Thiết kế nhiều gói sản phẩm tín dụng đa dạng phù hợp với nhiều đối tượng người
tiêu dùng cũng như các loại hình doanh nghiệp và công bố thông tin công khai minh bạch
để các khách hàng có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn tín dụng một cách bình đẳng, cũng
như tạo niềm tin hơn đối với chính ngân hàng từ phía doanh nghiệp cũng như người tiêu
dùng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng thu hút được nhiều nguồn tiền gửi tiết kiệm với
chi phí rẻ hơn, đảm bảo đầu ra cạnh tranh và ổn định hơn.
Về chính sách lãi suất cho vay, ngân hàng cũng tăng cường đầu tư khoa học công
nghệ trong quá trình quản lý để giảm chi phí quản lý cũng như chi phí hoạt động của ngân
hàng. Từ đó, có nguồn vốn với lãi suất rẻ và ổn định hơn giúp đảm bảo dòng vốn đầu ra
được khơi thông.
Bên cạnh đó luôn đầu tư để nâng cao trình độ của tất cả cán bộ quản lý, cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định dự án đầu tư, quản lý rủi ro được tốt hơn. Từ đó sẽ tránh được
những tình trạng nợ xấu, tránh được sự sách nhiễu của nhân viên đối với bên có nhu cầu
vay vốn tín dụng.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng để ngăn chặn suy giảm kinh tế trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..................................... 17
3.3. Về phía ngân hàng ................................................................................................... 18
2.4. Về phía quản lý Nhà nước ....................................................................................... 18
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 1
1. Tổng quan tình hình kinh tế tài chính Việt Nam
Hoạt động kinh tế nước ta trong 6 tháng đầu năm 2013 diễn ra trong bối cảnh thế
giới tiếp tục chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, tài chính toàn cầu, nhất là khu vực đồng
euro. Một số nước đã phải điều chỉnh giảm tốc độ tăng trưởng của năm. Thị trường tiêu
thụ hàng hóa thu hẹp, nhu cầu tiêu dùng giảm sút. Ở trong nước, mặc dù một số cân đối vĩ
mô có cải thiện vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013, nhưng các hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Hàng tồn
kho còn cao, số doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể trong năm 2012 và đầu năm
2013 nhiều. Tình trạng nợ xấu chưa được giải quyết...
Tổng quan 6 tháng đầu năm
Tăng trưởng kinh tế chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm tăng
4,9%, nhưng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5%) so với cùng
kỳ năm 2012. Phân theo 3 khu vực, tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2,07%, thấp hơn mức tăng 2,81% của cùng kỳ năm 2012, con số tương tự của khu vực
công nghiệp và xây dựng là 5,19% và 5,15%; khu vực dịch vụ là 5,92% và 4,99%. Có được
tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm nay ở mức 4,9% chủ yếu do khu vực dịch vụ tăng cao
và sản xuất công nghiệp bước đầu phục hồi.
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến ngày 15-6-2013 ước tính đạt 324,4
nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% dự toán năm, trong đó, thu nội địa là 217,2 nghìn tỷ đồng, bằng
39,8%; thu từ dầu thô 50,3 nghìn tỷ đồng, bằng 50,8%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động
xuất, nhập khẩu 54,4 nghìn tỷ đồng, bằng 32,7%.
Tổng chi ngân sách nhà nước từ đầu năm đến ngày 15-6-2013 ước tính đạt 409,1
nghìn tỷ đồng, bằng 41,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 74,3 nghìn tỷ đồng,
bằng 42,4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 72 nghìn tỷ đồng, bằng 42,3%); chi phát
triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể
(bao gồm cả chi cải cách tiền lương) ước tính đạt 287,1 nghìn tỷ đồng, bằng 42,6%; chi trả
nợ và viện trợ 47,8 nghìn tỷ đồng, bằng 45,5%.
Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân
hàng thương mại đã giảm nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Tính đến cuối tháng
6, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 3,8% - 4% so với cuối năm 2012 và gấp hai lần mức
tăng cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, khơi thông dòng vốn bước đầu phát huy tác dụng. Huy động vốn của
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 2
các ngân hàng thương mại cũng tăng khá, tính đến ngày 20-5-2013 mức huy động tăng
5,8% so với thời điểm cuối năm 2012.
Các ngành sản xuất, kinh doanh đã có dấu hiệu phục hồi nhưng tốc độ còn chậm
Sản xuất công nghiệp đã bắt đầu có chuyển biến khi hàng tồn kho giảm dần. So với
cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) đã tăng dần qua từng tháng, trong
quý II-2013 tăng 6%, đạt mức khá cao so với mức tăng 4,5% trong quý I. Thể hiện rõ nét
nhất ở nhóm ngành công nghiệp chế biến và chế tạo, tăng từ mức 4,6% ở quý I lên 6,9%
trong quý II. Trong các ngành công nghiệp, sản xuất của một số ngành đạt chỉ số sản xuất
tăng cao trong 6 tháng qua là: sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết
bị) tăng 14,6%; giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 14,7%; đồ uống tăng 9,6%; hóa chất và
sản phẩm hóa chất tăng 11,5%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 10,3%. Một số
ngành có mức sản xuất tăng khá là: trang phục, sản xuất và phân phối điện, sản phẩm từ
khoáng phi kim loại. Nhưng, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hoặc giảm so với
cùng kỳ năm trước là: dệt, chế biến thực phẩm, sản xuất sản phẩm từ cao-su và plastic,
khai thác dầu thô và khí tự nhiên, thuốc, hóa dược và dược liệu...
Đáng chú ý, một số ngành đã có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: dệt tăng
5,4%; sản xuất da tăng 4,5%; chế biến thực phẩm tăng 3,1%; giấy và sản phẩm từ giấy
giảm 0,3%; xe có động cơ giảm 5,1%; sản phẩm thuốc lá giảm 41,1%.
Sản xuất nông nghiệp 6 tháng qua có nhiều khó khăn nên tốc độ tăng trưởng chậm.
Giá trị sản xuất toàn ngành đạt 349.218,59 tỷ đồng (tính theo giá cố định năm 2010), tăng
2,39% so cùng kỳ năm trước; trong đó nông nghiệp đạt 254.868,19 tỷ đồng, tăng 2,2%,
lâm nghiệp đạt 11.032,2 tỷ đồng, tăng 5,68 % và thủy sản đạt 83.318,2 tỷ đồng, tăng 2,53%.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng cả 3 lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đều có tốc độ tăng tương
đối ổn định, không có lĩnh vực nào bị giảm sút.
Sản xuất vụ đông xuân đạt kết quả khá. Sản lượng các cây trồng chính tăng nhẹ so
với vụ đông xuân năm 2012: Sản lượng lúa đạt hơn 20,26 triệu tấn, xấp xỉ so với cùng kỳ
năm trước, sản lượng ngô đạt 2.513,4 nghìn tấn, tăng 4,6%. Các cây trồng khác cũng đều
tăng khá.
Trong 6 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới đạt 66.100 ha, tăng 17,6% so cùng
kỳ năm trước.
Sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá. Tổng giá trị sản
xuất ngành đạt 83.318 tỷ đồng, tăng 2,5%. Sản lượng thủy sản đạt 2.737 nghìn tấn, tăng
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 3
1,5%, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 1.425 nghìn tấn, giảm nhẹ so cùng kỳ. Nét mới về
nuôi trồng thủy sản 6 tháng qua là mô hình nuôi thủy sản trên biển phát triển khá hơn so
với vùng nuôi nội địa, đạt 150 nghìn tấn thủy sản các loại, tăng 2,6% so cùng kỳ, với đối
tượng nuôi đa dạng, như: cá bớp, cá song, cá mú, cá hồng, cá chim, ốc hương, tu hài, ngọc
trai, rong sụn...
Sản lượng thủy sản khai thác đạt 1.312 nghìn tấn, tăng 3,6% so với cùng kỳ, trong
đó sản lượng khai thác ở biển đạt 1.226 nghìn tấn, tăng 3,8%.
Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp 6 tháng qua vẫn còn một số hạn chế. Tốc độ tăng
trưởng toàn ngành đạt thấp hơn cùng kỳ 3 năm gần đây. Sản xuất và tiêu thụ nông lâm thủy
sản chưa đạt mục tiêu ổn định và hiệu quả. Chăn nuôi gặp nhiều khó khăn về giống, thức
ăn, dịch bệnh, thị trường, giá cả nên các đàn gia súc, gia cầm đều giảm. Đàn trâu, bò của
cả nước giảm do diện tích chăn thả bị thu hẹp, hiệu quả chăn nuôi thấp. Tính đến ngày 15-
6-2013, cả nước có 2,6 triệu con trâu, giảm 2,54%; 5,1 triệu con bò, giảm 3,16%; đàn lợn
có khoảng 26,5 triệu con, giảm 0,52%; đàn gia cầm có 304,5 triệu con, giảm 2,01%.
Thương mại, dịch vụ, thị trường, giá cả. Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng mức
hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.275.414 tỷ đồng, tăng 11,9% so
với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 4,8%. Trong tổng mức hàng hóa bán
lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, kinh doanh thương nghiệp chiếm 77%, tăng 11,3%;
khách sạn nhà hàng chiếm 12%, tăng 14,5%; dịch vụ 10,2%, tăng 15,4% và du lịch tăng
5%.
Xuất, nhập khẩu vẫn tăng trưởng khá. Tính chung 6 tháng, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu cả nước đạt 126,763 tỷ USD, tăng 16,4% so cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch xuất
khẩu đạt 62,053 tỷ USD, tăng 16,1%, trong đó khu vực FDI đạt 41,14 tỷ USD, tăng 24,7%,
khu vực kinh tế trong nước đạt 20,913 tỷ USD, tăng 2,2%. Kim ngạch nhập khẩu đạt 63,456
tỷ USD, tăng 17,4%, trong đó khu vực FDI đạt 35,726 tỷ USD, tăng 27,8%, khu vực kinh
tế trong nước đạt 27,730 tỷ USD, tăng 6,3% so cùng kỳ năm 2012. Như vậy, 6 tháng đầu
năm, cả nước nhập siêu 1,403 tỷ USD, bằng 2,26% kim ngạch xuất khẩu 6 tháng. Nhập
siêu tăng trong mấy tháng trở lại đây là dấu hiệu tốt đối với nền kinh tế bởi các doanh
nghiệp bắt đầu nhập nguyên liệu phục vụ cho sản xuất.
Đánh giá tổng thể, hoạt động xuất, nhập khẩu của nước ta trong nửa đầu năm 2013
đã đạt quy mô cao hơn, nhập siêu được kiểm soát. Trong 2 khu vực kinh tế, thì khu vực
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 4
FDI vẫn có kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao hơn khu vực kinh
tế trong nước.
Về các mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng đạt kim ngạch cao trong 6 tháng gồm có:
điện thoại các loại và linh kiện, dệt may, điện tử, phụ tùng và linh kiện giày dép, gỗ và sản
phẩm gỗ, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác… Một số mặt hàng có giá trị xuất
khẩu giảm so cùng kỳ gồm: gạo, cà phê, cao-su, sắn và sản phẩm sắn.
Về mặt hàng nhập khẩu, trong 6 tháng đầu năm 2013, một số mặt hàng có kim ngạch
nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2012 là: điện tử, máy tính và linh kiện, máy móc, thiết
bị, dụng cụ phụ tùng, vải, sắt thép, chất dẻo, nguyên phụ liệu dệt may, giày, dép, thức ăn
gia súc, chất dẻo... Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm
trước là: xăng dầu, hóa chất, gỗ và sản phẩm gỗ, cao-su.
Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện sáu tháng đầu năm 2013 theo giá hiện
hành ước tính đạt 448,6 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước và bằng 29,6%
GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 166,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 37% tổng vốn và
tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 168,2 nghìn tỷ đồng, chiếm
37,5% và tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 114,3 nghìn tỷ đồng,
chiếm 25,5% và tăng 3,9%.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá hiện hành thực hiện sáu tháng đầu năm 2013
Nghìn tỷ
đồng
Cơ cấu
(%)
So với cùng kỳ
năm trước (%)
TỔNG SỐ 448,6 100,0 105,9
Khu vực Nhà nước 166,1 37,0 103,5
Khu vực ngoài Nhà nước 168,2 37,5 109,9
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 114,3 25,5 103,9
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khởi sắc. Tính chung trong 6 tháng, tổng vốn đầu
tư cấp mới và tăng thêm là 10,473 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2012. Trong
đó có 554 dự án được cấp mới, với tổng vốn đăng ký là 5,812 tỷ USD, tăng 3,7% và 217
lượt dự án đăng ký tăng vốn thêm vốn đầu tư là 4,66 tỷ USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ
năm 2012.
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 5
Trong 6 tháng đầu năm 2013 đã có 45 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại
Việt Nam. Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 3,992
tỷ USD, chiếm 38,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Xin-ga-po đứng vị trí thứ hai với
tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 3,41 tỷ USD, chiếm 32,6% tổng vốn đầu
tư; Liên bang Nga đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là
1,015 tỷ USD, chiếm 9,7% tổng vốn đầu tư.
Về hoạt động phát triển doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký mới đã bắt đầu tăng
trong 6 tháng đầu năm 2013, ước tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, một
số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã bắt đầu quay trở lại sản xuất (khoảng 9.300 doanh
nghiệp).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6-2013 tăng 2,4% so với tháng 12-2012 và tăng
6,69% so với cùng kỳ năm 2012.
Chỉ số giá vàng tháng 6-2013 giảm 4,11% so với tháng 5, giảm 15,1% so với tháng
12-2012, giảm 7,83% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô-la Mỹ tháng 6-2013 tăng
0,06% so với tháng 5, tăng 0,84% so với tháng 12-2012, tăng 0,68% so với cùng kỳ năm
2012.
2. Khủng hoảng tài chính 2008 và những tác động đến Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn biến hết sức phức tạp với sức công
phá nặng nề, là nổi ám ảnh đối với nền kinh tế của nhiều nước. Việc ngăn chặn sự tàn phá
khủng khiếp của cơn bão Tsunami tài chính này không còn nằm trong phạm vi khả năng
của một quốc gia mà trở thành trách nhiệm và sự nỗ lực chung của tất cả các nước, trước
hết là các nước có nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia, tùy theo đặc thù của
nền kinh tế như mức độ hội nhập và trình độ phát triển mà có thể có những giải pháp riêng.
Trong đó, các giải pháp liên quan đến hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán
(TTCK) – vốn là tâm điểm của cuộc khủng hoảng là rất quan trọng.
2.1. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính thế giới
2.1.1. Các yếu tố kinh tế
Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính thế giới là đề tài đang được tranh
cãi và mổ xẻ. Một trong những tác nhân chính gây nên tình trạng khủng hoảng hiện nay là
các ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính Mỹ thông qua hoạt động cho
vay dưới tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng khoán hoá mà nhiều chuyên gia gọi là “Cỗ máy
đầu tư cấu trúc” (Structured Investment Vehicle – SIV). Đây có thể được xem là mô hình
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 6
chứng khoán hoá bất động sản kiểu Mỹ được hình thành từ những năm 1980. Phương thức
kinh doanh của các SIV là huy động vốn ngắn hạn thông qua việc phát hành thương phiếu
(commercial paper) với lãi suất thấp để đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo
bằng tài sản (asset-backed securities), đa số trường hợp là bất động sản với lãi suất cao.
Mô hình và diễn biến của hoạt động chứng khoán hoá bất động sản có thể khái quát như
sau:
Vào đầu năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) đã liên tục hạ lãi suất cơ bản, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại cũng hạ lãi
suất cho vay tiền mua bất động sản. Còn nhớ, vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của
Fed là trên 6%/năm nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm để kích thích TTCK
và hoạt động đầu tư nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ
còn 1%/năm. Trong khi đó, Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ lại có chính sách khuyến khích và
tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn
được thực hiện thông qua hai công ty tài chính (CTTC) được bảo trợ bởi chính phủ là
Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng
cách mua lại các khoản cho vay của các NHTM cho người nghèo mà không cần chứng
minh thu nhập còn gọi là cho vay dưới chuẩn (subprime), biến chúng thành các loại chứng
từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities – MBS), rồi
bán lại cho các nhà đầu tư trên TTCK, chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức lớn như Bear
Stearns và Merrill Lynch. Khi đã chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản, hay
nói cách khác là đã hình thành một sự liên thông mật thiết với TTCK thì thị trường bất
động sản (TTBĐS) không còn là sân chơi duy nhất của các NHTM hoặc các công ty chuyên
cho vay thế chấp bất động sản nữa mà đã có sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư và đầu
cơ trên TTCK vốn có khả năng tài chính rất dồi dào. Về bản chất, MBS là một công cụ
phái sinh từ bất động sản nên việc phát hành, giao dịch và bảo hiểm MBS hết sức thông
thoáng và Chính phủ Mỹ dường như không thể kiểm soát nổi. Do có thể bán lại phần lớn
các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các NHTM đã trở nên mạo
hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Vòng xoáy của thị
trường đã đi quá xa, đặc biệt là “bong bóng” bất động sản bắt đầu “xì hơi” thì điều gì phải
đến đã đến…Theo Giáo sư Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo) và Phó Giáo sư Trần
Lê Anh (Đại học Lasell, Boston) thì, tính chất của công cụ đầu tư phái sinh MBS có thể
mô tả đơn giản như sau: Một công ty tài chính (Fannie Mae hay Lehman Brothers chẳng
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 7
hạn), bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các NHTM, tập trung chúng thành
từng loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư. Ví dụ, Fannie Mae
mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với giá gốc là 200.000 USD
cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay này sẽ là 200.000.000
USD. Fannie Mae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần
và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư mua 10 MBS thì sẽ trả 20.000 USD. Sau khi
mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến
hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung gian) trong một
khoản thời gian nhất định nào đó. Sau khi đáo hạn, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư nhận
được sẽ là trên 20.000 USD (tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng năm). Các
MBS dựa trên các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ đem lại lời nhiều
hơn cho các nhà đầu tư. Vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công
ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho
các nhà đầu tư MBS. Các sản phẩm bảo hiểm này được gọi là credit default swap (CDS),
với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền
mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Sự việc này
đã tạo nên một loạt chân rết mới, kéo thêm các thành phần khác tham gia cuộc chơi, bởi vì
bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất động sản đang phất lên và ít người vỡ nợ thì
rất có lời.
Như vậy, nhìn vào thực tế thì các NHTM đã huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài
hạn vào một lĩnh vực khá nhạy cảm là bất động sản, mặc dù để đảm bảo khả năng thu hồi
nợ họ đã bán các khoản cho vay này cho các tổ chức tài chính và đã để lại cho nền kinh tế,
thị trường tài chính rủi ro rất lớn. Đó là rủi ro vỡ nợ khi giá của các tài sản dài hạn là bất
động sản xuống thấp hơn giá trị của các khoản nợ ngắn hạn và rủi ro thanh khoản do việc
đi vay ngắn hạn nhưng lại cho vay dài hạn. Rủi ro này sẽ tăng lên gấp bội trong điều kiện
thiếu sự kiểm soát và giám sát của Chính phủ.
2.1.2. Yếu tố pháp lý
Chính vì huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn nhằm chạy theo lợi nhuận và
bỏ qua các yếu tố kiểm soát rủi ro mà đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tồi tệ
nhất trong lịch sử thế giới vào những năm 1929-1933 của thế kỷ trước. Nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng lần đó là không có sự tách bạch giữa hoạt động kinh doanh tiền tệ và
hoạt động kinh doanh chứng khoán của của các NHTM. Hay nói khác đi, việc không có sự
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 8
tách bạch giữa chức năng NHTM và ngân hàng đầu tư (NHĐT) trong cùng một ngân hàng
đã tạo ra kẽ hở nguy hiểm trong Luật ngân hàng Mỹ lúc bấy giờ . Lợi dụng kẽ hở này, các
NHTM sử sụng tiền huy động ngắn hạn để đầu tư vào chứng khoán. Khi TTCK phát triển
nóng đã mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các ngân hàng này và đẩy giá chứng khoán vượt
xa giá trị thực, tạo nguy cơ “bong bóng”. Khi “bong bóng” chứng khoán “xì hơi”, giá chứng
khoán “tuột dốc không phanh” các ngân hàng không bán được chứng khoán để thanh toán
các khoản vay đến hạn hoặc để đáp ứng nhu cầu rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền
thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã thực sự nổ ra. Bên cạnh đó, trước sự sụt giảm liên
tục của giá chứng khoán, giới đầu cơ giá xuống “Bear” đã chớp thời cơ thực hiện bán khống
bằng cách vay những cổ phiếu của các tập đoàn, ngân hàng lớn ồ ạt bán ra tạo nên áp lực
giảm giá không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá chứng khoán giảm đến một mức nào đó, giới
đầu cơ sẽ mua và trả lại nơi đã cho vay cộng thêm một ít phí, còn lại sẽ được hưởng.
Trong bối cảnh đó, để cứu nền kinh tế, Quốc hội Mỹ ban hành Đạo luật ngân hàng
(Glass-Steagal Act) năm 1933, sau khi Tổng thống Franklin Roosevelt nhậm chức. Đạo
luật này đã tách bạch rõ ràng giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của NHĐT. Theo
đó, NHTM chỉ được hoạt động trong lĩnh vực cho vay vào các hoạt động kinh doanh truyền
thống, ít rủi ro nhất trên cơ sở đảm bảo tài sản của người vay. NHTM trả lãi suất tiền gửi
là X% thì cho vay lại chỉ ở mức X + 2 (hoặc 3%) mà thôi để đảm bảo tính an toàn và giữ
vững niềm tin của người dân đã gửi tiền tiết kiệm. Các NHTM cũng bị cấm thực hiện bảo
lãnh phát hành chứng khoán công ty (trừ trái phiếu Chính phủ). Chỉ những công ty môi
giới và tự doanh chứng khoán, các NHĐT mới được thực hiện các dịch vụ liên quan đến
chứng khoán công ty. Điều kiện và chế độ cấp phép đối với hoạt động của các công ty môi
giới chứng khoán bị siết chặt. Trong khi đó, hoạt động của NHĐT là những hoạt động kinh
doanh với độ rủi ro cao nên các nhà đầu tư vào các ngân hàng này phải được biết như vậy
và phải chấp nhận rủi ro. Sự tách biệt giữa hoạt động NHTM và NHĐT là để làm rạch ròi
mức độ rủi ro, tránh sự mập mờ dễ gây ra sự ngộ nhận cho người dân khi gửi tiền tiết kiệm
vào ngân hàng. Sự tách biệt này cũng là để minh bạch hóa các hoạt động ngân hàng vì đó
là nền tảng của cả một hệ thống ngân hàng ổn định, tạo nên sức mạnh cho hệ thống tài
chính và kinh tế phát triển bền vững. Nhiều chuyên gia cho rằng, Đạo luật Glass-Steagal
đã giúp cho kinh tế, xã hội Mỹ phát triển mạnh trong suốt 50 năm và trở thành một mô
hình tài chính ngân hàng mẫu mực cho cả thế giới. Đặc biệt, Đạo luật trên là cơ sở pháp lý
quan trọng của quá trình chuyển đổi mô hình ngân hàng đa năng sang mô hình ngân hàng
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 9
chuyên doanh tại Mỹ. Điển hình là việc ngân hàng đa năng Morgan D.P phải tách ra thành
2 ngân hàng mới: ngân hàng thương mại Morgan Guarantee và ngân hàng đầu tư Morgan
Stanley. Đầu những năm 1980, Tổng thống Reagan chủ trương phát triển kinh tế thị trường
theo hướng tự do hoá, đồng thời cho phép các NHTM nhận tiền gửi tiết kiệm được mở
rộng các hoạt động cho vay vào TTBĐS. Hệ quả là chỉ vài năm sau đã dẫn đến cuôc khủng
hoảng ngân hàng đầu tiên và Chính phủ Mỹ phải tốn hơn 300 tỉ USD để cứu nguy. Đến
thời Tổng thống Clinton nắm quyền trong thập niên 1990, Ông đã thành công trong việc
thực thi các chính sách kinh tế, mang lại một thời kỳ phát triển khá ổn định của nước Mỹ.
Tuy nhiên, trước khi kết thúc nhiệm kỳ của mình, Tổng Thống Clinton dưới sự vận động
của giới tài phiệt đã ký đạo luật Gramm-Leach-Bliley thay thế Đạo Luật Glass-Steagal.
Theo đó, các NHTM lại được phép đầu tư vào các lĩnh vực bị cấm trước đây như chứng
khoán, bất động sản…
2.2. Những tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đến hệ thống ngân hàng và
thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1. Những tác động đến hệ thống ngân hàng
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát
từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng hoảng này sẽ không có tác
động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, bởi lẽ:
- Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống ngân
hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới chưa sâu. Các ngân
hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao
thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của các ngân
hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là không lớn nên có thể loại trừ khả năng xuất
hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
- Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các MBS của
Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công cụ này giảm giá. Mặt
khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá đơn giản, các sản phẩm và dịch
vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa có sự liên thông ở mức tinh vi giữa TTBĐS và TTCK
thông qua các công cụ phái sinh tương tự như MBS của Mỹ. Các ngân hàng Việt Nam đầu
tư vào bất động sản chủ yếu thông qua hình thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo bằng tài
sản hoặc bằng chính bất động sản hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây
chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là rất khó xảy ra.
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 10
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng
tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống
ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại.
- Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Theo Khoản 2, Điều 20 của Luật
các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung năm
2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác. Nhưng dưới gốc độ lập pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự
phân biệt rõ ràng về chức năng của từng loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản
pháp quy nào được ban hành để điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và NHĐT
– là những hoạt động kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã
tạo điều kiện cho các NHTM, các CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các
CTTC đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không
ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát
thời gian qua.
- Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc
biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên 80 ngân hàng thương
mại và trên 20 công ty tài chính. Phần lớn các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các
thành viên trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực
cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của
tập đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn
làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh
chính của tập đoàn, tổng công ty có biến động mạnh.Việc có quá nhiều ngân hàng (trong
đó, có khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến hai
nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả năng quản trị
ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
- Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao
cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Theo số liệu từ Ngân
hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản hiện nay
khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm 2007, tỷ
lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 11
khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm
tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động
sản trước đây lúc thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa
có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh
khỏi. Tại Đại hội đồng cổ đông bất thường của Ngân hàng Eximbank đã công bố nợ quá
hạn của ngân hàng này là 1.361 tỷ đồng, chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619
tỷ đồng và khoản nợ có khả năng bị mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank, nợ xấu
của ngân hàng này chủ yếu là các khoản cho vay bất động sản. Hiện nay, dư nợ cho vay
bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư nợ của ngân hàng.
- Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm ẩn,
mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của Chính
phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời gian ngắn
đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm
theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết
khấu giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu bắt buộc
phát hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động
thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm
tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho
vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản xuất chống lại
nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khi, lượng tiền mặt
trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể lãi suất cho vay tương đương
với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân
chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng của đợt lạm phát trong nước vừa qua và của cuộc
khủng khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường
các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức
mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng”
và TTCK liên tục tuột dốc thì rõ ràng đây thật sự là một bài toán khó.
2.2.2. Những tác động đến thị trường chứng khoán
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động
lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở của những kết
luận trên là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế và thị
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 12
trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách thấu đáo có thể thấy
rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác
động nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các
phương diện sau đây:
- Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc gia
vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên minh
Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị trường
trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận của
các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt giảm
lại khó có khả năng phục hồi.
- Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ phiếu,
trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước ngoài đã
liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng
đối với trái phiếu[9]. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ vào sự sụt
giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn
an” các nhà đầu tư là sẽ không có chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. Tôi cho rằng, ý kiến trên là không thuyết
phục. Vì xét về bản chất thì các quỹ đóng không mua lại chứng chỉ đã phát hành cho nhà
đầu tư nhưng họ hoàn toàn có thể thực hiện tái cấu trúc danh mục đầu tư của mình, trong
đó có việc bán chứng khoán ở thời điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị
trường này để đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại hối. Thực tế cho
thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã mất giá so với
đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng Việt Nam so với đồng USD
và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định
rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng
khoán để mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như họ dự
đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào chứng khoán.
- Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK Việt
Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc
biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt
Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua
không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 13
hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản
lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi
trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một
lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính
sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các
hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua bán
theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi khi các thông tin
về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công
bố đều nhận được phản ứng tức thời từ TTCK. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước
ngoài được xem là nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng
sẽ làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất
nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục
giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào
từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm.
Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền
kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các TTCK
Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương tự. Thời gian gần đây, diễn
biến của các chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường
trên. Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các
nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo
các “nhà đầu tư ngoài nước’’. Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực
của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài
chính có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên
thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy
luật đó.
- Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức khỏe”
nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán xuống
quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám mua do
vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị
trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về
tính thanh khoản.
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 14
- Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề khác mà trong phạm vi bài
viết này chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như các vấn đề về khung pháp lý,
vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị trường…
2.3. Giải pháp cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu nhưng Việt Nam ít nhiều cũng đã chịu sự tác động nhất định. Sự
tác động rõ nét nhất là đối với nền kinh tế với hai đầu tàu quan trọng là hệ thống ngân hàng
và TTCK. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân,
diễn biến, các giải pháp khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008 nhằm hình thành các giải pháp hoàn thiện việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô nói
chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng, TTCK nói riêng là hết sức hữu ích đối với
Việt Nam.
2.3.1. Đối với hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đứng trước ba vấn đề lớn là: mô hình và
cấu trúc của hệ thống ngân hàng, vấn đề kiểm soát rủi ro và tính thanh khoản. Để nâng cao
tính hiệu quả trong hoạt động ngân hàng đồng thời tránh được “vết xe đổ” của hệ thống
ngân hàng Mỹ thì chúng ta cần có những giải pháp kiên quyết và đồng bộ theo hướng cái
cấu trúc lại hệ thống ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng cường kiểm soát rủi ro và nâng cao
tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:
-Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng, bao gồm Luật
ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003) và Luật các tổ chức tín dụng
dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) và các văn bản dưới luật về ngân hàng. Hai
Luật này mặc dù đã góp phần rất lớn vào việc điều chỉnh hoạt động và sự phát triển của hệ
thống ngân hàng thời gian qua nhưng được ban hành và sửa đổi khi mức độ hội nhập kinh
tế và những thay đổi trong các quan hệ kinh tế thị trường ở Việt Nam diễn ra chưa mạnh
mẽ nay đã bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập nhất định. Các văn bản dưới luật thì được
ban hành khá tản mạn, không tập trung và bất cân xứng, chủ yếu điều chỉnh các hoạt động
của NHTM cổ phần mà chưa có sự quan tâm đúng mức về hoạt động của các tổ chức tín
dụng khác như hoạt động của NHĐT, NHTM Nhà nước, các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Vai trò và tính độc lập của NHNN được quy định trong hai Luật này không cao, chưa
đủ để có thể thực hiện chức quản lý và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 15
hoạt. NHNN “không có chức năng hoạch định mà chỉ là cơ quan chấp hành trong việc điều
hành chính sách tiền tệ’’.Các văn bản dưới luật thường được ban hành để xử lý vấn đề
mang tính chất vụ việc nhiều hơn là những vấn đề mang tính chất chiến lược. Việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng phải được tiến hành theo hướng nâng cao tính độc
lập và vai trò chủ động trong quản lý, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, mở rộng thẩm
quyền và tăng cường các công cụ kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh ngân hàng của
NHNN. Song song đó, cần có sự tách bạch rõ ràng giữa hoạt động của NHTM và NHĐT
đồng thời nâng cao điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động của NHTM cổ phần và các
CTTC. Các văn bản về ngân hàng phải đặt nền tảng pháp lý để tạo ra môi trường kinh
doanh ngân hàng minh bạch và nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh cổ phần
hoá các NHTM Nhà nước và hình thành cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc sáp nhập, hợp nhất
và phá sản ngân hàng.
-Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Trước hết, NHNN cần đẩy mạnh
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng và TCTD theo quy định Luật các tổ
chức tín dụng và Quyết định số 457/2005 ngày 19/4/2005 quy định cụ thể các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của TCTD và các văn bản khác. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây
dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực nhạy cảm như cho vay
kinh doanh, đầu tư chứng khoán, bất động sản…Về lâu dài, NHNN cần xây dựng hệ thống
quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel, rà soát
và xây dựng mới các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro… Về phía Chính phủ và Bộ Tài chính, cần quản lý và kiểm soát nguồn vốn Nhà nước
trong các CTTC Nhà nước, ngăn chặn tình trạng lạm dụng đầu tư tài chính bằng nguồn
Nhà nước của các tổ chức này như là một biện pháp loại trừ nguyên nhân lạm phát và góp
phần lành mạnh hoá thị trường tiền tệ. Về phía các NHTM, và các tổ chức tín dụng phải
nâng cao năng lực quản lý, điều hành, áp dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại
và tổ chức tốt hoạt động của bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại trụ sở chính và các
chi nhánh.
-Đẩy mạnh các giải pháp nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Theo quan
điểm của tôi, tính thanh khoản có vấn đề không những khi các ngân hàng gặp khó khăn về
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngay cả khi họ gặp khó khăn cho đầu ra của
nguồn vốn của mình. Sau khi các biện pháp thắt chặt tiền tệ của Chính phủ mang lại hiệu
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 16
quả, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác, mua lại 20,3 ngàn tỷ tín
phiếu bắt buộc thì hệ thống ngân hàng đang sở hữu một nguồn vốn khá lớn và lãi suất cho
vay đã giảm xuống 13%/năm (so với 21% ở thời điểm đỉnh cao) nhưng các doanh nghiệp
vẫn chưa mặn mà tiếp cận. Nguyên nhân được xác định là sức mua trong nước và thế giới
giảm do cuộc khủng hoảng tài chính và lạm phát vừa qua. Chính vì vậy mà Chính phủ đang
triển khai 5 giải pháp quan trọng để vực dậy nền kinh tế thông qua kích cầu tiêu dùng và
kích cầu vốn. Việc kích cầu vốn trở nên hết sức khó khăn khi TTBĐS và TTCK đang đóng
băng và tuột dốc liên tục. Do đó, trước mắt cần tập trung kích cầu vốn đối với doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu và kích cầu tiêu dùng. Để các giải pháp của Chính
phủ sớm phát huy tác dụng, cần nghiên cứu áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt theo hướng
thỏa thuận và dựa vào mức độ đánh giá rủi ro, hình thành các trung tâm bão lãnh tín dụng
và khuyến khích cơ chế cho vay tín chấp để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận
được nguồn vốn. Giải quyết được đầu ra cho nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng hiện nay
là điều kiện cần thiết để ngăn chặn nguy cơ giảm phát đang dần dần lộ diện.
2.3.2. Đối với thị trường chứng khoán
Một khi diễn biến của tình hình giao dịch trên TTCK đã thoát khỏi sự tác động của
các yếu tố nội tại mà đã chuyển sang phụ thuộc vào những yếu tố từ bên ngoài như các
thông tin về diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính hay sự tăng, giảm của các chỉ số
chứng khoán nước ngoài thì việc dự báo về tình hình thị trường cũng như đề xuất các giải
pháp là hết sức khó khăn. Tuy vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chúng ta cũng
thấy rằng trong thời gian sắp tới các nhà điều hành và hoạch định chính sách phát triển
TTCK Việt Nam sẽ có nhiều việc cần làm và tập trung vào các vấn đề sau đây:
-Tiếp tục thực thi chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đã được Chính phủ phê chuẩn,
trong đó việc liên thông, kết nối với thị trường các nước là cần thiết, tuy nhiên phải được
tiến hành cẩn trọng, có lộ trình để hạn chế đến mức thấp nhất “các cơn địa chấn” có thể
xảy ra như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đồng thời, tăng cường các hoạt
động kiểm tra, thanh tra và xử phạt đủ mạnh nhằm tạo ra môi trường kinh doanh chứng
khoán minh bạch, công bằng và đúng pháp luật.
-Xây dựng lộ trình hợp lý cho việc áp dụng các công cụ, sản phẩm mới cho thị trường như
bán khống và giao dịch ký quỹ, đặc biệt là các công cụ phái sinh. Các công cụ phái sinh
chỉ nên áp dụng khi đã hình thành một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh việc phát hành
và giao dịch các công cụ phức tạp này trên cơ sở nhận thức đầy đủ những yếu tố tích cực
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 17
và tiêu cực của nó sau khi trình độ quản lý, điều hành thị trường đã được nâng lên một
bước.
-Cần nghiên cứu và sớm triển khai các công cụ kích cầu trong đầu tư. Trước hết, Chính
phủ nên xem xét khả năng lùi thời gian thu thuế từ đầu tư chứng khoán vì nguồn thu từ đầu
tư chứng khoán không nhiều nhưng nó sẽ là nguồn động viên tinh thần giúp các thị trường
có thể cải thiện phần nào niêm tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, theo tín hiệu thị trường cần sớm đưa vào áp dụng các giải phải giúp hỗ trợ tính
thanh khoản và khuyến khích đầu tư như lệnh thị trường, cho phép nhà đầu tư được mở
nhiều tài khoản và được cùng mua, cùng bán một loại chứng khoán trong cùng một ngày
giao dịch, sớm đưa thị trường giao dịch các cổ phiếu chưa niêm yết đi vào hoạt động…
-Đẩy mạnh và kiên quyết đối với việc tách chức năng lưu ký tiền của nhà đầu tư từ công
ty chứng khoán sang ngân hàng để minh bạch hoá hoạt động của công ty chứng khoán, gây
dựng lòng tin của các nhà đầu tư. Thường xuyên kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh
doanh của công ty chứng khoán, đặc biệt là các hoạt động tiềm ẩn xung đột lợi ích cao
3. Giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng trong thời điểm hiện nay
3.1. Về phía người tiêu dùng
Người tiêu dùng, người lao động chính là người cuối cùng sử dụng sản phẩm hàng
hoá dịch vụ mà toàn xã hội tạo ra. Do đó, vai trò của người tiêu dùng sẽ giữ vai trò quyết
định trong việc khơi thông dòng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như việc tạo
sự tái đầu tư của Chính phủ, Ngân hàng và cộng đồng Doanh nghiệp.
Từ vai trò đó, người tiêu dùng sẽ tạo ra sức mua cho thị trường, tạo sự gia tăng mạnh
trong tổng cầu để từ đó làm đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ của toàn xã hội. Để đảm bảo tốt
nhất cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian hiện nay thì mỗi người dân cũng nên tạo cho
mình thói quen ưu tiên dùng hàng Việt, đáp lại lời kêu gọi toàn dân “Người Việt ưu tiên
dùng hàng Việt ” của Nhà nước. Đó cũng là thể hiện sự yêu nước và góp phần thúc đẩy
nền kinh tế nước ta đi lên trong thời gian tới đây.
3.2. Về phía doanh nghiệp
Là các đơn vị tích tụ tư bản để đáp ứng nhu cầu thị trường, thiết kế xây dựng mô
hình kinh doanh sao cho phù hợp với thị trường và thời đại để mang lại hiệu quả cao nhất
trong đầu tư. Doanh nghiệp với vai trò là tế bào của nền kinh tế, do đó mọi doanh nghiệp
phải tự tìm cho mình một hướng đi đúng đắn để luôn giữ cho doanh nghiệp được phát triển
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 18
ổn định, bền vững và góp phần ổn định nguồn cung không gây xáo trộn thị trường hàng
hoá, thị trường lao động cũng như thị trường vốn.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng tạo cho chính doanh nghiệp mình một nền văn hoá
doanh nghiệp hiện đại, tiến bộ, tạo ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ có chất lượng cao,
bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm, hoạt động có trách nhiệm hơn với cộng
đồng xã hội. Từ đó, là tiền đề để người dân có niềm tin vào tiêu dùng sản phẩm hàng hoá
dịch vụ trong nước. Doanh nghiệp cũng đầu tư học hỏi trình độ quản lý cao cấp từ các nước
có nền kinh tế tiên tiến, xây dựng công nghệ hiện đại, đầu tư nguồn nhân lực để đảm bảo
cho sự phát triển lâu dài giúp người lao động có thu nhập ổn định, từ đó mà có sự yên tâm
và mạnh dạn hơn trong tiêu dùng, giúp giảm hàng hoá tồn kho thúc đẩy kinh tế đi lên
3.3. Về phía ngân hàng
Thiết kế nhiều gói sản phẩm tín dụng đa dạng phù hợp với nhiều đối tượng người
tiêu dùng cũng như các loại hình doanh nghiệp và công bố thông tin công khai minh bạch
để các khách hàng có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn tín dụng một cách bình đẳng, cũng
như tạo niềm tin hơn đối với chính ngân hàng từ phía doanh nghiệp cũng như người tiêu
dùng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng thu hút được nhiều nguồn tiền gửi tiết kiệm với
chi phí rẻ hơn, đảm bảo đầu ra cạnh tranh và ổn định hơn.
Về chính sách lãi suất cho vay, ngân hàng cũng tăng cường đầu tư khoa học công
nghệ trong quá trình quản lý để giảm chi phí quản lý cũng như chi phí hoạt động của ngân
hàng. Từ đó, có nguồn vốn với lãi suất rẻ và ổn định hơn giúp đảm bảo dòng vốn đầu ra
được khơi thông.
Bên cạnh đó luôn đầu tư để nâng cao trình độ của tất cả cán bộ quản lý, cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định dự án đầu tư, quản lý rủi ro được tốt hơn. Từ đó sẽ tránh được
những tình trạng nợ xấu, tránh được sự sách nhiễu của nhân viên đối với bên có nhu cầu
vay vốn tín dụng.
2.4. Về phía quản lý Nhà nước
Tạo lập môi trường vĩ mô ổn định, phát triển bền vững, duy trì chỉ số lạm phát ổn
định ở mức vừa phải. Tập trung nghiên cứu để ban hành chính sách kịp thời và bền vững;
bên cạnh đó tăng cường thanh tra, kiểm tra việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, chính
sách của các bên tham gia thị trường để đảm bảo sự công bằng, minh bạch cho thị trường;
tạo tiền đề cho tính thanh khoản của dòng vốn, duy trì nền kinh tế phát triển ở mức độ vừa
phải, bảo đảm việc làm cho lực lượng lao động. Đó là cơ sở để ổn định xã hội, tạo sức cầu
Tiểu luận thị trường tài chính GVHD: TS. Trần Thị Mộng Tuyết
Nhóm 6 Trang 19
cho thị trường, phát triển kinh tế và giải quyết được vấn đề ứ đọng vốn tại ngân hàng trong
thời gian hiện nay.
Tóm lại, để giải quyết vấn đề kinh tế lớn của đất nước ta hiện nay trong đó có cả
việc đảm bảo tăng trưởng tín dụng ở mức 12% trong năm nay thì đòi hỏi toàn xã hội có
một quyết tâm lớn. Các bên tham gia đều phải chung tay góp sức, phối hợp đồng bộ như
các giải pháp được kiến nghị ở trên; song song với việc giải quyết nợ xấu tín dụng cũ nằm
trong bất động sản thì toàn bộ nền kinh tế mới có hướng đi tốt cho vấn đề hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_6_tttc_0272.pdf