Chương 1: Lý thuyết cơ bản về hợp đồng quyền chọn và các chiến lược quản trị
rủi ro bằng hợp đồng quyền chọn.
1.1Hợp đồng quyền chọn
1.1.1 Định nghĩa
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền, nhưng không
bắt buộc, được mua hoặc được bán:
· Một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở
· Tại hay trước một thời điểm xác định trong tương lai
· Với một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc
không thực hiện quyền mua (hay bán) tài sản cơ sở. Nếu người mua thực hiện quyền
mua (hay bán), thì người bán quyền buộc phải bán (hay mua) tài sản cơ sở. Thời điểm
xác định trong tương lai gọi là ngày đáo hạn; thời gian từ khi ký hợp đồng quyền chọn
đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền chọn. Mức giá xác định áp dụng trong
ngày đáo hạn gọi là giá thực hiện (exercise price hay strike price).
1.1.2 Các loại quyền chọn
Quyền chọn cho phép được mua gọi là quyền chọn mua (call option), quyền chọn
cho phép được bán gọi là quyền chọn bán (put option).
· Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không
phải nghĩa vụ, được mua một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một
thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
· Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải
nghĩa vụ, được bán một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một thời điểm trong
tương lai với một mức giá xác định. Đối với quyền chọn mua, ta có người mua quyền
chọn mua (holder) và người bán quyền chọn mua (writer). Đối với quyền chọn bán, ta
cũng có người mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán. Một cách phân loại
khác là chia quyền chọn thành quyền chọn kiểu châu Âu (European options) và kiểu
Mỹ (American options).
· Quyền chọn kiểu châu Âu (European options) là loại quyền chọn chỉ có thể
được thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.
· Quyền chọn kiểu Mỹ (American options) là loại quyền chọn có thể được thực
hiện vào bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn. Quyền chọn có thể được dựa vào các
tài sản cơ sở như cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý
hay nông sản. Nhưng nhìn chung nếu phân theo loại tài sản cơ sở thì có thể chia quyền
chọn thành quyền chọn trên thị trường hàng hoá, quyền chọn trên thị trường tài chính
và quyền chọn trên thị trường ngoại hối.
1.1.3 Một số khái niệm liên quan.
Quyền chọn kiệt giá OTM: là quyền chọn mua (bán) trong đó giá tài sản, tỷ giá,
hay giá giao sau thấp (cao) hơn giá thực hiện.
Quyền chọn cao giá ITM: là quyền chọn mua (bán) trong đó giá tài sản, tỷ giá,
hay giá giao sau cao (thấp) hơn giá thực hiện.
Quyền chọn ngang giá ATM: là quyền chọn trong đó giá tài sản cơ sở hay hợp
đồng giao sau bằng với giá thực hiện.
Q uản trị rủi ro: là việc thực hiện các chiến lược làm tăng hoặc giảm rủi ro theo ý
muốn của nhà quản trị nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Nó bao gồm cả việc
đầu cơ, đánh cược trên sự thay đổi của giá. Trong bài nghiên cứu này ngoài ý nghĩa là
hạn chế rủi ro tỷ giá còn mà còn kinh doanh từ việc thực hiện các chiến lược đó.
1.2Các chiến lược quản trị rủi ro bằng quyền chọn
1.2.1 Chiến lược Butterfly
1.2.1.1Long butterfly
1.2.1.1.1 Long call butterfly
Chiến lược này thực hiện khi nhà đầu tư nghĩ rằng giá tài sản cơ sở sẽ không tăng
hoặc giảm giá quá nhiều trong tương lai. Đây là chiến lược giới hạn lỗ và lãi của nhà
đầu tư.
Mô tả chiến lược: Mua một quyền chọn mua với giá thực hiện thấp (OTM) X1, bán hai
quyền chọn mua với giá thực hiện trung bình (ATM) X2, mua một quyền chọn mua
với giá thực hiện cao (ITM) X3. Tất cả các quyền chọn đều có cùng thời gian đáo hạn
và cùng một tài sản cơ sở.
Lợi nhuận của chiến lược
π = [Max(0, ST – X1) – C1] – 2[Max(0, ST – X2) – C2] + [Max(0,ST – X3) – C3]
Chương 2: Phân tích việc thực hiện hợp đồng quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá
ở Việt Nam hiện nay.
2.1Tình hình biến động tỷ giá ở Việt Nam.
Năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam đã chứng kiến sự biến động mạnh của tỉ
giá USD/VND, ở một số thời điểm, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã tăng lên
rất mạnh. Trong năm 2010, NHNN đã thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá. Lần thứ nhất
vào ngày 11/2/2010, tỉ giá USD/VND được điều chỉnh tăng từ mức 1 USD = 17.941
đồng lên mức 1 USD = 18.544 đồng, hay 3,36%. Lần thứ hai vào ngày 17/8/2010,
NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 1 USD = 18.544
đồng lên mức 1 USD = 18.932 đồng, tăng gần 2,1%, trong khi vẫn giữ nguyên biên độ
ở mức +/-3%. Dù vậy, chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị trường tự do
vẫn ở mức cao.
Xét trong giai đoạn đầu năm 2011, tỷ giá cũng có nhiều biến động đáng chú ý, đặc biệt
là tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố liên tục giảm, từ đỉnh cao
20.733 đồng hôm 19/4 xuống còn 20.673 đồng vào ngày 18/5. Trong khi đó, tỷ giá
công bố tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vẫn hờ hững theo kiểu không muốn
mua mà cũng chẳng muốn bán cho các ngân hàng thương mại.
Qua biểu đồ ta thấy tỷ giá mua và bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam trong thời gian gần đây bất ngờ tăng cao dù tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước công bố vẫn trong xu thế giảm.
Nhìn chung, tỷ giá ở Việt Nam đã được kiểm soát nhưng mức độ biến động của tỷ
giá là rất đáng kể. Thực tế này đã tác động không nhỏ đến tâm lí, đời sống người dân,
đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này cho thấy rằng việc xây dựng
một công cụ có khả năng bảo hiểm rủi ro tỷ giá là rất cân thiết trong giai đoạn hiện
nay.
2.2 Những cơ hội để phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Từ sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế đã có nhiều bước chuyển biến tích cực
hơn, tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn. Để khai thác tiềm năng này các
yêu cầu về minh bạch, cơ chế, chính sách thông thoáng, ngày càng được chú trọng
và thực hiện quyết liệt hơn.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao,
vấn đề công khai hoá, minh bạch hoá thông tin thị trường, nền kinh tế ngày càng được
đòi hỏi, yêu cầu cao hơn. Việc thành lập thị trường quyền chọn nói chung và thị
trường quyền chọn ngoại tệ nói riêng ở Việt Nam sẽ giúp các hoạt động này sẽ giúp
các hoạt động này diễn ra nhanh và mạnh mẽ hơn. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ có cơ hội
tiếp cận thị trường một cách công bằng hơn, chúng ta sẽ giảm được độc quyền, sự
phân biệt và giao dịch bí mật trong thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt
động quảng bá sản phẩm của các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Một mặt khác, ở Việt Nam chưa phải gánh chịu ảnh hưởng lớn từ một cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ nào trên thế giới trước 2008, cơ chế quản lý các giao
dịch vốn những năm trước đây chủ yếu dựa vào cơ chế hành chính, tự phong toả là
chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế nên việc áp dụng các công cụ option ngoại tệ
còn chưa trở thành công cụ cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã và
đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ, việc ảnh hưởng của nền tài chính
tế giới ngày càng sâu rộng, điển hình là sự ảnh hưởng của việc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2009 đã buộc các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước quan tâm nhiều hơn để
phát triển công cụ quyền chọn ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro.
Tiếp theo là vấn đề về sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của dòng vốn nước
ngoài và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Nhìn một cách tổng thể,
những năm gần đây sau khi gia nhập WTO, chỉ riêng doanh nghiệp nước ngoài đã,
đang và sẽ đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ khổng lồ để đầu tư, đặc biệt là trong
giai đoạn 2007 – 2008. Trong số đó có không ít doanh nghiệp FDI chỉ bán hàng trong
nước, thu thu tiền đồng. Họ phải bán ngoại tệ ( chủ yếu là USD) thu VND để thanh
toán cho các chi phí, hoặc dùng lượng ngoại tệ này để nhập khẩu máy móc thiết bị từ
nước ngoài. Sau một thời gian, khi có lợi nhuận, họ chuyển tiền về nước và dùng VND
mua ngoại tệ chuyển ra Trong quá trình đó rủi ro tỷ giá là một điều luôn tìm ẩn đối
với các doanh nghiệp này. Khi đó, công cụ options ngoại tệ sẽ giảm thiểu đến mức
thấp nhất rủi ro tỷ giá nếu được sử dụng trong những trường hợp này, giúp các doanh
nghiệp tránh được thiệt hại do tăng hoặc giảm ngoại tệ ( nếu có). Như chúng ta đã biết,
việc sử dụng công cụ quyền chọn để phòng ngửa rủi ro tỷ đã trở nên phổ biến ở các
nước phát triển, vì vậy khi đầu tư vào Việt Nam, nhu cầu này sẽ ngày càng một lớn
hơn. Và ngược lại khi thị trường quyền chọn phát triển chắc chắn sẽ tạo ra nhiều cơ
hội hơn cho các dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam.
Nói chung, tuy cho đến hiện nay, thị trường quyền chọn ở nước ta vẫn chưa
phát triển nhưng có một tiềm năng rất lớn trong giai đoạn sắp tới. Do đó việc thực hiện
xây dựng, ứng dụng hợp động quyền chọn trong giai đoạn hiện nay là rất đáng xem và
nghiên cứu thêm.
Chương 3: Các giải pháp để thúc đẩy việc sử dụng công cụ quyền chọn để quản
trị rủi ro tỷ giá ở các công ty xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
3.1 Các giải pháp vĩ mô của nhà nước.
Đối với nhà nước, để phát triển thị trường công cụ quyền chọn thì nhà nước cần có
những chính sách vĩ mô nhằm xây dựng một thị trường hoàn chỉnh.
· Xây dựng các văn bản luật hoàn chỉnh.
Trước tiên là xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh, một văn bản pháp
luật cho các công cụ phái sinh nói chung và các điều khoản hướng dẫn cho công cụ
quyền chọn nói riêng. Một văn bản pháp luật cho việc này cần đòi hỏi: thứt nhất là
ngăn chặn việc lợi dụng các công cụ quyền chọn để thực hiện các hành vị làm méo mó
thị trường, không dùng với mục đích nguyên thuỷ của nó là quản trị rủi ro. Thứ hai là
văn bản đó phải chặt chẽ, nhưng cung phải đủ độ thông thoáng nhằm thu hút các
doanh nghiệp tham gia. Thứ ba, nó phải phù hợp theo cơ chế thị trường.
Hiện nay vấn đề các ngân hàng thương mại và khách hàng lợi dụng công cụ quyền
chọn để thoả thuận mua bán ngoại tệ theo giá chợ đen. Việc này thực hiện được do đặc
điểm thoả thuận phí quyền chọn. Nhưng chúng ta không thể dùng các văn bản luật để
ngăn cản hoạt động này, việc làm cần thiết hơn của nhà nước là làm giảm sự chên lệch
giữa tỷ giá quy định và tỷ giá chợ đen. Nếu hạn chế hoạt động của thị trường quyền
chọn sẽ làm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, làm tăng rủi ro của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu. Từ đó ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung.
· Điều hành tốt kinh tế vĩ mô
Về cơ chế tỷ giá, Việt Nam cần thực hiện một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn nữa phù
hợp với thị trường. Trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chợ
đen là không được cho phép nhưng nó vẫn luôn tồn tại vì có sự chên lệch lớn giữa thị
trường và theo quy định. Do đó đễ thị trường quyền chọn phát triển đúng nghĩa của nó
thì vấn đề tỷ giá là rất quan trọng, tuy cơ chế tỷ giá có quản lý nhưng phải quản lý linh
hoạt theo thị trường. Việc này vốn không phải dể nên cần được đầu tư quản lý hơn
nữa.
Thứ hai, là tạo điều kiện thu hút đầu tư, tạo thông thoáng cho mậu dịch quốc tế.
Các quy định về mua bán ngoại tệ phải được thông thoáng hơn. Các mức thuế cũng
cần có những sửa đổi để khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời chính phủ cần thực hiện
các chính tài chính tiền tệ thích hợp, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
phát triển kinh doanh.
· Thực hiện các bước để tiến tới thành lập một sàn giao dịch options niêm yết
tập trung.
Ngoài các giải pháp cho sự phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ nói chung ở
trên, để thị trường quyền chọn thực sự phát triển và trở thành một trong những trụ cột
của thị trường tài chính, khi thị trường quyền chọn và các giao dịch quyền chọn đạt
đến độ chín mùi cần thiết, bên cạnh một thị trường quyền chọn phi tập trung (OTC)
vẫn đang tồn tại, nhà nước cần tiến hành tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn
giao dịch quyền chọn lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, để thành lập một sàn giao
dịch quyền chọn tập trung chính thức (giống như một sàn giao dịch chứng khoán niêm
yết tập trung) như ở các nước có thị trường tài chính phát triển, với các tài sản cơ sở ở
đây có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, chỉ số chứng khoán, vàng, lãi suất . Điều
này sẽ làm tăng tính thanh khoản, khối lượng giao dịch trên thị trường quyền chọn
cũng như thị trường các tài sản cơ sở, đặc biệt là thị trường ngoại hối dần dần tiến đến
chuyên nghiệp hóa, tạo thuận tiện, phổ biến và đưa thị trường quyền chọn trở thành
một một trong những thị trường thiết yếu trên thị trường tài chính.
Việc xây dựng hệ thống kỹ thuật công nghệ cho sàn giao dịch quyền chọn tập trung
đòi hỏi sự đầu tư lớn và đồng bộ. Các nhà quản lý có thể dựa vào kinh nghiệm xây
dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho sở giao dịch chứng khoán và tham khảo
từ các sàn giao dịch quyền chọn tập trung ở các nước, kết hợp với khả năng, tình hình
thị trường hiện tại để trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ phù hợp với điều kiện nước
ta. Các hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán bù trừ, hệ thống kết nối với các thành
viên (ngân hàng thương mại môi giới quyền chọn) cần được trang bị đồng bộ, thống
nhất, giúp đơn giản hóa các qui trình giao dịch, đồng thời tăng tính chính xác, thanh
khoản và độ an toàn cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3378 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp để thúc đẩy việc sử dụng công cụ quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá ở các công ty xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyền chọn ròng
Lỗ khi giá tài sản cơ sở nằm giữa giá thực hiện của hai quyền chọn mua do nhà đầu tư
mua.
Trang 34
Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn trên = Tổng giá thực hiện của các quyền chọn mua do nhà đầu tư mua
trừ giá thực hiện của quyền chọn mua do nhà đầu tư bán + phí quyền chọn ròng
Điểm hòa vốn dưới = giá thực hiện của quyền chọn mua do nhà đầu tư bán trừ phí
quyền chọn ròng
1.2.7 Chiến lược Strip
Strip là một chiến lược sửa đổi, có tính đầu cơ giá xuống của chiến lược mũi tên. Nó
bao gồm viêc mua một quyền chọn mua ATM, và hai quyền chọn bán ATM của cùng
một tài sản cơ sở, cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn.
Chiến lược giao dịch quyền chọn Strip có lợi nhuận không giới hạn, rủi ro giới hạn và
được sử dụng khi người ta nghĩ giá của tải sản cơ sở sẽ có một độ biến động lớn trong
khoảng thời gian ngắn và có xu hướng giảm mạnh sau đó.
Lợi nhuận không giới hạn
Lợi nhuận lớn đạt được với chiến lược strip khi giá tài sản cơ sở tạo ra một sự di
chuyển mạnh ngay cả khi giá lên hay xuống khi đáo hạn, với lợi ích lớn hơn được tạo
ra từ sự giảm giá.
Công thức để tính toán lợi nhuận
Trang 35
Lợi nhuận lớn nhất = không giới hạn
Lợi nhuận đạt được khi giá của tài sản cơ sở > giá thực hiện của quyền chọn
mua/bán+phí phải trả ròng. Hoặc Giá của tài sản cơ sở < giá thực hiện của quyền chọn
mua /bán – (phí quyền chọn ròng/2).
Rủi ro giới hạn
Thiệt hại lớn nhất của chiến lược này xảy ra khi giá của tài sản cơ sở tại ngày đáo hạn
bằng giá thực hiện của quyền chọn mua và quyền chọn bán. Tại mức giá này, tất cả
các quyền chọn đều không có giá trị và người mua quyền chọn mất toàn bộ phí ban
đầu để tham gia vào giao dịch này.
Công thức tính lỗ tối đa
Lỗ tối đa = Phí quyền chọn ròng + tiền hoa hồng
Thiệt hại lớn nhất xảy ra khi giá của tài sản cỏ sở = giá thực hiện
Điểm hòa vốn
Có 2 điểm hòa vốn trong chiến lược Strp và có thể tính toán dưa vào công thức:
Điểm gãy phía trên= giá thực hiện của quyền chọn mua/bán+ phí phải trả ròng.
Điểm gãy phía dưới= giá thực hiện của quyền chọn mua/bán- (phí phải trả ròng/2)
1.2.8 Chiến lược strap
Trang 36
Chiến lược strap là một phiên bản sửa đổi, có tính đầu cơ giá lên. Nó liên quan đến
việc mua một số quyền chọn bán ATM và hai lần số lượng quyền chọn mua ATM của
cùng một tài sản cơ sở, giá thực hiện và ngày hết hạn .
Chiến lược strap có lợi nhuận không giới hạn, khoản lỗ giới hạn, được sử dụng khi các
nhà kinh doanh cho rằng giá tài sản cơ sở sẽ trải qua sự biến động đáng kể trong tương
lai gần và có nhiều khả năng sẽ cao trở lại thay vì giảm xuống dưới.
Lợi nhuận tiềm năng không giới hạn
Lợi nhuận lớn có thể đạt được với chiến lược này khi giá cổ phiếu tiềm ẩn tạo ra một
di chuyển mạnh lên trên hay xuống dưới tại lúc hết hạn, với lợi nhuận lớn hơn sẽ được
thực hiện với một di chuyển lên trên.
Các công thức tính lợi nhuận được đưa ra dưới đây:
Lợi nhuận = không giới hạn tối đa
Lợi nhuận đạt được khi giá của tài sản > giá thực hiện của quyền chọn mua/ bán + (phí
ròng phải trả/ 2).
Hoặc giá của tài sản cơ sở < giá thực hiện của quyền chọn mua/ bán - phí ròng phải
trả.
Lợi nhuận = 2 x (Giá của tài sản cơ sở- giá thực hiện của quyền chọn mua) – phí ròng
phải trả Hoặc Giá thực hiện của quyền chọn bán - Giá của tài sản cơ sở - phí ròng phải
trả.
Rủi ro hạn chế
Tối đa thiệt hại cho chiến lược strap xảy ra khi giá tài sản ở ngày hết hạn là giá giao
dịch thực hiện. Ở mức giá này, tất cả các quyền chọn đều vô giá trị và nhà kinh doanh
bị mất toàn bộ phí ban đầu.
Công thức để tính thiệt hại tối đa là đưa ra dưới đây:
Lỗ lớn nhất= phí quyền chọn ròng + Hoa hồng
Trang 37
· Lỗ lớn nhất xảy ra khi giá tài sản cơ sở = giá thực hiện của quyền chọn mua/
bán
Điểm hoà vốn (s)
Có 2 điểm hòa vốn trong chiến lược Strap. Những điểm hoà vốn có thể được
tính bằng cách sử dụng các công thức sau đây
· Điểm hòa vốn phía trên = giá thực hiện của quyền chọn mua/bán + (phí ròng/2)
· Điểm hoà vốn phía dưới= giá thực hiện của quyền chọn mua/bán + phí ròng.
1.2.9 Put Ratio Spread
Chiến lược này được thực hiện bằng cách mua một số lượng quyền chọn bán và bán
nhiều hơn số quyền chọn bán đã mua của cùng một cổ phiếu ở mức giá thực hiện khác
nhau. Chiến lược này có lợi nhuận giới hạn, rủi ro không giới hạn.
Mua mọt quyền chọn bán cao giá và bán 2 quyền chọn bán kiệt giá.
Lợi nhuận giới hạn
Lợi nhuận tối đa = giá thực hiện quyền chọn bán mà NDT đã mua –giá thực hiện
quyền chọn bán mà NDT đã bán + phí quyền chọn ròng
Lợi nhuận tối đa đạt được khi giá tài sản cơ sở = giá thực hiện cảu quyền chọn bán mà
NDT đã bán.
Trang 38
Rủi ro vô hạn
Lỗ khi giá của tài sản cơ sở < giá thực hiện cảu quyền chọn bán NDT đã bán – ((giá
thực hiện của quyền chọn bán NDT đã mua – giá thực hiện quyền chọn bán NDT đã
bán + phí quyền chọn ròng)/ số lượng của quyền chọn bán)
Lỗ = giá thực hiện của quyền chọn bán NDT đã bán – giá tài sản cơ sở - lợi nhuận tối
đa
Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn trên = giá thực hiện quyền chọn bán NDT đã mua +/- phí quyền chọn
ròng
Điểm hòa vốn dưới = giá thực hiện của quyền chọn bán NDT đã bán – (điểm mà tại
mức giá đó lợi nhuận là tối đa / số lượng quyền chọn bán)
1.2.10 Ratio Call Write
Chiến lược được thực hiện khi NDT nắm giữ cô phiếu cơ sở và bán số lượng quyền
chọn mua nhiều hơn số cổ phiếu nắm giữ. Chiến lược này có lợi nhuận giới hạn và rủi
ro vô hạn được thực hiện khi NDT nghĩ giá sẽ biến động nhẹ trong ngắn hạn.
Mua 100 cổ phiếu và bán 2 quyền chọn mua ngang giá.
Lợi nhuận giới hạn
Lợi nhuận tối đa = phí quyền chọn ròng
Lợi nhuận tối đa đạt được khi giá của tài sản cơ sở = giá thực hiện của quyền chọn
mua mà NDT đã bán
Rủi ro vô hạn
Lỗ vô hạn
Lỗ xảy ra khi giá của tài sản cơ sở < giqa1 thực hiện của quyền chọn mua do nhà đầu
tư bán – phí quyền chọn ròng hoặc giá của tài sản cơ sở > giá thực hiện của quyền
chọn mua do nhà đầu tư bán + phí quyền chọn ròng
Trang 39
Lỗ = giá tài sản cơ sở - giá thực hiện của quyền chọn mua do nhà đầu tư bán – phí
quyền chọn ròng hoặc giá của tài sản cơ sở lúc mua – giá của tài sản cơ sở lúc đáo hạn
– phí quyền chọn ròng
Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn trên = Gía thực hiện quyền chọn mua do nhà đầu tư bán + giá mà tại đó
lợi nhuận tối đa
Điểm hòa vốn dưới = Gía thực hiện quyền chọn mua do nhà đầu tư bán – giá mà tại đó
Quyền chọn ghìm giá
Một cách khác để đánh cuộc trên chiều hướng diễn biến giá của tài sản cơ sở là sử
dụng quyền chọn ghìm giá. Một quyền chọn ghìm giá cũng tương tự như các quyền
chọn đã được tiêu chuẩn hóa mà chúng ta đã nghiên cứu ở phần trên nhưng khác ở chỗ
quyền chọn ghìm giá có thể được hủy bỏ nếu diễn biến giá đạt được ở mức đã được
thỏa thuận trước giữa hai đối tác gọi là giá thỏa thuận. Nếu giá tiến đến mức chắn này
thì người mua sẽ không thực hiện quyền chọn cho dù nó kết thúc ở trạng thái cao giá –
ITM. Quyền chọn ghìm giá còn được gọil là quyền chọn có rào chắn tốn ít chi phí hơn
các quyền chọn tiêu chuẩn khác, bởi vì rủi ro cũng thấp hơn.
Có nhiều loại quyền chọn ghìm giá, chẳng hạn quyền chọn mua ghìm giá xuống theo
thỏa thuận sẽ có kết quả có lãi cho người mua quyền chọn nếu tỷ giá lên ( đồng tiền
Trang 40
mạnh) nhưng nó có thể được hủy bỏ nếu đồng tiền yếu đến mức bằng với giá đã thỏa
thuận trước đó. Ngược lại, một quyền chọn bán ghìm giá xuống theo thỏa thuận có kết
quả có lãi nếu tỷ giá xuống (đồng tiền yếu) nhưng nó sẽ được hủy bỏ nếu đồng tiền
yếu đến mưc vượt giá thỏa thuận riêng . Ngoải lợi thế chi phí thấp thì quyền chọn
ghìm giá xuống còn hữu dụng khi nhà đầu tư tin rằng nếu ngoại tệ sẽ giảm dưới một
mức nào đó , thì sẽ không có khả năng lỗ. Quyền chọn ghìm giá lên theo thỏa thuận sẽ
bị hủy bỏ nếu đồng tiền mạnh đến mức vượt giá thỏa thuận riêng . Ngoài quyền chọn
ghìm giá ở phần trên, trong thực tiễn cong có những quyền chọn ghìm gía khác rất
phức tạp.
Trang 41
Tổng kết chương 1
Trên đây là một số chiến lược phổ biến mà các nước phát triển sử dụng. Các
chiến lược này không chỉ đơn giản là để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, mà nó còn mang ý nghĩa đầu cơ, đánh cược trên sự thay đổi
của giá. Nó tuỳ thuộc vào mục đích của nhà quản trị. Nếu một nhà quản trị có năng lực
sẽ chẳng những phòng ngừa tốt về rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp mà còn mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên khi nghiên cứu đề tài này mục đích chính vẫn là
giúp các nhà quản trị phòng ngửa rủi ro tỷ giá, giúp giảm các thiệt hại do thay đổi tỷ
giá gây ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuỳ theo những trường hợp khác
nhau mà nhà quản trị sẽ thực hiện các chiến lược khác nhau nhằm đem lại lợi ích tốt
cho doanh nghiệp.
Ngoài những chiến lược nói trên các nhà quản trị có thể tự tìm ra một chiến
lược tốt nhất thích hợp trong từng giai đoạn cụ thể, tất nhiên nhà quản trị có thể tìm ra
một chiến lược riêng cho mình mà không cần theo khuôn mẫu nhưng trên đây là các
chiến lược cơ bản và phổ biến nhất. Nhà quản trị cần phải biết trước khi nghiên cứu
những chiến lược cao cấp hơn, phức tạp hơn.
Trang 42
Chương 2: Phân tích việc thực hiện hợp đồng quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá
ở Việt Nam hiện nay.
2.1Tình hình biến động tỷ giá ở Việt Nam.
Năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam đã chứng kiến sự biến động mạnh của tỉ
giá USD/VND, ở một số thời điểm, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã tăng lên
rất mạnh. Trong năm 2010, NHNN đã thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá. Lần thứ nhất
vào ngày 11/2/2010, tỉ giá USD/VND được điều chỉnh tăng từ mức 1 USD = 17.941
đồng lên mức 1 USD = 18.544 đồng, hay 3,36%. Lần thứ hai vào ngày 17/8/2010,
NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 1 USD = 18.544
đồng lên mức 1 USD = 18.932 đồng, tăng gần 2,1%, trong khi vẫn giữ nguyên biên độ
ở mức +/-3%. Dù vậy, chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị trường tự do
vẫn ở mức cao.
Biểu đồ 1: Diễn biến tỉ giá USD/VND tháng 11/2009 – 12/2010
Nguồn: SBV, dữ liệu của TVSC
Xét trong giai đoạn đầu năm 2011, tỷ giá cũng có nhiều biến động đáng chú ý, đặc biệt
là tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố liên tục giảm, từ đỉnh cao
20.733 đồng hôm 19/4 xuống còn 20.673 đồng vào ngày 18/5. Trong khi đó, tỷ giá
công bố tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vẫn hờ hững theo kiểu không muốn
mua mà cũng chẳng muốn bán cho các ngân hàng thương mại.
Trang 43
Biểu đồ 2: Diễn biến tỉ giá USD/VND tháng 4 – 12/2011
Qua biểu đồ ta thấy tỷ giá mua và bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam trong thời gian gần đây bất ngờ tăng cao dù tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước công bố vẫn trong xu thế giảm.
Nhìn chung, tỷ giá ở Việt Nam đã được kiểm soát nhưng mức độ biến động của tỷ
giá là rất đáng kể. Thực tế này đã tác động không nhỏ đến tâm lí, đời sống người dân,
đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này cho thấy rằng việc xây dựng
một công cụ có khả năng bảo hiểm rủi ro tỷ giá là rất cân thiết trong giai đoạn hiện
nay.
2.2 Những cơ hội để phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Từ sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế đã có nhiều bước chuyển biến tích cực
hơn, tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn. Để khai thác tiềm năng này các
Trang 44
yêu cầu về minh bạch, cơ chế, chính sách thông thoáng,… ngày càng được chú trọng
và thực hiện quyết liệt hơn.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao,
vấn đề công khai hoá, minh bạch hoá thông tin thị trường, nền kinh tế ngày càng được
đòi hỏi, yêu cầu cao hơn. Việc thành lập thị trường quyền chọn nói chung và thị
trường quyền chọn ngoại tệ nói riêng ở Việt Nam sẽ giúp các hoạt động này sẽ giúp
các hoạt động này diễn ra nhanh và mạnh mẽ hơn. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ có cơ hội
tiếp cận thị trường một cách công bằng hơn, chúng ta sẽ giảm được độc quyền, sự
phân biệt và giao dịch bí mật trong thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt
động quảng bá sản phẩm của các ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Một mặt khác, ở Việt Nam chưa phải gánh chịu ảnh hưởng lớn từ một cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ nào trên thế giới trước 2008, cơ chế quản lý các giao
dịch vốn những năm trước đây chủ yếu dựa vào cơ chế hành chính, tự phong toả là
chính, mức độ tự do hoá rất hạn chế… nên việc áp dụng các công cụ option ngoại tệ
còn chưa trở thành công cụ cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã và
đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ, việc ảnh hưởng của nền tài chính
tế giới ngày càng sâu rộng, điển hình là sự ảnh hưởng của việc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2009 đã buộc các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước quan tâm nhiều hơn để
phát triển công cụ quyền chọn ngoại tệ để phòng ngừa rủi ro.
Tiếp theo là vấn đề về sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của dòng vốn nước
ngoài và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Nhìn một cách tổng thể,
những năm gần đây sau khi gia nhập WTO, chỉ riêng doanh nghiệp nước ngoài đã,
đang và sẽ đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ khổng lồ để đầu tư, đặc biệt là trong
giai đoạn 2007 – 2008. Trong số đó có không ít doanh nghiệp FDI chỉ bán hàng trong
nước, thu thu tiền đồng. Họ phải bán ngoại tệ ( chủ yếu là USD) thu VND để thanh
toán cho các chi phí, hoặc dùng lượng ngoại tệ này để nhập khẩu máy móc thiết bị từ
nước ngoài. Sau một thời gian, khi có lợi nhuận, họ chuyển tiền về nước và dùng VND
mua ngoại tệ chuyển ra… Trong quá trình đó rủi ro tỷ giá là một điều luôn tìm ẩn đối
với các doanh nghiệp này. Khi đó, công cụ options ngoại tệ sẽ giảm thiểu đến mức
thấp nhất rủi ro tỷ giá nếu được sử dụng trong những trường hợp này, giúp các doanh
Trang 45
nghiệp tránh được thiệt hại do tăng hoặc giảm ngoại tệ ( nếu có). Như chúng ta đã biết,
việc sử dụng công cụ quyền chọn để phòng ngửa rủi ro tỷ đã trở nên phổ biến ở các
nước phát triển, vì vậy khi đầu tư vào Việt Nam, nhu cầu này sẽ ngày càng một lớn
hơn. Và ngược lại khi thị trường quyền chọn phát triển chắc chắn sẽ tạo ra nhiều cơ
hội hơn cho các dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam.
Nói chung, tuy cho đến hiện nay, thị trường quyền chọn ở nước ta vẫn chưa
phát triển nhưng có một tiềm năng rất lớn trong giai đoạn sắp tới. Do đó việc thực hiện
xây dựng, ứng dụng hợp động quyền chọn trong giai đoạn hiện nay là rất đáng xem và
nghiên cứu thêm.
2.3Thực trạng triển khai option ngoại tệ của các tổ chức tài chính ở Việt
Nam
2.3.1 Giai đoạn trước 23/03/2009
2.3.1.1 Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ.
· Về phía ngân hàng tham gia.
Trong giai đoạn thí điểm, các ngân hàng thương mại muốn thực hiện giao dịch
quyền chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự
có tối thiểu là 200 tỷ VND, kinh doanh ngoại tệ có lãi ít nhất 5 năm gần nhất và doanh
số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD.
Ngoài ra, NHTM phải lập ra các quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và
trình cho thống đốc ngân hàng nhà nước chấp thuận bằng văn bản cho thực hiện thí
điểm.
Theo công văn số 135/NHNN-QLNN, cho phép Eximbank là ngân hàng đầu
tiên trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ.
Sau Eximbank, NHNN cũng cho phép 7 ngân hàng khác thực hiên thí điểm nghiệp vụ
này, gồm có hai ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và năm ngân hàng
trong nước là BIDV, ACB, Vietcombank, ICB, và Argribank.
· Đặc điểm giao dịch.
Trang 46
Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân được
quyền đặt mua hay bán USD với VND thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn.
Đặc biệt, quyền chọn USD và VND đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu
trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho
nhà xuất khẩu, trong đó:
Người mua quyền chọn là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam
Nguời bán quyền chọn là các ngân hàng thương mại
Đồng tiền giao dịch: giao bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Kiểu quyền chọn: kiểu Châu Âu hoặc kiểu mỹ.
· Về doanh số giao dịch.
Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ bảo hiểm
rủi ro đã thấy rõ như một nhu cầu cấp thiết, nhưng số lượng hợp đồng được ký kết chỉ
dừng lại con số 50 hợp đồng quyền chọn với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD của
Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian thí
điểm nghiệp vụ quyền chọn, còn 6 ngân hàng còn lại không ký được hợp đồng nào.
Từ năm 2004 đến 2009 mặc dù không còn giới hạn về số lượng ngân hàng
thương mại tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho
thấy các hoạt động mua bán này vẫn chua thực sự sôi động. Ngay cả bản thân các tổ
chức tài chính ở Việt Nam đặc biệt là các ngân hàng vẫn chưa đủ năng lực thực hiện
và niềm tin của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc
sở hữu nước ngoài không cao đối với các tổ chức tài chính ở Việt Nam. Các giao dịch
hầu như chỉ tập trung vào các chi nhánh của ngân hàng lớn và có tiếng của nước ngoài
như HSBC hay Citybank và một số ít ngân hàng Việt Nam như Eximbank,
Techcombank, còn lại các ngân hàng khác vẫn không có giao dịch.
2.3.1.2 Quyền chọn ngoại tệ với nội tệ
Tháng 4/2005 Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã bắt đầu cho triển khai thực
hiện thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ VND. ACB là ngân hàng đầu tiên
Trang 47
được thí điểm nghiệp vụ này, vói mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức
tối thiểu là 10.000 USD ( quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn
giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VND).
Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với các giá trị hợp đồng là 8 triệu
USD – 100.000 USD và chỉ được thực hiện quyền chọn kiều châu âu. BIDV được
phép thí điểm từ 22/08/2005 và kể từ đây không còn quy định giới hạn cho giá trị các
hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra, còn các ngân hàng như Eximbank, Gpbank cũng được
tham gia nghiệp vụ này.
· Đặc điểm giao dịch
Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn
ngoại tệ với VND yều cầu các ngân hàng thương mại muốn thực hiện nghiệp vụ này
phải có đề àn chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được ngân
hàng nhà nước chấp nhận bằng văn bản. Quy dịnh về tỷ giá thực hiện như sau:
Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VND: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá kỳ
hạn USD/VND cùng thời hạn.
Đối với hợp đồng quyền chọn giữa các ngoại tệ khác VND: tỷ giá do ngân hàng
và khách hàng tự thoả thuận.
· Doanh số giao dịch
Mặc dù được triển khai từ 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân
hàng thương mại không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu
Mỹ vì các điều kiện thanh toánh linh hoạt hơn. Và hầu hết các ngân hàng thương mại
đều có số lượng hợp đồng rất ít. Vietcombank và Eximbank đươc xem là hai ngân
hàng mạnh về lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt động vẫn không cao.
Nhìn chung trong giai đoạn trước năm 2009, tuy theo khảo sát thì nhu cầu về
hợp đồng quyền chọn khá cao nhưng giao dịch vẫn chưa nhiều, nguyên nhân là do thị
trường công cụ phái sinh nói chung và thị trường quyền chọn nói riêng ở Việt Nam
thật sự chưa hoàn chỉnh. Thị trường quyền chọn chỉ đang ở giai đoạn hình thành, các
Trang 48
văn bản quy định cũng như việt quản lý thị trường này vẫn còn quá nhiều thiếu sót dẫn
đến một số trường hợp lợi dụng những điểm khiếm khuyết này để làm méo mó mục
đích thật sự của thị trường quyền chọn và từ đó ảnh hưởng đến đến nền kinh tế vĩ mô
nói chung. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đên sự huỷ bỏ hoạt động giao dịch
quyền chọn trong năm 2009.
2.3.2 Giai đoạn sau 23/03/2009
Ngày 18/3/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Văn bản số 1820/NHNN -
QLNH, yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại kể từ 23/3/2009 phải dừng thực hiện
nghiệp vụ liên quan đến hợp đồng quyền chọn.
Với tình hình năm 2009 được coi là năm thị trường ngoại hối không ổn định, tỷ
giá liên tục tăng cao và khoảng cách chênh lệch tỷ giá giữa trong và ngoài hệ thống có
lúc lên tới mấy nghìn đồng mỗi USD. Nhiều doanh nghiệp dưới sự “tư vấn” của ngân
hàng thương mại đã ký hợp đồng quyền chọn mua/bán ngoại tệ dưới hình thức “quyền
chọn kiểu Mỹ”.
Nhờ đó, hai bên thoải mái giao dịch với nhau với mức giá như “chợ đen” nhưng
vẫn “qua mắt” được Ngân hàng Nhà nước, và lúc đó, tỷ giá công bố của Ngân hàng
Nhà nước bỗng trỏ thành danh nghĩa. Ví dụ, tỷ giá kịch trần của Ngân hàng Nhà nước
là 18.700 VND/USD, giá tự do là 19.700 VND/USD thì hợp đồng vẫn ký là 18.700
VND/USD nhưng doanh nghiệp phải trả thêm mức phí “quyền chọn” là 1.000
VND/USD và tất toán hợp đồng. Đây là một tình trạng đau đầu đối với cơ quan quản
lý. Do đây là một điểm đặc biệt của hợp đồng quyền chọn, nếu đã cho phép giao dịch
các hợp đồng quyền chọn thì không thể can thiệp vào các mức phí mà các tổ chức tài
chính đưa ra. Nhưng không thể vì vậy mà cấm việc sử dụng công cụ quyền chọn trong
giai đoạn hội nhập hiện nay vì nó trái với kinh tế thị trường. Vấn đề này cần phải được
sớm nghiên cứu để khắc phục.
2.4 Những khó khăn khi xây dựng thị trường công cụ quyền chọn.
Đối với tầm quả lý vĩ mô đó chính khó khăn trong việc điều chỉnh cũng như
ban hành các văn bản pháp luật phù hợp thị trường. Đối với cơ quan cấp vĩ mô nhà
Trang 49
nước việc ban hành một văn bản phù hợp và tạo tính thuận lợi dễ dàng khi thực hiện
trong thực tế, để tạo sự an tâm giao dịch cho các nhà đầu tư không phải việc có thể
thực hiện trong một sớm một chiều. Do chỉ mới bắt đầu hình thành cách đây không lâu
cho nên thị trường quyền chọn vẫn còn nhiều điều cần khắc phục và hoàn thiện hơn.
Đối với các nước phát triển thì thị trường công cụ quyền chọn cũng phải được hình
thành trong khoản thời gian rất lâu 30-50 năm. Do đó sự mới mẽ của công cụ quyền
chọn là một khó khăn lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt để có thể xây dựng được một
thị trường hoàn chỉnh.
Đối với các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ quyền chọn ngoại tệ - Ngân
hàng thương mại thì khó khăn lớn nhất chính là xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết bị và
công nghệ. Rõ ràng việc trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ cho hoạt động giao dịch
quyền chọn là rất phức tạp và tốn kém, cần một khoản thời gian dài đễ học tập và sử
dụng tốt các thiết bị kỹ thuật đó, đặc biệt là việc xây dựng một hệ thống có kết nối với
sàn giao dịch quyền chọn tập trung mà trong tương lai đó là một việc hết sức cần thiết.
Nếu các tổ chức tài chính không tính toán kỹ thì có thể dẫn đến thua lỗ trầm trọng.
Chính điều này đã khiến các ngân hàng ngần ngại khi đầu tư góp phần phát triển thị
trường. Ngoài ra hệ thống kết nối với khách hàng, các phần mền định giá quyền chọn
cũng rất phức tạp, rất khó khăn trong vấn đề đào tạo nhân viên. Đó là chưa nói đến giá
của các phần mên này là rất cao.
Một khó khăn khác trong việc phát triển thị trường quyền chọn đó chính là khó
khăn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực có đủ khả năng và trình độ. Hiện nay số
người biết đến công cụ phái sinh nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng là rất ít.
Hiện nay khái niệm công cụ phái sinh cũng như quyền chọn hầu như chỉ được nhắc
đến ở các trường đại học thuộc khối ngành kinh tế ở trên phương diện lý thuyết mà
chưa thấy có một lợp huấn luyện chuyên sâu và thực tế nào bên ngoài các doanh
nghiệp, các tổ chức tài chính. Vấn đề này chúng ta sẽ đè cập rõ hơn ở phân sau đây.
Trang 50
2.5Thực trạng sử dụng công cụ quyền chọn để quản trị rủi ro của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay.
Qua thực hiện khảo sát tại các lớp cao học, tại chức tại trường Đại học kinh tế
TP.HCM và một số qua khảo sát online, đối tượng là các cá nhân, nhân viên văn
phòng hiện đang làm việc tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu1. Kết quả sơ bộ như
sau:
· Tổng số phiếu được khảo sát: 260 , trong đó:
§ Số phiếu khảo sát trực tiếp: 250
§ Số phiếu khảo sát trực tuyến: 10
· Số phiếu nhận về: 187
· Số phiếu đủ tiêu chuẩn xử lý: 112
· Số phiếu có đầy đủ thông tin: 107
Trong đó:
· Số phiếu do người thực hiện khảo sát có đảm trách nhiệm vụ quản trị rủi ro tỷ giá
tại các doanh nghiệp: 38
Các số liệu được tính toán thống kê và xử lý trên phần mềm excel.
Qua thời gian khảo sát ta thu được một số kết quả, tuy các kết quả này vẫn chưa thể
có được độ tin cậy cao do số mẫu quan sát còn ít, chưa đại diện được cho tổng thể.
Nhưng mẫu quan sát là ngẫu nhiên cho nên chúng ta vẫn có thể tạm chấp nhận và từ
kết quả đó chúng ta sẽ có thể bàn luận về một số vấn đề về việc thực hiện các chiến
lược quyền chọn tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như sau:
2.5.1 Mức độ quan tâm của doanh nghiệp đối với quản trị rủi ro tỷ giá
1 Bảng khảo sát ở phụ lục 1
Trang 51
Hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiên nay là các công ty nhỏ,
quy mô không đáng kể so với thế giới, cho nên việc quản trị rủi ro tỷ giá ít được quan
tâm so với các nước đã phát triển. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, theo khảo
sát có được thì chỉ 46% quan tâm nhất đến vấn đề tỷ giá.
Biểu đồ 3: Vấn đề quan tâm của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Mặt khác, tính trên tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tôi khảo sát
được thì có đến 45% không thực quản trị rủi ro tỷ giá. Con số này là rất cao, như theo
kết quả của công trình nghiên cứu khoa học 12/2006 của sở khoa học và công nghệ
TP.HCM kết hợp với trường Đại học Kinh Tế TP.HCM với đề tài “ Hoàn thiện các
giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới” đã cho thấy: Trong số các doanh nghiệp khảo sát, có khoản 5,3% doanh nghiệp
chưa hề biết đến và chưa nhận thức đầy đủ về rủi ro tỷ giá, khoảng 24% co nghe và
biết đến nhưng hầu như không quan tâm, gần 30% chua nhận thức được tầm quan
trọng của rủi ro tỷ giá, 70% có nhận thức vấn đề này nhưng trong đó chỉ có khoảng
30% là thực sự lo lắng về rủi ro tỷ giá.
Sau hơn 4 năm hội nhập kinh tế quốc tế con số mà tôi khảo sát lại khi thực hiện
đề tài này là khá bi quan, với con số 45% các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không thực
Trang 52
hiện quản trị rủi ro tỷ giá là một con số không thể chấp nhận trong giai đoạn kinh tế
hiện nay.
Biểu đồ 4: Số doanh nghiệp có thực hiện quản trị rủi ro tỷ giá
Vấn đề thứ 2 mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm đó chính là lãi suất –
chiếm 31%, điều này cũng dễ giải thích, đó là do các doanh nghiệp còn nhỏ lẽ, việc
phụ thuộc nguồn vốn vay là rất nhiều. Tuy nhiên lãi suất vẫn là vấn đề mà các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm nhất.
Vấn đề này có thể được giải thích như sau: Tỷ giá USD/VND theo như phân
tích ở trên thì ta thấy có sự biến động nhưng không quá mạnh, không tạo một mức rủi
ro lớn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay, thực tế kết quả khảo sát cũng
ủng hộ vấn đề này, đến 55% cho rằng việc biến động không mạnh của tỷ giá làm cho
các doanh nghiệp xuất nhập không quan tâm lắm đến vấn đề tỷ giá. Một vấn đề khác là
chi phí cho việc quản trị rủi ro tỷ giá là tương đối lớn, thực tế hiện nay việc sử dụng
các công cụ như giao sau, kỳ hạn, quyền chọn… để quả trị rủi ro tỷ giá là rất tốn kém,
mức phí mà các tổ chức tài chính đưa ra cho doanh nghiệp là khá cao trong khi mức
biến động của tỷ giá không quá mạnh, điều này thể hiện sự bất cân xứng giữa lợi ích
và chi phí cho việc quản trị của doanh nghiệp. Một lý do khá nhạy cảm khác là phần
lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc sở hữu nhà nước còn ỷ lại vào sự che chở
Trang 53
của cơ quan có thẩm quyền, do vậy, các doanh nghiệp đã không quan tâm đến vấn đề
rủi ro tỷ giá đúng mức.
Biểu đồ 5: Nguyên nhân doanh nghiệp không quan tâm đến quản trị rủi ro
tỷ giá trong giai đoạn hiện nay
2.5.2 Việc sử dụng công cụ quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá ở các
doanh nghiệp xuât nhập khẩu hiện nay.
Theo khảo sát thì chỉ có 27% các doanh nghiệp khảo sát muốn thực hiện quản trị
rủi ro tỷ giá bằng công cụ quyền chọn và 100% đều chưa thực hiện các chiến lược trên
hợp đồng quyền chọn trong công việc quản trị của mình. Trong khi đó, công cụ giao
sau và kỳ hạn được doanh nghiệp sử dụng và quan tâm rất nhiều - đến 64%.
Điều này cho thấy rằng một mặt quyền chọn cho đến nay vẫn chưa là một công cụ
quản trị được các doanh nghiệp quan tâm, mặt khác thực hiện các chiến lược trên hợp
đồng quyền chọn là còn quá xa lạ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đối với
các doanh nghiệp hiện nay, trình độ của các nhà quản lý còn thấp chưa thể thực hiện
các chiến lược trên quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá theo đúng nghĩa thực tế của nó.
Việc thực hiện quản trị nhằm tránh những khoản thiệt hại cho biến động tỷ giá gây ra
đã là một điều khó đối với họ, còn việc tìm kiếm lợi nhuận qua quá trình quản trị rủi ro
tỷ giá của mình lại càng khó khăn hơn.
Trang 54
Khi khảo sát về mức độ ảm hiểu về công cụ quyền chọn thì có đên 56% ngưới
không biết đến công cụ quyền chọn. Số người biết về công cụ quyền chọn chỉ chiến
một tỷ lệ rất khiêm tốn là 15%.
Biểu đồ 6: Mức độ am hiểu công cụ quyền chọn
Biểu đồ 7: Các công cụ mà doanh nghiệp sử dụng
Trang 55
Về một sô nguyên nhân khác, ta thấy rằng cho đến thời điểm hiện tại thì vẫn chưa
có một cơ chế pháp lý rõ ràng, nhà nước vẫn hạn chế việc sử dụng công cụ quyền chọn
do chưa quản lý được. Do đó, hầu hết các donah nghiệp hầu hết là sử dụng công cụ
giao sau và kỳ hạn để quản trị rủi ro cho doanh nghiệp mình. Một mặt do 2 công cụ
này ra đời sớm hơn, việc sử dụng các công cụ này để quản trị rủi ro là khá đơn giản so
với quyền chọn và hoán đổi. Đó cũng chính là ưu thế khi sử dụng 2 công cụ này. Khi
thực hiện khảo sát chúng ta cũng thấy được rằng: Ngoài nguyên nhân là sự am hiểu
của các nhà quản trị còn có những nguyên nhân khác là mức biến động lãi suất không
nhiều và pháp lý chưa rõ ràng. Hai nguyên nhân này cũng cần phải được xem xét và
khắc phục.
Biểu đồ 8: Lý do khiến các doanh nghiệp không quan tâm đến công cụ quyền
chọn để quản trị rủi ro.
Do đó khi muốn thực hiện cac biện pháp để phát triển thị trường quyền chọn,
đưa công cụ còn khá mới mẽ này vào hoạt động của doanh nghiệp, chúng ta cần tập
trung vào các nguyên nhân trên.
Trang 56
Tổng kết chương 2
Qua xem xét đến thực trạng thị trường công cụ quyền chọn và việc thực hiện công cụ
quyền chọn ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ta thấy rằng: thứ nhất, thị trường
quyền chọn vẫn chưa được hình thành hoàn thiện, còn rất nhiều những hạn chế trong
cơ chế quản lý, xây dựng và kiểm soát. Đặc biệt là vấn đề quản lý thị trường quyền
chọn. Nhà nước vẫn chưa thể quản lý được trong giai đoạn hiện nay do thị trườn ngoại
hối còn nhiều vấn đề bất cập, việc hạn chế và không cho phép thực hiện các hợp đồng
quyền chọn chỉ là hành động mang tính chất tạm thời chứ không thể áp dụng trong
thới gian dài, nhất khi đã gia nhập kinh tế thị trường. Thứ hai, Nhu cầu của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu về công cụ quyền chọn vẫn còn ít, đồng thời mức độ hiểu biết
của các doanh nghiệp về công cụ quyền chọn cũng rất hạn chế. Tuy nhiên khi đã tham
gia vào nền kinh tế mở thì vì sự cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, các doanh nghiệp cần
không ngừng tìm hiểu, mở rộng khả năng hiểu biết về các công cụ phòng ngừa rủi ro
nói chung và công cụ quyền chọn nói riêng. Đó là việc làm bắt buộc nếu các doanh
nghiệp muốn tồn tại. Thứ ba, các tổ chức tài chính nhất là ngân hàng thương mại vẫn
chưa đủ năng lực để giao dịch công cụ quyền chọn. Chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng
cần thiết để phát triển sản phẩm này. Nhưng tình trạng này nếu khắc phục được sẽ giúp
thị trường công cụ quyền chọn hình thành và phát triển nhanh chóng.
Trang 57
Chương 3: Các giải pháp để thúc đẩy việc sử dụng công cụ quyền chọn để quản
trị rủi ro tỷ giá ở các công ty xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
3.1 Các giải pháp vĩ mô của nhà nước.
Đối với nhà nước, để phát triển thị trường công cụ quyền chọn thì nhà nước cần có
những chính sách vĩ mô nhằm xây dựng một thị trường hoàn chỉnh.
· Xây dựng các văn bản luật hoàn chỉnh.
Trước tiên là xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh, một văn bản pháp
luật cho các công cụ phái sinh nói chung và các điều khoản hướng dẫn cho công cụ
quyền chọn nói riêng. Một văn bản pháp luật cho việc này cần đòi hỏi: thứt nhất là
ngăn chặn việc lợi dụng các công cụ quyền chọn để thực hiện các hành vị làm méo mó
thị trường, không dùng với mục đích nguyên thuỷ của nó là quản trị rủi ro. Thứ hai là
văn bản đó phải chặt chẽ, nhưng cung phải đủ độ thông thoáng nhằm thu hút các
doanh nghiệp tham gia. Thứ ba, nó phải phù hợp theo cơ chế thị trường.
Hiện nay vấn đề các ngân hàng thương mại và khách hàng lợi dụng công cụ quyền
chọn để thoả thuận mua bán ngoại tệ theo giá chợ đen. Việc này thực hiện được do đặc
điểm thoả thuận phí quyền chọn. Nhưng chúng ta không thể dùng các văn bản luật để
ngăn cản hoạt động này, việc làm cần thiết hơn của nhà nước là làm giảm sự chên lệch
giữa tỷ giá quy định và tỷ giá chợ đen. Nếu hạn chế hoạt động của thị trường quyền
chọn sẽ làm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, làm tăng rủi ro của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu. Từ đó ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung.
· Điều hành tốt kinh tế vĩ mô
Về cơ chế tỷ giá, Việt Nam cần thực hiện một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn nữa phù
hợp với thị trường. Trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chợ
đen là không được cho phép nhưng nó vẫn luôn tồn tại vì có sự chên lệch lớn giữa thị
trường và theo quy định. Do đó đễ thị trường quyền chọn phát triển đúng nghĩa của nó
thì vấn đề tỷ giá là rất quan trọng, tuy cơ chế tỷ giá có quản lý nhưng phải quản lý linh
hoạt theo thị trường. Việc này vốn không phải dể nên cần được đầu tư quản lý hơn
nữa.
Trang 58
Thứ hai, là tạo điều kiện thu hút đầu tư, tạo thông thoáng cho mậu dịch quốc tế.
Các quy định về mua bán ngoại tệ phải được thông thoáng hơn. Các mức thuế cũng
cần có những sửa đổi để khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời chính phủ cần thực hiện
các chính tài chính tiền tệ thích hợp, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
phát triển kinh doanh.
· Thực hiện các bước để tiến tới thành lập một sàn giao dịch options niêm yết
tập trung.
Ngoài các giải pháp cho sự phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ nói chung ở
trên, để thị trường quyền chọn thực sự phát triển và trở thành một trong những trụ cột
của thị trường tài chính, khi thị trường quyền chọn và các giao dịch quyền chọn đạt
đến độ chín mùi cần thiết, bên cạnh một thị trường quyền chọn phi tập trung (OTC)
vẫn đang tồn tại, nhà nước cần tiến hành tham khảo, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn
giao dịch quyền chọn lớn trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, để thành lập một sàn giao
dịch quyền chọn tập trung chính thức (giống như một sàn giao dịch chứng khoán niêm
yết tập trung) như ở các nước có thị trường tài chính phát triển, với các tài sản cơ sở ở
đây có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, chỉ số chứng khoán, vàng, lãi suất... Điều
này sẽ làm tăng tính thanh khoản, khối lượng giao dịch trên thị trường quyền chọn
cũng như thị trường các tài sản cơ sở, đặc biệt là thị trường ngoại hối dần dần tiến đến
chuyên nghiệp hóa, tạo thuận tiện, phổ biến và đưa thị trường quyền chọn trở thành
một một trong những thị trường thiết yếu trên thị trường tài chính.
Việc xây dựng hệ thống kỹ thuật công nghệ cho sàn giao dịch quyền chọn tập trung
đòi hỏi sự đầu tư lớn và đồng bộ. Các nhà quản lý có thể dựa vào kinh nghiệm xây
dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ cho sở giao dịch chứng khoán và tham khảo
từ các sàn giao dịch quyền chọn tập trung ở các nước, kết hợp với khả năng, tình hình
thị trường hiện tại để trang bị hệ thống kỹ thuật công nghệ phù hợp với điều kiện nước
ta. Các hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán bù trừ, hệ thống kết nối với các thành
viên (ngân hàng thương mại môi giới quyền chọn)… cần được trang bị đồng bộ, thống
nhất, giúp đơn giản hóa các qui trình giao dịch, đồng thời tăng tính chính xác, thanh
khoản và độ an toàn cho các nhà đầu tư tham gia thị trường.
Trang 59
Về phía các ngân hàng ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, khi một sàn giao dịch
quyền chọn tập trung được thành lập, cũng giống như thị trường chứng khoán; các
hoạt động giao dịch, chuyển nhượng quyền chọn sẽ diễn ra. Các ngân hàng thương mại
sẽ đóng vai trò là thành viên của sở giao dịch options, đứng ra môi giới và thu phí đối
với các giao dịch chuyển nhượng quyền chọn đối với khách hàng. Khi đó, phí môi giới
options cần được các tổ chức tài chính môi giới tính toán kỹ lưỡng để có thể bù đắp
được các khoảng chi phí đầu tư đã bỏ ra, đảm bảo khả năng cạnh tranh và bước đầu
thu lợi nhuận. Trong điều kiện các giao dịch chuyển nhượng options mới bắt đầu hình
thành, các tổ chức tài chính môi giới nên chào một mức phí cạnh tranh, để bước đầu
thu hút được khách hàng, giúp cho nhà đầu tư làm quen cũng như hứng thú hơn với
việc tham gia giao dịch các quyền chọn tập trung, đóng vai trò tích cực trong việc phát
triển một thị trường giao dịch quyền chọn tập trung chính thức.
Để xây dựng thành công sàn giao dịch quyền chọn tập trung ta cần tiến hành các
bước thử nghiệm ban đầu. Các cơ quan nhà nước có liên quan, đặc biệt là Bộ Tài
Chính cần phối hợp cùng các ngân hàng bước đầu tiến hành các thử nghiệm ban đầu
để tạo lập thị trường.
Đối với quyền chọn ngoại tệ, có thể lựa chọn các ngoại tệ được giao dịch nhiều như
USD, EUR, JPY… để có thể được phát hành và niêm yết các quyền chọn dựa trên
chúng. Người phát hành các quyền chọn này là các ngân hàng thương mại lớn. Các
nhà đầu tư và những nhà xuất nhập khẩu có nhu cầu cũng sẽ giao dịch thông qua các
ngân hàng này. Cơ quan giám sát, quản lý bao gồm cục quản lý ngoại hối sẽ là người
ra quyết định cho việc chấp thuận hay không các quyền chọn ngoại tệ này. Sở Giao
Dịch và Trung Tâm Giao dịch cũng sẽ đóng vai trò giám sát, quản lý và công bố thông
tin giao dịch như trên.
Tóm lại, việc ra đời một sàn giao dịch quyền chọn tập trung chính thức là một quá
trình phức tạp, đòi hỏi phải hội đủ nhiều điều kiện thiết yếu phức tạp, khi mà thị
trường quyền chọn phi tập trung đã tương đối phát triển ở Việt Nam. Đề tài chỉ phác
họa sơ bộ các giải phát cho vấn đề này. Việc ra đời một sàn giao dịch quyền chọn tập
trung chính thức sẽ đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường tài chính Việt
Nam.
Trang 60
3.2 Nhiệm vụ của các tổ chức tài chính.
Bên cạnh các giải pháp vĩ mô của nhà nước, các tổ chức tài chính, đặc biệt là các
NHTM, dưới góc độ là người trực tiếp tham gia cung ứng, môi giới sản phẩm quyền
chọn cho thị trường, cần tuân thủ theo các qui định của nhà nước và thực hiện một số
giải pháp vi mô sau để góp phần vào sự hình thành và phát triển thị trường quyền chọn
ngoại tệ trên thị trường các công cụ phái sinh ở Việt Nam.
Trước tiên các ngân hàng thương mại cần chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin
về các sản phẩm, dịch vụ quyền chọn đến khách hàng. Ngày nay, thị trường tài chính
cạnh tranh ngày một gay gắt. Các định chế tài chính chuyên nghiệp như ngân hàng
thương mại xuất hiện ngày càng nhiều. Việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản
phẩm, dịch vụ cơ bản của mỗi tổ chức tài chính là cần thiết để có thể thu hút các đối
tượng khách hàng. Đối với công cụ options ngoại tệ, một trong những loại hình dịch
vụ mới, khá phức tạp đối với khách hàng, việc làm này càng trở nên cần thiết, thiết
thực hơn, nhằm tạo ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà
hoạch định chính sách về công dụng, lợi ích và cách thức sử dụng các công cụ options,
từ đó phát triển nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ options này.
Để thực hiện điều đó, các ngân hàng, công ty chứng khoán cần rút kinh nghiệm và
thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản phẩm phái sinh nói chung và quyền chọn nói
riêng, theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị, bán hàng cho những
nhân viên thật sự am hiểu về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách
hàng. Ngoài ra, về lâu dài, các ngân hàng thương mại cần lập ra bộ phận chuyên phân
tích, tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng các công
cụ options cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro.
Phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài Chính, Giáo Dục, Truyền Thông, Ngân
hàng nhà nước … để tăng cường hơn nữa công tác quảng bá và giới thiệu sản phẩm
quyền chọn đến các khách hàng doanh nghiệp và nhà đầu tư, trong đó chú trọng đầu tư
cho hình thức quảng bá trên các website của các ngân hàng thương mại nói riêng và
các tổ chức tài chính khác nói chung
Trang 61
Tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn thực hành tham gia vào giao dịch quyền chọn
ngoại tệ và cổ phiếu cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Trong đó đưa ra cho các tình
huống mẫu để khách hàng thử ứng dụng. Từ đó, phân tích cho các khách hàng thấy lợi
ích của việc sử dụng công cụ quyền chọn trong bảo hiểm rủi ro tỷ giá, giá cả chứng
khoán và tìm kiếm lợi nhuận trong các hoạt động đầu tư của mình.
Thứ hai, là không ngừng cải tiến chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ
quyền chọn tới khách hàng. Theo thực trạng hiện nay tại các ngân hàng thương mại
như Eximbank, Techcombank, BIDV…, các ngân hàng thương mại này chỉ mới đóng
vai trò là nhà môi giới trung gian giữa các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng hợp đồng
quyền chọn ngoại tệ với các ngân hàng cung cấp dịch vụ ở nước ngoài. Do đó, cần
phải xem xét đến việc nghiên cứu ứng dụng các chiến lược kinh doanh như đứng tự
đứng ra phát hành các quyền chọn thích hợp tới khách hàng nhằm thể hiện tính chuyên
nghiệp chứ không chỉ dừng lại ở hoạt động môi giới.
Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn ngoại tệ,
các ngân hàng thương mại cần nhanh chóng chuẩn hóa tổ chức các phòng, ban kinh
doanh liên quan đến quyền chọn của mình. Tăng thẩm quyền trực tiếp kinh doanh và
thẩm quyền quyết định cho các cán bộ kinh doanh quyền chọn.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại nên tìm hiểu, nghiên cứu sâu các mô hình
chiến lược liên quan đến giao dịch quyền chọn, cùng sự hỗ trợ từ những công cụ kỹ
thuật như các phần mềm tiên tiến, cũng như bám sát diễn biến của thị trường để dự báo
xu hướng biến động tỷ giá, lãi suất trong tương lai. Từ đó, vận dụng các chiến lược
một cách chính xác trong từng trường hợp, để tư vấn, hỗ trợ khách hàng, giúp các
khách hàng hiện tại ngày càng tin tưởng vào việc thực hiện hợp đồng options, đồng
thời thu hút thêm các khách hàng mới tham gia giao dịch.
Bên cạnh đó, song song với việc triển khai các sản phẩm quyền chọn thuần nhất,
các tổ chức tài chính nên có những biện pháp tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp, đặc
biệt là lai tạp với quyền chọn như: quyền chọn hợp đồng hoán đổi ngoại tệ, …Từ đó,
sẽ là cơ sở để có thể định giá các sản phẩm quyền chọn hiệu quả nhất.
Trang 62
Thứ ba là vấn đề thay đổi cách tính phí quyền chọn, như đã đề cập ở trên, đối với
quyền chọn ngoại tệ, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay chỉ cung
cấp dịch vụ quyền chọn với tư cách là nhà môi giới, làm đại lý cho các ngân hàng
nước ngoài, thực hiện tái bảo hiểm trên thị trường quốc tế, chỉ sử dụng phí quyền chọn
của ngân hàng nước ngoài, cộng với phí dịch vụ để tính phí cho khách hàng. Điều này
gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam và cả các ngân hàng vì việc này đẩy phí
quyền chọn lên cao ảnh hưởng đến lựa chọn của khách hàng và ảnh hưởng đến lợi
nhuận của các ngân hàng. Do đó, việc thay đổi cách tính phí quyền chọn là cần thiết.
Dựa vào các điều kiện, khả năng của mình, các ngân hàng, công ty chứng khoán
nên tự đứng ra cung cấp và phát hành quyền chọn trực tiếp cho khách hàng, tìm hiểu
và vận dụng mô hình Black-Scholes để tính phí quyền chọn cho khách hàng một cách
hợp lý. Nhanh chóng triển khai ứng dụng các mô hình chiến lược kinh doanh quyền
chọn, từ đó tạo nền tảng đề ra một mức phí mang tính cạnh tranh hơn.
Trong tình hình hiện tại, rất cần một số ngân hàng có thế mạnh trong lĩnh vực kinh
doanh ngoại tệ đi tiên phong thử nghiệp các mô hình tính phí mới, từ đó giúp các ngân
hàng, công ty chứng khoán khác đi sau học hỏi kinh nghiệm và tiến tới triển khai
nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu có hiệu quả hơn.
Thứ tư là vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ cán bộ kinh doanh quyền chọn. Trong mọi hoạt động dịch vụ, nhân tố con người
đóng vai trò rất quan trọng. Do bản chất của nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn vốn là
một công việc phức tạp, căng thẳng, chứa đựng nhiều rủi ro…Do đó, đòi hỏi cán bộ
kinh doanh quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn cổ phiếu tại các tổ chức không chỉ có
chuyên môn về các nghiệp vụ mà còn phải năng động, nhạy bén, am hiểu thị trường tài
chính, có khả năng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá, giá cả chứng khoán, lãi
suất…; đồng thời phải là những người có đạo đức nghề nghiệp, trung thực trong kinh
doanh.
Vì vậy các ngân hàng thương mại nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo
chuyên sâu về nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên ngành cho nhân viên của mình, thông
qua các khóa học đào tạo ngắn hạn ở trong nước và nước ngoài để vừa nâng cao trình
Trang 63
độ chuyên môn, nghiệp vụ vừa tạo cơ hội làm quen với môi trường kinh doanh sôi
động và hiện đại của thị trường quyền chọn quốc tế. Ngoài ra, cần có những chính
sách đãi ngộ thích đáng để thu hút và giữ chân nhân tài, tránh để xảy ra tình trạng chảy
máu chất xám trong tổ chức của mình.
Thứ năm, là việc nân cao, cải tiến hệ thống hạ tầng kỹ thuật của các tổ chức tài
chính. Việc giải quyết các vấn đề về hệ thống hạ tầng-kỹ thuật đóng vai trò không kém
phần quan trọng. Vì giao dịch quyền chọn là một quy trình giao dịch phức tạp, nên rất
cần sự hỗ trợ từ các hệ thống kỹ thuật để các giao dịch diễn ra nhanh chóng, chính xác
giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ và khách hàng. Giải pháp cho vấn đề này có thể
thực hiện như sau:
Các ngân hàng thương mại, cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho hoạt
động kinh doanh quyền chọn. Thị trường quyền chọn là thị trường dựa vào các thị
trường cơ sở khác – ngoại tệ. Các thị trường này hầu hết đều có độ rủi ro rất cao. Do
đó, thông tin về các thị trường tài sản cơ sở như thị trường ngoại hối đóng một vai trò
rất quan trọng trong các quyết định giao dịch quyền chọn của khách hàng. Vì vậy, đòi
hỏi các tổ chức cung cấp dịch vụ phải có một hệ thống cung cấp thông tin thật hiệu
quả, tức thời.
Các ngân hàng thương mại cần thiết lập hệ thống nối mạng với các hãng truyền
thông tài chính nổi tiếng trên thế giới như Reuters, Bloomberg…để đáp ứng nhu cầu
thông tin cho khách hàng. Số lượng máy nối mạng cần gia tăng, hiện đại dần theo thời
gian khi đội ngũ nhân viên đã được đào tạo chuyên sâu và thuần thục trong việc sử
dụng.
Bên cạnh đó, việc định giá quyền chọn và phân tích thị trường cũng là một khâu
khá quan trọng và phức tạp. Do đó, các tổ chức cung cấp quyền chọn cần ứng dụng
công nghệ thông tin như các phần mềm chuyên dùng cho việc định giá, tính phí quyền
chọn, hỗ trợ cho việc theo dõi hạn mức giao dịch của các nhân viên kinh doanh và hạn
mức khách hàng; cũng như các phần mềm kỹ thuật hiện đại cho việc phân tích, dự
đoán xu hướng tỷ giá để giúp đơn giản hóa các khâu trung gian như xử lý số liệu theo
cách truyền thống và tiết kiệm thời gian làm việc; đồng thời mang lại hiệu quả, độ
Trang 64
chính xác cao. Nhưng hiện nay, để tiếp cận được với các công nghệ tiên tiến này đòi
hỏi các tổ phải có nguồn kinh phí mạnh, cũng như một đội ngũ nhân viên, chuyên gia
nắm vững cả kiến thức chuyên môn và kỹ năng sử dụng các phần mềm. Đó cũng là
một trong những lý do khiến một số các ngân hàng nhỏ khó tiếp cận với những tiện
ích này.
Ngay cả đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp kinh doanh quyền chọn thì việc
phân tích, dự đoán các xu thế biến động của thị trường cũng cần phải thiết lập hệ thống
công nghệ tiên tiến như một yêu cầu cơ bản. Nhưng hiện nay chỉ một số ít các đại gia
mới có khả năng ứng dụng các công nghệ này. Đó cũng là những khó khăn đối với
việc phát triển thị trường quyền chọn trong thời gian sắp tới.
Có thể nói, vấn đề hạ tầng kỹ thuật công nghệ luôn là vấn đề phức tạp, tốn kém.
Việc áp dụng công nghệ nào còn tùy thuộc vào mức độ phát triển của thị trường quyền
chọn, cũng như khả năng của từng tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ.
Cuối cùng là cần tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức tài chính khu vực và
thế giới. Các nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan… có các điều kiện kinh tế
xã hội khá tương đồng với Việt Nam hay các nước như Singapore, Hàn Quốc, Hồng
Kông…. thì có điều kiện phát triển vượt bậc so với chúng ta. Do đó, các ngân hàng
thương mại, và các tổ chức tài chính khác cần mở rộng hợp tác, học hỏi thêm nhiều
kinh nghiệm về trang bị hạ tầng kỹ thuật, công tác điều hành, quản lý thị trường quyền
chọn, cũng như kiến thức chuyên môn cho đội ngũ nhân lực về lĩnh vực này với các
ngân hàng, công ty chứng khoán lớn trong khu vực và thế giới trong quá trình tạo lập
và phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam.
Nói tóm lại , trên đây có thể xem như là một số giải pháp cơ bản và thiết yếu mà
các nhà cung cấp dịch vụ quyền chọn ngoại tệ có thể thực hiện để góp phần vào sự
phát triển thị trường quyền chọn phi tập trung ở Việt Nam. Tùy thuộc khả năng, chiến
lược kinh doanh riêng của mỗi ngân hàng thương mại mà họ có thể ưu tiên thực hiện
những giải pháp nào, chú trọng vào giải pháp nào hơn các giải pháp còn lại.
Trang 65
TỔNG KẾT CHƯƠNG 3
Với những thuận lợi, cơ hội cũng như những khó khăn, hạn chế, chúng ta cần đề ra
các mục tiêu, định hướng phát triển nhằm phát huy tối đa các tiềm năng, cơ hội từ
chính sách nhà nước và thị trường; cũng như khắc phục được những khó khăn, hạn chế
trong hiện tại và tương lai. Để đi đúng các mục tiêu, định hướng đề ra, các giải pháp
đề xuất, thực hiện cần cụ thể, thiết thực, phù hợp với các điều kiện ở Việt Nam và
đứng từ góc độ vĩ mô của các cơ quan nhà nước (về chính sách, pháp luật…) cũng như
góc độ vi mô từ các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ quyền chọn ngoại tệ và quyền
chọn cổ phiếu. Để thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, rất cần sự phối hợp đồng bộ
của các cơ quan chức năng và các chủ thể tham gia thị trường. Đặc biệt, cần có thời
gian để thực hiện theo lộ trình, khả năng ở từng giai đoạn, tránh tư tưởng gấp gáp, nôn
nóng, có thể dẫn đến những sai lầm thất bại, gây hậu quả nghiêm trọng cho thị trường
tài chính và nền kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp để thúc đẩy việc sử dụng công cụ quyền chọn để quản trị rủi ro tỷ giá ở các công ty xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.pdf