Mặc dù còn là một ngành công nghiệp non trẻ nhưng trong những nă m 
qua ngành du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn: lượng khách 
quốc tế đến Việt Na m ngày càng tăng, thu nhập xã hội từ du lịch cũng tăng, 
tác động tích cực đến các ngành khác, tạo thê m nhiều công ăn việc làm, góp 
phần tích cực vào công cuộc xoá đói giả m nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế Điểm đến Việt Nam an toàn và thân thiện ngày càng được ưa chuộng trên 
thế giới trong một bối cảnh chính trị - xã hội đang có xu hướng ngày càng 
phức tạp và bất ổn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn có nhiều khó
khăn cần khắc phục như sau: Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch vẫn chưa 
đáp ứng được yêu cầu, sức cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam còn thấp 
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ cán bộ nhân viên du 
lịch chưa cao, tài nguyên du lịch chưa được khai thác một cách có hiệu quả, 
công tác tuyên truyền quảng cáo cho du lịch còn nhiều bất cập
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 95 trang
95 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3738 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Du lịch Việt Nam: cơ hội, thách thức và các biện pháp thúc đẩy hƣớng tới phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àu bùn đất…. 
Sở dĩ có những tác động tiêu cực ấy là do trong chỉ đạo, quản lý, sử dụng 
và khai thác tài nguyên du lịch mới chỉ chú ý lợi ích trƣớc mắt mà chƣa quan 
tâm đầy đủ đến việc bảo vệ và tôn tạo, chƣa đánh giá đƣợc đầy đủ tác động du 
lịch đến môi trƣờng và môi trƣờng đến du lịch. Mặt khác, do chƣa làm tốt 
việc giáo dục du lịch toàn dân nên không phải ai cũng hiểu đƣợc vị trí, vai trò 
của du lịch trong đời sống cộng đồng cũng nhƣ ý nghĩa của việc giữ gìn tài 
nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trƣờng… để nâng cao chất lƣợng sản 
phẩm du lịch trên quan điểm phát triển du lịch bền vững. 
Năm 2007 vừa qua là năm có những thuận lợi hết sức cơ bản nhƣng cũng 
có nhiều khó khăn thử thách lớn đối với hoạt động du lịch, mặc dù vậy ngành 
du lịch Việt Nam vẫn đạt đƣợc những thành tựu đáng kể: Lần đầu tiên lƣợt 
khách quốc tế đến Việt Nam vƣợt qua ngƣỡng 4 triệu khách quốc tế một năm; 
chất lƣợng sản phẩm dịch vụ du lịch đƣợc nâng lên rõ rệt, vị thế du lịch Việt 
 57 
Nam đƣợc cải thiện đáng kể; ngành du lịch đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu 
kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, hoạt động của 
ngành du lịch năm 2007 vẫn bộc lộ một số thiếu sót và hạn chế, chƣa thể 
khẳng định là ngành đã phát triển bền vững. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm 
ra giải pháp chủ yếu và thực hiện các giải pháp đó để đƣa du lịch nƣớc ta 
hƣớng tới phát triển bền vững. 
 58 
CHƢƠNG 3 
 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY DU LỊCH VIỆT NAM 
HƢỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
I. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM 
1. Quan điểm cơ bản về phát triển du lịch 
Trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định du 
lịch “là một hƣớng chiến lƣợc quan trọng trong đƣờng lối phát triển kinh tế- 
xã hội của Đảng và Nhà nƣớc” (Chỉ thị số 46-CP/TW ngày 14-10-1994 của 
Ban bí thƣ Trung ƣơng Đảng). Điều đó đòi hỏi các ngành, các cấp trong đó 
ngành du lịch là nòng cốt, phải có nhận thức và tƣ duy mới, nhằm huy động 
tối đa mọi nguồn lực của đất nƣớc để “Phát triển mạnh du lịch, hình thành 
công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tƣơng xứng với tiềm năng du lịch 
to lớn của đất nƣớc ta” mà Nghị quyết lần thứ VII của Ban chấp hành Trung 
ƣơng Đảng khoá VII đã đề ra. Và qua các kỳ Đại hội, Đảng và Nhà nƣớc đã 
xác lập và nhất quán một hệ thống quan điểm về phát triển du lịch trong tình 
hình mới. 
1.1 Phát triển du lịch đạt hiệu quả trên nhiều phương diện 
Quan điểm này xuất phát từ thực tế du lịch là một ngành kinh tế mang 
tính chất tổng hợp. Trong quá trình phát triển ngành du lịch phải giải quyết 
hài hoà mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, thực hiện đồng 
thời và đảm bảo tính thống nhất trong việc giải quyết các mục tiêu kinh tế và 
xã hội, các lợi ích trƣớc mắt và lâu dài. Quan điểm trên rất phù hợp với thực 
tế nƣớc ta khi mà phân công lao động xã hội phát triển chƣa cao, đời sống 
nhân dân còn thấp, giải quyết công ăn việc làm là yêu cầu bức xúc của xã hội, 
phát triển du lịch sẽ góp phần tích cực giải quyết yêu cầu chung đó. 
 59 
1.2 Phát triển du lịch với nhiều thành phần kinh tế tham gia và có sự quản 
lý thống nhất của Nhà nước 
 Kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới và trong khu vực cho thấy 
một trong nhiều nguyên nhân quan trọng để phát triển ngành du lịch tiến lên 
nhanh chóng và vững chắc là có nhiều thành phần tham gia hoạt động trong 
lĩnh vực này. Ở nƣớc ta, mấy năm qua, việc thực hiện chủ trƣơng đó trong 
phát triển du lịch đã khơi dậy nhiều tiềm năng tham gia vào hoạt động này. 
Thành tựu mà ngành du lịch đạt đƣợc trong nhiều năm gần đây có sự đóng 
góp của nhiều thành phần kinh tế. 
Huy động các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch dƣới sự 
quản lý thống nhất của Nhà nƣớc là hai mặt của một vấn đề thống nhất với 
nhau: vừa huy động đƣợc nhiều nguồn lực, vừa làm cho du lịch nƣớc ta phát 
triển đúng hƣớng, ổn định thị trƣờng kinh doanh du lịch. 
1.3 Phát triển du lịch quốc tế và du lịch nội địa 
Quan điểm phát triển du lịch quốc tế bắt nguồn từ đƣờng lối đối ngoại 
của Đảng và Nhà nƣớc ta “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nƣớc” lại 
phù hợp với xu thế phát triển du lịch thế giới và đón trƣớc thời cơ của làn 
sóng du lịch thế giới đang hƣớng về khu vực châu á - Thái Bình Dƣơng. 
Việt Nam là một vùng có rất nhiều tiềm năng phát triển du lịch, nếu các 
tiềm năng ấy đƣợc khai thác đúng hƣớng và có kế hoạch thì trong tƣơng lai 
không xa, Việt Nam sẽ trở thành một thị trƣờng du lịch có sức hấp dẫn lớn đối 
với du khách quốc tế. Thực tế phát triển du lịch những năm qua cho thấy ngày 
càng có nhiều du khách quốc tế tìm đến thị trƣờng Việt Nam. 
Phát triển du lịch nội địa có nguồn gốc xuất phát từ đời sống vật chất và 
văn hoá của nhân dân ta ngày càng đƣợc cải thiện, nhu cầu đòi hỏi đƣợc đi 
nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi giải trí... của nhiều đối tƣợng, tầng lớp trong 
nhân dân ngày càng tăng lên. Đây thực sự là điều kiện vô cùng thuận lợi để 
phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh du lịch nội địa. 
 60 
Do vậy, phát triển du lịch quốc tế và nội địa đều là những động lực 
quan trọng thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển mạnh và trở thành ngành 
kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này đòi hỏi sự phối 
hợp chặt chẽ trong mối quan hệ giữa các địa phƣơng, các doanh nghiệp du 
lịch trong việc xác lập và triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch. Nhƣ vậy, 
phát triển du lịch theo quan điểm này cần có tính tổng thể và đồng bộ, có sự 
phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành. Với tiềm năng du lịch to lớn của 
đất nƣớc ta, nếu biết khai thác tốt sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của 
du khách trong và ngoài nƣớc. 
1.4 Phát triển du lịch nhanh và bền vững 
Việc phát triển kinh tế và xã hội nƣớc ta đang nằm trong bối cảnh vừa 
thuận lợi, vừa khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen lẫn nhau, bối cảnh đó 
cũng chi phối trong suốt quá trình phát triển du lịch Việt Nam. Một mặt yêu 
cầu phải ra sức phát triển nhanh du lịch để đuổi kịp các nƣớc trong khu vực, 
đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, mặt khác, ngành du 
lịch cũng nhƣ nhiều ngành kinh tế khác nƣớc ta đang hoạt động trong một 
môi trƣờng cạnh tranh gay gắt theo xu hƣớng mở nên tính bền vững trong quá 
trình phát triển là một đòi hỏi tất yếu để có thể duy trì và nâng cao sức cạnh 
tranh của ngành với thị trƣờng bên ngoài. Vì vậy phát triển du lịch phải đồng 
thời đạt hiệu quả về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự 
an toàn xã hội, bảo vệ môi trƣờng sinh thái, giữ gìn và phát huy truyền thống, 
bản sắc văn hoá dân tộc… 
1.5 Xây dựng du lịch thành ngành mũi nhọn 
Xuất phát từ việc phân tích lợi thế so sánh và phát triển của ngành, 
Đảng ta đã xác định du lịch hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để trở 
thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nƣớc. Ngành du lịch nƣớc ta đang 
phát triển dựa trên nguồn tài nguyên du lịch vô cùng to lớn, đây là một lợi thế 
mà không phải ngành nào cũng có đƣợc. Hơn nữa, quan điểm này còn dựa 
 61 
vào xu hƣớng có tính quy luật về phát triển kinh tế trong điều kiện chịu sự tác 
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đó là các ngành dịch 
vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân. 
Một số nƣớc trong khu vực Đông Nam á có tài nguyên du lịch tƣơng tự nhƣ 
nƣớc ta nhƣng do có một số điều kiện thuận lợi hơn về mặt chính trị - xã hội 
đã sớm thúc đẩy phát triển du lịch, nên đến nay ngành du lịch của họ đã phát 
triển khá mạnh mẽ, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Căn cứ 
vào cơ sở lý luận và thực tiễn đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nêu 
rõ “Hình thành dần một số ngành mũi nhọn nhƣ chế biến nông, lâm, thuỷ sản, 
công nghệ điện tử, thông tin, du lịch” 
Tóm lại, các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển du 
lịch trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau, hợp thành một hệ thống quan 
điểm lý luận có tác dụng chỉ đạo phát triển du lịch chẳng những trƣớc mắt mà 
còn cho cả một quá trình lâu dài, nhằm đƣa du lịch nƣớc ta đạt đến vị trí xứng 
đáng so với tài nguyên của nó. 
2. Mục tiêu phát triển du lịch: 
 Qua nhiều kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và các nghị quyết của Trung ƣơng, 
nhiều văn bản của nhà nƣớc đã đề cập các mục tiêu trong chiến lƣợc phát triển 
du lịch Việt Nam, bao gồm một hệ thống mục tiêu du lịch khá toàn diện. Hệ 
thống mục tiêu đó bao gồm các mục tiêu về kinh tế, an ninh quốc gia, an toàn và 
trật tự xã hội, mục tiêu về môi trƣờng, mục tiêu văn hoá xã hội… 
2.1 Mục tiêu tổng quát 
Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai 
thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa 
lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nƣớc và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ 
quốc tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nƣớc, từng 
bƣớc đƣa nƣớc ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, 
 62 
phấn đấu sau năm 2010, Du lịch Việt Nam đƣợc xếp vào nhóm quốc gia có 
ngành Du lịch phát triển trong khu vực. 
2.2 Mục tiêu cụ thể: 
2.2.1 Tăng cƣờng thu hút khách du lịch 
Phấn đấu năm 2010 đón 5,5-6 triệu lƣợt khách quốc tế, tăng 3 lần so 
với năm 2000, nhịp độ tăng trƣởng bình quân 11,4%/năm và 25 triệu lƣợt 
khách nội địa, tăng hơn 2 lần so với năm 2000, dự tính đƣa thị phần du lịch 
của Việt Nam trong khi vực Đông Nam á lên 12,8%. Mục tiêu hƣớng tới là 
năm 2020 Việt Nam có thể đón 12,8 triệu khách du lịch quốc tế, 37 triệu 
khách nội địa.1 
2.2.2 Nâng cao nguồn thu nhập từ du lịch 
Dự tính thu nhập xã hội từ du lịch năm 2010 đạt 16,300 triệu USD, đƣa 
tỷ trọng (GDP) du lịch lên 12% trong tổng GDP cả nƣớc và giải quyết 
560.000 lao động phục vụ trong ngành du lịch. 
2.2.3 Xây dựng mới, trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 
Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, tới năm 2010 
Việt Nam sẽ xây hình thành một số khu du lịch quốc gia nổi trội, có thƣơng 
hiệu, có tính cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. 
Ƣu tiên đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) cho dự án thuộc các địa 
phƣơng có khu du lịch quốc gia, tập trung vào bốn khu du lịch tổng hợp: Hạ 
Long, Cát Bà ; Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng; Nha Trang của Khánh Hòa; 
khu du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng núi Đan Kia- Suối Vàng của Lâm Đồng và 
17 khu du lịch chuyên đề của 14 tỉnh, thành phố khác, trong đó có cả khu du 
lịch biển đảo Phú Quốc của Kiên Giang. 
1 Thủ tƣớng chính phủ, ngày 22 tháng 07 năm 2002, Phê duyệt chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam năm 
2001- 2010. 
 63 
Nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lƣợc, ngành du lịch cần huy động 
từ nhiều nguồn lực khác nhau với mức vốn khoảng 5,5 tỷ USD cho giai đoạn 
2006- 2010, trong đó, đầu tƣ cho CSHT du lịch 1,5 tỷ USD. Nguồn vốn đầu 
tƣ CSHT du lịch sẽ huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách Nhà nƣớc hỗ trợ 
chiếm 20 - 30% tổng nhu cầu đầu tƣ CSHT du lịch, khoảng 5.000 đến 7.200 
tỷ đồng. Thực tế nguồn vốn hỗ trợ đầu tƣ này chƣa thấm vào đâu vì vậy các 
địa phƣơng phải tự cân đối bổ sung nguồn vốn để hoàn thành dự án. Nguồn 
vốn ODA chiếm 5- 10% tổng nhu cầu đầu tƣ CSH.T du lịch, khoảng 1.200 - 
2.400 tỷ đồng nhằm đầu tƣ tại một số địa bàn trọng điểm phát triển du lịch. 
Các nguồn vốn khác chiếm 60 - 70% tổng nhu cầu đầu tƣ, khoảng 14.400- 
18.000 tỷ đồng, huy động từ các địa phƣơng thông qua đấu giá quyền sử dụng 
đất, vốn đầu tƣ của các nhà đầu tƣ trong nƣớc và ngoài nƣớc. 1 
2.2.4 Tăng cƣờng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh công tác xúc tiến, tuyên truyền 
quảng bá, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và đào tạo phát triển 
nguồn nhân lực du lịch 
Việt Nam đề ra mục tiêu mở rộng diện ký và thực hiện tốt hiệp định 
hợp tác du lịch song phƣơng và tham gia có hiệu quả vào các tổ chức du lịch 
khu vực và quốc tế, xây dựng tiềm lực nghiên cứu khoa học và công nghệ 
cũng nhƣ mạng lƣới các cơ sở đào tạo du lịch. Đến năm 2010 đào tạo thêm 
1,4 triệu lao động, trong đó lao động nghiệp vụ lễ tân, hƣớng dẫn viên, nhân 
viên phục vụ khách sạn chiếm trên 308.000 ngƣời. 
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY DU LỊCH VIỆT NAM HƢỚNG TỚI 
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
1. Những giải pháp mang tính vĩ mô 
Sự phát triển của ngành Du lịch phụ thuộc chặt chẽ vào hiệu quả của 
việc quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc mà trực tiếp là Tổng cục Du lịch Việt Nam. 
Tổng cục Du lịch đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện những chính 
1 Cẩm Tú, năm 2008, Để du lịch Việt Nam phát triển bền vững, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần 
 64 
sách, biện pháp mang tính vĩ mô để phát triển ngành Du lịch. Những giải 
pháp đƣợc đƣa ra ở đây là nhằm định hƣớng cho hoạt động quản lý vĩ mô, từ 
đó đề ra những nhiệm vụ cụ thể. 
1.1 Kiện toàn và đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý 
Để có thể thực hiện thành công chiến lƣợc phát triển du lịch với những 
mục tiêu cụ thể đã đề ra, ngành du lịch cần kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ 
chế quản lý sao cho ngang tầm nhiệm vụ của một ngành kinh tế mũi nhọn 
cũng nhƣ phù hợp với yêu cầu của sự phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. 
Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nƣớc về du lịch cần theo hƣớng: Phối hợp với 
các ngành và địa phƣơng liên quan, xúc tiến thành lập Cục Xúc tiến du lịch và 
thành lập thêm các Sở Du lịch ở những địa bàn trọng điểm nhiều tiềm năng du 
lịch và hoạt động du lịch sôi động; sắp xếp lại các doanh nghiệp du lịch nhà 
nƣớc, hình thành các công ty hoặc tổng công ty mạnh, tăng cƣờng vai trò chủ 
đạo của kinh tế nhà nƣớc trong hoạt động kinh doanh du lịch, khuyến khích 
các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch để có thể huy động ngày 
càng tăng các nguồn lực của xã hội vào phát triển du lịch. Đồng thời gắn mô 
hình đổi mới tổ chức quản lý với yêu cầu đảm bảo tính hiệu quả, đồng bộ. 
Việc Tổng cục du lịch sáp nhập với bộ văn hoá thông tin là một tín hiệu rất 
đáng mừng, thể hiện tầm vĩ mô tổ chức chung - Du lịch đi liền với văn hoá. 
Bên cạnh đó phải đẩy mạnh hơn, thực hiện đồng bộ và hiệu quả hơn 
mối quan hệ liên ngành, liên vùng trong du lịch: không ngừng thắt chặt và 
củng cố sự hợp tác vốn có và cần có giữa ngành du lịch với ngành hàng 
không, ngoại giao, công an, quốc phòng, văn hoá, giao thông, hải quan… Có 
thể nói nâng cao tính liên kết - là một điều kiện tất yếu để đẩy mạnh phát triển 
bền vững của ngành du lịch trong giai đoạn hội nhập, bao gồm tính liên 
ngành, liên vùng, liên quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh 
nghiệp du lịch, liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý ngành cũng 
sẽ tạo nên một môi trƣờng, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Tổng cục 
 65 
Du lịch cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phƣơng liên quan để 
tháo gỡ thủ tục, giải quyết vƣớng mắc trong hoạt động du lịch. Mặt khác, các 
Sở Du lịch, Sở Thƣơng mại - Du lịch cần chủ động báo cáo cấp uỷ và chính 
quyền địa phƣơng, có kế hoạch phối kết hợp với các ban, ngành trên địa bàn 
để tổ chức triển khai tốt hơn các hoạt động du lịch; tăng cƣờng công tác thông 
tin nhiều chiều giữa Tổng cục Du lịch với các sở và doanh nghiệp. Phải có 
quy hoạch tổng thể chỗ nào do trung ƣơng quản lý, chỗ nào do tỉnh và địa 
phƣơng quản lý. 
Tóm lại bài toán du lịch cũng giống nhƣ bài toán kinh tế, bài toán giao 
thông, phải ở mức quản lý vĩ mô mới giải đƣợc. Ngƣời quản lý phải có tầm 
hiểu biết, có kinh nghiệm và đặc biệt phải có khả năng liên kết các ban ngành 
với nhau, coi tài sản quốc gia không phải chỉ của riêng chúng ta, của riêng thế 
hệ này mà là của con cháu đời sau thì mới có thể vạch ra đƣợc đƣờng lối 
chiến lƣợc phát triển bền vững. 
1.2 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách 
Nhà nƣớc cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du 
lịch, tạo môi trƣờng pháp lý cho việc quản lý hoạt động du lịch, thu hút mọi 
nguồn lực phát triển du lịch; đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ 
tục liên quan đến hoạt động du lịch. Các chính sách và nội dung phát triển du 
lịch phải thật thuận lợi thể hiện ở việc các cấp, các ngành, các địa phƣơng 
khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực, trách nhiệm cho phát triển du lịch 
thông qua trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Cụ thể là: 
 Chính sách tài chính: Kiến nghị với Chính phủ có những chính sách tài 
chính phù hợp nhằm khuyến khích du lịch phát triển với tốc độ cao hơn cả về 
chất và lƣợng. Nhà nƣớc cần giảm tiền thuê đất, giảm các chi phí đầu vào nhƣ 
điện, nƣớc… để giảm giá thành sản phẩm du lịch, giúp các doanh nghiệp kinh 
doanh du lịch có điều kiện đầu tƣ, đa dạng hoá sản phẩm du lịch. Tổng cục Du 
lịch cần kết hợp với Bộ Tài chính để quản lý giá cả trong khách sạn gắn với thứ 
 66 
hạng của các khách sạn để tránh tình trạng các khách sạn tuỳ ý đặt giá không 
thống nhất nhƣ hiện nay, tốt nhất là cần thực hiện chính sách một giá một cách 
triệt để nhằm thu hút khách nƣớc ngoài. Cần cho phép các doanh nghiệp du lịch 
đƣợc vay tín dụng ƣu đãi để đầu tƣ cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở 
lƣu trú, phƣơng tiện vận chuyển khách du lịch. Mặt khác, du lịch là hoạt động 
xuất khẩu tại chỗ, do đó các sản phẩm du lịch quốc tế có thể thu ngoại tệ (với các 
mặt hàng tiêu dùng, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mà khách du lịch mua sắm 
tại Việt Nam) cần đƣợc hƣởng cơ chế, chính sách ƣu đãi, miễn thuế xuất khẩu 
nhƣ hàng hoá xuất khẩu. Đồng thời các trang thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các 
hoạt động thu ngoại tệ của ngành du lịch phải đƣợc xem nhƣ là tƣ liệu sản xuất 
hàng xuất khẩu, do đó cần đƣợc miễn giảm thuế. 
Chính sách đầu tƣ: Nhà nƣớc xây dựng chính sách đầu tƣ hợp lý phát 
triển kết cấu hạ tầng du lịch (bao gồm cả hệ thống giao thông) tại các vùng du 
lịch trọng điểm, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng xa xôi trên cơ sở qui 
hoạch tổng thể. áp dụng chính sách ƣu đãi đầu tƣ trong nƣớc đối với các lĩnh 
vực, ngành nghề, dự án trọng điểm đầu tƣ du lịch. Nhà nƣớc và các địa 
phƣơng phải xác định tỷ lệ ƣu tiên vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng du lịch so 
với các ngành nghề khác (những ngành nghề không đƣợc xác định là mũi 
nhọn, không thuộc nhóm ngành nghề có khả năng cạnh tranh). Mặt khác, khối 
lƣợng đầu tƣ phải lớn và lâu dài; huy động mọi nguồn vốn, chú trọng nguồn 
vốn tƣ nhân và đầu tƣ nƣớc ngoài. 
 Trên cơ sở xem xét các thế mạnh và tốc độ phát triển của từng vùng, 
từng lĩnh vực, Nhà nƣớc cần tạo cơ chế thông thoáng hơn về đầu tƣ cho sự 
phát triển du lịch ở từng địa phƣơng nhằm khuyến khích việc huy động các 
nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác nhau. Với chiến lƣợc xã hội hoá du 
lịch, những địa phƣơng có tiềm năng lớn về du lịch sẽ thực sự trở thành các 
trung tâm du lịch đặc thù và ngƣời dân ở đó sẽ sống chủ yếu vào nguồn thu từ 
du lịch. 
 67 
 Chính sách xuất nhập cảnh, hải quan: Tiếp tục đơn giản hóa các thủ 
tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với ngƣời và hành lý của khách du lịch phù 
hợp khả năng quản lý của nƣớc ta và thông lệ quốc tế; cải tiến quy trình, tăng 
cƣờng trang thiết bị hiện đại tại các cửa khẩu quốc tế trong việc kiểm tra 
ngƣời và hành lý; sửa đổi, bổ sung các quy định về đồ cổ, đồ thủ công mỹ 
nghệ dân gian; mở thêm các dịch vụ thuận tiện cho khách du lịch (ngân hàng, 
đổi tiền, thu trực tiếp ngoại tệ, cửa hàng miễn thuế, quầy thông tin du lịch); 
Nghiên cứu và xúc tiến miễn thị thực xuất nhập cảnh đối với các nƣớc còn lại 
trong khu vực ASEAN và miễn visa đơn phƣơng cho một số nƣớc có nhiều 
khách vào Việt Nam du lịch. 
Xây dựng những chính sách, tiêu chuẩn đánh giá cụ thể phục vụ cho 
việc quản lý chất lƣợng sản phẩm du lịch trên thị trƣờng nhằm bảo vệ quyền 
lợi cho ngƣời tiêu dùng và uy tín của ngành, tạo cho du lịch những điều kiện 
thuận lợi nhất để phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. 
1.3 Tăng cƣờng xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch 
Kinh nghiệm phát triển du lịch của các quốc gia trong khu vực nhƣ 
Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Hàn Quốc... đều chỉ ra rằng, công tác tuyên 
truyền quảng bá, xây dựng thƣơng hiệu là hết sức quan trọng trong sự nghiệp 
phát triển du lịch. Hiện nay, hoạt động quảng cáo ở nƣớc ta nói chung và đối 
với ngành Du lịch nói riêng còn kém phát triển và lạc hậu so với khu vực và 
thế giới. Ngân sách dành cho hoạt động marketing, quảng cáo nhằm xây dựng 
thƣơng hiệu du lịch Việt Nam còn quá eo hẹp.Du lịch Việt nam cần có một 
“chiến dịch truyền thông mạnh mẽ” có tính chất đột phá trong việc quảng bá 
thƣơng hiệu du lịch Việt Nam. Trong thời gian tới cần tập trung vào: 
Xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc và đa dạng: Phát huy lợi thế về 
tiềm năng du lịch, cần xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc cho Việt Nam, kết 
hợp với dịch vụ du lịch hiện đại; kết hợp nhiều loại hình du lịch trong một sản 
phẩm, khuyến khích các loại hình du lịch mới nhƣ du lịch sinh thái. Để sản 
 68 
phẩm du lịch thêm phần đa dạng, ngành du lịch tập trung hơn nữa vào nghiên 
cứu và xây dựng mới các chƣơng trình du lịch hấp dẫn, độc đáo có khả năng 
thu hút nhanh số lƣợng khách quốc tế. Việc quan tâm đến các phân đoạn thị 
trƣờng khác nhau để thoả mãn tối đa nhu cầu du lịch của mọi đối tƣợng khách 
là rất cần thiết. Thị trƣờng quan trọng trƣớc hết phải là thị trƣờng khu vực bao 
gồm cả Đông Bắc Á với những thị trƣờng khách du lịch trọng điểm truyền 
thống của Việt Nam nhƣ Nhật Bản, Trung Quốc. Thị trƣờng Bắc Mỹ (mà 
trƣớc hết là thị trƣờng Mỹ) và thị trƣờng châu Âu cũng là những thị trƣờng 
lớn. Nếu tăng cƣờng quảng bá tốt, tiếp thị tích cực thì số khách sẽ tăng nhanh. 
Xây dựng văn minh du lịch Việt Nam: Cần giữ gìn những giá trị đạo 
đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong các loại hình du lịch đặc thù. 
Những điều này đòi hỏi sự tuyên truyền giáo dục của chính quyền, của các 
phƣơng tiện thông tin đại chúng và các phƣơng thức xã hội hoá du lịch; gắn 
lợi ích của du lịch với mỗi ngƣời dân để đảm bảo tính văn minh bền vững. 
Trong tình hình thế giới có nhiều biến động, Việt Nam đang đƣợc đánh 
giá là một trong những điểm du lịch an toàn và đầy hấp dẫn nhất khu vực và 
thế giới. Khẩu hiệu “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã tỏ rõ sự 
hấp dẫn du khách. Hơn bao giờ hết Việt Nam cần tăng cƣờng công tác tuyên 
truyền, quảng bá về Du lịch Việt Nam nhằm thu hút ngày một nhiều khách du 
lịch đến tham quan và tìm hiểu về đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam. Cần phải 
có kế hoạch tiếp thị dài hạn và xúc tiến quảng bá phù hợp ở cả trong và ngoài 
nƣớc, cần tập trung tuyên truyền tạo chuyển biến nhận thức mạnh hơn, sâu 
hơn trong các ngành, các cấp và trong cộng đồng về vị trí, vai trò, chủ trƣơng, 
biện pháp phát triển du lịch. 
Ngành du lịch cũng phải tăng cƣờng phối hợp đảm bảo việc đón tiếp 
các đoàn khách quốc tế vào làm việc, tạo điều kiện cho báo chí, truyền hình, 
các đoàn khảo sát của các hãng lữ hành nƣớc ngoài vào Việt Nam viết bài, 
 69 
làm phim về du lịch, góp phần đẩy mạnh xúc tiến, giới thiệu du lịch Việt Nam 
tới thị trƣờng nguồn khách. 
1.4 Chú trọng đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực Ngành Du lịch 
Phát triển nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò rất quan trọng trong sự 
phát triển chung của ngành du lịch. Việt Nam cần xây dựng và có những kế 
hoạch triển khai cụ thể một chiến lƣợc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực 
nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển của ngành trong hiện tại và tƣơng lai 
về cơ cấu, số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ lao động du lịch. 
Trên cơ sở tổng điều tra nguồn nhân lực hiện có và dự báo nhu cầu 
cũng nhƣ khả năng phát triển nguồn nhân lực du lịch đến năm 2020, ngành du 
lịch cần có kế hoạch triển khai cụ thể chiến lƣợc đào tạo, bồi dƣỡng và phát 
triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các yêu cầu mà ngành đang đặt ra. Công 
tác đào tạo cần phù hợp và sát với nhu cầu nhân lực của ngành, tránh sự đào 
tạo mất cân đối gây lãng phí và không hiệu quả. Hơn nữa phải xác định rõ 
phạm vi và lĩnh vực đào tạo vì đây là yếu tố quyết định để đầu tƣ vào đào tạo. 
Ngành du lịch nên phối hợp với Bộ giáo dục - Đào tạo tăng cƣờng chất 
lƣợng đào tạo của các Khoa, Bộ môn đào tạo về du lịch ở các trƣờng đại học. 
Cần sớm có kế hoạch đào tạo bồi dƣỡng đội ngũ giảng viên trong các cơ sở 
đào tạo du lịch, nhanh chóng khắc phục tình trạng hiện nay đội ngũ này vừa 
ít, vừa hạn chế về năng lực. Vì vậy, việc tổ chức đào tạo mới và đào tạo lại 
đội ngũ này là rất cần thiết. Hình thức đào tạo cần đƣợc đa dạng hoá nhƣ bồi 
dƣỡng ngắn hạn, đào tạo dài hạn, kết hợp thực tập tu nghiệp và mời chuyên 
gia nƣớc ngoài. 
Nhà nƣớc cần xác định các cơ sở đào tạo du lịch đầu ngành, trọng điểm 
để tập trung đào tạo cơ bản và lâu dài. Việc đầu tƣ về cơ sở vật chất kỹ thuật 
cho các cơ sở đào tạo du lịch đòi hỏi phải có hạng mục riêng. Đồng thời chú 
trọng đến việc đào tạo và bồi dƣỡng nghề du lịch thông qua việc mở rộng 
thêm trƣờng dạy nghề du lịch ở miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông 
 70 
Cửu Long để tăng cƣờng mạng lƣới đào tạo cân đối cả nƣớc. Các cơ sở đào 
tạo trong cả nƣớc cần thống nhất chƣơng trình, nội dung đào tạo du lịch cho 
các cấp học khác nhau dƣới sự chỉ đạo, định hƣớng của Bộ Giáo dục và Đào 
tạo và Tổng cục Du lịch . Hệ thống đào tạo du lịch cần đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ 
một cách thích đáng để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành, chẳng hạn nhƣ 
xây dựng một Học viện Du lịch hay một trƣờng Đại học Du lịch. 
Tổ chức các cuộc thi tay nghề nhƣ lễ tân, nấu ăn, hƣớng dẫn viên du 
lịch… Điều này không chỉ có tác dụng quảng bá du lịch để thu hút khách mà 
còn là sự động viên, khuyến khích, thúc đẩy phong trào thi đua và tôn vinh 
những ngƣời lao động giỏi ở các doanh nghiệp du lịch. 
Rõ ràng, việc đào tạo và bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ và nhân viên du lịch 
là vấn đề khẩn trƣơng, cấp bách nhƣng không thể nóng vội mà cần phải tiến 
hành từng bƣớc. Trƣớc mắt, ƣu tiên việc đào tạo lại cán bộ nhân viên du lịch 
với nội dung và chƣơng trình thích hợp; phƣơng thức đào tạo cần phải triển 
khai mềm dẻo và linh hoạt. 
1.5 Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ 
Trong bối cảnh hiện nay khi mà hàm lƣợng khoa học và công nghệ 
trong mỗi sản phẩm xã hội ngày càng cao và đất nƣớc ta cũng đang bƣớc vào 
phát triển nền kinh tế tri thức, các sản phẩm nghiên cứu khoa học sẽ là cơ sở 
cho công tác qui hoạch phát triển ngành du lịch, hoạch định các chiến lƣợc thị 
trƣờng, đa dạng hoá và nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch, là cơ sở cho 
việc đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp và cho công tác quản lý. Việc 
nghiên cứu ứng dụng thành tựu mới của công nghệ thông tin đóng một vai trò 
quan trọng không chỉ đối với công tác quản lý mà còn đối với các hoạt động 
kinh doanh du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch. 
Để thực hiện yêu cầu trên, nhà nƣớc cần đầu tƣ củng cố nâng cao năng 
lực nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt của các cơ quan Nhà nƣớc nhƣ Viện 
Nghiên cứu phát triển du lịch và Trung tâm công nghệ thông tin du lịch. Nhà 
 71 
nƣớc cũng cần khuyến khích nghiên cứu khoa học phục vụ việc giải quyết các 
vấn đề bức xúc của ngành; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông 
tin du lịch, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành góp phần thúc đẩy 
công tác quản lý, kinh doanh và xúc tiến quảng bá du lịch. Khuyến khích các 
doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản 
xuất, kinh doanh cũng nhƣ áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất 
lƣợng quốc tế. Việc sử dụng và phát huy tiềm năng chất xám, tri thức của 
ngƣời Việt Nam phục vụ cho phát triển du lịch cũng cần đƣợc chú trọng. 
Ngoài ra còn cần mở rộng giao lƣu và hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa 
học ở trong và ngoài nƣớc để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp 
cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế 
để áp dụng cho du lịch Việt Nam. 
1.6 Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường tự nhiên, xã hội 
Trong xu thế chung của sự “bùng nổ” hoạt động du lịch trên thế giới, 
du lịch Việt Nam đã có sự tăng trƣởng, phát triển và đạt đƣợc những kết quả 
hết sức khả quan, trong thành công ấy có vai trò to lớn của việc tổ chức, khai 
thác các nguồn tài nguyên du lịch. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở chƣơng 2, 
quá trình tổ chức, quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên này trong những 
năm qua còn một số bất cập, chƣa thống nhất và chƣa có sự đồng bộ. Tình 
trạng này xảy ra không chỉ ở việc khai thác nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên 
mà cả ở tài nguyên du lịch văn hoá. 
Theo quan điểm của Tổ chức du lịch thế giới WTO, một sản phẩm du 
lịch tổng hợp muốn đạt đƣợc chất lƣợng cao, thu hút đƣợc nhiều khách du 
lịch phải đạt đƣợc ba tiêu chuẩn: cảnh quan du lịch hấp dẫn, giá cả phải 
chăng, việc ra vào tiếp xúc dễ dàng. Trên cơ sở đó, việc chuyển hoá tiềm năng 
to lớn của du lịch nƣớc ta thành sản phẩm du lịch đa dạng và phong phú, đòi 
hỏi việc tổ chức quản lý và khai thác phải thực sự khoa học, đồng bộ và thống 
nhất. Để đạt đƣợc điều đó, nhà nƣớc cần có biện pháp giáo dục và nâng cao 
 72 
nhận thức toàn dân về khai thác nguồn tài nguyên phục vụ cho du lịch bằng 
cách lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi trƣờng du lịch trong 
chƣơng trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch, cũng nhƣ 
giáo dục nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng du lịch 
cho khách du lịch, cộng đồng dân cƣ thông qua các phƣơng tiện thông tin đại 
chúng. 
Nguồn tài nguyên của nƣớc ta (bao gồm cả tài nguyên tự nhiên và văn 
hoá) khi đã trở thành tài nguyên du lịch thì phải do ngành du lịch chủ động 
nắm bắt, khai thác phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất 
nƣớc. Nhà nƣớc cần xây dựng một hệ thống quản lý tài nguyên và môi trƣờng 
du lịch, thƣờng xuyên theo dõi biến động để có những giải pháp kịp thời, phối 
hợp đồng bộ và nhịp nhàng với các ngành kinh tế khác, với các địa phƣơng sở 
tại để khắc phục sự cố, tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trƣờng du 
lịch cũng nhƣ phòng chống tệ nạn xã hội thâm nhập vào hoạt động du lịch; 
huy động sự tham gia và sự đóng góp của cộng đồng dân cƣ, doanh nghiệp, 
hiệp hội du lịch, khách du lịch và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ môi 
trƣờng tự nhiên và xã hội, tiến tới cải thiện một cách căn bản chất lƣợng vệ 
sinh, môi trƣờng, trật tự, trị an tại các điểm du lịch có đông khách du lịch 
quốc tế để tạo ấn tƣợng tốt về các điểm du lịch Việt Nam. Ngành du lịch cũng 
nên chú ý đến việc hƣớng dẫn các điểm du lịch nội địa, chú trọng bảo vệ môi 
trƣờng, giữ gìn trật tự, vệ sinh ngay từ lúc mới khai thác để đảm bảo phát 
triển du lịch bền vững. 
1.7 Chủ động hợp tác quốc tế tranh thủ nguồn lực bên ngoài 
Đồng thời với các giải pháp phát huy nội lực, cần coi trọng mở rộng và 
tăng cƣờng hợp tác quốc tế, tạo lập hình ảnh và vị thế của Du lịch Việt Nam ở 
khu vực và thế giới. Đa dạng hóa, đa phƣơng hóa hợp tác du lịch với các 
nƣớc, các cá nhân và các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, 
tăng nguồn khách, vốn đầu tƣ và kinh nghiệm cho sự phát triển du lịch Việt 
 73 
Nam. Chủ động tham gia hợp tác đa phƣơng trong khu vực và quốc tế 
trong các tổ chức và diễn đàn quốc tế nhƣ WTO, PATA, ASEAN, 
ASEANTA, APEC, EU..., khai thác tốt quyền lợi hội viên, tranh thủ kinh 
nghiệm, vốn và nguồn khách góp phần đƣa du lịch Việt Nam nhanh chóng 
đuổi kịp trình độ và hội nhập với sự phát triển chung của khu vực và thế 
giới. Thực hiện và khai thác hiệu quả các hiệp định đã ký; duy trì, củng cố 
và phát huy các quan hệ song phƣơng, tiến tới ký tiếp một số hiệp định 
mới. Cần phối hợp với các vụ chức năng nghiên cứu khả năng tìm nguồn 
để thành lập quỹ “Hội nhập quốc tế trong du lịch”, nhằm phục vụ tham 
gia các hội nghị, diễn đàn, các sự kiện quốc tế, mời chuyên gia của các tổ 
chức trong và ngoài khu vực nhƣ Tổ chức thƣơng mại thế giới, Diễn đàn 
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng, Hiệp hội các quốc gia Đông 
Nam á, Tổ chức du lịch thế giới… 
Triển khai đồng bộ các giải pháp trên, hội nhập và hợp tác quốc tế 
trong du lịch sẽ có kết quả thiết thực, góp phần nâng cao vị thế của du lịch 
Việt Nam trên trƣờng quốc tế, chủ động gắn du lịch Việt Nam với du lịch khu 
vực, thế giới và đồng thời sẽ thu hút đƣợc ngày càng nhiều thêm nguồn lực 
bên ngoài, tạo cơ sở vững chắc cho việc khai thác và sử dụng nguồn nội lực 
một cách có hiệu quả để du lịch nƣớc ta phát triển nhanh và bền vững, sớm 
thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. 
2. Những giải pháp mang tính vi mô 
Là lực lƣợng quan trọng trong việc thực hiện chiến lƣợc phát triển du 
lịch, doanh nghiệp kinh doanh du lịch phải chủ động xác định thị trƣờng và 
công nghệ mới, định rõ hƣớng đầu tƣ phù hợp với định hƣớng chiến lƣợc 
quốc gia để nâng cao năng lực kinh doanh, mở rộng thị trƣờng tiêu thụ và ứng 
dụng kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong kinh doanh du lịch, đồng thời phải có 
sự liên kết phối hợp giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch với nhau để 
 74 
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế 
giới. 
2.1 Đối với các đơn vị kinh doanh lữ hành 
Để nâng cao hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trƣờng, một công ty lữ 
hành có thể áp dụng các giải pháp sau 
 Xác định thị trƣờng trọng điểm: Trƣớc hết, doanh nghiệp phải 
xác định đƣợc chính xác thị trƣờng trọng điểm, đảm bảo lƣợng khách lớn, ổn 
định. Sau khi xác định thị trƣờng trọng điểm, vấn đề đầu tƣ cho kinh doanh 
nhƣ: tuyên truyền quảng cáo, xây dựng chƣơng trình tour, chào bán các sản 
phẩm đặc thù, đào tạo nguồn nhân lực, sẽ đƣợc thực hiện có định hƣớng hơn. 
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi đa số các doanh nghiệp kinh 
doanh du lịch Việt Nam hiện nay đều rất thiếu vốn. Việc xác định thị trƣờng 
trọng điểm cùng một chính sách đầu tƣ hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp sẽ tìm 
đƣợc chỗ đứng vững chắc trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ trong khu vực. 
 Nâng cao chất lƣợng sản phẩm du lịch 
 Hoàn thiện và làm phong phú các chƣơng trình truyền thống: căn 
cứ vào những kiến nghị của những du khách đã tham gia, công ty lữ hành nên 
thƣờng xuyên điều chỉnh lại các chƣơng trình truyền thống dành cho khách du 
lịch quốc tế, có thể là sự thay đổi một số tuyến điểm du lịch, thay đổi thời 
gian dừng chân tại các điểm du lịch, thay đổi các khách sạn hoặc thay đổi 
hành trình chuyến đi... để tạo nên một chƣơng trình du lịch có sức hấp dẫn, 
nâng cao hình ảnh uy tín của công ty. 
 Bên cạnh đó có thể phát triển chƣơng trình sản phẩm dựa trên 
việc tạo điều kiện cho khách tự thiết kế tour theo ý đồ của họ. Mặc dù biện 
pháp này có nhƣợc điểm là chi phí cá nhân hoá khách hàng cao, nhƣng thoả 
mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng. 
 Xây dựng các chƣơng trình du lịch mới: Đây là giải pháp đòi hỏi 
lƣợng vốn đầu tƣ ban đầu lớn, tuy nhiên nếu các công ty lữ hành thực sự quan 
 75 
tâm, chƣơng trình không chỉ đem lại uy tín và hình ảnh cho công ty mà còn có 
khả năng đem lại hiệu quả kinh doanh tƣơng đối cao. Giải pháp này không chỉ 
thu hút đƣợc thị trƣờng khách hàng tiềm năng mà còn có khả năng thu hút 
đƣợc thị trƣờng khách đã tiêu dùng sản phẩm của công ty. Dựa trên xu thế đi 
du lịch ngày nay, các công ty lữ hành nên xây dựng các chƣơng trình du lịch 
với chủ đề: du lịch sông nƣớc, du lịch về cội nguồn, du lịch phong cảnh kết 
hợp với lễ hội. Điều quan trọng là phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiềm năng 
tự nhiên về phong cảnh, di tích, truyền thống văn hoá, những dấu ấn của lao 
động sáng tạo của con ngƣời...nhằm tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang 
đậm bản sắc dân tộc. 
 Nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình du lịch: Không ngừng 
nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu của từng phân đoạn thị trƣờng nhằm tạo ra chất 
lƣợng phục vụ phù hợp với sự mong đợi của đa số khách hàng. Bởi vì khách 
hàng là mục tiêu cơ bản của chất lƣợng phục vụ, trong các chƣơng trình du 
lịch, khách du lịch không chỉ là ngƣời mua mà họ còn tham gia vào quá trình 
tạo ra chất lƣợng sản phẩm du lịch. Nắm bắt rõ tâm lí du khách cũng là một 
trong những biện pháp quan trọng trong vấn đề nâng cao chất lƣợng dịch vụ 
của chƣơng trình du lịch. 
 Chất lƣợng phục vụ của nhân viên có tính chất quyết định đến chất 
lƣợng của các dịch vụ, bản thân các doanh nghiệp lữ hành phải chú trọng công 
tác quản lý, bồi dƣỡng, sử dụng nhân viên: tạo phong cách phục vụ tận tình, chu 
đáo, an toàn, văn minh lịch sự của hƣớng dẫn viên và lái xe du lịch; nâng cao ý 
thức trách nhiệm của hƣớng dẫn viên trong việc đảm bảo chất lƣợng đi tour, giữ 
gìn môi trƣờng, phát triển du lịch bền vững. Đặc biệt, các doanh nghiệp này 
cũng cần có chính sách sử dụng cán bộ trẻ, đƣợc đào tạo cơ bản, có năng lực 
quản lý và điều hành. Thực tế đã cho thấy rằng, những doanh nghiệp kinh doanh 
du lịch đã mạnh dạn tiếp nhận và có chính sách sử dụng cán bộ quản lý và quản 
 76 
trị kinh doanh hợp lý thì sau vài năm công tác, nhiều cán bộ trẻ đó có thể trở 
thành những cán bộ tích cực, những trụ cột của doanh nghiệp. 
Nguồn nhân lực trong ngành Du lịch có đặc điểm là đòi hỏi trình độ 
văn hóa, nghiệp vụ khá cao. Vì vậy, doanh nghiệp phải hợp tác với các 
trƣờng, các khoa, các cơ sở đào tạo về du lịch để tiến hành đào tạo lại cho đội 
ngũ cán bộ quản lý, nhân viên hiện có của doanh nghiệp. Nâng cao trình độ 
của đội ngũ cán bộ nhân viên sẽ giúp doanh nghiệp có thể nâng hoạt động của 
mình lên một tầm mới. Đồng thời, sự hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp sẽ 
giúp các cơ sở đào tạo có định hƣớng hơn trong việc đào tạo học viên, giúp 
đào tạo đƣợc đội ngũ lao động mới phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. 
Nhờ đó, doanh nghiệp cũng có thể chủ động hơn trong việc tuyển lựa những 
nhân viên giỏi, có năng lực thực sự. 
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể hợp tác với các cơ quan nhà 
nƣớc về du lịch nhƣ Tổng cục Du lịch Việt Nam để có thông tin về các 
chƣơng trình đào tạo, các lớp bồi dƣỡng nâng cao kiến thức lịch sử, văn hóa, 
địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, nghiệp vụ, ngoại ngữ cho hƣớng dẫn 
viên du lịch để có kế hoạch tham gia. 
 Chất lƣợng các chƣơng trình du lịch trọn gói cũng phụ thuộc rất 
nhiều vào chất lƣợng các dịch vụ của nhà cung cấp. Nhƣng các dịch vụ này 
nằm ngoài phạm vi tác động trực tiếp của công ty hay nói cách khác, công ty 
không thể chủ động thay đổi chúng theo ý muốn của mình. Chính vì vậy, 
trƣớc khi mua các dịch vụ của nhà cung cấp, cần phải có sự thẩm định, kiểm 
tra các loại dịch vụ đó. Công ty có thể hạn chế rủi ro này bằng cách thiết lập 
mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp. Với biện pháp nhƣ vậy, công ty sẽ tạo 
ra mối quan hệ bền vững với các nhà cung cấp. 
 Tăng cƣờng công tác quảng bá du lịch 
Có thể nói các doanh nghiệp lữ hành hầu hết đều nhận thức đƣợc rõ vai 
trò của hoạt động tuyên truyền, quảng bá trong việc cải thiện kết quả kinh 
 77 
doanh. Tuy nhiên, số doanh nghiệp đã và đang tự mình thực hiện đƣợc hoạt 
động này không nhiều, nhất là tuyền truyền, quảng bá sản phẩm ở nƣớc ngoài. 
Các doanh nghiệp còn lại do thiếu vốn, qui mô hoạt động nhỏ nên không thể 
thực hiện đƣợc. Tuy vậy, vẫn có thể có những hƣớng đi cho những doanh 
nghiệp này: Đó là công tác xúc tiến quảng bá sản phẩm du lịch luôn đƣợc đặt 
lên hàng đầu. Làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt chính xác 
nhu cầu đa dạng của thị trƣờng trong từng thời điểm. Từ đó, doanh nghiệp sẽ 
có cơ sở để tiến hành nghiên cứu, sáng tạo sản phẩm mới, đặc thù và có tính 
cạnh tranh cao. 
Các doanh nghiệp này cũng nên tham gia một cách tích cực vào các 
chƣơng trình xúc tiến do Tổng cục Du lịch Việt Nam tổ chức để hạ chi phí và 
chỉ nên tập trung vào những thị trƣờng trọng điểm. Các doanh nghiệp lớn có 
thể tiến hành hoạt động xúc tiến ở các thị trƣờng nhƣ Nhật Bản và Tây Âu, 
còn những doanh nghiệp nhỏ thì nên hƣớng vào thị trƣờng Thái Lan, Lào, 
Campuchia ... Các doanh nghiệp cũng cần chủ động hợp tác và hợp tác chặt 
chẽ với các cơ quan ngoại giao, đại diện thƣơng mại Việt Nam tại nƣớc ngoài, 
nhằm quảng bá và thu hút nguồn khách du lịch vào Việt Nam. Nhƣ vậy, 
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, nhất là doanh nghiệp đƣợc phép kinh 
doanh lữ hành quốc tế phải chủ động xây dựng các mối liên kết thông qua 
việc hỗ trợ xây dựng các dự án phát triển sản phẩm du lịch trong hệ thống 
tour, tuyến du lịch, chủ động thực hiện hỗ trợ kỹ thuật, huấn luyện và giải 
quyết tiêu thụ các sản phẩm du lịch tạo ra ở từng địa phƣơng. 
2.2 Đối với các đơn vị kinh doanh lưu trú 
 Xác định rõ phƣơng hƣớng đầu tƣ 
Chúng ta nên phân biệt hai loại khách du lịch quốc tế: Loại khách du 
lịch bình dân- cho đến nay, họ vẫn chƣa có khả năng để thƣởng thức các 
khách sạn có tiêu chuẩn tiện nghi hiện đại, cao cấp. Đối với loại khách du lịch 
này, các khách sạn hiện có hoặc đang xây dựng ở Vũng Tầu, Đà Nẵng, Bãi 
 78 
Cháy, Đồ Sơn... có thể phù hợp với ý thích và túi tiền của họ. Ý thích lƣu lại ở 
trong một nƣớc có khí hậu nhiệt đới, ý thích tận dụng biển, và không có ý 
niệm so sánh với điều kiện ở các nƣớc du lịch khác, làm cho họ có thể chấp 
nhận đƣợc điều kiện lƣu lại nghỉ ở Việt Nam. Các khách du lịch cao cấp- Đối 
với loại khách du lịch này, rất khó làm cho họ chấp nhận lƣu lại nghỉ trong 
các khách sạn kiến trúc ''nặng nề'' (quá nhiều bê tông) đã đƣợc xây dựng ở 
Việt Nam từ 15 năm qua và lại đƣợc tiếp tục xây dựng hiện nay theo kiểu đó 
ở một số tỉnh. 
Nhƣ vậy, hiện nay, những ngƣời có trách nhiệm đang đứng trƣớc một 
sự lựa chọn kiểu khách sạn trong việc đầu tƣ xây mới hay cải tạo. Có thể tóm 
tắt ở hai điểm sau: Hoặc là họ coi rằng điểm chủ yếu của sản phẩm du lịch sau 
này của Việt Nam gắn liền với lịch sử văn hoá... và khách du lịch nƣớc ngoài 
phải chấp nhận mặt yếu kém trong các buồng ngủ, bởi vì mục tiêu đề ra 
không phải là tiện nghi mà là sự tìm tòi phát hiện. Về mặt này, phong trào tự 
phát hiện nay xây dựng các khách sạn chất lƣợng rất trung bình có thể đƣợc 
chấp nhận, khách du lịch không phải đến đây để nghỉ ngơi, giải trí, mà họ đến 
để tham quan, tìm hiểu. Vấn đề cần thiết là phải có các điều kiện tối thiểu, 
dịch vụ cơ bản, hạ tầng cơ sở nhƣ: điện, nƣớc sinh hoạt, viễn thông...Hoặc là 
họ chú trọng đến tâm lý phƣơng Tây: ngƣời ta đi du lịch ra nƣớc ngoài một 
thời kỳ để tìm hiểu, nghỉ ngơi và phải đƣợc sống điều kiện sinh hoạt sang 
trọng, đầy đủ. Theo cách nhìn này, hầu hết các công trình khách sạn đang xây 
dựng hoặc đang hoạt động ở các tỉnh sẽ cần phải bổ sung các trang thiết bị 
hiện đại. 
 Nâng cao chất lƣợng dịch vụ 
Luôn luôn chú trọng nâng cao chất lƣợng phục vụ khách, không để 
khách có ấn tƣợng xấu khi lƣu trú ngắn ngày hoặc dài ngày ở khách sạn. 
Những ấn tƣợng tốt đẹp khi ngƣời khách du lịch vào một quán ăn Nhật Bản 
với đôi dép của mình đƣợc xếp gọn gàng cẩn thận, vô tình phát hiện áo của 
 79 
mình đƣợc khâu thêm chiếc cúc vừa khuyết sẽ không bao giờ phai, sẽ thôi 
thúc họ muốn quay lại và giới thiệu cho nhiều ngƣời khác. Việt Nam đôi khi 
ngộ nhận, coi thƣờng những điều nhỏ nhặt ấy. Vì vậy đội ngũ nhân viên của 
khách sạn phải đƣợc tuyển chọn kỹ càng, đã qua đào tạo về chuyên môn, 
nghiệp vụ, ngoại ngữ, có kiến thức về xã hội - văn hoá của Việt Nam và của 
nƣớc du khách để có thể giải đáp những thắc mắc của khách và tránh những 
hiểu lầm về văn hoá, phong tục tập quán, khẩu vị của du khách. Khách sạn 
nên mời những chuyên gia hàng đầu về từng nghiệp vụ ở trong nƣớc và các 
chuyên gia nƣớc ngoài giảng dạy, bồi dƣỡng, báo cáo chuyên đề về tổ chức 
điều hành và nghiệp vụ trong khách sạn. 
Các khách sạn phải tạo ra uy tín và nét đặc trƣng trong phong cách 
phục vụ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong phục vụ. Muốn đảm bảo chất 
lƣợng của tất cả các loại dịch vụ mà mình cung cấp, các khách sạn sẽ phải lựa 
chọn và hình thành một hệ thống cung cấp dịch vụ. Hệ thống bao gồm các 
điểm cung cấp dịch vụ nối tiếp nhau tạo thành chuỗi liên hoàn và khép kín từ 
khi khách đăng ký đặt phòng và nhận phòng cho đến khi trả phòng và rời khỏi 
khách sạn, do đó, việc đảm bảo chất lƣợng dịch vụ của mỗi bộ phận liên hoàn 
trong hệ thống cung cấp dịch vụ sẽ cải thiện và giúp quản lý một cách có hiệu 
quả chất lƣợng dịch vụ khách sạn nói chung và từng loại dịch vụ riêng rẽ của 
khách sạn nói riêng. 
 Giữ mối liên hệ thƣờng xuyên với các công ty lữ hành và bộ 
phận nghiên cứu thị trƣờng để có thể nắm bắt đƣợc số lƣợng khách đến Việt 
Nam để có kế hoạch sắp xếp, chuẩn bị phòng và các dịch vụ khác. 
 Các khách sạn cần sớm liên kết để hình thành một Hiệp hội 
khách sạn để không chỉ hỗ trợ nhau về kinh nghiệm mà còn tránh đƣợc tình 
trạng cạnh tranh không lành mạnh. Việc thành lập Hiệp hội khách sạn còn có 
tác dụng điều hoà khách giữa các khách sạn trong trƣờng hợp có sự thừa và 
thiếu khách ở các khách sạn khác nhau; nó còn có tác dụng trong việc thống 
 80 
nhất giá cả giữa các khách sạn có cùng chất lƣợng, không để tình trạng giá cả 
tuỳ tiện. 
Để chủ động hội nhập du lịch kinh tế khu vực và thế giới, ngành du lịch 
cần phải đổi mới cả tƣ duy và cách làm sao cho phù hợp với điều kiện mới 
của nền kinh tế quốc gia và xu thế kinh tế quốc tế. Những giải pháp nêu trên 
cần đƣợc triển khai đồng bộ giữa các ngành, các cấp từ Trung ƣơng đến địa 
phƣơng, từ chính phủ đến các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và mỗi ngƣời 
dân, tức là phải có sự tham gia của toàn xã hội, trong đó ngành du lịch phải đi 
đầu làm nòng cốt, khi đó mới đủ điều kiện để du lịch Việt Nam thực sự phát 
triển hƣớng tới mục tiêu phát triển bền vững. 
 81 
KẾT LUẬN 
Mặc dù còn là một ngành công nghiệp non trẻ nhƣng trong những năm 
qua ngành du lịch Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu lớn: lƣợng khách 
quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng, thu nhập xã hội từ du lịch cũng tăng, 
tác động tích cực đến các ngành khác, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp 
phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế…Điểm đến Việt Nam an toàn và thân thiện ngày càng đƣợc ƣa chuộng trên 
thế giới trong một bối cảnh chính trị - xã hội đang có xu hƣớng ngày càng 
phức tạp và bất ổn. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc còn có nhiều khó 
khăn cần khắc phục nhƣ sau: Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch vẫn chƣa 
đáp ứng đƣợc yêu cầu, sức cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam còn thấp 
so với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới, trình độ cán bộ nhân viên du 
lịch chƣa cao, tài nguyên du lịch chƣa đƣợc khai thác một cách có hiệu quả, 
công tác tuyên truyền quảng cáo cho du lịch còn nhiều bất cập… 
Nhìn chung, sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên thị trƣờng quốc 
tế và khu vực vẫn còn thấp do các nguyên nhân: chƣa có các khu du lịch tầm 
cỡ quốc gia và quốc tế, chƣa có những sản phẩm du lịch chất lƣợng cao, chất 
lƣợng dịch vụ cũng chƣa cao, cơ sở vật chất kỹ thuật chƣa đồng bộ, đội ngũ 
cán bộ chuyên môn còn thiếu và còn yếu, một số chính sách chƣa thực sự 
thuận lợi cho khách du lịch. 
Trƣớc xu thế gia tăng của du lịch thế giới hiện nay và những dự báo 
khả quan của Tổ chức Du lịch thế giới cho du lịch châu á, đặc biệt là vùng 
Đông Á - Thái Bình Dƣơng, Việt Nam cần tận dụng, phát huy hiệu quả 
những cơ hội và lợi thế sẵn có và khắc phục những điểm yếu còn tồn tại để 
 82 
trong tƣơng lai không xa trở thành một quốc gia có nền du lịch phát triển theo 
quan điểm phát triển bền vững. 
Trên đây chỉ là những hiểu biết cá nhân nên không tránh khỏi những 
thiếu sót, mong rằng Nhà nƣớc, Tổng cục Du lịch, các Bộ, Ngành có liên 
quan và các doanh nghiệp du lịch sẽ có những nghiên cứu và phân tích sâu 
hơn với quy mô lớn hơn để đề ra những giải pháp cụ thể hơn để thúc đẩy 
ngành du lịch Việt Nam hƣớng tới phát triển bền vững. Khoá luận xin dừng ở 
đây với hi vọng một ngày không xa ngành du lịch Việt Nam sẽ phát triển 
mạnh mẽ, mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội to lớn cho đất nƣớc và sẽ có 
một vị trí xứng đáng trong ngành du lịch khu vực và trên thế giới. 
 84 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
A-SÁCH 
[1] Bùi Đình Ân, năm 1995, Địa lý du lịch- Nhà xuất bản TP Hồ Chí 
Minh. 
 [2] Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, năm 2001, Du lịch bền vững - 
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
 [3] Trần Nhạn, năm 1995, Du lịch và kinh doanh du lịch- Nhà xuất bản 
Văn hoá thông tin. 
[4] Hà Văn Sự , năm 1998, Luận án Tiến sĩ: Một số giải pháp phát triển 
du lịch Việt Nam. 
 [5] Pháp lệnh du lịch Việt Nam , Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà 
Nội- năm 1999. 
[6] Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ số 97, năm 2002, TTg phê 
duyệt chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam 2001- 2010. 
B-BÁO & TẠP CHÍ 
[1] Hoàng Tuấn Anh ( Tổng cục trƣởng Tổng cục Du lịch)- năm 2007 – 
Ngành du lịch cần chuyển mạnh hơn nữa trƣớc thời cơ mới- Báo nhân dân số 
14 ngày 18 tháng 4 năm 2007. 
[2] Mai Châu- năm 2008 - Du lịch Việt Nam- Một năm nhìn lại - Lao 
động cuối tuần số 5+6 ngày 01/ 02/ 2008. 
[3] Di Linh - năm 2007 - Du lịch Việt Nam : Vẻ đẹp bao giờ hết tiềm 
ẩn - Thời báo Việt Nam ngày 31 tháng 12 năm 2007. 
[4] Cẩm Tú- Năm 2008- Để Du lịch Việt Nam phát triển bền vững- 
Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần số 3 ngày 21 tháng 1 năm 2008. 
[5] Nguyên Tuấn - năm 2008 – Du lịch Việt Nam - Báo Hà Nội mới số 
14 ngày 19 tháng 4 năm 2008. 
 85 
C-WEBSITES 
[1] Trần Anh Phƣơng, tiến sĩ Kinh tế chính trị học- năm 2008- Một số 
khái niệm của lý thuyết Kinh tế học phát triển đang đƣợc vận dụng ở nƣớc ta 
hiện nay- cập nhập ngày 16 tháng 02 năm 2008 
 [1] Hà Yên - Đã đến lúc phát triển ngành du lịch bền vững, cập nhật 
18 /2/2006. 
[1] Lê Hải- Tổng cục du lịch giới thiệu sự kiện du lịch năm 2008, cập 
nhật ngày 17 tháng 2 năm 2008. 
[2] Phan Điền- Mƣời sự kiện nổi bật trong du lịch Việt Nam năm 2007, 
cập nhật ngày 15 tháng 2 năm 2008. 
[1] Đảng bộ cơ quan tổng cục Du lịch tổng kết công tác năm 2007, cập 
nhật ngày 23 tháng 1 năm 2008. 
[2] Ngành du lịch Việt Nam tổng kết công tác năm 2007, triển khai 
nhiệm vụ năm 2008, cập nhật ngày 27 tháng 12 năm 2007. 
[1] Chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010, cập nhật ngày 
22 tháng 07 năm 2002. 
[2] Những đột phá mới của ngành du lịch Việt Nam, cập nhật ngày 8 
tháng 1 năm 2006. 
[3] Nguyễn Quốc Kỳ - Tạo điều kiện cho Việt Nam thực sự trở thành 
điểm đến an toàn và thân thiện, cập nhật ngày 16 tháng 01 năm 2006. 
[4] TS. Vũ Đình Thụy - Để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi 
nhọn, cập nhật ngày 19 tháng 9 năm 2002. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4059_6396.pdf 4059_6396.pdf