Đề tài Đồng tiền chung

LỜI MỞ ĐẦU Thế giới đã được chứng kiến một sự kiện kinh tế kỳ diệu trong thập kỷ vùa qua, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử tiền tệ thế giới, một sự kiện đã được Tổng thống Pháp Jacques Chirac gọi là "sự cải cách lớn nhất và quan trọng nhất về kinh tế và tài chính trong vòng 50 năm qua". Đó là sự ra đời của Liên minh tiền tệ châu Âu EMU và đồng tiền chung châu Âu EURO. Khác với các liên minh tiền tệ trước đây hình thành trên cơ sở một mối quan hệ chính trị nào đó, Liên minh tiền tệ châu Âu liên kết 12 quốc gia độc lập có chủ quyền với một mục tiêu chung là biến châu Âu trở thành khu vực thịnh vượng và ổn định nhất trên thế giới. Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các nước Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho khu vực. Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á đã được một số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành mối quan tâm thực sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở Đông Nam á. Hy vọng đồng tiền chung sẽ thúc đẩy nền kinh tế khu vực tăng trưởng ổn định, bền vững, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn kinh tế thế giới.

doc51 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7634 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đồng tiền chung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách quan ngoài tầm tay của các tổ chức, cá nhân. Nhưng từ đó có thể điều chỉnh các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, du lịch, vay trả nợ với khu vực này. Khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn chưa có cơ chế ràng buộc và cơ chế bảo đảm hiệu quả. Cuộc khủng hoảng nợ công chỉ nằm ở các con số và loại tiền tệ, không có sự thay đổi, cải tiến hay bổ sung nào về chế độ và cơ cấu. Đáng lưu ý, có tới hơn 60% dân số của các nước thành viên khu vực sử dụng đồng euro không hài lòng về đồng euro, điều này khiến cho đồng euro đối diện với nguy cơ sụp đổ. Cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài hơn 3 năm qua đã khiến Anh thực sự không muốn gia nhập vào khu vực này trong khi một số người Đức có tư tưởng rút ra khỏi khu vực và ngày càng có nhiều ý kiến đối lập, mẫu thuẫn giữa các nước trong khu vực Thị trường Tài chính Đồng EUR đã làm hạn chế sự tăng trường của thị trường Chứng khoán Châu Âu. Thị trường vàng quốc tế tíếp tục xu thế tăng cao. Biên độ giá vàng có thể lên tới 20%. Xuất khẩu khó khăn kéo GDP giảm sút Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh. Lãi suất thấp, chấp nhận lạm phát Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ước các nước phát triển vẫn huy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. FDI suy giảm Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tac động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc. Bảo hiểu rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm. Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào cuối năm  Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD.  7.3. Những thách thức cho khu vực đồng Euro Ngày 1-1-1999, ý tưởng về một đồng tiền chung Euro đã trở thành hiện thực. Hơn 10 năm sau, euro đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Nguyên nhân sâu xa là một liên minh tiền tệ được xây dựng dựa trên một nền tảng còn khiếm khuyết về pháp lý và chính trị. Tham vọng biến EU thành một nhà nước liên bang là khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, nền tảng pháp lý là Hiến pháp châu Âu lại chưa được thông qua, Hiệp ước Lisbon chưa thể thay thế một bản Hiến pháp mà EU kỳ vọng. Hạ tầng kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc. Tuy nhiên, yếu tố chính trị sẽ tạo kỷ cương trong việc tuân thủ các chuẩn mực được thỏa thuận trong Hiệp ước Maastricht . EU đã đặt ra các mục tiêu và thời hạn hoàn thành mục tiêu trong quá trình hình thành đồng tiền chung nhưng thiếu hệ thống giám sát nghiêm ngặt các chuẩn mực của đồng tiền chung. Về mặt kỹ thuật, quá trình hình thành đồng tiền chung đã có những thiếu sót. Một đồng tiền hoàn thiện phải có sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; giữa ngân hàng trung ương và bộ tài chính. Khi đối mặt với những bất ổn của nền kinh tế, ECB giải quyết vấn đề thanh khoản và bộ tài chính các nước phải giải quyết các vấn đề ngân sách theo một chuẩn mực chung nhằm bảo vệ sự ổn định tài chính cho khu vực đồng tiền chung. Các chuyên gia cho rằng dù cho sự thất vọng này sẽ được xoa dịu dần khi nền kinh tế châu Âu phục hồi sau nhiều năm trì trệ thì đồng Euro cũng khó có khả năng thay thế được đồng đôla trong vai trò là đơn vị thanh toán thống trị toàn cầu. Nếu xét về tổng thể thị trường, Mỹ vẫn có ưu thế vượt trội, có ảnh hưởng đến nhiều thị trường khác trên thế giới. Thêm vào đó, dù sao khối EU vẫn là tập hợp từ nhiều nền kinh tế, với tốc độ phát triển và chu kỳ khác nhau, còn Mỹ là một nền kinh tế thống nhất. 8. Những thuận lợi và khó khăn của các nước khi sử dụng đồng tiền chung châu Âu 8.1 Thuận lợi Việc đồng tiền chung ECU ra đời đã giúp cho liên minh Châu Âu có một chính sách tài chính và tiền tệ thống nhất. EU đang nỗ lực hoàn thành việc xây dựng thị trường thống nhất trong khối, tạo cơ sở vạch ra những giải pháp để thu hẹp khoảng cách trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giữa các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu. Trong đó các công ty và dân cư đều có các hoạt động kinh doanh như nhau ở khắp mọi nơi trong phạm vi EU. Các quốc gia sử dụng đồng EURO trên cơ sở có sự đồng nhất về một số yếu tố. Sự tương đồng về cơ cấu kinh tế, tương đồng về mặt văn hóa, và sự gần gũi nhau về mặt địa lý. Trong những lúc ktế khó khăn, họ đều có những cách giải quyết tương đối giống nhau. Vì vậy, việc có một cơ chế chính sách tiền tệ đơn nhất sẽ tạo được sự liên kết nhằm giảm tránh các cú sốc kinh tế. Ổn định vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo hiệp ước Maastricht, buộccác nước EU phải thực hiện các tiêu thức gia nhập. Trong thời kỳ từ năm 1993-1997 tỷ lệ lạm phát bình quân EU đã giảm từ 4,1% xuống còn 1,9%, lãi suất dài hạn từ 8% xuống còn 6,7%, thâm hụt ngân sách giảm từ 6,1% xuống còn 2,4% GDP. Đạt được thăng bằng hoặc thặng dư ngân sách, góp phần giảm chi phí vay nợ của nhà nước vế sau này và nguồn vốn tiết kiệm được có thể đầu tư vào các hoạt động kinh tế và tạo công ăn việc làm mới. Với việc thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng ổn định giá cả sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển, kiềm chế lạm phát ở mức thấp, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một đảm bảo giữ chonền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn. Người tiêu dùng, các doanh nghiệp ở mỗi nước sẽ giảm được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế, giảm được sự chênh lệch về tỉ giá hối đoái. Nhờ cơ chế tỷ giá ổn định giữa các nước thành viên sẽ giúp các nước tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia cũng như việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ Châu Âu là một ví dụ: Để thu hút ngoại tệ trang trải cho nhứng tốn kém của Đông Đức, do đó nước Đức áp dụng chính sách tăng lãisuất rất cao để nhà đầu tư đổ tiền vào Đức. Trong khi đó Pháp muốn duy trì lãi suất thấpvừa phải. Nhưng tất cả các đồng tiền trong EMS có liên quan với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng Phrăng Pháp(FFr) hạ giá so với đồng Mác Đức. Giới đầu cơ đã tính đến lúc đồng FFr phải phá giá và họ tập trung tấn công đồng FFr dẫn đến đồng FFr bị phá giá nghiêm trọng và cả hệ thống EMS bị lung lay.Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Âu 1992-1993 đã làm cho các nước thành viên bị chao đảo. Khuyến khích đầu tư và thương mại: Do tôn trọng tiêu chí gia nhập về lãi suất trung và dài hạn không được vượt quá 2% mức lãi suất trung quân của 3 nước thấp nhất, làm cho lãi suất giữa các nước EU giảm, độ chênh lệch lãi suất giữa các nước thu hẹp lại, làm tăng tốc độ luân chuyển các nguồn vốn và tăng số lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự biến động tỉ giá của đồng USD:Đồng Euro sẽ trở thành phương tiện để dự trữ và giao dịch thưong mại có sức cạnh tranh với đồng USD. Hiện nay, EURO vượt lên với tư cách là đồng tiền thế giới và đứng thứ 2 chỉ sau USD, nhanh chóng vượt qua 2 đối thủ nặng ký là bảng Anh và Yên Nhật. 8.2 Khó khăn: Việc Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng. Mỗi nước tham gia đều có nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Sự cách biệt năng suất và lạm phát nhưĐức với Hy Lạp hay Tây Ban Nha là quá lớn,…nên việc áp dụng một chính sách tiền tế cũng như một mức lãi suất chung nhằm dung hòa lợi ích của các nước là một cuộc đấu tranh gay go, đòi hỏi phải có sự thỏa hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, các nước tham gia phải phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt, điều chỉnh chính sách cho phù hợp…Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo… Hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp,năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Bên cạnh đó theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25%thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lạiđược chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Ngoài ra, việc sử dụng đồng Euro tạo điều kiện vay vốn với chi phí thấp (lãi suất giảm xuống gần bằng mức lãi suất của Đức khiến cho chi phí vay nợ rẻ hơn đáng kể. Không những thế, nguồn tín dụng còn rất phong phú, thuận lợi cho người đi vay thế chấp, vay bằng thẻ tín dụng hay vay mua xe) khiến tiêu dùng trong nước bùng nổ, sự bùng nổ không bắt nguồn từ xuất khẩu mà là do tiêu dùng trong nước tăng đột biến kéo theo chi phí sản xuất leo thang đã nhanh chóng đẩy giá cả lên cao, thiếu hụt lao động bỗng trở thành vấn đề cốt yếu- đặc biệt là tiền lương nhân công. Điều này làm suy giảm nhanh chóng sức cạnh tranh của các quốc gia đó so với những nước khác trong khu vực. Ảnh hưởng của những khoản vay giá rẻ còn khiến cho lãi suất không thể tăng lên nhằm kìm hãm đà lạm phát và ngăn chặn bong bóng giá cả. Nhưng rắc rối còn chưa chấm dứt ở đó, việc vay mượn dễ dàng trở thành một cám dỗ khuyến khích các chính phủ chi tiêu phung phí, và hậu quả là họ đang phải vật lộn với nguy cơ vỡ nợ. II. SDR 1. Vấn đề chung về SDR SDR là đơn vị tính toán tiền tệ và cũng là đồng tiền của IMF. Sức nặng của mỗi đồng tiền trong SDR được IMF quyết định dựa trên giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của nước hoặc liên minh tiền tệ phát hành đồng tiền đó, đồng thời dựa trên số lượng ngoại tệ mà các nước thành viên IMF dự trữ bằng đồng tiền này. Hình thái tồn tại của đồng SDR là những con số ghi trên tài khoản. IMF mở cho mỗi nước thành viên một tài khoản để ghi các khoản SDR được phân bổ và để hạch toán các khoản thu chi bằng SDR giữa ngân hàng trung ương các nước trong việc thực hiện theo cán cân thanh toán của các nước. Tuy nhiên nó chỉ là đơn vị qui ước, chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong lưu thông do vậy người ta không thể tiêu nó như các loại tiền tệ dùng trong lưu thông khác. Khi giải ngân, có thể quy đổi ra một loại tiền tệ mạnh nào đó như Đô la Mỹ, Euro, hoặc Yên Nhật,… tùy tình huống. SDR được định nghĩa như là một rổ tiền tệ thế giới và được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh như USD, Bảng Anh, Euro và Yên Nhật. IMF tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng được chính phủ các nước thành viên hỗ trợ. Giá quy đổi theo USD của SDR được niêm yết hàng ngày trên website của IMF. Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4 đồng tiền trên quy đổi ra USD dựa theo tỷ giá hối đoái niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày trên thị trường tiền tệ London. Sứ mệnh của đồng SDR Đồng tiền này ra đời với mục đích là giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng, vốn được là những công cụ thanh toán quốc tế duy nhất. SDR ra đời đã bổ sung vào quỹ dự trữ tiền tệ thế giới, làm cho hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt hơn, đồng thời khiến cho thị trường hối đoái ổn định hơn. SDR là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên. SDR có thể được sử dụng trong quan hệ tín dụng giữa các nước thành viên IMF với quỹ này cũng như trong thanh toán cán cân thương mại giữa các quốc gia. 2. Lịch sử hình thành: Sau chiến tranh Thế giới thứ II, Anh, Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau xây dựng hệ thống TGHĐ cố định : Hệ thống Bretton Woods (1944-1973), trong đó, các quốc gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo TGHĐ chính thức, và NH trung ương Mỹ phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD thành vàng với giá 35USD/ounce vàng. Tuy nhiên, với sự phát triển của thương mại và tài chính quốc tế, nguồn lực dự trữ chủ yếu bằng vàng và USD của các quốc gia trở nên không đủ đáp ứng Năm 1969, SDR được Quỹ Tiền tệ Quốc tế đặt ra theo đề nghị của 10 nước trong câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức. Khi được khai sinh, SDR là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của các quốc gia thành viên, góp phần giúp duy trì TGHĐ của đồng nội tệ. Tại thời điểm này hệ thống TGHĐ cố định trong khuôn khổ Hiệp ước Bretton Woods đang tồn tại nên các nước tham gia hiệp ước phải đảm bảo dự trữ vàng hoặc tiền tệ mạnh để có thể sử dụng nó mua vào nội tệ khi cần thiết nhằm duy trì TGHĐ. Ban đầu, SDR được tính theo vàng: 1 SDR= 0,888671 g vàng = 1USD. Năm 1974, SDR không được xác định bằng vàng nữa, mà căn cứ vào giá trị một số đồng tiền của một số nước chủ yếu, gồm 16 nước mà mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên trong thương mại quốc tế: Hoa Kì, Anh, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Italia, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Canađa, Hà Lan, Bỉ, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Na Uy, Ôxtrâylia, Áo, Nam Phi. Đến 1980, giảm xuống còn 5 nước: Mỹ (Đô la Mỹ), Anh (Bảng Anh), Pháp (Phrăng),  Đức (Mác) và Nhật Bản (Yên). Từ năm 1999 đến nay, khi đồng tiền chung châu Âu (EUR) ra đời và có sự thay đổi về tiềm lực tài chính của các nước phát triển, IMF đã đưa EUR vào rổ tiền tệ và bỏ Franc (Pháp) và Mac (Đức) ra khỏi rổ tiền tệ. Sau khi hệ thống TGHĐ cố định bị sụp đổ và áp dụng tỷ giá thả nổi, tỷ giá của các đồng tiền thường xuyên biến động. Vì vậy, IMF công bố hàng ngày TGHĐ của từng đồng tiền quốc gia với SDR 3. Cơ chế hoạt động: Theo IMF: SDR là một loại tiền tệ do quỹ tiền tệ quốc tế IMF tạo ra vào năm 1969, đóng vai trò là một bộ phận trong dự trữ quốc tế của các nước thành viên. SDR được phân bổ cho các nước thành viên theo tỷ lệ góp vốn của các nước thành viên vào IMF. Giá trị của SDR được tính dựa trên rổ các loại tiền tệ mạnh: trong đó, USD chiếm 41.9%, EUR 37.4%, JPY 9.4%, GBP 11.3% giai đoạn tháng 1năm 2011 đến tháng 12 năm 2015 (Nguồn từ IMF) Hình thái tồn tại của đồng SDR là những con số ghi trên tài khoản. IMF mở cho mỗi nước thành viên một tài khoản để ghi các khoản SDR được phân bổ và để hạch toán các khoản thu chi bằng SDR giữa ngân hàng trung ương các nước trong việc thực hiện theo cán cân thanh toán của các nước. Tuy nhiên nó chỉ là đơn vị qui ước, chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong lưu thông do vậy người ta không thể tiêu nó như các loại tiền tệ dùng trong lưu thông khác. Khi giải ngân, có thể quy đổi ra một loại tiền tệ mạnh nào đó như Đô la Mỹ, Euro, hoặc Yên Nhật,... tùy tình huống. Ngày nay SDR ít được sử dụng như một tài sản dự trữ, mà chức năng chính của nó là sử dụng như một tài khoản tại IMF của các nước thành viên và một số tổ chức quốc tế khác, sử dụng như một đơn vị tính toán. Quốc gia nắm giữ SDR có thể đổi ra các đồng tiền khác theo hai cách: Thông qua thoả thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác. Thông qua một thành viên được chỉ định, có điạ vị đối ngoại cao để trao đổi với một thành viên khác có vị thế yếu hơn. Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của IMF liên quan đến quyền bỏ phiếu của từng thành viên đối với các quyết định tài trợ, cho vay… của IMF. Ngày nay, giá trị của SDR được tính toán dựa vào một nhóm các đồng tiền mạnh theo tỷ lệ bình quân gia quyền theo USD. Từ 1969 đến tháng 6/1974, SDR được định nghĩa bằng giá trị của USD và USD xác định theo giá trị so với vàng: Từ 1969 đến ngày 17 tháng 12 năm 1971: 35 USD = 1 oz vàng. Từ ngày 18 tháng 12 năm 1971 đến ngày 11 tháng 2 năm 1973: 38 USD = 1 oz vàng. Từ ngày 12 tháng 2 năm 1973 đến ngày 30 tháng 6 năm 1974: 42,22 USD = 1 oz vàng. Năm 1973, chế độ tỷ giá hối đoái cố định sụp đổ nên từ tháng 7 năm 1974 đến nay, SDR được định nghĩa theo các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài chính quốc tế: Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDR được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại và tài chính quốc tế. Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo của IMF thực hiện sau mỗi 5 năm. Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2015 là: Thời gian USD USD DEM DEM FRF FRF JPY JPY GBP GBP 1981–1985 1981-1985 0.540 (42%) 0,540 (42%) 0.460 (19%) 0,460 (19%) 0.740 (13%) 0,740 (13%) 34.0 (13%) 34,0 (13%) 0.0710 (13%) 0,0710 (13%) 1986–1990 1986-1990 0.452 (42%) 0,452 (42%) 0.527 (19%) 0,527 (19%) 1.020 (12%) 1,020 (12%) 33.4 (15%) 33,4 (15%) 0.0893 (12%) 0,0893 (12%) 1991–1995 1991-1995 0.572 (40%) 0,572 (40%) 0.453 (21%) 0,453 (21%) 0.800 (11%) 0,800 (11%) 31.8 (17%) 31,8 (17%) 0.0812 (11%) 0,0812 (11%) 1996–1998 1996-1998 0.582 (39%) 0,582 (39%) 0.446 (21%) 0,446 (21%) 0.813 (11%) 0,813 (11%) 27.2 (18%) 27,2 (18%) 0.1050 (11%) 0,1050 (11%) Period Thời gian USD USD EUR EUR JPY JPY GBP GBP 1999–2000 1999-2000 0.5820 (39%) 0,5820 (39%) 0.2280 (21%) 0,2280 (21%) 0.1239 (11%) 0,1239 (11%) 27.2 (18%) 27,2 (18%) 0.1050 (11%) 0,1050 (11%) = 0.3519 (32%) [ 9 ] = 0,3519 (32%) 2001–2005 2001-2005 0.5770 (45%) 0,5770 (45%) 0.4260 (29%) 0,4260 (29%) 21.0 (15%) 21,0 (15%) 0.0984 (11%) 0,0984 (11%) 2006–2010 2006-2010 0.6320 (44%) 0,6320 (44%) 0.4100 (34%) 0,4100 (34%) 18.4 (11%) 18,4 (11%) 0.0903 (11%) 0,0903 (11%) 2011–2015 [ 6 ] [ note 2 ] 2011-2015 0.6600 (41.9%) 0,6600 (41,9%) 0.4230 (37.4%) 0,4230 (37,4%) 12.1000 (9.4%) 12,1000 (9,4%) 0.1110 (11.3%) 0,1110 (11,3%) (Nguồn từ IMF ) SDR được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh (đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro và Yên Nhật). IMF tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng được chính phủ các nước thành viên hỗ trợ. 1 SDR = Ʃ (giá trị quy ra USD của 4 loại tiền tệ)= Ʃ (tỷ trọng của 1 loại tiền tệ trong rổ tiền tệ SDR x tỷ giá của loại tiền tệ đó so với USD) (công thức bình quân gia quyền) Giá quy đổi theo đôla của SDR được niêm yết hàng ngày trên website của IMF (có thể xem tại: Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4 đồng tiền trên quy đổi ra đôla dựa theo TGHĐ niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày trên thị trường tiền tệ (thị trường ngoại hối) London. Nếu thị trường ngoại hối London đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường ngoại hối New York, cuối cùng là tỷ giá trên thị trường ngoại hối Frankfurt sẽ được sử dụng nếu thị trường New York cũng đóng cửa. Giá trị của các đồng tiền tham gia trong giỏ tiền tệ SDR được IMF quyết định dựa trên giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của nước hoặc liên minh tiền tệ phát hành đồng tiền đó, đồng thời dựa trên lượng ngoại tệ mà các nước thành viên IMF dự trữ bằng đồng tiền này. Bảng minh hoạ tính toán khối lượng tiền tệ trong giỏ giá trị SDR mới Calculation of Currency Amounts in the New SDR Basket (Thời điểm tính toán: ngày 30 tháng 12 năm 2010) (Nguồn từ Ngân hàng Nhà nước Niệt Nam) (1) (2) (3) (4) Loại tiền tệ Giá trị phân bổ mới của 1 đồng SDR cho các đồng tiền ( tính theo %) Số lượng của mỗi đồng tiền (tính theo số tuyệt đối) tham gia cấu thành 1 đồng SDR1 Tỷ giá các đồng tiền so với USD ngày 30/12/2010 2  Quy ra USD   Euro 37, 4 0, 4230 1,32500 0, 560475 Yên Nhật 9,4 12, 1000 81, 63000 0, 148230 Bảng Anh 11,3 0, 1110 1, 54350 0, 171329 Đôla Mỹ 41,9 0, 6600 1, 00000 0, 660000 SDR1 = US$ 3 1, 54003  1Số lượng - amount của các đồng tiền tham gia trong 1 đồng SDR tính theo tỷ giá hối đoái bình quân của đồng tiền đó trong khoảng thời gian từ 1 tháng 10 đến 30 tháng 12/2010 (theo đó giá trị của cột 2 nhân với cột 3 ra giá trị của cột 4). 2Tỷ giá đồng Yên Nhật được yết theo tỷ lệ một số đồng Yên Nhật so với 1 đồng đô la Mỹ; các tỷ giá khác phản ánh tỷ lệ một số đồng đô la Mỹ trên một đơn vị tiền tệ được niêm yết. 3 Giá trị của một số đơn vị đôla Mỹ trên một đơn vị SDR, được làm tròn trong khoảng 6 chữ số. SDR là một công cụ có lãi. Các thành viên nhận lãi suất SDR theo tỷ lệ nắm giữ và thanh toán tiền lãi SDR tính trên phần phân bổ SDR của mình. Các thành viên giảm phần phân bổ ban đầu của mình để mua đồng tiền nước khác phải trả lãi SDR, và các thành viên có đồng tiền được mua sẽ nhận tiền lãi trên phần SDR tăng thêm. Lãi suất SDR được tính  dựa trên bình quân gia quyền của lãi suất cho vay ngắn hạn điển hình của các quốc gia có đồng tiền trong rổ tiền tệ SDR (Pháp, Đức, Nhật, Vương quốc Anh và Mỹ) và được điều chỉnh hàng tuần. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2002, lãi suất SDR là 2,23%. Tiền lãi được trả theo quý. 4. Tác động: 4.1. Tác động đến thị trường tài chính: SDR ra đời là sự kiện đánh dấu sự thay đổi của hệ thống tỷ giá hối đoái (TGHĐ) cố định sang TGHĐ linh hoạt hơn. Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng đôla và vàng là công cụ thanh toán quốc tế duy nhất. SDR ra đời đã bổ sung vào quỹ dự trữ tiền tệ thế giới, làm cho hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt hơn, đồng thời khiến cho thị trường hối đoái ổn định hơn.  Việc IMF phát hành một lượng lớn đơn vị tiền tệ SDR sẽ giúp giảm hậu quả của cuộc suy thoái bằng cách cho phép các ngân hàng trung ương hối đoái SDR với các đồng tiền khác như USD hay EUR và sử dụng chúng để tài trợ cho hoạt động nhập khẩu. Việc phát hành SDR thường niên, mà phần lớn được dùng cho viện trợ quốc tế, sẽ trở thành một công cụ tiền tệ hữu ích. Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) nhóm họp và đi đến quyết định sẽ phát hành trái phiếu quốc tế dưới dạng SDR – “Quyền rút vốn đặc biệt”. Đã có một số nước “háo hức” mua với khối lượng lớn, trong đó có Trung Quốc (dự kiến khoảng 50 tỷ USD) và Nga (10 tỷ USD): các nước G20 đã cam kết bổ sung nguồn lực cho IMF với số tiền lên tới 500 tỉ. 185 nước thành viên IMF đã thống nhất về một bước đi chưa từng có tiền lệ của IMF, là phát hành trái phiếu. Trái phiếu mới của IMF sẽ được chào bán dưới dạng “Quyền rút vốn đặc biệt – SDR”. Rõ ràng, đây là một khối lượng quá lớn và sẽ tăng đáng kể sự “hiện diện” của đồng tiền này “trong kho” rất nhiều quốc gia. Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cho thấy rằng, những quốc gia có dự trữ tiền tệ lớn có khả năng đối phó tốt hơn với những biến động của thị trường tài chính quốc tế. Trong khi tích lũy dự trữ sẽ giúp bảo vệ các quốc gia, nhưng trong một khoảng thời gian nhất định sẽ làm giảm nhu cầu tổng thể toàn cầu. Với quy mô phát hành đồng SDR hàng năm tương đối nhỏ, nó sẽ chỉ bù đắp một phần sự thiếu hụt đó, nhưng lại giúp duy trì và thúc đẩy phục hồi toàn cầu, không gây áp lực lạm phát. USD có thể được coi là đồng tiền thống trị thế giới, nhưng khi Chính phủ Mỹ gặp rắc rối như hiện nay, thì USD có thể bị hạ bệ bất cứ lúc nào. Đồng Euro đang biến động mạnh do cuộc khủng hoảng nợ kéo dài tại châu Âu và hành động nâng lãi suất của ECB. Đồng Yên cũng đang cần tới sự hỗ trợ của Chính phủ để đảm bảo không bị tăng giá quá cao sau trận động đất ngày 11/3. Trong một bối cảnh như vậy, việc tăng cường sử dụng đồng SDR có lẽ là một hướng đi mới, giúp ổn định được thị trường tiền tệ thế giới. Thế giới sẽ không rơi vào tình trạng quá phụ thuộc vào một đồng tiền nhất định, và sẽ xảy ra bất ổn khi Chính phủ phát hành đồng tiền đó gặp rắc rối. 4.2. Tác động đến nền kinh tế thế giới: Đưa đồng SDR vào lưu thông không chỉ cung cấp thêm nguồn lực tài chính cho IMF mà còn giúp tổ chức này giải quyết được vấn đề mất cân đối trong tiếng nói và quyền đại diện của các quốc gia đang phát triển trong IMF, nơi mà Hoa Kỳ đang giữ quyền phủ quyết đối với các quyết định lớn và quan trọng. Đứng trước một thị trường tài chính toàn cầu không ổn định, các quốc gia và các công ty đang tìm cách bảo vệ giá trị đồng tiền. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã đề ra một công cụ để bảo toàn giá trị dự trữ bằng cách gắn liền SDR với một rổ tiền. Đồng tiền SDR giúp giảm nhẹ tác động tiêu cực đang gia tăng của cuộc khủng hoảng. Hiện nay, vai trò toàn cầu của SDR nên được gia tăng cũng theo cách đó, qua cả việc phát hành mới lẫn vai trò lớn hơn của SDR trong hoạt động cho vay của IMF. Việc phát hành thêm SDR có thể được đưa ra trong thời điểm các dòng vốn tư nhân có xu hướng sụt giảm hoặc giá hàng hóa cơ bản trên thế giới trượt dốc. Viếc phát hành SDR của IMF cũng một phần thay thế nhu cầu gia tăng dự trữ của các quốc gia. So với quy mô khá nhỏ của mình, việc phát hành thêm SDR cũng sẽ giúp củng cố và gia tăng sự phục hồi của nền kinh tế thế giới mà không dẫn tới áp lực lạm phát. Và bằng cách giảm bớt nhu cầu dự trữ ngoại hối của các quốc gia, nó cũng giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc suy giảm sự mất cân bằng toàn cầu. Các biện pháp mới để gia tăng sức hiệu quả của đơn vị tiền tệ SDR cũng hết sức cần thiết. Một cách đó là IMF sẽ sử dụng SDR để tài trợ cho các hoạt động cho vay đối với các quốc gia cần tới những khoản tài trợ ngắn hạn do áp lực từ cán ân thanh toán, như những gì đang xảy ra tại Hy Lạp và Ireland. Cuối cùng, SDR có thể trở thành đồng tiền chủ chốt, thậm chí là duy nhất trong cơ chế cho vay của IMF. Vừa rồi, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ cho vay ưu đãi trị giá 235,2 triệu Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) tương đương khoảng 350 triệu đô la Mỹ thông qua Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo 8 (PRSC8). Chương trình PRSC8 là chương trình toàn diện, liên quan đến nhiều lĩnh vực và chính sách, với sự tham gia của 20 bộ, ngành và các cơ quan hữu quan khác của Chính phủ nhằm góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững và giúp nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta khi Việt Nam phải đối mặt với những thách thức kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu. Hơn thế nữa, khi khủng hoảng xảy ra đồng thời ở nhiều quốc gia, như đã từng xảy ra tại Đông Á năm 1998, hoạt động cho vay của IMF hoàn toàn có thể được tài trợ bằng việc phát hành mới SDR với số lượng không giới hạn. Nếu và khi nền kinh tế thế giới phục hồi hay bùng nổ, việc phát hành SDR theo đó có thể được ngưng lại hoặc thậm chí được hút trở lại. Do đó, IMF sẽ có vai trò lớn hơn trong việc tạo ra các nguồn thanh khoản chính thức, và theo cách này hạn chế được cả xu hướng suy thoái và lạm phát trong những thời điểm khác nhau. 5. Các hạn chế, và biện pháp 5.1. Hạn chế: Đầu tiên phái nói đến là SDR là một đồng tiền “danh nghĩa”, chỉ là đơn vị quy ước, chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong lưu thông, do vậy người ta không thể tiêu nó như các loại tiền tệ khác Mặc dù việc tính toán để phân bổ SDR nói chung được thực hiện 5 năm một lần nhằm đáp ứng nguồn lực dự trữ bổ sung trên phạm vi toàn cầu trong dài hạn nhưng từ khi ra đời cho đến nay, IMF mới quyết định phân bổ SDR 2 lần. Lần thứ nhất trong giai đoạn 1970-1972 với tổng số 9,3 tỷ USD, lần thứ hai trong giai đoạn 1979-1981 đưa tổng số đã phân bổ lên 21,4 tỷ USD. Trong điều kiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hiện nay, vai trò của SDRs với tư cách là tài sản dự trữ bổ sung rất hạn chế, nó chủ yếu phát huy tác dụng như một đơn vị tính toán. Năm 1997, IMF đã phê chuẩn đề nghị về khoản phân bổ đặc biệt và một lần của SDRs để nâng tổng mức phân bổ lên gấp đôi (42,8 tỷ USD) do hơn 20% thành viên gia nhập IMF sau năm 1981 chưa từng được phân bổ SDR. Cũng xuất phát từ thực trạng vai trò của SDR đã bị hạn chế và một thực tế là tổng tài sản dự trữ của các quốc gia là khoảng 1,6 nghìn tỷ USD đang nằm ngủ trong khi nguồn lực nhằm đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đang thiếu hụt, năm 2001, nhà tài phiệt George Soros và nhà kinh tế học Joseph Stiglitz đã đưa ra đề nghị dùng các khoản phân bổ SDR cho đầu tư phát triển. Việc phân bổ SDR sẽ làm giảm gánh nặng ngày càng nặng hơn từ cuộc khủng hoảng năm 1997 – 1999 vì dòng vốn chảy ngược từ những thị trường mới nổi.Các quốc gia phát triển không sử dụng lượng SDR phân bổ vì quỹ tiền tệ dự trữ của họ đã quá đủ, trường hợp của các nước Châu Âu thậm chí còn thừa dự trữ , và nếu họ bị thâm hụt cán cân thanh toán thì họ vẫn có thể vay được. Đó là lý do tại sao rất khó đạt được sự đồng thuận trong vấn đề phát hành SDR. Nếu các quốc gia phát triển thấy được tác dụng của viện trợ bằng SDR, lập luận ủng hộ phân bổ SDR sẽ được củng cố hơn nữa. Các ngân hàng trung ương từ trước đến nay vẫn phản đối phân bổ SDR vì việc này xâm phạm sự độc quyền về cung cấp tiền tệ của ngân hàng. Lý luận của họ là SDR gây lạm phát. Nhưng tình trạng lạm phát trong tương lai gần là rất thấp. Thậm chí có khả năng giá hàng hóa nhập khẩu đang giảm sẽ dẫn đến tình trạng giảm phát toàn cầu. Như ở Nhật hiện nay không có phương thuốc nào cho tình hình giảm phát. 5.2. Giải pháp: USD, Euro và Yên Nhật đang biến động bởi những vấn đề chính trị, khủng hoảng nợ và động đất. Đây là lúc thế giới hướng tới đồng tiền ổn định SDR. Do đó vai trò của SDR sẽ được mở rộng thông qua các hoạt động mới và việc tăng sử dụng đồng tiền này trong hoạt động cho vay của IMF, bằng cách đó IMF có thể phát hành SDR. Đó sẽ là hành động mang lại nhiều hiệu ứng tích cực. Đầu tiên, nó sẽ làm giảm suy thoái kinh tế thế giới, đặc biệt là trong và sau cuộc khủng hoảng. Nhiều nước tiếp tục tích lũy dự trữ tiền tệ ở mức cao phòng ngừa, đặc biệt là để tránh các cuộc khủng hoảng trong tương lai xảy ra do sự đảo chiều vốn hay thâm hụt thương mại. Một biện pháp lý tưởng nhất là việc phát hành bổ sung SDR phải được đi kèm với các biện pháp tăng cường hiệu quả của nó. Điều này được coi là bước đầu tiên hướng tới sử dụng đồng tiền chung, và để gia tăng vai trò của SDR trong các giao dịch IMF. Trong khủng hoảng, hoạt động cho vay của IMF cần được tài trợ hoàn toàn bởi SDR với số lượng không giới hạn. Một tỷ lệ lớn hơn của SDR được cung cấp cho các nước đang thực sự có nhu cầu dự trữ tiền tệ (chủ yếu là các nước đang phát triển), có thể đóng góp vào tăng trưởng toàn cầu và ổn định kinh tế thế giới. Thiết lập một hệ thống thanh toán giữa đồng SDR và các đồng tiền khác để đồng SDR có thể được chấp nhận rộng rãi trong thương mại toàn cầu và các giao dịch tài chính. Hiện tại, đồng SDR mới chỉ được coi là một đồng tiền danh nghĩa của các chính phủ và các thể chế quốc tế. Thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng đồng SDR trong thương mại, giá cả hàng hóa, đầu tư và kế toán doanh nghiệp. Thiết lập bộ tiêu chí để quy đổi các tài sản có giá sang đồng SDR để tăng sức hấp dẫn của đồng tiền này. IMF có thể nghiên cứu để đưa ra các chứng khoán quy đổi dựa trên đồng SDR như là một bước khởi đầu tốt cho kế hoạch mở rộng việc sử dụng đồng tiền này. Nâng cao hơn nữa việc định giá và lưu thông của đồng SDR. Cần đưa thêm nhiều đồng tiền của các nền kinh tế lớn vào rổ tính giá trị của đồng SDR. III. ACU 1. Khái quát về ACU Việc ra đời của ACU lấy ý tưởng từ đồng tiền chung của ECU trong quá khứ của các nước Châu Âu. Nó thường dễ bị hiểu nhầm thành việc ra đời một đồng tiền chung (dưới hình thức tiền giấy hoặc tiền xu) được lưu hành ở các nước trong khu vực châu Á giống như đồng euro của châu Âu. Tuy nhiên, ACU không phải là đồng tiền châu Á mà là một chỉ số thống kê được xác định dựa trên giá trị bình quân của các đồng tiền của 13 nước châu Á, gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và 10 nước ASEAN. Và trước mắt, nó hoàn toàn không có chức năng như một đồng tiền. ACU sẽ chính thức đại diện cho giá trị trung bình tiền tệ của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và 10 quốc gia trong ASEAN. Quá trình xây dựng ACU có tính toán đến một loạt yếu tố, trước tiên là GDP của từng nước, tổng sản lượng ngoại thương, mức độ tham gia của tiền tệ nước đó vào các giao dịch quốc tế. Việc ban hành ACU sẽ giúp ADB thuận lợi hơn trong việc xác định nguyên nhân gây ra các đợt biến động trên thị trường tiền tệ châu Á, cũng như định giá chính xác mức độ biến động của các đồng tiền này so với đồng USD và đồng EUR. ACU sẽ được cập nhật như một chỉ số thống kê trên trang web của ADB. è Tóm lại, ACU thể hiện nỗ lực của ADB trong việc góp phần xác định những thay đổi về giá trị đồng tiền của mỗi nước và tỉ lệ trao đổi giữa các đồng tiền. 2.Lịch sử hình thành Ý tưởng về đồng ACU đã có từ lâu. Tuy nhiên sau đó chưa có một nỗ lực cụ thể nào để thực hiện ý tưởng này. Vì vậy 10 năm trước, ACU được xem như chỉ tồn tại trên lý thuyết. Từ sau khủng hoảng tài chính – kinh tế châu Á năm 1997, vấn đề đồng tiền chung châu Á mới được nhấn mạnh. Thời gian gần đây, nhu cầu có một đồng tiền chung châu Á càng trở nên cấp thiết khi giao lưu thương mại giữa các nước tăng vọt năm này qua năm khác. Ý tưởng về một đồng tiền châu Á được đề xuất lần đầu tiên bởi thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 1997. Năm 2003, "cha đẻ" của đồng Euro, người đã giành giải Nobel về kinh tế học, ông Robert Mondale cũng đã gợi ý việc xây dựng một đồng tiền chung châu Á, kiểu như đồng "Nhân dân tệ châu Á".  Mục đích của việc xây dựng đồng tiền này là nhằm thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế trong khu vực lên một tầm cao mới. Các nước ASEAN đã đi đầu trong việc biến ý tưởng trên thành hiện thực. Một loạt các hội nghị ASEAN +3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) đã bàn cơ chế thực hiện. Trong vấn đề này, châu Á được lợi nhờ tham khảo kinh nghiệm của quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu (đồng euro kéo dài 30 năm). Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính châu Á, việc ra đời của đồng ACU sẽ nhanh hơn đồng euro. ADB dự kiến công bố chi tiết về đồng ACU sớm nhất là vào tháng 3/2006. Tuy nhiên, sức ép từ bên ngoài đã làm chậm việc công bố trên, dù cho khái niệm mới này vẫn đang được nghiên cứu rất tỉ mỉ. Trên thực tế EU mất khoảng 20 năm mới có được đồng tiền chung châu Âu Euro sau sự ra đời của đồng ECU, cho nên vẫn còn quá sớm để nói đến việc xây dựng một đồng tiền chung Châu Á thực thụ. 3. Cơ chế hình thành Đơn vị tiền tệ mới này được phát hành trên cơ sở giá trị trung bình của mười nước thành viên hiệp hội các nước Đông Nam Á-ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Số đồng tiền thành phần có thể được bổ sung thêm, nâng tổng số đồng tiền làm cơ sở tính toán lên 40 đồng nội tệ, trong đó có tiền của Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân. Giá trị tương đối của mỗi đồng tiền thành phần của cả hệ thống sẽ được tính toán dựa trên tổng sản phẩm quốc nội và giá trị thương mại của quốc gia sử dụng đồng tiền cũng như giá trị của đồng tiền đó. Điều này có nghĩa là các đồng tiền của Nhật Bản, Trung Quốc, và Hàn Quốc sẽ có giá trị lớn hơn trong hệ thống các đồng tiền được dùng làm cơ sở tính toán. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) hiện đang xem xét lại một số lựa chọn về đến khía cạnh kĩ thuật liên quan đến cách tính toán giá trị đồng ACU, bao gồm nội dung của rổ tiền tệ, lựa chọn giữa việc cố định trọng số tính toán hay cố định các đơn vị, đồng tiền nào sẽ đưa vào rổ tiền tệ, lựa chọn trọng số, các tiêu chí cho việc đánh giá định kì, cũng như nhiều mặt khác nữa. Sau khi hoàn thành xong việc xem xét nội bộ tất cả những khía cạnh kĩ thuật này, ADB muốn post một vài chỉ số cho đồng ACU trên website trong thời gian tới. 4. Lý do ra đời của ACU Xu hướng của các đồng tiền châu Á riêng lẻ giữa các đồng USD, Euro, hay Yên Nhật Bản hiện nay là rất rõ rệt. Tuy nhiên, trong khi mối quan hệ tương tác về kinh tế ở châu Á đang tăng lên, vẫn còn rất khó để có thể nhận định xem các đồng tiền châu Á đang tác động qua lại lẫn nhau như thế nào cũng như các đồng tiền này trong một tổng thể đang tương tác như thế nào với các đồng tiền của các quốc gia khác như đồng USD, đồng Euro, hay đồng bảng Anh. Do đó dự tính thiết lập một đơn vị tiền tệ châu Á, như một chỉ số của các đồng tiền của khu vực Đông Á, tạo ra một mức chuẩn khu vực nhằm theo dõi những xu hướng tác động như trên. 5. Xúc tiến phát hành đồng tiền chung Châu Á Tại hội nghị cấp cao Đông Á ở Malaysia vừa qua, đồng ACU là một trong những chủ đề kinh tế được thảo luận nhiều và sâu. Các nước ASEAN đã đi đầu trong việc biến ý tưởng trên thành hiện thực. Một loạt các hội nghị ASEAN +3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) đã bàn cơ chế thực hiện. Trong vấn đề này, châu Á được lợi nhờ tham khảo kinh nghiệm của quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu (đồng euro kéo dài 30 năm). Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính châu Á, việc ra đời của đồng ACU sẽ nhanh hơn đồng euro. Tuy nhiên, quá trình hình thành và đưa vào sử dụng đồng ACU cũng sẽ gặp một số khó khăn. So với châu Âu, trình độ phát triển kinh tế các nước châu Á chênh lệch sâu hơn, xem xét trên các mặt GNP, GDP tính theo đầu người, kim ngạch thương mại, khả năng chuyển đổi của đồng tiền từng quốc gia, dòng chảy của tư bản… Trong khi châu Á có những nền kinh tế khổng lồ như Nhật, Trung Quốc… thì lại có những nước kinh tế quá nhỏ, lạc hậu như Lào, Campuchia. Khó khăn thứ hai là vấn đề đặt mệnh giá cho ACU, hiện nhiều nước cho rằng tạm lấy tỷ giá 1 ACU = 1 euro. Khó khăn khác là các nước chưa nhất trí về thời gian biểu để phát hành đồng ACU. Các nước mới đạt được sự đồng thuận về việc giai đoạn 1 phát hành ACU tại các nước ASEAN, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc và chưa nhất trí trong giai đoạn 2 đồng ACU có được sử dụng tại Australia, New Zealand và Ấn Độ hay không. 6. Vị thế Một đồng tiền chung châu Á rõ ràng sẽ đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy kinh tế châu Á phát triển và củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu Á, phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa. ACU sẽ hỗ trợ các nước trong khu vực giám sát hoạt động chung của các đồng tiền châu Á trước những đồng tiền mạnh ở bên ngoài như đồng USD và đồng euro, cũng như hoạt động của mỗi đồng tiền châu Á trước đồng ACU. Nếu đồng ACU ra đời, Châu Á sẽ có cơ hội không chỉ giảm đáng kể mức độ phụ thuộc vào đồng USD, mà còn là tiền đề cho những triển vọng lớn hơn nữa trên bình diện toàn cầu. Rất có thể trên thế giới sẽ xuất hiện một trung tâm tài chính thứ ba (sau Mỹ và châu Âu) liên kết các nền kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà chất kết dính nó chính là đồng ACU. 7. Tác đông của đồng tiền chung châu Á trong tương lai 7.1.Đối với thị trường tài chính toàn cầu Nhiều nhà kinh tế cho rằng trong bối cảnh kinh tế châu Á phát triển như hiện nay, cần phải có một đồng tiền chung châu Á để hạn chế chi phí giao dịch qua biên giới và sự biến động tỷ giá, góp phần củng cố các thị trường tài chính khu vực. Châu Á, nơi đang có nền kinh tế mạnh và phát triển nhanh nhất thế giới, có nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn nhưng sự tồn tại của vài chục đồng nội tệ đã làm tăng nguy cơ rủi ro từ tỷ giá hối đoái và phương hại các thị trường vốn. Châu Á hiện cũng phụ thuộc quá lớn và các nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển. Sự phụ thuộc đó tiềm ẩn nguy cơ để lại hậu quả như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998. Trong khung cảnh trên, đồng tiền chung châu Á ra đời có thể giúp củng cố sức mạnh của các nước trong khu vực để đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên thị trường tài chính. Đồng tiền này cũng có thể tham gia hệ thống tài chính thế giới để cùng với đồng USD, Euro ổn định thị trường tiền tệ toàn cầu. 7.2. Đối với khu vực Châu Á Tác động tích cực Việc lưu hành một đồng tiền chung góp phần ổn định tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia thành viên tạo nên những động lực tiềm năng cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, bao gồm: Thúc đẩy thương mại nội khối. Tăng cường tính cạnh tranh trên các thị trường hàng hóa và thị trường chứng khoán. Tạo môi trường đầu tư ổn định hơn với chi phí rủi ro giảm đáng kể. Giảm chi phí giao dịch ngoại hối giữa các nước, tăng cường hiệu quả kinh tế chung. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực thì vẫn còn nhiều thách thức. Các nền kinh tế không đối xứng, tỷ lệ lạm phát cao. Khi xảy ra sự cố bất ổn trong khu vực có thể tạo cơ chế lan truyền rất nhanh gây ra hậu quả nghiêm trọng. Gặp khó khăn trong việc sử dụng chính sách tiền tệ trong việc phối hợp các chính sách kinh tế giữa các nước thành viên. 8. Thuận lợi và hạn chế Thuận lợi: Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Haruhiko Kuroda hôm 8/2 đã công bố kế hoạch phát hành đơn vị tiền tệ châu Á (ACU), coi đây là công cụ để giám sát những biến động về giá trị của các đồng tiền trong khu vực. Theo ông Kuroda, đơn vị tiền tệ mới, được phát hành trên cơ sở giá trị trung bình của các đồng tiền sử dụng tại các nước ASEAN và 3 nước đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, sẽ là công cụ thực sự hữu ích cho các cơ quan tiền tệ trong việc hoạch định chính sách hối đoái. Ngoài ra, ACU còn góp phần tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường trái phiếu châu Á và tăng cường các thị trường vốn nhằm giảm bớt tác động trước những biến động từ bên ngoài. Hạn chế: Hai khối ASEAN và EU có diện tích, dân số, số năm hình thành banđầu cho đến nay có sai biệt không lớn. Số thành viên khối ASEAN chỉ nhiều hơn 1/3 số thành viên EU một ít (càng ít thành viên, thì về nguyên lý, dễ dẫn đến sự đồng thuận hơn), thế nhưng sự sai lệch kinh tế (tổng sản phẩm nội địa và sức mua trên đầu người) chênh nhau khoảng 6 lần. Sức mạnh kinh tế của khối ASEAN rõ ràng thua xa EU. Nguyên tắc tổng quát hình thành nên khối EU là hợp tác và đồng thuận, dù các nước Châu Âu có nhiều sai biệt, bất đồng, nhưng họ đều ngồi lại thương thảo đi đến những điểm chung. Tuy nhiên, trong cộng đồng Châu Âu giữa các nước có nhiều nét tương đồng về lịch sử, kinh tế, chính trị cho nên đi đến thống nhất là không khó. Nhìn lại Châu Á chúng ta, còn quá nhiều điểm chưa thống nhất để đi đến hình thành đồng tiền chung: Chưa có chính sách chung, cơ quan quản lí chung: Dù các nước Asian có cuộc họp cấp cao 3 năm một lần để thảo luận các vấn đề chung về an ninh, môi trường, kinh tế, giáo dục, thể thao… nhưng để hình thành chính sách chung, cơ quan quản lí chung thì còn xa vời (trong khi đó khối EU đã có thượngviện, hạ viện, cơ quan hành pháp, tư pháp). Vẫn còn tranh chấp giữa các quốc gia: Tranh chấp quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên biển Đông giữa các nước Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Đài Loan, tranh chấp biên giới giữa Thái Lan và Campuchia, tranh chấp nguồn nước giữa Malaysia và Singapo, mâu thuẫn về khai thác sông Mekong giữa cácnước có sông Mekong đi qua. Khác biệt về trình độ phát triển, trình độ dân trí, tôn giáo, sắc tộc, tội phạm, y tế, môi trường,…: Khoảng cách quá lớn về GDP: Trung Quốc gần 5000 tỷ USD, Nhật Bản hơn 5000 tỷ USD, Indonesia đạt 546 tỷ USD; Thái Lan, Malaysia, Singapore đạt khoảng 200 tỷ USD; Việt Nam là 91 tỷ USD; Lào, Myanmar, Campuchia dưới 18 tỷ USD (năm 2009). Khoảng cách về mức sống:thu nhập bình quân đầu người các nước như Singapo, Brunây, Malaysia gấp 10-16 lần các nước như Lào, Campuchia, Việt Nam. Cư dân các nước trong khu vực cũng ít hiểu biết về dân tộc, văn hóa các nước láng giềng, trình độ dân trí, khoa học kĩ thuật các nước cũng chênh lệch quá lớn. Việc đi lại giữa các công dân ASEAN chưa hoàn toàn tự do và không giới hạn: Các công dân trong các nước ASEAN sau những năm gần đây đã có thể dễ dàng nhập cảnh các nước trong khối trong thời hạn 3 tuần nhưng khôngphải tất cả, ví dụ công dân Việt Nam vào Campuchia hoặc Myanmar vẫn phải xinvisa với hộ chiếu phổ thông. Trong khi đó, công dân EU có thể đi lại giữa cácnước không hạn chế số lần và thời gian. Để khắc phục các sai biệt, bất đồng mâu thuẫn như trên cần thiện ý hợp tác và tốnmột khoảng thời gian dài cho nên việc hình thành đồng tiền chung ACU sẽ còn xa, có thể 20 năm, 50 năm tùy thuộc thiện ý hợp tác của các nước khu vực. 9. Kết luận Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính Nhật Bản cho rằng quyết định ra đời ACU là một quyết định tuyệt vời giúp mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử hiện đại của nền kinh tế châu Á. Trên phương diện toàn cầu, ACU sẽ đóng vai trò bảo vệ châu Á trước chính sách tiền tệ mới của Mỹ chủ yếu nhằm làm giảm tỷ giá của đồng USD-một hành động gây thiệt hại đầu tiên đến các nươc châu Á. Khi đồng ACU trở thành hiện thực và thay thế USD trong kho dự trữ của các Ngân hàng châu Á, Mỹ sẽ giảm bớt số lượng tiền phát hành đồng thời nâng cao mức lãi suất-một công việc có thể làm tăng lạm phát của Mỹ. Tuy việc hình thành đồng ACU không được coi là mối đe dọa tiềm tàng nhưng Mỹ sẽ buộc phải tính tới một trung tâm tài chính mới ở châu Á. Đối với châu Âu, do luồng dự trữ euro tại các quốc gia châu Á so với USD chênh lệch quá lớn nên hậu quả của việc châu Á có một đồng tiền chung mới sẽ không rõ ràng như đối với Mỹ. Sự hình thành thêm một trung tâm kinh tế mới nữa sẽ đặt nhiều quốc gia vào sự lựa chọn: tham gia vào liên minh tiền tệ nào có lợi nhất. Trên phương diện khu vực, với ACU, khu vực sẽ có cơ hội không chỉ là giảm đáng kể mức độ phụ thuộc vào đồng USD mà còn là tạo ra tiền đề cho những tham vọng lớn hơn nữa trên phạm vi toàn cầu. Châu Á sẽ nỗ lực để tìm được "vị trí danh dự" thực sự trong nền kinh tế thế giới. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta phải thừa nhận rằng đồng tiền chung châu á không có nghĩa là cứu cánh của khu vực, bởi châu á vẫn còn nhiều yếu kém trong hệ thống quản lý. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 là một minh chứng cho những bất cập của hệ thống ngân hàng, tài chính,... Ngoài ra, để tiến tới một nền kinh tế vững mạnh cũng cần có sự ổn định về chính trị. Hơn bao giờ hết, mỗi nước châu á cần tự thân làm thông suốt hoạt động trong nước, từ đó tiến tới hội nhập, đưa châu á trở thành trung tâm kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. BẢNG VIẾT TẮT STT VIẾT TẮT GIẢI THÍCH USD Đồng Đôla Mỹ EU Liên minh Châu Âu EMU Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu EUR Đồng Euro - EMS Hệ thống tiền tệ Châu Âu EMI Viện tiền tệ Châu Âu ECU Đơn vị tiền tệ Châu Âu ERM II Cơ chế tỷ giá hối đoái 2 SDR Quyền rút vốn đặc biệt ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á ACU Đơn vị tiền tệ ChÂu Á IMF Quỹ tiền tệ quốc tế GDP Tổng sản phẩm nội địa ADB Ngân hàng phát triển Châu Á TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Nguyễn Văn Tiến:Tài chính quốc tế hiện đại- Xuất bản lần thứ tư; Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2005. 2. TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo, Khủng hoảng Hy Lạp -thách thức cho đồng Euro; 13tháng 5 năm 2010; 3. Đồng tiền chung Châu Âu: Thách thức, triển vọngvà bài học cho Châu Á; 27/7/2010; h ttp ://www.v n b ao rg .in fo /in d ex .p h p? option=com_content&task=view&id=5830&Itemid=134 4. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 5. Như Quỳnh, 10 năm đồng tiền chung Châu Âu ra đời;09/01/2009 6. Châu Á và các kế hoạch hình hành đồng tiền chung; 26/08/2010 7. Một Số websize tham khao: taichinhquocte.com taichinhthegioi.net webnganhang.com thitruongtaichinh.vn MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 PHẦN A: LÝ THUYẾT ĐỒNG TIỀN CHUNG I. Khái niệm đồng tiền chung. 2 II. Những lợi ích trong việc sử dụng đồng tiền chung 3 III. Những khó khăn trong việc sử dụng đồng tiền chung. 4 PHẦN B: CÁC ĐỒNG TIỀN CHUNG I. EUR 5 1.Sơ lược về đồng tiền chung châu Âu(Euro) 5 2.Lịch sử ra đời của EURO 6 3. Cơ chế hình thành và các nước thành viên 7 3.1. Cơ chế hình thành 7 3.2.Quá trình thay các đồng tiền nội địa thành đồng Euro 10 3.2 Các nước thành viên 10 4. Vị thế 13 5.Tác động của EURO 14 6. Sự biến động của Euro trên các thị trường cụ thể từ 1999 cho đến nay 22 7. Cuộc khủng hoảng của Châu Âu 23 7.1 Nguyên nhân: 23 7.2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu Âu 24 7.3. Những thách thức cho khu vực đồng euro 26 8. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng EUR 27 8.1 Thuận lợi 27 8.2 Khó khăn: 28 II. SDR 29 1. Vấn đề chung về SDR 29 2. Lịch sử hình thành 30 3. Cơ chế hoạt động 31 4. Tác động 35 4.1 Tác động đến thị trường tài chính 35 4.2 Tác động đến nền kinh tế quốc tế 36 5. Các hạn chế và biện pháp 37 5.1 Hạn chế 37 5.2 Giải pháp 38 III. ACU 39 1. Khái quát về ACU 39 2.Lịch sử hình thành 40 3.Cơ chế hình thành 40 4. Lý do ra đời của ACU 41 5. Xúc tiến phát hành đồng tiền chung Châu Á 41 6. Vị thế 42 7. Tác đông của đồng tiền chung châu Á trong tương lai 42 7.1 Đối với thị trường tài chính 42 7.2 Đối với các nứơc Châu Á 43 8. Thuận lợi và hạn chế 43 8.1 Thuận lợi 43 8.2 Hạn chế 44 9. Kết luận 45 BẢNG VIẾT TẮT. 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO. 48 DANH SÁCH NHÓM 12 STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ Hà Thị Thắm 060111100628 Lý thuyết đồng tiền chung Lê Thị Phương Thảo 060111100613 Đồng tiền chung Châu Âu Trần Ái Thiên 060111100578 Đồng tiền chung Châu Âu Lê Thị Anh Thi 060111100517 Quyền rút vốn đặc biệt Nguyễn Thị Phương Thanh 060111100568 Quyền rút vốn đặc biệt Bùi Nguyễn Bảo Kim Thanh 060111100560 ACU, Power Point Võ Thanh Phương Thảo 060111100626 ACU

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐồng tiền chung.doc