Đề tài Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội

 Những thay đổi có ý nghĩa bước ngoặt quan trọng: - Từ tâm lí thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, trông cờ viện trợ đã chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. - Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể 1 cách chung chung, thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân đã chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế với chính sách xã hội. - Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm. - Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo – đã đi đến khuyến khích mọi người làm giầu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi trọng việc có 1 bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. - Từ chỗ muốn đẩy nhanh chóng xây dựng 1 cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp chi thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây dựng 1 cộng đồng xã hội đa dạng. góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh.

doc29 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5047 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI BỘ MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI ~~~~~*****~~~~~ Nhóm thực hiện: Nhóm 12 STT Họ và tên Đánh giá (%) 1 Nguyễn Thị Tú Anh 100 2 Đỗ Phương Anh 100 3 Phạm Thị Hải 100 4 Nguyễn Thị Minh Hằng 100 5 Nguyễn Phương Linh 100 6 Nguyễn Thị Mận 100 7 Ngô Thị Trang 100 Lớp: ĐL1205 Giáo viên: Nguyễn Văn Phượng Hà Nội, 2012 CHƯƠNG VII ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa. Văn hóa là gì? Theo thống kê thì cho đến nay có hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Văn hóa không đơn giản vì mỗi nhà nghiên cứu đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề mình nghiên cứu. Theo UNESCO thì: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, phát luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Như vậy thì văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sang tạo ra trên nền thế giới tự nhiên. Theo nghĩa rộng: văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sang tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước Theo nghĩa hẹp: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, văn hóa là hệ các giá trị truyền thống lối sống, văn hóa là năng lực sáng tạo của một dân tộc,văn hóa là bản sắc của một dân tộc,…. Theo quan điểm của Đảng văn hóa bao gồm các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn học- nghệ thuật,………. Văn hóa thời kì trước đổi mới Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Văn hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc nhất của cách mạng. - Trong quá trình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943 Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phú Yên) đã thông qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trực tiếp dự thảo. + Đề cương văn hoá Việt Nam xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hoá của cách mạng Việt Nam. + Bản đề cương đề ra 3 nguyên tắc của nền văn hoá mới là Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. + Bản đề cương đã xác định khái niệm văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, những vấn đề cơ bản của đời sống tinh thần xã hội. + Bản đề cương khẳng định văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Có thể coi Đề cương chính là cương lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc, là phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và cả những năm sau đó, khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, vừa kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. - Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá. + Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt. + Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân dân. Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và tính thời sự của nó. - Cuộc vận động thực hiện đời sống văn hoá mới. Đầu năm 1946 Ban Trung ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật có uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè..., mà tổng thư ký là nhà Văn Nguyễn Huy Tưởng. Đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu đời sống mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hoá quan trọng này. - Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ra ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng, trong bức thư về "Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay" của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại báo cáo "Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam" trình bày tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948. Đường lối đó gồm các nội dung: + Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hoá cứu quốc. + Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là Dân tộc, Dân chủ. + Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ. + Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới. + Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hoá thế giới. + Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam. - Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. - Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc - khoa học - đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định "Xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột". - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình bày rất đầy đủ về khái niệm "Con người mới xã hội chủ nghĩa" và đưa ra phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá". b. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá - Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng. Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người". Đại hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển. - Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. + Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém. + Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả cấc dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. + Cương lĩnh xác định giáo dục và đào toạ, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. - Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó: + Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội. + NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ mới. Năm quan điểm chỉ đạo: Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Mười nhiệm vụ cụ thể: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh... Xây dựng môi trường văn hoá. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá. Bốn giải pháp lớn: Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá. + Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng bộ với phát triển kinh tế". + HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó phạm vi, vai trò của dân chủ hoá - xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hoá của Đảng và Nhà nước ta. Hạn chế và nguyên nhân Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có nhiều chiều hướng phát triển Đời sống văn hóa nghệ thuật còn nhiều mặt bất cập Giai đoạn 1955-1986 bị tư duy bởi chính trị Mục tiêu: Cách mạng tư tưởng văn hóa bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuấtmà tư tưởng chỉ đạo triệt để là xóa bỏ tư hữu xóa bỏ bóc lột, đưa quan hệ xã hội chủ nghĩa đi trước một bước. Đấu tranh cùng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển văn hóa và khả năng sáng tạo của con người. Văn hóa thời kì đổi mới Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã từng bước hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng của nền văn hóa mới.: về chức năng, vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội và hội nhập. Đại hội VI xác định: khoa học kĩ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế xã hội, có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII thông qua quan niệm: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ tiến bộ, khẳng định biểu dương giá trị chân chính, bồi dưỡng chân thiện mĩ. - Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới quan của Mác Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội - Kế thừa phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp lâu đời của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại xây dựng xã hội tốt đẹp. - Chống tư tưởng văn hóa phản tiến bộ trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đại hội VII VIII IX X xác định văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Xác đinh khoa học xã hội là một động lực then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Hội nghị trung ương 10 khóa IX xác định: phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế. tức là phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn đảng với then chốt là nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội. Hội nghị trung ương 10 khóa IX đã nhận định về sự biến đổi văn hóa trong quá trình đổi mới với sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường. b. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Một là: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hộị Khái niệm văn hoá là nền tảng tinh thần có từ NQTW 4 Ngày 14/1/1993 (khoá VII) Đây là lần đầu tiên, Đảng ta ra một NQ riêng về văn hoá. Tên NQ: “Về một số nhiệm vụ văn hoá văn nghệ những năm trước mắt”, đến văn kiện ĐH VIII và NQ TW5 (khoá VIII) nhắc lại. Đây là một quan điểm quan trọng của Đảng ta về văn hoá, nằm trong quan điểm về đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy. Quan điểm này chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh của một dân tộc. Văn hoá có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hoá. Trong mỗi chính sách kinh tế - xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hoá. Văn hoá có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn nhân lực quyết định sự phát triển xã hội. Trong xã hội có 2 nền tảng: nền tảng vật chất (kinh tế) và nền tảng tinh thần (văn hoá). Hai nền tảng này bổ sung cho nhau, cùng phát triển. Trong mỗi cá nhân con người, có đời sống vật chất chưa đủ (mới chỉ đáp ứng được phần “con” (ăn, mặc, ở đi lại và những nhu cầu sinh học) mà phải có đời sống tinh thần. Không có nền tảng vật chất, con người không thể tồn tại như một sinh thể, nhưng không có nền tảng tinh thần thì con người cũng không thể tồn tại như một nhân cách văn hoá. Có thể ví như: vật chất quyết định sự tồn tại của phần “con”, tinh thần quyết định sự tồn tại của phần “người”. Trong một xã hội cũng vậy, có nền tảng vật chất chưa đủ, phải có nền tảng tinh thần mới có thể trở thành cộng đồng được. Nền tảng tinh thần có sức mạnh ghê gớm (sức mạnh của niềm tin tôn giáo - thánh chiến, tử vì đạo của cả một cộng đồng). Đó cũng chính là hệ giá trị, là hòn đá tảng của văn hoá Con người vừa là chủ thể của sự sáng tạo văn hóa vừa là sản phẩm của văn hóa. Trong quá trình vận động và phát triển, các quốc gia đều xây dựng và phát triển các giá trị văn hóa của dân tộc mình, bảo lưu và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối, tạo thành một dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa này được kết tinh ở truyền thống văn hóa dân tộc và được biểu hiện sinh động ở các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể cùng phương thức ứng xử của con người trong hoạt động thực tiễn. Toàn bộ những giá trị đó tạo thành nền tảng tinh thần của dân tộc, là cơ sở liên kết và đúc kết các thế hệ, tạo nên sức sống của một dân tộc, tạo nên bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh và xây dựng bảo vệ đất nước. Nền tảng tinh thần văn hoá Việt Nam là toàn bộ các giá trị do dân tộc Việt Nam sáng tạo ra đúc kết thành bản sắc văn hoá Việt Nam truyền từ đời này sang đời khác. Nền tảng tinh thần xã hội chính là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội truyền thống, đã được đúc kết từ trong lịch sử dân tộc, quốc gia, tạo nên bản sắc văn hoá, là những nét riêng để phân biệt với các dân tộc khác, quốc gia khác. Bản sắc dân tộc đó hình thành nên bản lĩnh tinh thần của cộng đồng dân tộc, một quốc gia và hình thành nên niềm tin, lý tưởng chung của cộng đồng để dân tộc đó, quốc gia đó hướng tới. Vì vậy chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa mới lành mạnh. Biện pháp tích cực đó là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh công cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa,…. Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển  Mục tiêu của mọi hoạt động của con người trong tiến trình lịch sử đều nhằm cải thiện nâng cao chất lượng sống. Trong suốt quá trình loài người chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, loài người luôn phấn đấu để được sung sướng hơn, bình đẳng hơn, hạnh phúc hơn. Văn hoá là mục tiêu của xã hội phát triển, bởi văn hoá là đại diện theo trình độ văn minh, là thước đo phẩm giá con người. Tuy nhiên xã hội không có những cá nhân có những phẩm giá ngang nhau (có người tốt, có người xấu), trong mỗi con người bao giờ cũng có 2 mặt: mặt tốt và mặt xấu. Văn hoá có trách nhiệm kích thích mỗi con người phát huy mặt tốt, kiềm chế mặt xấu. Thường thì con người bị môi trường xã hội đưa đẩy. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. “Nhân chi sơ tính bản thiện”. HCM cũng đã viết: “Ngủ ai cũng như lương thiện, tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền”. Ở đây, văn hoá có vai trò điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa người với người bằng giá trị và chuẩn mực xã hội, bằng văn hoá. Sự điều tiết đó phải hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống, vì hạnh phúc của con người: nối dài cuộc sống, an sinh xã hội, điều tiết sự công bằng XH.  Văn hóa là một mục tiêu của phát triển Tại sao nói văn hoá là động lực của sự phát triển? Trước hết phải dựa vào chức năng của văn hoá: Chức năng nhận thức (tính hiểu biết); chức năng điều tiết (điều chỉnh) mối quan hệ xã hội và chức năng động. Nói văn hoá là động lực của sự phát triển phải nói đến vai trò của văn hoá trong sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội: Phát triển phải mang tính đồng bộ, hệ thống biểu hiện bằng chất lượng sống. Phải phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hoá, giữa GDP và HDI. Chìa khoá của sự phát triển tập trung ở một nhân tố sau : - Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. - Nguồn vốn. - Nguồn KHCN. - Nguồn lực con người. Trong đó, nguồn lực con người có vai trò quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá. Con người tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất tạo ra sản phẩm xã hội. Vì vậy cùng với quá trình phát triển phải hiện đại hoá dân tộc, trước hết cần phải hiện đại hoá nguồn lực con người. Đầu tư vào giáo dục đào tạo phải được coi là đầu tư cơ bản để đi tắt đón đầu trong quá trình phát riển. Con người phải được phát triển toàn diện về trí lực và thể lực, tư tưởng, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đủ điều kiện để bước vào thời đại CNH - HĐH. Văn hoá phải làm bà đỡ để cho sự ra đời của nền kinh tế tiên tiến văn minh thông qua việc hoàn thành hệ thống pháp lý và đạo lý xã hội, chống lại những tiêu cực phản giá trị, phản văn hoá do nền kinh tế thị trường dã man tạo ra. Trong việc phát triển nguồn lực khoa học công nghệ, không chỉ là quá trình phát triển KHKT công nghệ mà cái chính là quá trình chuyển đổi tư duy của cả một cộng đồng dân tộc, nâng cao tầm văn hoá và trình độ văn hoá của dân tộc, là quá trình làm thay đổi lối sống, nếp sống của xã hội cho phù hợp với sự phát triển của thời đại công nghiệp. VD: Ta nhập máy móc tốt nhưng không biết sử dụng, hoặc ngược lại, biết sử dụng nhưng lại không có máy móc. Môi trường văn hoá dân tộc có ý nghĩa quyết định đến quá trình phát triển thị trường và quá trình CNH – HĐH đất nước, chúng ta phải tạo lập ra môi trường văn hoá dân tộc, mỗi con người luôn hướng về cội nguồn, sống và làm việc trong môi trường bản săc văn hoá Việt Nam. Động lực con người là xây dựng con người theo 5 đức tính (theo tinh thần NQ TW5): 1) Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với dân tộc thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. 2) Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung. 3) Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn mimh, cần kiệm trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy …. Của cộng đồng có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 4) Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và XH. 5) Thường xuyên học tập nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực.  Con người là vốn quý nhất. Văn hoá có ý nghĩa là làm cho tốt đẹp hơn về đạo lý, đạo đức của con người. Con người làm ra văn hoá, nhưng văn hoá hóa con người, văn hoá phải làm tốt vai trò hình thành nhân cách – yếu tố cốt lõi trong nguồn lực con người. Con người là nguồn lực vô hạn, nhưng phải là con người có văn hoá. Văn hoá ở đây là tài sản vô hình, do học tập, tu dưỡng, rèn luyện mới có được. Con người Việt Nam được hình thành từ nền văn hoá Việt Nam. Với chức năng điều tiết của mình, văn hoá phải luôn luôn làm cho con người sống tốt hơn, sống có đạo lý, phẩm giá. Văn hoá làm cho con người bao giờ cũng sống cùng, sống với, sống vì. Ngược lại, xã hội cũng phải luôn luôn quan tâm đến mỗi cá nhân, phải chăm sóc cho các cá nhân về mọi mặt, thúc đẩy động lực của mỗi con người. Hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi con người phải có trình độ ngày càng cao: trình độ nhận thức, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật. Thời đại CNH – HĐH đòi hỏi phải nắm chắc KHKT tiên tiến nhất, vấn đề ngoại ngữ, vi tính, tin học v.v…thì mới có thể hòa nhập với thế giới phát triển được. Bên cạnh trình độ nhận thức, trình độ KHKT để phát triển kinh tế, con người xã hội hiện đại cũng phải có văn hoá: những hiểu biết về văn hoá nghệ thuật (để sáng tạo và hưởng thụ – nếu không được đào tạo cơ bản khó mà hưởng thụ được các tác phẩm VHNT), có mối quan hệ xã hội tốt đẹp dựa trên nền tảng của chuẩn mực xã hội. Hai là: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến: là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tuởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa Mác Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Bản sắc dân tộc: bao gồm những giá trị truyền thống bền vững của cộng đồng Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hang ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trước hết, chúng ta cần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đường lối xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Về cơ sở lý luận, chúng ta thấy rằng văn hóa là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con người. Vì vậy sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế bởi theo chủ nghĩa Mác Lênin thì cơ sở hạ tầng (kinh tế) quyết định kiến trúc thượng tầng – mà văn hóa là một lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Muốn phát triển văn hóa phải phát triển kinh tế vì kinh tế là nền tảng sự phát triển, là cơ sở vật chất của xã hội và vì vậy nó cũng là tiền đề để phát triển văn hóa. Sự phát triển kinh tế tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật. Văn hóa - với tư cách là hoạt động tinh thần mang tính sáng tạo - lại trở thành động lực của phát triển. Trong thời đại ngày nay chúng ta thấy rằng sự phát triển của mỗi quốc gia không phải do vấn đề vấn đề tài nguyên, dân số, điều kiện địa lý .. quy định mà là nhân tố con người quyết định. Vai trò của con người là quan trọng nhất đối với tiến trình phát triển Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, lối sống, ý chí nghị lực, sự thành thạo tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng xã hội. Mà văn hóa chính là yếu tố tạo ra con người, hình thành nên phẩm chất đạo đức, năng lực, trí tuệ, tình cảm của con người, đưa con người từ chủ thể con người sang chủ thể thẩm mỹ. Con người vừa là chủ thể, là linh hồn của sự sáng tạo, vừa là nhân tố hàng đầu của văn hóa. Với phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của mình, con người làm nên tất cả, làm ra vốn luyến kỹ thuật, làm chủ khoa học công nghệ, khai thác tài nguyên … tạo nên sự giàu có về vật chất và tinh thần của xã hội. Nền văn hóa tiên tiến : Tinh thần của Hội nghị Trung ương năm khóa VIII (7/1998) của Đảng ta đã nêu rõ : Nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu : - Đó là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Đó là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ : dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa. Dân chủ tạo động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân, góp phần làm phong phú đa dạng nền văn hóa dân tộc để phục vụ con người. Dân chủ gắn liền với tự do sáng tạo, tôn trọng cá tính sáng tạo , ý kiến cá nhân, giá trị cá nhân trong văn hóa và mọi hoạt động của đời sống xã hội. - Đó là nền văn hóa phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và con người, giữa con người với tự nhiên, phát triển vì sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người, thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc ... Nói đến nhân văn là nói đến con người, giải phóng con người và phát triển con người. Giải phóng con người không chỉ làm cho con người thoái khỏi mọi hình thức bóc lột, áp bức bất công về thể xác mà còn giải phóng con người vềt mặt tinh thần, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, mở ra những điều kiện xã hội tốt đẹp cho con người phát triển toàn diện về nhân cách. - Đó là nền văn hóa mang tính hiện đại : ngoài yếu tố hệ tư tưởng – thành tố quan trọng của nềnj văn hóa tiên tiến thì các yếu tố khác cũng đòi hỏi một trình độ hiện đại : trình độ dân trí, khoa học, công nghệ ... - Nền văn hóa tiên tiến không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà còn được phản ánh ở hình thức biểu hiện phong phú đa dạng, kể cả trong những cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiên để chuyển tải nội dung. Ở đây tiên tiến thường là hiện đại, song không phải mọi cái hiện đại đều là tiên tiến Nền văn hóa tiên tiến có thể được cụ thể hóa bằng những khía cạnh cơ bản như sau : Tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trí, về trình độ khoa học và công nghệ; Tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; Tiên tiến còn là sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, cả về hình thức và về nội dung. Nền văn hóa tiên tiến Việt Nam là sự kết hợp truyền thống dân tộc với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi hoạt động giáo dục, văn hóa, nghệ thuật của từng cá nhân, của tập thể, của nhà nước, đều hướng vào xây dựng nền văn hóa với nội dung như trên Dân tộc Việt Nam có nền văn hóa lâu đời, giàu tinh hoa và giá trị sáng tạ. Sức mạnh văn hóa ấy đã được tôi luyện, thử thách và phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển văn hóa và trong thực tế đã lãnh đạo sự nghiệp đó đạt được những thành tựu to lớn. Hơn 6 thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam đã khơi dậy và phát huy. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất đậm đà dân tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa. Hai mặt này liên quan biện chứng với nhau. Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa, về cách sống và sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Mất bản sắc văn hóa dân tộc tức là dân tộc đã bị đồng hóa chỉ còn lại cái vỏ bề ngoài. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc, truyền từ đời này sang đời khác, được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống và sự sáng tạo của các thế hệ. Đó là truyền thống được tạo ra và hun đúc trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện qua các mặt như sau : - Đó là nền văn hóa bao gồm sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của nền văn hóa của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, của các vùng, các địa phương trong nước. Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, khi tất cả hội nhập nền văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam thì nó trở nên hết sức phong phú đa dạng. - Đó là nền văn hóa mà tính phong phú đa dạng được nhân lên gấp nhiều lần do có bề dày hàng nghìn năm lịch sử và được trãi nghiệm qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giải phóng đất nước. - Bản sắc văn hóa dân tộc còn biểu hiện cụ thể ở những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc Việt Nam, là tổng hợp các giá trị tinh thần của dân tộc, tiêu biểu là : + Tinh thần yêu quê hương đất nước nồng nàn. + Tinh thần đoàn kết dân tộc. + Tính cộng đồng gắn kết giữa cá nhân, gia đình, quê hương, tổ quốc. + Tinh thần nhân nghĩa, nhân ái thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc của con người Việt Nam : sống có tình nghĩa, thủy chung trong gia đình, với làng xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người, tinh thần trọng lẽ phải, trọng đạo đức, học thức, yêu cái đẹp, cái hay. + Tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân ta. + Lối sống tinh tế, khiêm tốn, giản dị và trung thực của con người Việt Nam. Sự tế nhị trong tâm hồn, trong phong cách giao tiếp. Nói nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam cũng là nói về các hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa, sáng tạo văn hóa, tác phẩm văn hóa phải thể hiện rõ nét và sâu sắc các giá trị tinh thần của dân tộc. Những giá trị ấy dến nay còn được lưu lại và giữ gìn trong nhân dân, trong xã hội qua các di sản lịch sử và văn hóa. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc này chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ với thế giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính thời đại, trước hết trong lĩnh vực kinh tế, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác, phải nhận thức được rằng toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ thuật, kinh tế là mặt tích cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua mặt xã hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa. Ba là: nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hoá chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất không có sự đồng hoá hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá của các dân tộc. Quan điểm chỉ đạo này xác định tính thống nhất và đa dạng của nền văn hóa. Hiện nay, hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái khác nhau. Các giá trị và các sắc thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Mặt khác, các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc- cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. Sự thống nhất của nền văn hóa phải được thể hiện ở sự thống nhất về hệ tư tưởng chính trị, thống nhất về thể chế và thiết chế văn hóa. Đồng thời, phải phát huy tính đa dạng, cùng hợp tác và hỗ trợ nhau phát triển, chống các âm mưu lợi dụng sự khác biệt văn hóa để gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn hoá riêng. Các giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc. Bốn là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. - Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá do Đảng ta lãnh đạo và Nhà nước quản lý. - Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu. Như vậy, văn hoá hiểu theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Phát triển nhận thức này đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, đến Hội nghị Trung ương 2, khoá VIII (12/1996) khẳng định: + Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. + Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh. - Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ trương: + Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. + Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học. + Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. + Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm và cho việc xuất khẩu lao động. + Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. + Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học. + Thực hiện xã hội hoá giáo dục. + Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. + Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. + Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ. + Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Năm là: văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Như chúng ta đều biết, từ năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt, Hồ Chí Minh đã có thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951. Trong bức thư quan trọng này, Người nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Đây là một quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Nhà nước ta đối với văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng trong suốt hai cuộc kháng chiến cho đến hôm nay. Từ quan điểm trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nêu thành một trong năm quan điểm chỉ đạo cơ bản của văn hóa Việt Nam, như sau: “Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”. Nghị quyết ra đời năm 1998 tức là sau khi đất nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới. Cho đến nay, sau nhiều năm Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII vẫn là một văn kiện quan trọng thể hiện những quan điểm chỉ đạo cơ bản về đường lối phát triển văn hóa văn nghệ của Đảng và Nhà nước ta.  Mặt trận văn hóa cần được hiểu là có tính chất độc lập, ngang hàng các mặt trận khác; đồng thời phản ảnh cuộc đấu tranh khó khăn phức tạp, không thể hoàn thành một sớm một chiều. Cuộc đấu tranh đó bao hàm cả mặt “xây” và “ chống” trong đó lấy “xây” làm chính, là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài. Mặt trận văn hoá được vận dụng trong tình hình mới ở nước ta là một nhiệm vụ nặng nề, không kém cam go so với các thời kỳ trước, có mặt còn phức tạp hơn. Một mặt, văn hóa phải góp phần chống lại các thế lực thù địch với nhiều thủ đoạn nham hiểm như chiến lược “diễn biến hoà bình”. Cuộc đấu tranh này có lúc công khai, có lúc ngấm ngầm nhưng dai dẳng và quyết liệt. Mặt khác, văn hóa phải tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống giặc nội xâm, phanh phui, lên án những tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong những cái “khó hơn nhiều” trong cuộc đấu tranh chống bần cùng lạc hậu so với cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, có cuộc đấu tranh chống lại “giặc trong lòng”. để làm được điều này đòi hỏi trí tuệ, bản lĩnh của toàn dân, trong đó những văn nghệ sỹ giữ vai trò quan trọng. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu ptriển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó cần phải : + Đấu tranh khẳng định các giá trị chân - thiện- mỹ, chống lại cái giả, cái ác và cái xấu. + Đấu tranh cho chân - thiện - mỹ cũng là đấu tranh cho mục tiêu “dân giàu, nước minh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, chống lại các thế lực phản động. Đánh giá việc thực hiện đường lối - Cơ sở vật chất kĩ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá trình đổi mới tư duy về văn hóa, về xây dựng con người và nguồn nhân lực có bước phát triển rõ rệt. - Giáo dục đào tạo có bước phát triển quy mới. Quy mô giáo dục và đào tạo tang ở tất cả các cấp, bậc. Chất lượng giáo viên phổ thong có chuyển biến, cơ sở vật chất kĩ thuật cho trường học được tang cường đáng kể. - Khoa học công nghệ phát triển phục vụ đời sống. - Văn hóa phát triển, việc xây dựng văn hóa và nếp sống văn minh có tiến bộ hơn. - Những thành tựu đang chứng tỏ sự đúng đắn trong đường lối chính sách của Đảng. Hạn chế: So với yêu cầu của xã hội thì những thành tựu về văn hóa là chưa tương xứng và chắc chắn bền vững, chưa tác động có hiệu quả tới đời sống xã hội. Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ với sự phát triển của kinh tế xã hội, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm, chưa đổi mới thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu... vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng. Nguyên nhân: Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hoá chưa được quán triệt đầy đủ cũng chưa được thực hiện nghiêm túc Bệnh chủ quan, duy ý chí trong quản lý kinh tế - xã hội cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc triển khai đường lối phát triển văn hóa. Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hoá có biểu hiện xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội. 1. Thời kì trước đổi mới. a. Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội. * Giai đoạn 1945-1954. - Ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong năm thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, chính sách xã hội của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở , làm cho dân được học hành. Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực.  - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình như: chính sách gia tăng sản xuất, chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ; khuyến khích tự do sản xuất; kinh doanh thực hiện chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ chẳng hạn như: hũ gạo cứu đói , nhường cơm sẻ áo.  * Giai đoạn 1955- 1975. Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình CNXH kiểu cũ (kế hoạch hóa tập trung) và trong hoàn cảnh có chiến tranh. - Chế độ phân phối (phân phối cho sản xuất : phân chia các yếu tố sản xuất cho các ngành sản xuất và phân chia cho tiêu dùng: phân chia sản phẩm cho các cá nhân tiêu dùng) thực chất theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng . - Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan dựa vào viện trợ từ bên ngoài. Nhận xét: Trong chiến tranh do Đảng và Nhà nước có đường lối phù hợp nên chúng ta đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vùng lên đánh bại kẻ thù xâm lược thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng đi lên CNXH. * Giai đoạn 1975- 1985. Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung , quan liêu , trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần , bị bao vây, cô lập và cấm vận . Nhận xét: Trong hòa bình Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội, kinh tế, văn hóa nhằm nâng cao đời sống nhân dân cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Đánh giá việc thực hiện đường lối. Chính sách xã hội trong giai đoạn này tuy có nhiều điểm hạn chế nhưng đã bảo đảm được sự ổn định của xã hội, đồng thời còn đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên một số lĩnh vực như văn hoá, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an sinh xã hội, hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.  Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội trong điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.  - Hạn chế và nguyên nhân  + Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể trong cách giải quyết các vấn đề xã hội.  + Chế độ phân phối trên thực tế là bình quân cao bằng không khuyến khích những đơn vị cá nhân làm tốt, làm giỏi...  + Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển về nhiều mặt.  Nguyên nhân cơ bản của các hạn chế trên là chúng ta đặt chưa đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách kinh tế, chính trị, đồng thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp.  2. Trong thời kì đổi mới a. Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội. - Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan trọng đối với chính sách kinh tế và các lĩnh vực khác. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế - Mục tiêu của xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ nhằm phát huy tối đa sức mạnh nhân tố con người. Các quan điểm của Đảng: Tăng trưởng kinh tế phải gắn với sự tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ những bước đầu và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện nhiều hình thức phân phối. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO , hội nghị trung ương Đảng nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện cam kết với WTO. b. Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội - Một là: kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Các mục tiêu phát triển kinh và mục tiêu phát triển xã hội có lien quan trực tiếp đến nhau nên cần tạo ra sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Sự kết hợp này phải thống nhất, quán triệt ở tất cả các cấp các ngành, địa phương. - Hai là: xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tang trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Cần đặt rõ và xử lý hợp lí việc gắn kết giwuxa tang trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Các cơ quan các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa - Ba là: chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. - Bốn là: coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người HID và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội => tất cả nhằm hướng tới một xã hội dân giàu nước mạnh công bằng dân chủ văn minh. c. Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội - Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện hiệu quả chin sách xóa đói giảm nghèo. Tạo cơ hôi, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển và chủ động bằng tài năng và sự sang tạo của bản thân để làm giàu trong khuôn khổ pháp luật. Xây dựng những chính sách xóa đói giảm nghèo, đề phòng tái đói, tái nghèo. - Bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân tạo việc làm và thu nhập chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Xây dựng hệ thống an sinh, phát triển các loại hình bảo hiểm. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ thúc đẩy xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Thực hiện ưu đãi xã hội, phân phối thu nhập xã hội hợp lý. - Phát triển hệ thống y tế công hiệu quả: hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, quan tâm các dối tượng chính sách, phát triển các dịch vụ y tế. - Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện nòi giống - Thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình - Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội - Đổi mới cơ chế quản lý phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng d. Đánh giá thực hiện đường lối Những thay đổi có ý nghĩa bước ngoặt quan trọng: Từ tâm lí thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, trông cờ viện trợ đã chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể 1 cách chung chung, thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân đã chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế với chính sách xã hội. Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo – đã đi đến khuyến khích mọi người làm giầu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, coi trọng việc có 1 bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ chỗ muốn đẩy nhanh chóng xây dựng 1 cơ cấu xã hội “thuần nhất” chỉ còn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp chi thức đã đi đến quan niệm cần thiết xây dựng 1 cộng đồng xã hội đa dạng. góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh. Hạn chế và các nguyên nhân: Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. vấn đề việc làm rất bức xúc và nan giải. Sự phân hóa giàu – nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại. Tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã hội. Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng them, tài nguyên rưng bị khai thác bừa bãi và tàn phá. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế: Tăng cường kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo số lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững xã hội. Quản lí xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docduong_loi_9738.doc