục hồi được sản
lượng đã xuất năm 1997 và tăng dần. Dự kiến năm 2005 sẽ đạt 55 - 60 ngàn
tấn nhân điều xuất khẩu.
Việc tiêu thụ nhân điều trên thị trường thế giới hầu như không gặp khó khăn
gì lớn bởi nhu cầu thế giới tăng trung bình 5 - 7%/năm trong khi sản lượng
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 61 -
điều của những nước sản xuất không thể tăng nhanh. Việt Nam dù có phát
triển đến 500 ngàn ha cũng đảm bảo tiêu thụ được hết lượng điều sản xuất ra.
Mục tiêu từ nay đến năm 2005 là phục hồi và cải tạo vườn đi đôi với thâm
canh tăng năng suất. Cố gắng giữ 250 - 300,000 ha để đến năm 2005 đạt sản
lượng 250 - 300,000 tấn điều thô.
Chè:
Nhịp độ tăng khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam sẽ có thể cao hơn nhiều
so với nhịp độ tăng bình quân của thế giới khi mà tỷ lệ khối lượng chè xuất
khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2% so với thế giới. Trong điều
kiện các nước nhập khẩu chè không áp dụng các rào chắn thuế quan và phi
thuế quan, khoảng dao động giữa số liệu dự báo và số thực hiện sẽ phụ thuộc
chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Rau quả:
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2005, khả năng xuất khẩu các sản phẩm này
của Việt Nam phụ thuộc chính vào các yếu tố: i) chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
thâm canh tăng vụ; ii) quy hoạch phát triển vùng sản xuất; iii) công nghiệp
chế biến các sản phẩm cho mục tiêu xuất khẩu; và iv) khả năng tiếp cận thị
trường khu vực và thế giới.
Thịt lợn:
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 62 -
Theo số liệu của Bảng cân đối lương thực, thực phẩm giai đoạn 1997-2001 do
Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ NN & PTNT lập, sản lượng thịt lợn của Việt
Nam cung cấp nội địa dao động ở mức độ cao từ 1.154.200 tấn năm 1997 đến
1.415.500 tấn năm 2001 với tỉ lệ xuất khẩu đạt gần 20% trong giai đoạn. Với
tỉ lệ sản xuất và xuất khẩu trên và thực tế là thịt lợn là một trong hai sản phẩm
(thịt lợn và thịt gia cầm) có nhịp độ tăng trưởng và tiêu thụ cao nhất trên thị
trường thế giới, điều này đang mở ra khả năng sản xuất và xuất khẩu cho Việt
Nam trong giai đoạn dự báo.
III. Kiến nghị:
1. Phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản chế biến xuất khẩu:
Mục tiêu chủ yếu của giải pháp này là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản
xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản chế biến
xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản
phẩm.
Những cơ sở của giải pháp này là: Về lý thuyết, đa dạng hoá nông nghiệp dựa
trên các yếu tố như đất đai, lao động và vốn vật chất, do đó, trong chừng mực
nào đó, đa dạng hoá nông nghiệp tỏ ra khá phù hợp với hoàn cảnh và trình độ
của sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Về thực tế, một măùt, do quá
trình công nghiệp hoá của nhóm các nước đang phát triển đang diễn ra rất
mạnh mẽ có tác động mạnh đến thị trường hàng nông sản chế biến thế giới,
theo hướng làm thay đổi lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của các
nước và chính điều này đã buộc các nước này chú trọng đến vấn đề đa dạng
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 63 -
hoá nông nghiệp để lấp đầy những lỗ hổng của thị trường. Mặt khác, trong
thực tế phát triển nông nghiệp Việt Nam cho thấy:
Một là, nhiều loại sản phẩm có triển vọng trên thị trường thế giới, nhưng chưa
được phát triển đúng mức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như, nhóm hàng
hạt có dầu, dầu mỡ và khô dầu; một số hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có
múi,...).
Hai là, sự tập trung quá mức vào một số nông sản xuất khẩu có giá trị cao như
cà phê, điều hiện nay đã dẫn đến những tình trạng không phù hợp với tiềm
năng sản xuất nông nghiệp của cả nước, và để lại hậu quả lâu dài như, tình
trạng di dân hàng loạt ở các tỉnh phía Bắc, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc
vào vùng Tây Nguyên là không phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội; tình
trạng khai thác quá mức ở một vùng sẽ để lại những hậu quả về môi trường và
phát triển bền vững trong khi những vùng khác bị lãng quên; tình trạng phát
triển không đều giữa các vùng trong cả nước dẫn đến chi phí xã hội cao ở
những vùng kém phát triển và hiệu quả toàn xã hội sẽ thấp;...
Ba là, lợi ích quan trọng của sản xuất nông nghiệp không chỉ là hiệu quả kinh
tế mang lại, đóng góp vào nền kinh tế nói chung, mà còn là sự đảm bảo tính
ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Đó
là các vấn đề về đảm bảo an ninh lương thực, giải quyết việc làm, nhất là
trong điều kiện Việt Nam có đến 80% dân số sinh sống bằng nghề nông, trong
khi tiềm lực kinh tế để tiến hành công nghiệp hoá còn hạn chế, sự cơ cấu lại
lực lượng lao động diễn ra chậm chạp... Đa dạng hoá nông nghiệp cũng có
nghĩa là tạo ra nhiều việc làm và nhiều khả năng thu nhập cho nông dân, nhất
là đối với các vùng thuần nông, các vùng nông thôn nghèo, đất đai ít màu mỡ.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 64 -
Bốn là, mức độ phụ thuộc vào thiên nhiên của nông nghiệp Việt Namcòn rất
lớn. Tuy nhiên, sự tác động của thiên nhiên đến sản lượng các sản phẩm nông
nghiệp không giống nhau theo loại sản phẩm, khu vực sản xuất. Vì vậy, đa
dạng hoá nông nghiệp cũng có nghĩa là giảm nhẹ rủi ro, mặt khác tạo thuận
lợi hơn trong việc điều chỉnh sản lượng sản phẩm theo nhu cầu thị trường, lấp
đầy các lỗ hổng của thị trường nội địa, giảm nhẹ sự xâm nhập của sản phẩm
nước ngoài, dễ lựa chọn các nông sản chế biến xuất khẩu,...
Lợi ích chung của vấn đề này là phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện địa
hình của nước ta, phù hợp với trình độ và tập quán sản xuất trong giai đoạn
quá độ hiện nay nhằm tạo ra một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá phát
triển ổn định, bền vững, thích ứng nhanh với các xu hướng thị trường. Tuy
nhiên, đa dạng hoá nông nghiệp cũng gặp phải những hạn chế như tổng chi
phí sản xuất tăng, hiệu quả sản xuất thấp, công tác quản lý điều hành phức
tạp,... đối với sản phẩm có quy mô sản xuất nhỏ, sản lượng thấp, và khối
lượng xuất khẩu không lớn sẽ bị phụ thuộc nhiều vào các thị trường xuất khẩu
chính của các sản phẩm đó, chịu thiệt thòi về giá cả. Vấn đề là ở chỗ, quan
niệm lợi ích không chỉ đơn thuần là khoản thu được mà còn là mức chi phí
Chính phủ phải bỏ ra để khắc phục hậu quả, đảm bảo tính ổn định và phát
triển cho toàn bộ nền kinh tế.
Để thực hiện giải pháp này có hiệu quả thiết thực, Chính phủ cần thực thi
những vấn đề sau:
Một là, Chính phủ cần có quy hoạch tổng thể, lâu dài về phát triển các vùng
nông nghiệp hàng hoá với việc đưa ra bảng danh mục các sản phẩm cụ thể
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 65 -
theo thứ tự ưu tiên cho một vùng, bằng việc giải bài toán quy hoạch đa mục
tiêu với các tham số:
Hiệu quả kinh tế cây trồng được xác định bằng giá trị gia tăng của sản phẩm
đó trên 1 ha theo hàm số với các tham số như, năng suất cây trồng, tỷ lệ sản
phẩm sau chế biến, giá xuất khẩu bình quân (tính theo giá FOB), giá thu mua
xuất khẩu, thuế tài nguyên, doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận.
Quy mô sản xuất có thể và khả năng mở rộng quy mô sản xuất với sản lượng
phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá và khả năng xuất khẩu của sản phẩm.
Yêu cầu phát triển đối với vùng sản xuất nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định
và cân bằng ở mỗi vùng và trên phạm vi cả nước.
Hai là, việc đa dạng hoá nông nghiệp đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với các
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học và
công nghệ chế biến. Thực tế cho thấy, các tiến bộ công nghệ đóng vai trò rất
quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh tế. Do đó, việc
tăng cường chuyển giao các tiến bộ công nghệ chính là vấn đề then chốt có
tác dụng làm giảm bớt những hạn chế của giải pháp đa dạng hoá nông nghiệp.
Thực trạng phát triển nông nghiệp của nước ta trong giai đoạn vừa qua cho
thấy, các hoạt động này chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của sản xuất
hàng hoá và nhất là trước xu thế tự do hoá trên phạm vi toàn cầu.
Ba là, các phương án cây trồng và các chuyển giao công nghệ đi kèm mà
Chính phủ đưa ra cho mỗi vùng sản xuất là cần thiết nhưng lại không phải là
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 66 -
yếu tố trọng yếu trong quyết định sản xuất của người nông dân, nhất là khi họ
chưa tin tưởng vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Vì vậy, Chính phủ cần
phải thực thi các chính sách thích hợp để làm cho việc đa dạng hoá trở nên
hấp dẫn hơn đối với người nông dân về phương diện kinh tế, tức là các chính
sách nhằm giảm bớt các rủi ro thị trường và trợ giúp ban đầu cần thiết.
Bốn là, trong khả năng cho phép của Chính phủ, có tính chất lâu dài hơn, phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế nước ta và xu thế cắt giảm các khoản bảo hộ,
trợ cấp trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến, để
thực hiện tốt các giải pháp đa dạng hoá nông nghiệp, Chính phủ cần nỗ lực
nâng cao hiệu quả thông tin cho các đối tượng liên quan đến sản xuất và
thương mại các sản phẩm nông nghiệp chế biến.
2) Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu:
Mục tiêu của giải pháp này là nhằm không ngừng nâng cao giá trị xuất khẩu
các nông sản chế biến Việt Nam trên các góc độ khác nhau, như: tăng khối
lượng xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu từ khâu chọn giống
đến thương mại hoá các nông sản chế biến bằng cách tăng giá trị công nghiệp
trong sản phẩm ở mức cao nhất có thể, tiếp cận các thị trường có lợi ích xuất
khẩu lớn, hạn chế bớt biên độ dao động giá cả của nông sản chế biến.
Giải pháp xây dựng chương trình đồng bộ cho các sản phẩm trọng điểm thực
chất là đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu có chọn lọc. Các
cơ sở của giải pháp này là: về lý thuyết, đầu tư phát triển theo chiều sâu cho
phép phân bổ và sử dụng các nguồn lực hợp lý, do đó sẽ mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao; về thực tế: Một mặt,
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 67 -
trên thị trường thế giới, xu hướng chung của các nước xuất khẩu nông sản chế
biến là tăng tỷ lệ các sản phẩm có độ chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị của
sản phẩm, thoả mãn được các tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu
và giảm mức độ dao động của giá cả nông sản chế biến trên thị trường... Mặt
khác, trong điều kiện nước ta, đây là vấn đề hết sức quan trọng trong chủ
trương phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu
của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2005. Tuy nhiên, nghiên cứu về
khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay cho thấy
còn nhiều vấn đề bất cập, trong đó có những vấn đề thuộc về chất lượng nông
sản chế biến xuất khẩu cần được cải thiện. Cụ thể, trong giai đoạn vừa qua,
theo danh mục các sản phẩm nông nghiệp chế biến xuất khẩu của Việt Nam,
hầu hết các sản phẩm xuất khẩu đều có tỷ lệ giá trị trước thu hoạch cao hơn
nhiều so với tỷ lệ giá trị sau thu hoạch. Điều này là kết quả của một nền công
nghiệp chế biến kém phát triển. Thậm chí, nhiều yếu tố trong khả năng còn
chưa được chú trọng đúng mức, như bao bì, đóng gói các sản phẩm xuất
khẩu,... Do đó, trên thị trường thế giới, sức cạnh tranh của các sản phẩm nông
nghiệp chế biến Việt Nam luôn rơi vào những tình trạng khó khăn, như:
Giá xuất khẩu các nông sản chế biến thường ở mức thấp hơn so với các sản
phẩm cùng loại của các nước trong khu vực, như giá xuất khẩu gạo của Việt
Nam so với Thái Lan,...
Thị trường xuất khẩu phổ biến của nông sản chế biến Việt Nam là các thị
trường bậc trung hoặc các thị trường tái xuất - những thị trường không cho
phép thu được lợi ích xuất khẩu lớn.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 68 -
Danh tiếng của nông sản chế biến Việt Nam bị ẩn dấu qua công đoạn tái chế
biến và xuất khẩu của các nước tạm nhập tái xuất, do đó, gây nên tình trạng
yếm thế của nông sản chế biến Việt Nam trên thương trường quốc tế, khó
phát triển thị trường xuất khẩu,...
Như vậy, với mục tiêu nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản chế biến Việt Nam
(bao gồm cả việc nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm trên cơ sở thị
trường và nhằm phát triển thị trường) trong giải pháp này cần chú trọng đến
các vấn đề như sau:
Một là, chương trình đồng bộ cho các sản phẩm trọng điểm cần được xây
dựng trên cơ sở đa dạng hoá nông nghiệp, từ đó lựa chọn ra các sản phẩm có
ưu thế xuất khẩu. Qua các kết quả phân tích trên đây, theo hướng nhìn ra thị
trường thế giới trong giai đoạn tới, Việt Nam có thể xây dựng chương trình
cho các sản phẩm như thịt lợn, gạo, các sản phẩm nhiệt đới (chè, cà phê, rau
quả), trong giai đoạn xa hơn có thể có các sản phẩm dầu mỡ thực vật và một
số sản phẩm mới sẽ được chọn lọc từ đa dạng hoá nông nghiệp.
Hai là, chương trình cần được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định
hướng đến thị trường xuất khẩu chứ không phải trên cơ sở coi trọng tiềm năng
sản xuất trong nước. Trước mắt có thể có một số thị trường định hướng cho
các sản phẩm như: đối với các sản phẩm thịt nên định hướng đến thị trường
khu vực Đông âu, Châu á và các nước đang phát triển khác; các sản phẩn
nhiệt đới nên hướng đến thị trường khu vực cả Đông và Tây âu, thị trường
Trung Đông; các sản phẩm ngũ cốc đến với thị trường khu vực Châu á, các
khu vực có khả năng mất an ninh lương thực cao.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 69 -
Ba là, chương trình cần lựa chọn bước đi thích hợp về công nghệ, hoặc là phát
triển tuần tự từ công nghệ thấp đến công nghệ cao, hoặc là tiếp cận ngay với
trình độ công nghệ cao, hoặc là kết hợp giữa công nghệ cao và công nghệ thấp
theo từng công đoạn trong quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm. Điều đó cho
phép kiểm soát được các cấp độ công nghệ đầu tư sau này thuận tiện hơn.
Việc lựa chọn tiến trình cho các cấp độ công nghệ được tiến hành trên cơ sở
yêu cầu của các thị trường được định hướng trên đây. Ví dụ, đối với thị
trường Tây âu cần áp dụng ngay trình độ công nghệ cao.
Bốn là, về thực chất, chương trình này cần có Ban chỉ đạo thống nhất, dưới sự
chỉ đạo của Chính phủ, liên kết các ngành sản xuất và các cơ quan chức năng
cùng phối hợp với hành động xuyên suốt quá trình sản xuất - thu mua - chế
biến - xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
3) Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu nông
sản chế biến:
Đây là giải pháp mang ý nghĩa trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu các
sản phẩm nông nghiệp chế biến Việt Nam xâm nhập thị trường mới và duy trì
ổn định các thị trường truyền thống.
Ngày nay, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng chặt chẽ hơn, khi mà
nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào kinh tế
thương mại. Các hành động cấm vận, đóng cửa thị trường, cho hoặc không
cho hưởng các điều kiện mậu dịch ưu đãi, xây dựng các khu vực thị trường
chung,... được sử dụng khá phổ biến trong quan hệ giữa các quốc gia với
nhau. Mậu dịch hàng nông sản thế giới cũng có vị trí quan trọng trong quan
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 70 -
hệ giữa các quốc gia với nhau. Thông thường, cơ hội tiếp cận thị trường xuất
khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp bị hạn chế bởi các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan của mỗi quốc gia, do đó phải được đàm phán, thoả thuận ở cấp
độ quốc gia và đôi khi trở thành điều kiện cho các thoả thuận thương mại của
các hàng hoá khác. Vì vậy, Chính phủ đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc xây dựng, củng cố và phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm
nông nghiệp nói chung và các sản phẩm nông nghiệp chế biến nói riêng.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta, cùng với sự chuyển đổi kinh tế, công tác điều
hành, quản lý của Chính phủ cũng đang từng bước được đổi mới, thay vì
những điều hành tác nghiệp, lấn sang nhiệm vụ của các doanh nghiệp là
những điều hành mang tầm vĩ mô, tạo lập các quan hệ và hỗ trợ cho các
doanh nghiệp tiếp cận với thị trường ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế thị trường
xuất khẩu các nông sản chế biến trong giai đoạn vừa qua cho thấy vẫn còn
nhiều vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức hơn nữa. Ví dụ, việc đàm
phán tìm ra phương thức xử lý công nợ với các nước SNG và Đông âu để các
sản phẩm nông nghiệp chế biến Việt Nam tìm lại được thị trường truyền
thống; hoặc đàm phán với Trung Quốc để xử lý vấn đề buôn lậu biên giới và
đưa ra các thương lượng về mậu dịch nói chung, trong đó có vấn đề xuất khẩu
các sản phẩm nông nghiệp chế biến của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc, nhằm giảm bớt rủi ro trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Qua nghiên cứu thị trường xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam, trong
giai đoạn tiếp theo, có thể tiến hành một số hoạt động chủ yếu đối với một số
thị trường xuất khẩu sau:
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 71 -
Đối với thị trường Đông âu và các nước phát triển khác có rào cản lớn (thuế
quan, yêu cầu về xuất sứ sản phẩm, tiêu chuẩn ngặt nghèo về vệ sinh môi
trường,...) nên tìm cách có được các điều kiện ưu đãi mậu dịch.
Đối với thị trường Trung Quốc, một quốc gia đang tiến hành mạnh mẽ quá
trình công nghiệp hoá, các đàm phán về thương mại nên tập trung vào các sản
phẩm nông nghiệp nguyên liệu và chủ yếu về dung lượng trao đổi thương mại
song phương trên phương diện giá cả.
Đối với thị trường các nước ASEAN nên tập trung vào thương lượng nhằm
cân bằng cán cân thương mại.
Đối với các nước SNG và Đông âu vấn đề hàng đầu vẫn là xử lý nợ tồn đọng
và nên tập trung vào việc ký kết các Hiệp định giữa các Chính phủ.
Đối với các nước mất an ninh lương thực nên thông qua các tổ chức viện trợ
nhân đạo để xuất khẩu các sản phẩm các sản phẩm lương thực thực phẩm...
4) Các biện pháp xúc tiến thương mại hàng nông sản chế biến:
Đây là giải pháp nhằm tiếp tục tháo gỡ những chồng chéo, phiền phức không
đáng có của các công cụ quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu nói chung. Đồng thời, hoàn thiện các công cụ quản lý mới
trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 72 -
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là các Bộ sản xuất phải
trực tiếp chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá làm ra, các biện pháp
xúc tiến thương mại được thực hiện dưới nhiều hình thức:
- Công tác thông tin thị trường: xây dựng trang web về hàng nông sản
chế biến, thông tin cung cầu và giá cả hàng nông sản chế biến trên thị
trường trong nước và thế giới. Phát hành các ấn phẩm về nông sản chế
biến, địa chỉ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tổ chức các cuộc
tiếp xúc với nước ngoài trong hoạt động thị trường và xúc tiến thương
mại.
- Tổ chức các hội nghị liên quan đến thị trường, xúc tiến thương mại
- Tổ chức tham gia các hoạt động hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước
tạo cơ hội cho doanh nghiệp giới thiệu hàng hoá, tìm kiếm bạn hàng và
học hỏi kinh nghiệm của các đối tác.
- Tổ chức các khoá đào tạo về xúc tiến thương mại; tổ chức các lớp đào
tạo về xây dựng và quản lý chất lượng hàng hoá theo ISO cho các
doanh nghiệp.
Giải pháp này là việc làm tất yếu trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế ở nước ta, hơn nữa, bản thân hoạt động quản lý là hoạt động tự hoàn
thiện, được điều chỉnh trong quá trình vận hành. Hiện nay, những vấn đề bức
xúc đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung đang tồn đọng về
nhiều mặt cả về hệ thống pháp lý và những quy định về thủ tục hành chính.
Trong đó nổi lên các mâu thuẫn giữa chính sách thuế và chính sách khuyến
khích sản xuất và xuất khẩu, mâu thuẫn giữa chính sách khuyến khích xuất
khẩu và chính sách quy định tỷ giá ngoại hối,...
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 73 -
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế và trong sự
nghiệp phát triển chung, do đó đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu nông sản chế biến cũng cần có môi trường kinh doanh đặc biệt. Đó là
môi trường chứa đựng trong nó yếu tố bảo hộ nông nghiệp và trợ cấp nông
nghiệp đều có chính sách hỗ trợ, bù lỗ cho giới kinh doanh nông sản. Mặc dù,
xu thế chung hiện nay là các nước phải cắt giảm các khoản bảo hộ và trợ cấp
đối với các sản phẩm nông nghiệp, nhưng đối với Việt Nam, do là nước
nghèo, nên các khoản chi của Chính phủ cho mục tiêu bảo hộ và trợ cấp trước
đây và hiện nay hầu như không đáng kể, nên vẫn cần phải tăng cường trong
giai đoạn tiếp theo. Trên thực tế ở Việt Nam, việc quy định giá sàn (hình thức
bảo hộ nông nghiệp chủ yếu của các nước có nền kinh tế chuyển đổi) mới chỉ
áp dụng cho thu mua lúa, còn đối với các sản phẩm nông nghiệp khác chưa có
quy định. Trong xuất khẩu, các trợ giúp cho các sản phẩm nông nghiệp chế
biến xuất khẩu hầu như chưa được áp dụng. Điều này đã làm ảnh hưởng
không ít đến khả năng xuất khẩu các nông sản chế biến Việt Nam trước đây
và hiện nay.
5) Tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường xuất
khẩu nông sản chế biến thế giới:
Đây là giải pháp nhằm tạo nên một hệ thống kinh doanh có quy mô đủ lớn, đủ
linh động có khả năng tiếp cận thị trường tốt và ứng xử nhanh với biến động
của thị trường, đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của các doanh
nghiệp kinh doanh nông sản chế biến.
Các yếu tố về giá cả: bao gồm chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí về vận
chuyển, đóng gói, quảng cáo và marketing sản phẩm, lợi nhuận,... Nói chung,
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 74 -
tất cả các chi phí liên quan đến việc đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ,...
ngày càng được giới tiêu dùng có thu nhập cao ở các nước phát triển quan
tâm.
Đối với yếu tố giá cả, hầu hết các nông sản chế biến của Việt Nam đều bán ra
với mức giá thấp hơn nhiều so với giá sản phẩm cùng loại của các nhà cung
cấp của các nước khác. Trong điều kiện nền nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, đất đai
canh tác kém màu mỡ, kỹ thuật canh tác yếu kém, phương tiện bảo quản và
thiết bị chế biến thô sơ, hầu như không có cơ hội để sản phẩm của Việt Nam
có thể cạnh tranh được với đối thủ có tiềm lực mạnh mẽ trên mọi phương
diện, đặc biệt là tiềm lực tài chính để tăng đầu tư, phát triển sản xuất trên quy
mô lớn, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, trong những năm tới, Việt Nam cần
gia sức khai thác triệt để các yếu tố phi giá cả để tăng khả năng cạnh tranh của
nông sản chế biến xuất khẩu. Các yếu tố quan trọng nhất mà bất cứ một nhà
nhập khẩu nào cũng quan tâm, đặc biệt là những bạn hàng “khó tính” trên các
thị trường có sức tiêu thụ cao, đồng thời, có nhiều đòi hỏi nghiêm ngặt về mọi
phương diện liên quan đến mặt hàng là vấn đề chất lượng sản phẩm và cung
cấp hàng đúng thời hạn đã cam kết. Đây là hai vấn đề có tính sống còn để sản
phẩm Việt Nam có thể tồn tại và đứng vững trên thương trường quốc tế.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 75 -
KẾT LUẬN
Khoá luận “Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam đến năm
2010” được trình bày trong khuôn khổ 70 trang, trên cơ sở các nguồn thông
tin, số liệu khác nhau, khoá luận đã phân tích các vấn đề về nông sản chế
biến, nhằm đưa ra các định hướng cần thiết phục vụ cho yêu cầu nâng cao khả
năng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến
năm 2005.
Từ những vấn đề về thực trạng sản xuất và xuất khẩu nông sản chế biến Việt
Nam đang đặt ra những tồn tại, thách thức cần giải quyết trên con đường phát
triển để tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá hướng mạnh vào xuất khẩu,
ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu của các sản phẩm nông nghiệp Việt
Nam trên thị trường hàng nông sản chế biến khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục tiêu và kết
quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc không ít vào cách thức
tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói
chung và sản xuất, xuất khẩu nông sản chế biến nói riêng của Việt Nam trong
giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Hy vọng rằng, Việt Nam bằng vào những tiềm năng sẵn có trong sản xuất
nông nghiệp, định hướng phát triển đúng đắn của Đảng và Chính phủ sẽ tạo ra
những sản phẩm nông nghiệp phong phú về chủng loại, với nhiều tầng chất
lượng, có khối lượng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng được cải thiện, tạo
nên sức lan toả mạnh mẽ của “hương vị” Việt Nam trên thị trường hàng nông
sản chế biến thế giới.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 76 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thương mại - Phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001 - 2005
2. Bộ Thương mại - Triển vọng thị trường hàng nông sản chế biến thế giới
và khả năng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Những vấn đề bức xúc trong
sản xuất và tiêu thụ gạo, cà phê, chè giai đoạn 1999 - 2001. Dự báo khả
năng tiêu thụ các mặt hàng trên trong các năm tới
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Sơ bộ tình hình sản xuất và
tiêu thụ nông lâm sản năm 2002, dự kiến kế hoạch năm 2003.
5. Tạp chí Ngoại thương - Số ra tháng 8, 11 năm 2002, số ra tháng 1, 2
năm 2003
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam.pdf