Luận án Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam

Từ thực trạng hoạt động thanh tra thuế, luận án đã đi sâu phân tích kết quả quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN ở Việt Nam thông qua các tiêu chí xác định rủi ro thanh tra thuế và tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp đã nêu chương 2 của luận án. Qua đó cho thấy, việc áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định như: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc áp dụng quản lý rủi ro; giảm bớt thời gian thanh tra và tăng khả năng phát hiện gian lận thuế; số thuế truy thu bình quân một DN qua thanh tra tăng qua các năm, qua thanh tra đã làm giảm số lỗ sai của DN (số lỗ sai bình quân của DN bị cắt giảm qua thanh tra tăng), giảm số ưu đãi (miễn, giảm) sai quy định. Kết quả đạt được của thanh tra thuế phản ánh nỗ lực của ngành Thuế nâng cao chất lượng quản lý rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế nói chung, hiệu quả hoạt động thanh tra nói riêng, góp phần tăng thu cho NSNN và tác động đến hành vi tuân thủ của DN, đạt được những mục tiêu nhất định của quản lý thuế.

pdf167 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 305 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ phận chức năng trong CQT về trách nhiệm sử dụng thông tin về DN và nguyên tắc bảo mật thông tin phải được quán triệt. Thông tin, dữ liệu về DN phải mang tính lịch sử và trung thực. Để có thông tin đầy đủ hơn nữa về DN, ngành Thuế cần xây dựng thống nhất cơ sở dữ liệu về DN trên hệ thống mạng nội bộ của ngành, thường xuyên cập nhật những thông tin cơ bản của DN, bao gồm: Thông tin về đặc điểm, quy mô, cơ cấu tổ chức của DN, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình kê khai, nộp thuế, lịch sử hành vi vi phạm pháp luật của DN, thông tin khác liên quan đến DN có từ bên thứ ba như ngân hàng, khách hàng của DN, Trên cơ sở thông tin thu thập được sẽ tạo điều kiện thuận lợi để bộ phận thanh tra phân tích DN theo mức độ rủi ro về thuế. Muốn vậy, CQT cần có hệ thống máy chủ với dung lượng đủ lớn, tốc độ đường truyền cao thì việc khai thác phục vụ thanh tra mới có chất lượng và kịp thời. Cần xây dựng và hoàn thành phần mềm ứng dụng theo chuẩn mực quốc tế để việc kết xuất dữ liệu được nhanh chóng, theo mục đích của từng cuộc thanh tra thuế. Ngành Thuế cần tập huấn thường xuyên về kỹ năng ứng dụng tin học cho CBTT trong quá trình tác nghiệp thanh tra DN, giúp đoàn thanh tra có thể rút ngắn thời gian thanh tra DN. Truyền tải thông tin bán hàng, thông tin kế toán về cơ quan thuế định kỳ hàng tuần, tối thiểu hàng tháng cùng với kê khai điện tử (các DN được tự lựa chọn thời gian gửi báo cáo thuế và truyền số liệu để tránh tắc ngẽn, quá tải vào một số ngày trong tháng). 145 4.2.6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thanh tra thuế 4.2.6.1. Phát triển ứng dụng tin học hỗ trợ phân tích rủi ro Để nâng cao khả năng áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, ngành Thuế cần tiếp tục hoàn thiện và phát triển các ứng dụng tin học, tạo điều kiện cho CBTT có thể khai thác thông tin về DN một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Các ứng dụng tin học hỗ trợ cần xây dựng theo kiến trúc tin học dạng mở; tức hệ thống tin học cung cấp cơ sở dữ liệu tích hợp và các ứng dụng cơ bản làm công cụ tính toán và phân tích dữ liệu. Các ứng dụng hỗ trợ đều được xây dựng dựa trên yêu cầu nghiệp vụ và kỹ thuật thanh tra, kiểm tra. Ngành Thuế cần tổ chức hướng dẫn CBTT cách sử dụng các phần mềm phân tích thông tin, phân tích rủi ro về thuế để CBTT lựa chọn đúng đối tượng, đúng nội dung cần thanh tra. Kiến nghị trao cho CBTT thẩm quyền để có thể truy cập, kết xuất, tra cứu thông tin trong hệ thống mạng nội bộ của ngành tài chính và của các cơ quan khác có liên quan nhằm khai khác tốt nhất cho hoạt động thanh tra thuế. Thời gian tới, ngành Thuế cần xây dựng các phần mềm ứng dụng hỗ trợ thanh tra trên cơ sở phân tích rủi ro để đảm bảo việc thanh tra được chuyên môn hóa, đi vào chiều sâu, dễ thực hiện và giảm chi phí thanh tra. Phần mềm ứng dụng hỗ trợ công tác thanh tra phải giúp CBTT thuận tiện từ khâu thu thập dữ liệu, chuyển đổi dữ liệu đến khâu phân tích, xác định mức độ rủi ro và các dấu hiệu nhận biết vi phạm về thuế của DN. Các phần mềm hỗ trợ ứng dụng trong thanh tra phải kết nối hiệu quả với phần mềm TMS đang triển khai ở cơ quan thuế các cấp để tận dụng tối đa dữ liệu quản lý thuế phục vụ công tác thanh tra thuế đối với DN. Để thúc đẩy khả năng thu hẹp đối tượng có rủi ro trọng yếu cần thanh tra và tối ưu hóa thời gian, chi phí thanh tra, CQT cần có được một phần mềm cho phép xử lý tự động một khối lượng lớn dữ liệu về DN dựa trên các tiêu chí đã xác định sẵn nhằm xác định các đối tượng không tuân thủ cần thực hiện thanh tra. Phần mềm này được gọi là phần mềm xếp hạng rủi ro tự động. Dữ liệu đầu vào của phần mềm này là các thông tin kê khai trên các tờ khai thuế, lịch sử hoạt động của DN và các báo cáo tài chính của DN. Phần mềm tự động chấm điểm 146 rủi ro DN dựa trên việc gán điểm theo các tiêu chí rủi ro, tự động so sánh với các tiêu chí bình quân của ngành (ví dụ về lợi nhuận, các hệ số thanh toán) để trả về kết quả là điểm rủi ro cao hay thấp. Trên cơ sở đó, CBTT sẽ lựa chọn phương pháp, giới hạn nội dung thanh tra cụ thể. Do hiện nay hầu hết các DN lớn đều áp dụng công nghệ thông tin ở mức cao trong quản lý và hạch toán kế toán, nếu các DN này cố tình gian lận thì để đối phó, bộ phận thanh tra thuế cần phải biên chế một số chuyên gia tin học giỏi, chuyên thanh tra trên phần mềm để có thể hỗ trợ thanh tra các loại hình DN này. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, CBTT có thể truy cập vào dữ liệu của DN bao gồm các loại tờ khai, lần khai bổ sung, số lần không kê khai, số lần nộp chậm, lỗi kê khai sai, các vi phạm hành chính, bị truy thu để CBTT có thể khai thác, nắm bắt được tình hình vi phạm kê khai, có dấu hiệu bất thường trong kê khai, nộp thuế của DN. Tổng cục Thuế là phải là đầu mối triển khai ứng dụng đối chiếu chéo hóa đơn và xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về NNT trong toàn quốc, phân quyền cho các Cục Thuế tỉnh, thành phố có quyền khai thác và sử dụng chung dữ liệu nhằm nhanh chóng xác minh, nắm bắt thông tin về DN, qua đó giảm thiểu thời gian đối chiếu xác minh việc kê khai nghĩa vụ thuế của NNT, góp phần ngăn chặn tình trạng mua bán hóa đơn bất hợp pháp. 4.2.6.2. Đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin Việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông tin là giải pháp cần thiết, quan trọng để góp phần nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, qua đó làm tiền đề cho việc thúc đẩy áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Để làm tốt việc này, ngành Thuế cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau: Thứ nhất, kiến nghị bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về kế toán điện tử, chứng từ điện tử, về trách nhiệm cung cấp dữ liệu điện tử của DN cho CQT tại quy chế trao đổi thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan thuộc và trực thuộc Chính phủ, nhất là các cơ quan quản lý liên quan đến thanh tra thuế. Thứ hai, thiết lập hệ thống kết nối giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan như hải quan, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thống kê, ngân hàng, DN..., thiết lập cổng giao dịch điện tử giữa Việt Nam và các quốc gia, giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. 147 Thứ ba, thiết lập hệ thống mạng trao đổi thông tin với bên ngoài: Để có kết quả phân tích rủi ro chính xác về tình trạng tuân thủ của DN, CQT phải có đầy đủ thông tin. Ngoài những thông tin do DN cung cấp, thông tin do bản thân ngành Thuế thu thập thì trong quá trình quản lý còn phải truy cập, tham chiếu với các thông tin khác có liên quan đến DN do các cơ quan, tổ chức chuyên ngành nắm giữ. Vì vậy, CQT phải thiết lập hệ thống mạng trao đổi thông tin để thu thập, trao đổi và tích hợp thông tin với các ngành liên quan. Một số mạng liên kết chủ yếu cần tập trung xây dựng và phát triển gồm: Kết nối mạng trao đổi thông tin về số thuế đã nộp giữa CQT, Sở Tài chính và kho bạc, thực hiện thống nhất thông tin về số thu trong ngành và quản lý số thuế đã nộp nhanh chóng, chính xác. Kết nối mạng trao đổi thông tin với Hải quan, trao đổi số thuế, số nợ thuế giữa CQT và hải quan phục vụ quản lý số thu về thuế suất, nhập khẩu và hỗ trợ việc thanh tra hoàn thuế, khấu trừ thuế GTGT tại khâu xuất, nhập khẩu. Kết nối mạng trao đổi thông tin với cơ quan đăng ký kinh doanh kiểm soát các đối tượng có đăng ký kinh doanh nhưng chưa đăng ký thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế, đồng thời, báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi giấy phép kinh doanh của các DN đã ngừng hoạt động, bỏ trốn, mất tích. Kết nối mạng trao đổi thông tin với cơ quan chủ quản của DN nhằm thu thập tình hình sản xuất kinh doanh như sản lượng, giá thành, giá bán, tình hình thị trường; đối chiếu số liệu giữa báo cáo tài chính với thông tin kê khai thuế, quyết toán thuế. Kết nối mạng trao đổi thông tin với Tổng cục Thống kê: thực hiện đối chiếu số liệu giữa điều tra thống kê với số liệu kê khai, kế toán thuế. Kết nối, trao đổi thông tin với các ngành bảo hiểm xã hội, tài nguyên và môi trường, văn hóa thông tin, giáo dục đào tạo... để đối chiếu với các tiêu chí kê khai của DN đối với một số sắc thuế như: thuế TNCN, thuế TNDN. 4.2.7. Chú trọng công tác phân tích, dự báo rủi ro Hoạt động thanh tra thuế sẽ không đạt được kết quả như mong đợi nếu ngành Thuế không làm tốt khâu phân tích, dự báo. Công tác dự báo tập trung vào số thuế truy thu, chi phí thanh tra và các hành vi gian lận, trốn thuế. 148 Thông qua phân tích rủi ro, cần phân tích dự báo trước về khả năng thanh tra thuế đạt được số thuế truy thu. Dự báo số thu là cần thiết nhằm định lượng kết quả thanh tra của CQT, cắt giảm chi tiêu và những biện pháp thu ngoài dự tính. Dự báo số thu trong thanh tra thuế ngày càng trở nên quan trọng vì sự trông đợi của khuôn khổ chi tiêu NSNN được dựa trên dự báo tính số thu trong trung hạn. Đồng thời, CQT cần hình thành phương pháp phân tích, đánh giá để ước lượng quy mô DN, lĩnh vực thất thu, số thuế thất thu từ nền kinh tế để áp dụng quản lý tuân thủ và thực hiện công tác thanh tra chống thất thu, gian lận thuế. Đi đôi với dự báo số thu, CQT cần dự tính được mức chi phí sẽ chi ra để tiến hành hoạt động thanh tra (các chi chí dự tính bao gồm cả chi phí trực tiếp, chi phí gián tiếp để hoàn thành cuộc thanh tra) để có cơ sở xác định tính hiệu quả thanh tra. Thanh tra thuế cần đi trước một bước đối với DN để có thể lường trước được các dạng trốn tránh, thuế có thể xảy ra trong tương lai. Hoạt động cảnh báo, ngăn ngừa từ xa các hành vi vi phạm sẽ giúp cho việc thanh tra chống thất thu thuế hiệu quả, giúp CQT chủ động trong phòng chống, phát hiện nhanh các hành vi gian lận. Phát hiện ngay các hành vi vi phạm để thực hiện xử lý là một trong những biện pháp phòng ngừa gian lận hữu hiệu: khi phát hiện sớm các vi phạm thì các đối tượng sẽ không dám thực hiện hành vi vi phạm. Mặt khác, việc cảnh báo ngăn ngừa từ xa các vi phạm sẽ giúp DN chủ động tránh các vi phạm khi đã được cảnh báo các thiệt hại có thể xảy ra khi không tuân thủ pháp luật thuế. Nhờ đó, kết quả hoạt động thanh tra thuế sẽ được nâng lên rõ rệt: DN có xu hướng tuân thủ nghĩa vụ thuế tốt hơn. Việc dự báo các hành vi gian lận cần dựa vào đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh, biến động của ngành, lĩnh vực trong từng thời kỳ để nắm được lĩnh vực nào, ngành nào đem lại nhiều lợi nhuận, nhiều số thu cho NSNN, lĩnh vực nào sẽ tiềm ẩn nhiều số thuế trốn. Cần dự báo vi phạm của DN theo các nhóm vi phạm (theo sắc thuế hoặc theo các loại vi phạm), phân tích xu hướng thay đổi các hành vi vi phạm qua từng năm và dự báo hành vi vi phạm mới để đề xuất các biện pháp thanh tra cụ 149 thể nhằm đối phó, xử lý triệt để, tăng tính răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm về thuế trong tương lai. Đồng thời, cần rà soát, kiến nghị bổ sung các chế tài xử lý vi phạm pháp luật thuế kịp thời đảm bảo mọi hành vi vi phạm mới xuất hiện đều có chế tài để xử lý. Hàng năm, sau khi có kết quả thanh tra CQT sẽ tiến hành đối chiếu với kết quả đã phân tích dự báo trước đó. Sau đó tiếp tục điều chỉnh bộ tiêu chí cho phù hợp để ngày càng phát hiện đúng các đối tượng có rủi ro cao về thuế. Kế hoạch thanh tra cần được xây dựng mang tính chính xác cao nhằm đảm bảo rằng, những đối tượng không chấp hành tốt các nghĩa vụ và quy định cụ thể về pháp luật thuế sẽ bị thanh tra. Những đối tượng chấp hành tốt sẽ được tạo điều kiện để thực hiện nghĩa vụ thuế, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra thông suốt và bình đẳng. 4.2.8. Chuyên môn hóa và kiện toàn bộ máy thanh tra thuế theo quản lý rủi ro Để thanh tra thuế ở nước ta đạt hiệu quả cao, cần phải tổ chức hoạt động thanh tra ở các cấp theo hướng chuyên sâu chuyên nghiệp. Ở CQT các cấp, bộ phận thanh tra cần được tổ chức phù hợp với yêu cầu quản lý, các bộ phận này có thể được hoán đổi nhiệm vụ tuỳ theo mục tiêu quản lý của CQT trong từng thời kỳ nhất định. Việc chuyên môn hoá hoạt động thanh tra cần được thống nhất ở tổ chức bộ máy thanh tra thuế các cấp. Theo đó, các bộ phận thanh tra nên chia thành các phòng chuyên trách như phòng thanh tra DN lớn, phòng thanh tra DN có quy mô vừa, phòng thanh tra khiếu nại, đơn thư... Bên cạnh đó, việc thành lập riêng bộ phận thanh tra DN quy mô lớn tại Tổng cục Thuế và Cục Thuế là hết sức cần thiết để thực hiện việc thanh tra thuế đối với DN lớn như các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty hoạt động đa lĩnh vực, đa quốc gia... vì dự báo số thuế truy thu sau thanh tra sẽ chủ yếu tập trung ở các DN loại này. Thông tư số 19/2013/TT-BTC ngày 20/02/2013 của Bộ Tài chính đã quy định: “Việc thành lập các Đội thanh tra ở Chi cục Thuế giao Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế căn cứ chức năng, địa bàn, đối tượng quản lý và số thu vào ngân 150 sách nhà nước để quyết định”. Do vậy, Tổng cục Thuế nên sớm thành lập Đội thanh tra tại Chi cục Thuế để thanh tra DN có quy mô vừa thuộc địa bàn Chi cục Thuế quản lý, nhằm giảm tải nhiệm vụ thanh tra cho các Cục Thuế (vì hiện tại nhân sự của các Phòng thanh tra tại các Cục Thuế địa phương đang quá tải, đặc biệt là các Cục Thuế lớn như TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh...), đồng thời, sẽ làm tăng tỷ lệ DN được thanh tra hàng năm. Đồng thời, cần bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho Đội thanh tra ở Chi cục Thuế để bộ phận này sớm hoạt động và phát huy tác dụng tích cực của nó. Bộ phận thanh tra ở một số Chi cục Thuế (các đội thanh tra thuế) là đơn vị thuộc Chi cục Thuế, thực hiện công tác thanh tra thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế; giải quyết tố cáo về hành vi trốn lậu thuế, gian lận thuế liên quan đến DN thuộc phạm vi Chi cục Thuế quản lý. Đội thanh tra thuế chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chi Cục trưởng Chi cục Thuế và sự chỉ đạo về nghiệp vụ kiểm tra của các Phòng thanh tra thuộc Cục Thuế. Đối với Chi cục Thuế thực hiện thu thuế hàng năm từ 500 tỷ đồng trở lên (trừ thu từ dầu thô và tiền thu về đất), hoặc quản lý thuế trên 1.000 DN, cơ cấu bộ máy nên có Đội thanh tra thuế. Định hướng thanh tra thuế theo quản lý rủi ro đòi hỏi bộ máy thanh tra thuế phải được tổ chức theo mô hình chức năng, với việc quy định đầy đủ, rõ ràng, không trùng lắp các chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thuế. Đồng thời có cơ chế phân công, phối hợp cụ thể, rõ ràng giữa các tổ chức, bộ phận trong cơ quan thuế. Với mô hình tổ chức như trên, tổ chức bộ máy thanh tra thuế của CQT sẽ khắc phục được những yếu kém của mô hình tổ chức bộ máy trước đây, góp phần hoàn thiện áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Bộ phận thu thập, xử lý, phân tích thông tin trong thanh tra thuế rất quan trọng, một số nước biên chế hẳn một bộ phận tình báo thuế trong thanh tra thuế. Bộ phận này có chức năng chuyên trách thu thập thông tin tình báo thuế về các vụ gian lận, trốn thuế nổi cộm. Tình báo thuế rất cần thiết cho thanh tra thuế vì những tin tức mà bộ phận này thu được là nguồn thông tin quan trọng để ngành Thuế tiến hành thanh tra trọng điểm, răn đe phòng ngừa các hành vi trốn-tránh, gian lận thuế nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự quản lý thuế và nền kinh tế. 151 Sơ đồ 4.1: Mô hình tổ chức bộ máy thanh tra thuế theo quản lý rủi ro đề xuất áp dụng đến năm 2025 VỤ THANH TRA Bộ phận thanh tra thu thập, xử lý, phân tích rủi ro, lập kế hoạch thanh tra của Tổng cục Thuế và toàn Ngành Bộ phận thanh tra thực hiện thanh tra và xác định thuế đối với các doanh nghiệp lớn Bộ phận thanh tra phân tích thông tin liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế của DN lớn toàn Ngành CÁC CỤC THUẾ Bộ phận thanh tra thu thập, xử lý, phân tích rủi ro, lập kế hoạch thanh tra của Cục Thuế và Chi cục Bộ phận thanh tra thực hiện thanh tra và xác định thuế các DN lớn & vừa Bộ phận thanh tra phân tích thông tin trốn thuế, gian lận thuế của DN lớn & vừa thuộc Cục quản lý CÁC CHI CỤC THUẾ Bộ phận thanh tra thu thập, xử lý, phân tích rủi ro, lập kế hoạch thanh tra của Chi cục Thuế Bộ phận thanh tra thực hiện thanh tra và xác định thuế các DN nhỏ và vừa thuộc Chi cục Thuế CỤC ĐIỀU TRA THUẾ Chú thích: - Quan hệ trực tiếp: - Quan hệ gián tiếp: TỔNG CỤC THUẾ 152 Cần nghiên cứu thành lập thêm Cục Điều tra thuế nhằm hoàn chỉnh chức năng thanh tra thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp. Cục Điều tra thuế có nhiệm vụ điều tra, xác minh các trường hợp có dấu hiệu trốn, gian lận thuế lớn, chiếm đoạt tiền thuế phức tạp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, các công ty đa quốc gia có chi nhánh tại Việt Nam. Do tính chất công việc phức tạp, đòi hỏi chuyên môn nghiệp vụ cao về nghiệp vụ kế toán, thuế, tài chính và các kiến thức chuyên môn khác như kỹ thuật điều tra, phỏng vấn, truy lần, quan sát... nên trong giai đoạn đầu (từ nay đến 2020) tác giả đề xuất thành lập Cục Điều tra thuế tại Tổng cục Thuế, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Giai đoạn tiếp theo (sau năm 2020) có thể thành lập Phòng Điều tra thuế tại một vài Cục Thuế có số thu lớn như TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... nơi tập trung nhiều DN lớn, địa bàn rộng và tình trạng gian lận thuế tương đối tinh vi, phức tạp để thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp, đồng thời hỗ trợ điều tra cho Cục Điều tra Tổng cục Thuế (xem sơ đồ 4.1). Xây dựng cơ cấu tổ chức thanh tra thuế theo hướng chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho CBTT có điều kiện nâng cao trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ, giảm bớt sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra thuế. 4.2.9. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra thuế Để áp dụng có hiệu quả cơ chế quản lý rủi ro, ngành Thuế cần đào tạo được một lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra các cấp giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt và có khả năng sử dụng các ứng dụng thanh tra và khai thác cơ sở dữ liệu tập trung về DN. Cần có chính sách đào tạo chuyên sâu, tập trung cho mỗi cán bộ thanh tra có đủ năng lực để hình thành một đội ngũ thanh tra thuế tinh nhuệ, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu luật thuế và kế toán, có khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh trong quá trình thanh tra thuế DN lớn, các tổng công ty, tập đoàn xuyên quốc gia.... đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thanh tra thuế trong thời kỳ mới. Để có được điều này, ngành Thuế cần tăng cường tập trung bồi dưỡng, đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn thuế, nghiệp vụ 153 thanh tra, kiểm tra và các kỹ năng khác cho lực lượng cán bộ thanh tra viên thuế, đặc biệt ở địa phương. Đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển lực lượng thanh tra viên theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng công việc cụ thể. Để thực hiện tốt định hướng phát triển nguồn nhân lực thanh tra thuế như trên, công tác bồi dưỡng cán bộ thuế cần được tiến hành theo ba cấp độ: Đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu và đào tạo nâng cao theo từng loại cán bộ, cụ thể: Trong điều kiện ngành Thuế đang tinh giảm biên chế, không tăng được nhiều biên chế, trong đó có biên chế cán bộ thanh tra thì giải pháp để tăng được tỷ lệ cán bộ công chức làm công tác thanh tra là cần cơ cấu lại lực lượng cán bộ công chức hiện có trong ngành Thuế. Công chức thuế sau khi được luân chuyển qua các bộ phận khác trong cơ quan thuế ít nhất 4 đến 5 năm để nắm được hết các nghiệp vụ, chức năng của bộ máy quản lý thuế, có kinh nghiệm thực tế rồi mới luân chuyển sang bộ phận thanh tra, được bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra thuế, xử lý vi phạm về thuế. Giai đoạn tiếp theo cần đào tạo cho cán bộ thanh tra thuế kiến thức thanh tra, kế toán chuyên sâu về theo từng lĩnh vực, đối tượng... như nghiệp vụ thanh tra theo từng sắc thuế, quy trình quản lý thuế, thanh tra theo nhóm ngành kinh tế, thanh tra chống chuyển giá... và các kỹ năng khác như truy lần, quan sát, phỏng vấn, phát hiện gian lận, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra. Đồng thời, cần bồi dưỡng lực lượng lãnh đạo bộ phận thanh tra thuế, các trưởng đoàn thanh tra về kỹ năng làm việc theo nhóm, quản lý, tổ chức điều hành hoạt động thanh tra thuế khoa học và hiệu quả. 4.2.10. Tăng cường giám sát kết quả quản lý rủi ro Khâu giám sát kết quả quản lý rủi ro sau thanh tra hết sức quan trọng, nhằm đảm bảo việc thanh tra được thực hiện đúng quy trình, khách quan, dân chủ và đảm bảo yêu cầu quản lý. Nhằm chấn chỉnh kịp thời những bất cập trong hoạt động thanh tra, ngành Thuế cần sớm ban hành Quy chế giám sát hoạt động thanh tra, kiểm tra để đạt được ba mục tiêu: (i) Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng cuộc thanh tra; 154 (ii) Đánh giá hoạt động của đoàn thanh tra và ý thức chấp hành kỷ luật của thành viên Đoàn thanh tra; (iii) Nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra để có biện pháp chấn chỉnh, giải quyết. Với các mục tiêu trên, việc giám sát hoạt động thanh tra cần được tiến hành theo hai nội dung chính: Phần 1: Chuẩn hóa trình tự các bước thanh tra và hệ thống các mẫu biểu theo quy trình thanh tra để đảm bảo công chức thực hiện công tác thanh tra thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ, đúng trình tự giải quyết công việc và đầy đủ về thủ tục hồ sơ. Phần 2: Phân công công tác giám sát theo nguyên tắc mỗi nội dung công việc của thành viên và trưởng đoàn thanh tra có ít nhất một người giám sát trên các nội dung giám sát sau: giám sát việc thực hiện các nội dung công việc theo quy trình thanh tra, kiểm tra; giám sát bằng chế độ báo cáo thông qua việc quy định thời gian và thực hiện mẫu biểu báo cáo. Nội dung giám sát thanh tra thuế tập trung ở hai nội dung: Ban hành quy chế Giám sát hoạt động thanh tra và giám sát sau thanh tra. 4.2.10.1. Ban hành quy chế giám sát hoạt động thanh tra Quy chế giám sát hoạt động thanh tra được ban hành toàn ngành hoặc có thể được vận dụng theo từng đặc điểm của CQT địa phương, nhưng nội dung chính cần có một số điểm sau đây: Thứ nhất, đối với việc xây dựng và phân công kế hoạch thanh tra: ngành Thuế cần thống nhất bộ tiêu chí phân loại rủi ro về thuế theo hai tiêu chí tĩnh và động để lập kế hoạch thanh tra; thực hiện phân công số lượng cuộc thanh tra của các đoàn thanh tra dựa trên cơ sở sử dụng tối đa chất lượng nguồn nhân lực thanh tra hiện có. Thứ hai, thực hiện phân tích rủi ro để xác định phạm vi thanh tra hạn chế, quá trình phân tích có sự tham gia bắt buộc của phó trưởng phòng thanh tra phụ trách trực tiếp đoàn thanh tra và có ý kiến chỉ đạo của trưởng phòng thanh tra để xác định rủi ro trọng yếu phát sinh của DN, trường hợp cần thiết đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo Lãnh đạo Cục. Trong quá trình thanh tra đoàn thanh tra 155 phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Các yêu cung cấp thông tin phải được lập thành phiếu và trưởng đoàn thanh tra là người đại diện lập phiếu; Nhật ký cuộc thanh tra được lập theo đoàn thanh tra, trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm ghi sổ nhật ký đoàn thanh tra; Xử lý kết quả thanh tra tại trụ sở DN, các nội dung vướng mắc trong quá trình thanh tra: đoàn thanh tra lập tờ trình dự thảo biên bản thanh tra, dự thảo ban hành kết luận thanh tra trình lãnh đạo phòng thanh tra, Lãnh đạo CQT. Những ý kiến, yêu cầu trong quá trình phê duyệt của lãnh đạo bộ phận thanh tra đều được ghi nhận tại Tờ trình. Thứ ba, ban hành “Thư ngỏ thanh tra gửi DN” với mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực thanh tra có chất lượng, văn minh lịch sự trong giao tiếp, ứng xử; liêm chính và có tính kỷ luật trong khi thực thi nhiệm vụ. CQT yêu cầu các đoàn thanh tra khi tiến hành công bố quyết định thanh tra sẽ chuyển “Thư ngỏ” của CQT tới DN. Tại thư ngỏ có địa chỉ và số điện thoại để DN có thể gửi ý kiến phản hồi về CQT. Đây là một thông điệp quan trọng gửi DN thể hiện sự dân chủ trong hoạt động thanh tra, tôn trọng ý kiến của DN và mong muốn nhận được thông tin hai chiều nhằm giúp CQT quản lý tốt hơn hoạt động thanh tra, cán bộ thanh tra, tránh tiêu cực, nhũng nhiễu trong hoạt động thanh tra làm giảm uy tín, hình ảnh của CQT. Trong quá trình tổ chức thực hiện giám sát, CQT cần xem xét bình chọn các cá nhân và đoàn thanh tra thực hiện tốt quy trình để tuyên dương nhằm nhân rộng gương điển hình và phát huy trong toàn ngành. Quy chế giám sát được từng CQT tổng hợp đánh giá hàng năm để có những điều chỉnh phù hợp với thực tế công tác thanh tra. 4.2.10.2. Giám sát sau thanh tra Để kết luận thanh tra của CQT được thực hiện nghiêm chỉnh cũng như có tác động thực sự đối với DN và để người nộp thuế thuận lợi trong việc thực hiện kiến nghị của CQT rất cần các biện pháp xử lý sau thanh tra. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua CQT chỉ mới làm tốt việc hướng dẫn thực hiện quyết định nhưng chưa hướng dẫn tốt cho người nộp thuế khắc phục hoặc thực hiện các công việc cần thiết khác phát sinh sau thanh tra. Bên cạnh đó, việc giám sát thực hiện kiến 156 nghị của CQT sau thanh tra thuế cũng còn hạn chế và không đồng đều cũng khiến hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế bị ảnh hưởng đáng kể. Xác định công tác xử lý sau thanh tra là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra thuế, đánh giá kết quả áp dụng quản lý rủi ro trước, trong và sau khi thanh tra, do đó công tác theo dõi đôn đốc xử lý sau thanh tra phải đạt được mục đích yêu cầu sau: xác định chính xác số phải xử lý, nguyên nhân chưa xử lý, đề xuất biện pháp; xác định được phần việc, trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận chức năng trong CQT trong công tác theo dõi đôn đốc xử lý, tránh chồng chéo, bỏ sót các khoản thu đã phát hiện qua thanh tra thuế. Đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong việc chấp hành kết luận, kiến nghị thanh tra thuế. Cần thiết phải phân loại nợ thuế phát hiện sau thanh tra: Nợ thuế sau thanh tra cũng được hiểu như một loại hình nợ thuế thông thường, và để quản lý, thu hồi nợ cần thiết phải có các bước phân loại nợ theo các tiêu thức khác nhau. Qua đó, có thể đánh giá được: nhóm nợ nào có khả năng thu hồi, nhóm nợ nào không có khả năng thu hồi để có biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ. Mặt khác, cần tăng cường đôn đốc thu nợ thuế trên cơ sở triển khai nghiên cứu phương pháp đánh giá rủi ro, phân loại người nợ thuế để áp dụng cho các năm sau này; tiến hành bổ sung, sửa đổi các quy định trong công tác quản lý nợ; thống nhất quy trình quản lý nợ cho tất cả các đối tượng nợ thuế trong phạm vi cả nước. 4.2.11. Tăng cường công tác phối hợp giữa các bộ phận trong cơ quan thuế Việc tăng cường sự phối hợp với các bộ phận trong CQT là nhằm hỗ trợ thanh tra thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Bộ phận kiểm tra thuế và bộ phận kê khai và kế toán thuế: Trong quá trình thanh tra, DN có thể phải làm việc với các bộ phận kiểm tra, thanh tra thuế để đối chiếu, xác nhận hồ sơ, tài liệu, các thông tin có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình nếu có chênh lệch về số liệu kê khai trên hệ thống. Do vậy, bộ phận thanh tra cần thông báo, phối hợp với các bộ phận này để theo dõi số liệu kê khai của DN, qua đó giúp CBTT nắm được tình hình khai, nộp của DN 157 một cách chính xác. Số liệu từ bộ phận kê khai và kế toán thuế là dữ liệu quan trọng để phân tích rủi ro về thuế, lập kế hoạch thanh tra thuế. Bộ phận chức năng theo dõi thu nợ và cưỡng chế nợ: Thông qua việc xác định nghĩa vụ thuế phải nộp cuối cùng của DN tại Biên bản thanh tra, Kết luận thanh tra, bộ phận thanh tra cần thông báo cho bộ phận quản lý nợ và cưỡng chế về việc thay đổi nghĩa vụ thuế của DN theo kết quả thanh tra, từ đó giúp bộ phận quản lý nợ và cưỡng chế nợ nắm bắt được chính xác, kịp thời tình trạng nợ thuế của DN, tránh tình trạng bộ phận nợ theo dõi, ra thông báo đôn đốc nợ sai. 4.2.12. Tăng cường hợp tác quốc tế về thuế Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngày càng có nhiều DN nước ngoài đầu tư vào sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam. Đồng thời, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam cũng ngày càng mở rộng. Cùng với quá trình đó là những vấn đề nổi cộm trong quản lý thuế như gia tăng trốn lậu thuế ở phạm vi quốc tế, chuyển giá quốc tế... Trong khi đó, một trong những điều kiện thiết yếu để ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế đối với DN là phải có hệ thống thông tin tốt về DN, bao gồm cả thông tin trong nước và thông tin quốc tế. Muốn có thông tin quốc tế đầy đủ, kịp thời, toàn diện và đáng tin cậy về DN thì không thể không tăng cường hợp tác quốc tế về thuế. Tổng cục Thuế chính là đầu mối phối hợp với cơ quan thuế các nước để xác minh các giao dịch đáng ngờ đối với các trường hợp giao dịch phát sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam, phối hợp để thu thập thông tin về giá cả các mặt hàng ở nước ngoài đối với các giao dịch nghi ngờ có hành vi xác định giá thấp hơn giá trị thực tế hoặc cố tình nâng giá trị hàng hóa, dịch vụ đầu vào để hỗ trợ các Cục Thuế trong quá trình thanh tra các DN phát sinh giao dịch ở nước ngoài. 4.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP 4.3.1. Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với cơ quan thuế Quản lý thuế là nhiệm vụ chính của cơ quan thuế nhưng không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan thuế mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có liên quan. Trên phương diện áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra 158 thuế đối với DN, việc phối hợp là nhằm tránh chồng chéo trong hoạt động thanh tra thuế; cung cấp đầy đủ thông tin để đánh giá rủi ro về thuế. Cụ thể như sau: Phối hợp giữa các cơ quan thanh tra cùng cấp CQT cần xây dựng quy chế phối hợp công tác và công nhận kết quả thanh tra về thuế giữa các cơ quan thanh tra cùng cấp để tránh chồng chéo và tiết kiệm chi phí và thời gian thanh tra. Hiện nay, việc thanh tra chồng chéo giữa các cơ quan thanh tra hầu như đã được loại trừ do cơ quan thanh tra các cấp đã thực hiện tương đối tốt việc thông báo kế hoạch thanh tra hàng năm. Tuy nhiên, việc thông báo kế hoạch thanh tra của các cơ quan thanh tra cấp trên (Thanh tra Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ) và Kiểm toán Nhà nước cho CQT nhiều khi chưa kịp thời nên ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra của CQT. Mặt khác, do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mục đích của các cơ quan thanh tra là khác nhau nên cách tiếp cận nội dung thanh tra về thuế đối với DN nhiều khi không đồng nhất. Vì vậy, nhiều trường hợp, ngành Thuế vẫn phải tiến hành thanh tra lại DN để xác định chính thức nghĩa vụ thuế của DN. Với hệ thống thanh tra chuyên ngành tài chính và thanh tra nhà nước: thanh tra thuế ngoài việc đảm bảo tính độc lập tương đối của mình với các cơ quan thanh tra này vẫn phải đặt dưới sự chỉ đạo của cấp trên và sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của Thanh tra Bộ Tài chính và Thanh tra Nhà nước. Sự chỉ đạo của các cơ quan thanh tra này đối với thanh tra thuế chỉ đơn thuần là về mặt nghiệp vụ thanh tra, về sự phối hợp tổ chức thanh tra. Thanh tra thuế phải báo cáo kế hoạch thanh tra hàng năm cho các cơ quan thanh tra này nhằm tránh chồng chéo, trùng lắp về đối tượng thanh tra, đồng thời cũng có thể tham gia các đoàn thanh tra liên ngành với các cơ quan này khi có các vụ việc thanh tra cụ thể liên quan đến DN, khi có yêu cầu. Ngành Thuế phải chủ động, phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm tra có chung đối tượng để xây dựng quy chế phối hợp, chuẩn hoá các nội dung về thanh tra thuế, tách bạch rõ trách nhiệm của từng cơ quan thanh tra với kết luận thanh tra thuế. Quy chế phối hợp cần được thông báo để các cơ quan có liên quan có thể 159 tìm hiểu thuận lợi, các cơ quan thanh tra và CQT có thể thông báo cho nhau kế hoạch thanh tra để có thể phối hợp thành đoàn công tác chung, công nhận và sử dụng, thực hiện các kết luận thanh tra của nhau nhằm tránh thanh tra trùng, giảm phiền hà cho DN và tiết kiệm chi phí, thời gian của hệ thống ngành thanh tra. Phối hợp với các cơ quan ban ngành khác Cần đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ của CQT và các cơ quan ban ngành khác tại địa phương trong việc thanh tra DN. Ngành Thuế cần sớm nghiên cứu phối hợp với các cơ quan ban ngành khác: Hải quan, Tài nguyên và môi trường, Quản lý thị trường, các tổ chức tín dụng, Cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh, Công an và các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp tài liệu, thông tin có liên quan đến DN nhằm phục vụ cho công tác quản lý thu thuế và thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, kịp thời ngăn chặn các hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Do địa bàn hoạt động của DN rất rộng và họ có liên quan tới nhiều đối tượng và các cơ quan Nhà nước khác, nên để hoạt động thanh tra thuế đạt được hiệu quả, CQT cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý trên. Cụ thể là: Cơ quan tài chính: Khi phát hiện DN có hành vi vi phạm pháp luật thuế, Luật Đất đai, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, Pháp lệnh phí, lệ phí và các chính sách thu hiện hành, cơ quan tài chính phát hiện và thông báo cho CQT để thanh tra, xử lý ngay các hành vi vi phạm theo quy định. Cơ quan công an: CQT phối hợp với cơ quan công an phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các vụ trốn, lậu thuế. Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực thuế ngoài thẩm quyền của thanh tra thuế cần phải điều tra làm rõ thì CQT cần chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để tiến hành điều tra, phối hợp xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Cơ quan tài nguyên môi trường: Trong quá trình quản lý các nguồn thu từ đất đai, cơ quan tài nguyên và môi trường phát hiện DN sử dụng đất chưa đúng, không đủ năng lực (vốn, tài sản) để thực hiện dự án thì có văn bản đề nghị CQT phối hợp thanh tra việc sử dụng đất và việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của DN. 160 Cơ quan khoa học và công nghệ: Khi có đơn tố giác, khiếu nại về các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm hàng hóa (gian lận thương mại) và có yêu cầu của một trong hai bên, CQT và Sở khoa học và công nghệ phải tập trung nghiên cứu, tổ chức thanh tra việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật và phù hợp với chức năng, quyền hạn của mỗi ngành. 4.3.2. Tăng cường trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc CQT cần trang bị cho CBTT điều kiện làm việc tốt khi tiến hành thanh tra, ví dụ cần trang bị máy tính xách tay cấu hình cao, cài đặt các phần mềm thanh tra chuyên dụng và luôn kết nối mạng với mạng nội bộ ngành, các mạng liên quan (Hải quan, Công an, Kho bạc) để khai thác dữ liệu tập trung của ngành. Khi cần thiết CBTT có thể truy xuất thông tin, dữ liệu đối chiếu ngay được với DN. Đồng thời, CBTT cần được trang bị phương tiện đi lại chủ động, kịp thời, tránh tình trạng CBTT phải đi lại bằng phương tiện của DN sẽ không khách quan, tạo dư luận không tốt. 4.3.3. Giao chức năng điều tra cho CQT để nâng cao hiệu lực của quyết định thanh tra thuế Thời gian qua, một bộ phận người nộp thuế (NNT) cố tình trốn thuế, gian lận, chiếm đoạt tiền thuế bằng nhiều thủ đoạn tinh vi; hành vi vi phạm pháp luật về thuế không chỉ diễn ra ở một đơn vị, cá nhân mà móc nối nhiều tổ chức, cá nhân, ở các địa phương trong phạm vi một nước, thậm chí liên quan đến nhiều quốc gia. Các vi phạm trên sẽ gia tăng nếu như cơ quan thuế (CQT) không có chức năng và không được áp dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Điều tra thuế nhằm phát hiện kịp thời các hành vi chây ỳ, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế, để thu đủ tiền thuế vào NSNN, bảo đảm chống thất thu NSNN có hiệu quả, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế, sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân nộp thuế. Để nâng cao tính tuân thủ của NNT, cần thiết phải trao chức năng điều tra, khởi tố vụ án hành chính thuế cho cơ quan thuế các lý do sau đây: - Do phát sinh nhiều các hành vi sai phạm về thuế lớn của NNT. - Do những bất cập của thanh tra, kiểm tra thuế hiện tại. 161 - Do tình trạng DN bỏ địa chỉ kinh doanh tràn lan khó kiểm soát. - Do tình trạng chuyển giá thời gian qua đang ở mức báo động. - Do những lợi thế khi ngành Thuế được giao chức năng điều tra. Ngoài ra, việc trao chức năng điều tra cho cơ quan thuế xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế về thuế. Trước tình trạng gian lận về thuế khá phổ biến, ngày càng nghiêm trọng, Quốc hội nên giao nhiệm vụ điều tra vi phạm luật thuế cho CQT. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, đang được nhiều nước áp dụng. Trong những trường hợp có hiện tượng gian lận, trốn thuế với quy mô lớn, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính tuân thủ pháp luật thuế, có liên quan đến nhiều đối tượng nộp thuế trong và ngoài nước thì đòi hỏi phải thực hiện công tác điều tra thuế nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm khắc các hành vi vi phạm Đề nghị này nhằm trang bị cho CQT có nhiều chức năng, biện pháp điều tra để tiến hành cuộc điều tra từ khi phát hiện có hành vi trốn thuế đến khi có phán quyết cuối cùng. Tất nhiên CQT chỉ được tiến hành điều tra thuế trong các trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm cũng như tránh sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ. Việc bổ sung thẩm quyền khởi tố, điều tra cho cơ quan thuế là cần thiết nhằm phát hiện và xử lý truy thu kịp thời tiền thuế trốn, tiền thuế bị chiếm đoạt vào ngân sách nhà nước, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế, sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân nộp thuế. Khi được giao chức năng điều tra thuế, thanh tra thuế cần phải đẩy mạnh thu thập thông tin tình báo thuế liên quan từ các nguồn nội bộ và nguồn bên ngoài để sàng lọc DN đưa vào diện thanh tra. Nguồn thông tin nội bộ thu thập từ các ứng dụng hệ thống của ngành Thuế (các tờ khai thuế, lịch sử tuân thủ DN, các thông tin tài chính khác). Nguồn thông tin bên ngoài thu thập từ các ngân hàng, khách hàng, đối tác, chủ thể quản lý của DN (thông tin lãi tiền vay, cổ tức, và các khoản chi trả cho DN). Bên cạnh đó, nguồn thông tin có thể lấy từ dịch vụ công hoặc bằng cách sử dụng yêu cầu thông tin chính thức từ các cơ quan Nhà nước như: kho bạc, hải quan, công an, chính quyền địa phương... Tuy 162 nhiên, thanh tra thuế cần phải kiểm soát chi phí khi tập hợp dữ liệu từ nguồn bên ngoài so với lợi ích tiềm năng thu được để đảm bảo tính hiệu quả của thanh tra. Cần quy định cụ thể đối tượng, thẩm quyền, nội dung, phạm vi, thời gian trong điều tra vi phạm pháp luật về thuế, khắc phục và tránh tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế. Khi điều tra thuế phát hiện sai phạm đến mức phải truy cứu tránh nhiệm hình sự, thì phải chuyển toàn bộ hồ sơ sang cho cơ quan chức năng để thụ lý, điều tra. Cơ quan điều tra về thuế chỉ được xử phạt hành chính, cưỡng chế nộp thuế; có quyền ra lệnh cho cơ quan chức năng phong toả tài khoản... niêm phong tài sản, nhưng không được niêm phong nhà ở và một số loại tài sản khác mà luật quy định. 4.3.4. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công chức thanh tra thuế Để có thể đáp ứng tốt hoạt động quản lý thuế nói chung và áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN nói riêng thì yêu cầu đối với cán bộ làm công tác này rất cao, cả về trình độ chuyên môn và các kỹ năng khác. Một yêu cầu chính đáng của người lao động nói chung và cán bộ, công chức nói riêng là họ phải được hưởng thù lao xứng đáng với tài năng và sự cống hiến của họ. Bởi vậy, cần nghiên cứu để có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để công chức thuế yên tâm công tác và tận tâm, tận lực cống hiến tài năng và sức lực cho công việc, chủ động, sáng tạo trong công tác. Cần lưu ý rằng, gần đây có khá nhiều cán bộ, công chức, kể cả những người có chức vụ không thấp đã xin nghỉ việc ở cơ quan nhà nước để ra làm việc cho các DN với lời mời gọi của thu nhập cao và môi trường làm việc chuyên nghiệp. Do vậy, muốn giữ và thu hút được người hiền tài, cần tạo ra một môi trường và sự đãi ngộ ở cơ quan nhà nước không kém gì ở các DN. Tất nhiên, đây là một bài toán thực sự khó khăn đối với các nhà quản lý vì có quá nhiều vấn đề phải giải quyết liên quan đến vấn đề tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức nói chung, chứ không riêng gì công chức thuế như: sự hạn hẹp của ngân sách nhà nước; sự tồn đọng của một lực lượng cán bộ, viên chức đã được tuyển dụng trước đây không còn đáp ứng yêu cầu hiện tại nhưng không thể cho thôi việc; số lượng cán bộ, công chức quá nhiều, nơi thừa vẫn thừa mà nơi thiếu vẫn thiếu Khó là vậy, nhưng khó không 163 có nghĩa là không có giải pháp xử lý. Vấn đề là chúng ta cần có quyết tâm chính trị cao và lộ trình phù hợp. Chẳng hạn như, trước mắt, có cơ chế mở để trả lương, gắn tiền lương với chất lượng công tác chống thất thu thuế, chống gian lận thuế; thực hiện cơ chế khoán theo kết quả chống gian lận thuế; hoặc thực hiện cơ chế thưởng phù hợp gắn với số lượng và chất lượng công tác chống gian lận thuế Về lâu dài, cần thực hiện tinh giản biên chế làm cơ sở tăng thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức thuế. 4.3.5. Sự hợp tác của doanh nghiệp được thanh tra Để việc quản lý rủi ro trong thanh tra thuế có hiệu quả rất cần phải có sự hợp tác từ phía DN được thanh tra với CQT. Cụ thể như sau: DN cần kê khai hồ sơ, sổ sách, báo cáo tài chính trung thực, khách quan đối với cơ quan thuế để việc phân tích rủi ro được chính xác. DN cần thực hiện tốt các quy định về kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế và lập báo cáo tài chính đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo nguồn thông tin thay đổi phải được cung cấp cho CQT chính xác và kịp thời. DN nên áp dụng phần mềm kế toán thuận tiện, tương thích với một số ứng dụng của CQT để vừa đảm bảo việc nâng cao hiệu quả của công tác hạch toán kế toán, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho CQT khi thanh tra thuế, giúp CBTT khai thác, đồng bộ, lưu trữ số liệu một cách nhanh nhất. Khuyến khích toàn bộ các DN thực hiện kê khai thuế qua mạng để giảm thời gian và chi phí cho DN cũng như CQT, đồng thời CQT cũng thuận tiện trong việc lưu trữ và sử dụng dữ liệu kê khai để phân tích rủi ro về thuế theo định kỳ. DN cần có thái độ tích cực hợp tác với CQT trong trường hợp có thanh tra thuế như: cung cấp hồ sơ, tài liệu, chứng từ cần thiết cho Đoàn thanh tra hoặc có thể dẫn đoàn thanh tra đến khảo sát thực tế tại cơ sở sản xuất kinh doanh. DN có thể đề xuất những ý kiến với Nhà nước thông qua đoàn thanh tra thuế trong những trường hợp cần thiết.. DN cần chủ động, tích cực tìm hiểu, nắm bắt các chính sách, quy định của Nhà nước về thuế, nhất là các thay đổi qua từng thời kỳ, đồng thời nên chủ động trong việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, có ý thức, trách nhiệm xây dựng xã hội, đất nước thông qua nghĩa vụ thuế. 164 Tóm lại, Chương 4 luận án đã đặt ra các yêu cầu về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN ở Việt Nam thời gian tới (2015 - 2025) như: phải lựa chọn được DN có rủi ro cao về thuế, có khả năng truy thu nhiều, phát hiện được nhiều hành vi gian lận, trốn thuế, giảm chi phí, thời gian, nhân lực thanh tra để đảm bảo chất lượng cuộc thanh tra và đạt được mục tiêu chính là hoàn thành chỉ tiêu tỷ lệ số lượng DN được thanh tra hàng năm trên tổng số DN đang hoạt động đạt từ 3 đến 5%. Từ các yêu cầu đặt ra đối với đổi mới hoạt động thanh tra thuế, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế trong thời gian tới như: hoàn thiện hành lang pháp lý; nâng cao nhận thức về sự cần thiết quản lý rủi ro trong thanh tra thuế; hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá rủi ro; bổ sung bước đánh giá chất lượng quản lý rủi ro; hoàn thiện hệ thống dữ liệu tập trung; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thanh tra; chú trọng công tác phân tích, dự báo; chuyên môn hóa và kiện toàn bộ máy thanh tra; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng; tăng cường giám sát kết quả quản lý rủi ro; tăng cường phối hợp giữa các bộ phận trong CQT; hợp tác quốc tế. Để đảm bảo các giải pháp trên có tính khả thi, cần thực hiện các giải pháp điều kiện như: tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với cơ quan thuế; tăng cường trang bị cơ sở vật chất; giao chức năng điều tra cho CQT; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công chức thanh tra thuế; và cuối cùng là tăng cường sự hợp tác của doanh nghiệp được thanh tra. 165 KẾT LUẬN Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam. Tuy vậy, làm tốt công tác áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động thanh tra thuế. Bởi vậy, đề tài luận án “Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Luận án đã đạt được các kết quả nghiên cứu chủ yếu sau: Thứ nhất, Luận án đã nghiên cứu, làm rõ được tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình đã công bố liên quan đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế là vấn đề hết sức quan trọng. Qua nghiên cứu cho thấy, đề tài luận án này không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đó. Luận án đã kế thừa những vấn đề lý luận, ưu điểm đã đạt được của các công trình nghiên cứu trước, khai thác các vấn đề chưa được nghiên cứu, đồng thời đã đi theo hướng riêng, hướng mới với những phân tích, biện giải chặt chẽ mang tính biện chứng cao để giải quyết vấn đề nghiên cứu theo hướng khoa học, logic và đạt được mục tiêu đề ra của Luận án. Thứ hai, Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế. Từ những lý luận đã phân tích, có thể nhận thấy quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế có những đặc điểm riêng. Áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế là một phương pháp rất quan trọng, giúp CQT tiết kiệm nguồn lực, chi phí thanh tra, tăng khả năng tìm trúng, đúng đối tượng nộp thuế có nhiều tiềm ẩn rủi ro, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý thuế, chống thất thu thuế, nhằm đảm bảo DN chấp hành tốt pháp luật thuế và vai trò quan trọng nhất là nâng cao tính tuân thủ của DN. Để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Cũng trong nội dung này, Luận án đã phân tích rõ các nhóm tiêu chí rủi ro về thuế theo các tiêu chí động và tiêu chí tĩnh. Đồng thời, qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong thanh tra thuế cho thấy CQT cần phải tác động nâng cao những yếu tố tích cực, giảm thiểu những yếu tố tiêu cực để thanh tra thuế ngày càng hiệu quả, đúng tầm và nâng cao được 166 vị thế ảnh hưởng của mình trong công tác quản lý thuế nói riêng và trong hệ thống pháp luật thuế nói chung. Đồng thời, Luận án cũng trình bày được một số kinh nghiệm về quản lý rủi ro trong thanh tra thuế từ các nước tiên tiến, rút ra bài học thiết thực để áp dụng cho Việt Nam là nội dung hết sức có ý nghĩa cho việc đẩy mạnh triển khai áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế giai đoạn hiện nay. Thứ ba, luận án đã tập trung phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế giai đoạn 2009 - 2014 bằng phương pháp khảo sát thực tế qua các nội dung: tổ chức bộ máy, các khâu của quy trình thanh tra, hành lang pháp lý của quản lý rủi ro trong thanh tra... Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá thực trạng áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế thể hiện ở kết quả áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra DN ở Việt Nam thông qua các tiêu chí kết quả quản lý rủi ro đã nêu ở phần lý luận. Qua đó cho thấy, quản lý rủi ro trong thanh tra thuế thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực nhất định như: số thuế truy thu bình quân một DN qua thanh tra tăng qua các năm, qua thanh tra đã làm giảm số lỗ sai quy định... Kết quả đạt được của quản lý rủi ro trong thanh tra thuế đã phản ánh nỗ lực của ngành Thuế nâng cao chất lượng quản lý rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra, tăng thu cho ngân sách nhà nước và nâng cao ý thức, hành vi tuân thủ của DN, đạt được những mục tiêu nhất định của quản lý thuế. Bên cạnh những ưu điểm của áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, Luận án đã chỉ ra những tồn tại những hạn chế nhất định như: kết quả phân tích rủi ro chỉ dừng lại ở mức độ hạn chế; hệ thống tiêu chí phân tích, đánh giá mức độ rủi ro về thuế chưa được xây dựng hoàn chỉnh... Đồng thời, Luận án phân tích rõ các nguyên nhân chính của những tồn tại đó để có hướng khắc phục trong thời gian tới. Thứ tư, Luận án đã đưa ra các yêu cầu nhằm áp dụng có hiệu quả quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN ở Việt Nam thời gian tới (2015- 2025). Từ các yêu cầu đặt ra đối với việc áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nền tảng để thúc đẩy áp dụng quản lý rủi ro thanh tra thuế trong thời gian tới như: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra thuế đối với DN; nâng cao nhận 167 thức cho công chức thuế về sự cần thiết phải áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN; hoàn thiện cơ sở dữ liệu tập trung về DN; hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, phát triển ứng dụng tin học hỗ trợ thanh tra thuế; bổ sung bước đánh giá chất lượng quản lý rủi ro vào quy trình thanh tra thuế; đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức thuế... Đồng thời, để đảm bảo các giải pháp trên có tính khả thi, tác giả cũng khuyến nghị cần thực hiện các giải pháp điều kiện để tạo môi trường áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế, trong đó nhấn mạnh một số giải pháp như: Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong hoạt động thanh tra thuế; tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho cơ quan thuế... Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng hoàn thiện Luận án, song không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả Luận án mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các nhà khoa học, các chuyên gia, đồng nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, thuế để Luận án được hoàn thiện hơn./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quan_ly_rui_ro_trong_hoat_dong_thanh_tra_thue_doi_vo.pdf
Luận văn liên quan