MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
1. Khái niệm cạnh tranh
2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
2.1 - Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
2.2 Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
2.3 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
3.Sản phẩm và các cấp độ của sản phẩm
3.1. Sản phẩm
3.2Các cấp độ của sản phẩm
3.3.Quyết định về loại sản phẩm
3.4. Quyết định nhãn hiệu
3.5. Quyết định về bao bì và cách gắn nhãn hiệu
3.6. Thiết kế và marketing sản phẩm mới
3.7.Chu kỳ sống của sản phẩm
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
1. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới
2.1. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê
2.1.1.Thị trường sản phẩm cà phê
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu
2.2.Các nhân tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam
2.2.1. Về chủng loại, chất lượng sản phẩm
2.2.2. Về nguồn nguyên liệu
2.2.3. Về chính sách giá
2.2.4. Về công nghệ
2.2.5. Về trình độ trồng và sơ chế cà phê
2.2.6. Về lao động
3.Đánh giá năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
3.1.Thành tựu
3.2.Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam
3.2.1. Thiếu vốn
3.2.2. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý
3.2.3. Chất lượng cà phê chưa cao
3.2.4. Về công nghệ chế biến
3.2.5.Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao
3.2.6. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu
3.2.7. Chưa trú trọng đến thị trường nội địa
CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
1. Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam đến 2015 và định hướng 2020
2. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam
2.1. Tạo nguồn vốn đầu tư
2.2. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
2.3. Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê
2.4. Đổi mới công nghệ chế biến
2.5. Xây dựng hệ thống thu mua phân phối cà phê
2.6. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin
2.7. Mở rộng thị trường nội địa và tăng cường hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
59 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4766 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu:
Theo số liệu thống kê, trong tháng 10/2009, cả nước xuất khẩu được 54,2 nghìn tấn cà phê với trị giá 78 triệu USD, tăng 12% về lượng và tăng 11% về trị giá so với tháng 9/2009; tăng 52% về lượng và tăng 28,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008.
Như vậy, tính đến hết tháng 10/2009 cà phê của nước ta xuất khẩu đạt 942 nghìn tấn với kim ngạch 1,39 tỷ USD, tăng 17,4% về lượng nhưng vẫn giảm 17,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008.
2.2.Các nhân tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam.
2.2.1. Về chủng loại, chất lượng sản phẩm.
Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê. Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 6-800 m) phù hợp với cà phê chè .
Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè, trong đó, diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng. Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn, nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.
Tuy nhiên, chất lượng của cà phê vối Việt Nam chưa cao do yếu kém về khâu thu hái (hái lẫn quả xanh đỏ), công nghệ chế biến lạc hậu (chủ yếu là chế biến khô, tự phơi sấy trong khi thời tiết ẩm ướt nên xuất hiện nhiều nấm mốc, hạt đen, cà phê mất mùi, lẫn tạp chất, chất lượng giảm sút). Có khoảng 65% cà phê Việt Nam thuộc loại II, với 5% hạt đen và vỡ và độ ẩm 13%
Có tới 90% diện tích trồng cà phê Việt Nam cần tưới nước, vì vậy diễn biến lượng mưa và hệ thống thuỷ lợi đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất cà phê. Mặc dù phụ thuộc nhiều vào nước tưới nhưng hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất cà phê chưa được đầu tư nhiều. Phần lớn hộ sản xuất cà phê nhỏ ở Đắk Lắk sử dụng hệ thống giếng khoan để lấy nước chăm sóc cà phê.
2.2.2. Về nguồn nguyên liệu.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1857 và được trồng ở Việt Nam từ năm 1888. Người Pháp đã mang cây cà phê Arabica từ đảo Bourbon sang trồng ở phía Bắc Việt Nam sau đó mở rộng sang các vùng khác. Khi đó, hầu hết cà phê được xuất khẩu sang Pháp dưới thương hiệu "Arabica du Tonkin".
Đầu thế kỷ 20, cây cà phê được trồng ở một số đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở Tây Nguyên với diện tích không quá vài nghìn ha. Năm 1930, Việt Nam có khoảng 7000 ha cà phê. Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới hơn 20000 ha. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng diện tích cà phê Việt Nam chỉ còn khoảng 19.000 ha.
Nhờ vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước Liên Xô (cũ), CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Ba Lan, cây cà phê bắt đầu được chú trọng đầu tư, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, Việt Nam xuất khẩu khoảng 6000 tấn cà phê với diện tích khoảng 23 nghìn ha. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002).
Trong thời kỳ từ 1982 đến 1988, cà phê được trồng mới thêm khoảng vài chục nghìn ha. Đến năm 1990, Việt Nam có khoảng 119300 ha. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1994, giá cà phê thế giới ở mức rất thấp và diện tích cà phê Việt Nam không thay đổi nhiều, mỗi năm tăng khoảng 10 nghìn ha. Năm 1994, tổng diện tích cà phê Việt Nam đạt 150.000 ha, vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của Việt Nam (ICARD & Oxfarm, 2002).
Trong thập kỷ 90, Việt Nam thực hiện ba chính sách quan trọng là (i) tín dụng ưu đãi, trợ giá đầu vào và chi phí đất thấp, (ii) tự do hoá thị trường đầu vào nông nghiệp và (iii) tập trung thâm canh cà phê (Ngân hàng thế giới, 2004). Bên cạnh đó, năm 1994, khi sương muối ở Brazil phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nước này đã làm cung thế giới giảm mạnh, giá thế giới tăng đột biến. Nhu cầu cà phê Robusta tăng mạnh trong thời kỳ này nhờ những tiến bộ khoa học trong chế biến cà phê thế giới. Tất cả những yếu tố này đã khuyến khích người trồng cà phê Việt Nam mở rộng diện tích trồng và tăng thâm canh cà phê. Diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn, bình quân 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tăng trưởng cà phê Việt Nam những năm đầu thập niên 90 chủ yếu dựa trên tăng diện tích. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn 1994 - 2002, năng suất đóng góp khoảng 38% tốc độ tăng sản lượng và diện tích đóng góp khoảng 62%.
Đầu thế kỷ XXI, diện tích trồng cà phê có xu hướng giảm dần do giá cà phê trên thị trường thế giới giảm, ở một số vùng, nông dân chặt cà phê do nợ nhiều, không có khả năng đầu tư nhiều cho sản xuất. Mặt khác, chính phủ cũng khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ở những khu vực có điều kiện không thuận lợi. Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong vòng 5 năm (2000 đến 2005), diện tích trồng cà phê của Việt Nam đã giảm khoảng 70 nghìn ha và dự kiến sẽ còn tiếp tục giảm ở những khu vực có điều kiện không thuận lợi. Song song với xu hướng giảm diện tích, sản lượng cà phê trong 5 năm này cũng giảm khoảng 35 nghìn tấn.
Sản xuất cà phê Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2.2.3. Về chính sách giá.
Chi phí sản xuất khác nhau giữa các vùng miền và tuỳ thuộc vào phương thức sản xuất. Ở các hộ nông dân, trình độ cơ giới hoá rất thấp trong các khâu sản xuất, chủ yếu sử dụng lao động chân tay hoặc chế biến bằng phơi sấy ngoài trời. Ở các nông trại quốc doanh (thuộc doanh nghiệp nhà nước), trình độ cơ giới hoá cao hơn, có hệ thống tưới tiêu cho các vườn cà phê và có hệ thống chế biến bằng máy, mặc dù mới chỉ ở mức đơn giản.
Về cà phê vối, các nông trại quốc doanh có chi phí sản xuất cao nhất, thậm chí lên tới 1000 USD/tấn. Chi phí sản xuất của các hộ là khoảng 300-600 USD/tấn (không bao gồm chi phí xây dựng ban đầu) (Ngân hàng thế giới, 2004). Theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược PT NN-NT, chi phí sản xuất trung bình năm 2004 của các hộ nông dân Đắk Lắk là khoảng hơn 8,3 triệu đồng/tấn, chủ yếu là chi phí phân bón (chiếm 38%) và nước tưới (chiếm 30%). Chi phí lao động thu hoạch cà phê chiếm khoảng 15% tổng chi phí sản xuất. Chi phí này khá cao so với giá bán ra (giá trung bình năm 2004 là 8,5 triệu đồng/tấn), khiến cho lợi nhuận của nông dân trong giai đoạn này rất thấp.
Phương thức sản xuất của cà phê Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào việc tăng các yếu tố đầu vào để tăng năng suất. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược PT NN-NT, lượng nước tưới và phân bón của các hộ sản xuất cà phê ở Đắk Lắk đều nhiều hơn mức cần thiết. Đối với biện pháp tưới gốc, lượng nước vượt mức cần thiết là khoảng 315 lít/cây và biện pháp tưới phun là 153 lít/cây. Theo khuyến nghị của các chuyên gia, cần tránh tưới quá nhiều nước. Hệ rễ cây cà phê ăn sâu lòng đất khoảng 0-30 cm và độ trùm của rễ biến động trong khoảng 0-50 cm. Nếu tưới quá nhiều nước, tầng đất chứa rễ cà phê sẽ bị bão hoà, thừa nước, khiến cho rễ sẽ cắm sâu hơn nữa theo chiều của trọng lực, kéo theo vi chất dinh dưỡng của tầng đất phía trên. Ngoài ra, các hộ gia đình Đắk Lăk tưới nước và bón phân cùng một lúc trong những tháng khô hạn, khiến cho rất nhiều loại phân như Urea, sulfat đạm và KCl dễ bị hoà tan, làm giảm khả năng thẩm thấu của đất, hệ rễ khó hấp thu nước, đặc biệt là trong những mùa hạn hán kéo dài.
Về phân bón, dư lượng phân bón tại vùng điều tra khá lớn với mức dư của lân lớn nhất là 49 kg/tấn quả khô, mức dư của đạm là 39 kg/tấn quả, mức dư của kali là thấp nhất, 0,5 kg/tấn quả khô. Mức dư lượng này sẽ gây tổn hại tới môi trường, đặc biệt là hệ thống nước ngầm bao gồm cả nước cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt hàng ngày.
Đối với cà phê chè, giá thành sản xuất cao hơn chút ít so với cà phê vối, do lượng lao động cần thêm để thu hoạch cà phê. Theo ước tính của VICÒA, giá thành sản xuất của cà phê chè tại các nông hộ là khoảng 506 USD/tấn và nông trại quốc doanh là 704 USD/tấn (không tính chi phí ban đầu và chi phí tài chính).
2.2.4. Về công nghệ.
Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960-1962 do CHDC Đức chế tạo. Ở phía nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây chuyền sản xuất sao chép theo mẫu của Hang-xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghiệp ở Thủ Đức-TpHCM. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trưòng đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại vấn đề công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt chẽ hơn.
2.2.5. Về trình độ trồng và sơ chế cà phê
Trước thời kỳ khủng hoảng giá, loại công nghệ chính là chế biến khô. Hầu hết nông dân đều tự phơi khô ngoài trời, sau đó bán lại cho người thu mua. Trình độ cơ giới hoá trong các hộ nông dân là rất thấp, rất ít người nông dân có thể sấy khô cà phê bằng máy.
Sau khi sấy khô cà phê hoặc tách vỏ, các trạm thu mua sẽ phân loại cơ bản thành loại 1 và loại hai . Sau đó, các nhà máy chế biến sẽ đánh bóng lại và phân loại theo kích cỡ, trọng lượng và mầu sắc khác nhau thành các loại R1, R2 và R3 với tỷ lệ chế biến bình quân lần lượt là R2 (50,7%), tiếp theo là R1 (44,5%) và R3 (4,8%). Các sản phẩm này được gọi chung là cà phê nhân xô. Một phần nhỏ sản lượng cà phê nhân xô (từ 3 đến 6%) được các doanh nghiệp chế biến tư nhân chế biến thành cà phê bột bán tại thị trường trong nước. Chi phí chế biến một tấn sản phẩm cà phê nhân xô theo phương pháp khô là khoảng 148.200đ. Một số doanh nghiệp thậm chí vẫn sử dụng các loại công nghệ chế biến từ thời Pháp, trên thực tế chỉ là tái chế và phân loại lại. Tuy nhiên, cũng đã có một số công ty bắt đầu áp dụng các loại công nghệ chế biến cao hơn thông qua nhập khẩu từ nước ngoài. Song số lượng chưa nhiều và việc vận dụng công nghệ để đạt được các sản phẩm chất lượng cao hơn chưa thực sự được chú trọng do giá cà phê cao.
Trong thời kỳ khủng hoảng giá, phương thức chế biến của hộ nông dân (phần lớn là hộ nông dân nhỏ) vẫn chủ yếu là phơi khô. Trong khi đó, các công ty trong nước bắt đầu chú trọng hơn tới việc sử dụng nhiều hơn công nghệ chế biến ướt, nhập khẩu các thiết bị công nghệ mới, cho phép phân loại nhiều cấp độ sản phẩm hơn, mầu sắc và mùi vị tốt hơn, sử dụng nhiều hơn công nghệ chế biến ướt. Theo đánh giá của phần lớn các doanh nghiệp, chi phí chế biến cà phê của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trên thế giới do lợi thế về giá lao động và nguyên liệu.
Hiện nay, khâu chế biến cà phê gặp phải một số khó khăn chính sau. Thứ nhất, việc nhập khẩu các thiết bị chế biến từ nước ngoài có công suất cao và sản phẩm tốt nhưng giá bán cao, đòi hỏi thời gian khấu hao lâu. Thứ hai, các máy móc sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường mặc dù giá rẻ chỉ bằng 1/5 đến 1/3 giá nhập ngoại, tốn nước, khó xử lý sau khi chế biến và nhiều khâu đòi hỏi lao động thay thế. Thứ 3, hầu hết người trồng cà phê, đại lý và doanh nghiệp đều ít nhiều tham gia chế biến sản phẩm bằng nhiều loại công nghệ khác nhau, khiến cho sản phẩm cà phê sau thu hoạch không đồng đều, chất lượng không cao và giá khó có thể phản ánh đúng hàm lượng chế biến của sản phẩm. Trong khí đó, ở nhiều nước khác như Indonesia, khâu chế biến chỉ tập trung ở các doanh nghiệp lớn.
2.2.6. Về lao động.
Quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh hại v.v… và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300 – 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm tới trên 50%. Trước đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường có hàng ngàn lao động từ các tỉnh ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu long đến vùng Tây nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt đầu từ một hai năm trở lại đây số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch cà phê đã giảm đi rõ rệt. Do mang tính chất thời vụ rất khắt khe, trong khoảng thời gian thu hái rất ngắn chỉ khoảng 2 tháng đòi hỏi số công lao động rất lớn chiếm trên 50% số công trong năm đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động càng trở nên trầm trọng, từ đó đẩy giá ngày công lên cao. Trước sức ép về thiếu hụt lao động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm chi phí công thu hái người nông dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn một đến 2 lần dẫn đến chất lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu hụt điều kiện phơi xấy.
Quá trình công nghiệp hóa không những không thu hút được lực lượng lao động đến từ các vùng khác mà ngay cả một bộ phận lực lượng lao động thanh niên trẻ, khỏe từ các vùng trồng cà phê về các thành phố, khu công nghiệp làm cho lực lượng lao động trong ngành cà phê ngày càng thiếu hụt trầm trọng. Như vậy có thể thấy trước rằng trong những năm tới việc thiếu hụt lao động sẽ là một áp lực nặng nề cho người trồng cà phê và chi phí công lao động sẽ ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất. Lợi thế cạnh tranh về giá ngày công lao động rẻ trong ngành cà phê Việt nam so với các nước khác sẽ không còn.
3.Đánh giá năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
3.1.Thành tựu:
Kể từ ngày 07/11/2006 Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến nay đã gần được 2 năm. Việc trở thành thành viên của WTO đã mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội lớn và cả những thách thức lớn. Ngành cà phê Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhân dịp này cùng nhau nhìn lại những vấn đề đặt ra sau 2 năm gia nhập WTO và từ đó xác định phương hướng phấn đấu cho toàn ngành trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa to lớn. Ngành cà phê Việt Nam trong một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong một phần tư thế kỷ, kể từ sau năm 1975 đã có những bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác trên thế giới. Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã có diện tích khoảng 500.000 ha với lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khoảng 850.000 tấn. Cà phê Việt Nam được bán sang trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trên các châu lục.
Nhìn lại tình hình ngành cà phê Việt Nam những năm qua chúng ta thấy rõ sự phát triển đạt tốc độ rất cao đáng ca ngợi, tự hào.
Như trên đã nêu, ngành cà phê Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong vòng 30 năm lại đây về mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất và tăng khối lượng cà phê xuất khẩu. Đến nay cà phê đã trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ và chiếm 1 tỷ trọng khá lớn trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu của cả nước. Cây cà phê đã góp phần khai thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân.
3.2.Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam.
3.2.1. Thiếu vốn
Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng, sự bất cập trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng cà phê. Cho dù có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh doanh cà phê thì khả năng tài chính vẫn chưa đủ mạnh để có thể trang bị máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất. Thế nên, vốn đầu tư luôn là vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng rất lớn. Việc tìm giải pháp hỗ trợ vốn là rất quan trọng cho ngành cà phê ở các tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung. Tuy nhiên, thực hiện được các giải pháp hỗ trợ vốn không phải là công việc dễ dàng. Đây vẫn là vấn đề bất cập đòi hỏi cần có giải pháp hợp lý. Trước tình hình mất giá của cà phê trong một thời gian dài, hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê ( ACPC ) yêu cầu các nước thành viên giữ lại 20% lượng cà phê xuất khẩu ở mỗi nước nhằm cân bằng cán cân cung cầu, kích cho giá cà phê quốc tế tăng lên. Để bù lỗ cho người sản xuất và kinh doanh cà phê, nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê là Brazil bỏ ra 100 triệu USD, Colombia cũng chi tới 60 triệu USD. Việt Nam cũng có chủ trương ủng hộ quyết định của ACPC và đang tìm giải pháp hỗ trợ cho người trồng cà phê trong nước như khoanh nợ cho người nông dân, lập các dự án cho nông dân vay phân bón với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, những chương trình hỗ trợ đó ít thu được kết quả khả quan. Người trồng cà phê cho biết, các dự án cho nông dân vay phân bón với giá ưu đãi với điều kiện phải trả trước một khoản tiền, người nghèo nếu muốn vay cũng khó có tiền ứng trước nên đành chịu. Hơn nữa, các chương trình hỗ trợ này thường do cán bộ địa phương điều hành việc phân phối và thu nợ nên họ cũng có tâm lý “ ngại “ những hộ nghèo vì sợ sau này họ không trả được tiền phân bón. Thế nên khó khăn thì vẫn trồng chất, người nông dân nghèo vẫn là người chịu thiệt nhất khi thị trường cà phê khủng hoảng. Đảm bảo sự công bằng hợp lý trong hỗ trợ, đầu tư vốn cũng là vấn đề cần bàn tới.
Tuy nhiên, giải quyết được vấn đề cho vay thì vấn đề trả nợ lại là chuyện cũng cần phải xem xét. Trường hợp vay vốn đối với cà phê Đăk Lăk là một ví dụ.Thực hiện chủ trương của Nhà nước giúp các doanh nghiệp, người trồng kinh doanh, xuất khẩu cà phê vượt qua giai đoạn khó khăn, niên vụ cà phê 2002-2003, các chi nhánh ngân hàng thương mại đã cho vay đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk là 3073 tỷ đồng, tăng 66.3% so với niên vụ trước và đạt tổng doanh số cho vay là 2866 tỷ đồng, tăng 71%. Doanh số cho vay và thu nợ trên chủ yếu được thực hiện ở lĩnh vực thu mua xuất khẩu cà phê ( chiếm 82.4% doanh số cho vay và 79.7% doanh số thu nợ; phần còn lại là khoản cho vay chăm sóc cà phê kinh doanh.
Niên vụ cà phê 2002-2003, giá cà phê vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu, nếu so sánh giữa chi phí sản xuất và giá xuất khẩu thì người sản xuất, kinh doanh cà phê vẫn lỗ; thực hiện Chỉ thị 06/2001/CT-NHNH của Thống đốc NHNN Việt nam, các ngân hàng đã tiếp tục cho vay để người dân và doanh nghiệp trong tỉnh có điều kiện chăm sóc duy trì vườn cà phê. Ở lĩnh vực thu mua, xuất khẩu, các ngân hàng đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP của Chính phủ về việc miễn lãi vay ngân hàng cho các hộ nông dân ở các tỉnh Tây Nguyên vay vốn chăm sóc cà phê niên vụ 2001-2002; đầu niên vụ 2002-2003, các chi nhánh ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân thực hiện lập hồ sơ và tiến hành các thủ tục để miễn lãi đối với các hộ chưa trả lãi cho ngân hàng và hoàn lãi đối với 97 nghìn hộ đã trả lãi cho ngân hàng ( trong đó đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ) với tổng số tiền đến hơn 92 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện chủ trương khoanh nợ cho người trồng, chăm sóc, thu mua và chế biến cà phê, các ngân hàng vẫn còn gặp một số khó khăn sau: thứ nhất, theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk và công văn chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Đăk Lăk, các ngân hàng đã có kế hoạch và biện pháp thu hồi nợ khoanh trước thời hạn đối với người vay tự nguyện trả nợ, điều này sẽ giúp làm giảm gánh nặng trả nợ cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất khi hết thời hạn khoanh nợ, nhưng nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất chưa thấy hết ý nghĩa của vấn đề này nên khi có tiền vẫn không trả cho ngân hàng mà sử dụng vào việc khác, trong khi đó ngân hàng không đủ nguồn vốn cần thiết để tiếp tục cho những doanh nghiệp và hộ sản xuất khác vay. Thứ hai, đến nay các ngân hàng thực hiện chủ trương miễn và hoàn lãi cho các hộ nông dân trong việc vay chăm sóc cà phê niên vụ trước vẫn chưa nhận được số tiền cấp bù từ Chính phủ. Thứ ba, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh cà phê đã vay vốn ngân hàng hiện nay đều có tình hình tài chính rất xấu, tuy giá cà phê có phần được cải thiện, nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục thua lỗ, trong khi thời hạn trả nợ được khoanh đã gần kề ( 01/8/2004 ) nên tình hình thu hồi nợ của các ngân hàng chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn. Thứ tư , tình trạng chây ỳ không trả nợ, chỉ trông vào các chính sách của Nhà nước trong một số khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thu hồi nợ của các ngân hàng. Thứ năm, một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê của Nhà nước thuộc diện giải thể, phá sản theo Quyết định 261/QĐ-TTg đang còn dư nợ vay tại các ngân hàng rất lớn, trong khi cân đối giữa các khoản phải trả( chủ yếu là những khoản vay ngân hàng không có tài sản bảo đảm ) với trị giá tài sản còn lại và các khoản được thu của các doanh nghiệp có sự chênh lệch rất lớn, do đó nguy cơ rủi ro mất vốn của các ngân hàng thương mại là khó tránh khỏi nếu không có các biện pháp thu hồi.
Từ những thực tế trên, có thể thấy vấn đề nguồn vốn đầu tư cho ngành cà phê còn rất nhiều bất cập, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết hợp lí, kịp thời, sớm giúp ngành khắc phục khó khăn, đẩy mạnh cạnh tranh quốc tế.
3.2.2. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý.
Cơ cấu cây trồng không hợp lí, tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị trường xuất khẩu ổn định như Brazil,Achentina, Indonesia...Chưa quan tâm đến mở rộng diện tích cà phê Arabica, loại cà phê có khả năng cạnh tranh mạnh hơn, được thị trường ưa chuộng hơn, giá lại cao và có tiềm năng phát triển lớn. Những năm gần đây tuy có một số doanh nghiệp có quan tâm chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích cà phê Arabica, nhưng giải pháp chưa đồng bộ nên kết quả thấp.
3.2.3. Chất lượng cà phê chưa cao.
Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và khí hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh:“ Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược lại.”Cà phê loại I chiếm từ 16-18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là loại thấp hơn...Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn giá cà phê cùng loại của Indonesia khoảng 90USD/ tấn, giá cà phê Robusta I ( trên sàng 16 ) thấp hơn giá cà phê Uganda ( trên sàng 15 ) đến 200 USD/ tấn. Các chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ NN và PTNT đánh giá, tình trạng giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố.
Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp ( 22.4% tổng diện tích ). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây.Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao ( thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8% ).
3.2.4. Về công nghệ chế biến.
Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến ( khoảng 80% sản lượng ). Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình ( 80% sản lượng cà phê ). Vì thế, tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả nước mới có 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại ( một của Anh và 3 của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với tổng công suất 100000 tấn nhân/ năm ( công suất mỗi dây chuyền từ 1-4 tấn/ giờ ). Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà phê vối ( Robusta ) trồng ở nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35% rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém. Song trên thực tế, chất lượng cà phê nhân suất khẩu của Việt Nam lại không thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các nguyên nhân trên, chất lượng cà phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng.
3.2.5.Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở các hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn.
Một dẫn chứng thực tế là niên vụ 2004-2005. Khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2005, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu được lượng cà phê bằng 255.3% so cùng kỳ năm 2004, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 131.6%, chủ yếu do giá xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và liên tục từ đầu năm 2005, tính ra giá xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2005 chỉ bằng 51.6% so với mức giá bình quân cùng kỳ năm 2004( 709.8/1376 USD/tấn ). Cụ thể là ( FOB Việt Nam ): tháng 1/2005 đạt mức 850-900 USD/ tấn; đến tháng 3/2005 xuống còn 700-750 USD/ tấn; trong khoảng cuối quý 2/2005 giá đứng ở mức 700-720 USD/ tấn, nhưng sang đầu quý 3 giảm xuống còn 600-650 USD/ tấn. Có thể nói, đây là mức giá thấp nhất trong vòng 8 năm từ năm 1998 cho đến năm 2005. Tình hình thực tế đó đã gây ra những khó khăn thua thiệt to lớn cho cả người sản xuất và các nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam. Cũng theo số liệu báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2005, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu cà phê đã phải chịu lỗ xấp xỉ 84 tỷ đồng; trong khi đó, lượng cà phê tồn kho tính đến đầu tháng 10/2005 là xấp xỉ 30000 tấn.
Qua nhìn nhận lại niên vụ cà phê 2004-2005 trên đây có thể khẳng định lại tính bền vững của ngành cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới.
3.2.6. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần chục công ty nước ngoài đặt cơ quan đại diện tại Việt Nam để kinh doanh, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, tranh mua, tranh bán, làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất uy tín đối với khách hàng. Việc chưa hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt Nam cho đến nay là nhược điểm về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. Ở Brazil, ủy ban các nhà xuất khẩu cà phê Brazil ( Cecafe ) đã được thành lập từ lâu, đang chỉ đạo có hiệu qủa mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này, đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường cà phê thế giới.
3.2.7. Chưa trú trọng đến thị trường nội địa.
Tuy chưa có một thống kê chính thức nào về lượng cà phê tiêu thụ trong nước, song theo một số nghiên cứu độc lập thì con số này có thể dao động từ 30 ngàn đến 70 ngàn tấn một năm, một con số chưa thể gọi là lớn đối với một nước 80 triệu dân. Trong khi tập trung lớn cho thị trường xuất khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã bỏ ngỏ thị trường nội địa, một bãi phù sa màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các đại gia thế giới đang tràn vào với những thương hiệu như Nestle, King, American Eagle... Vì vậy bỏ qua thị trường trong nước, quá trú trọng đến thị trường xuất khẩu là hướng đi chưa đúng đắn, cần được nhìn nhận lại và sửa đổi trong thời gian tới.
CHƯƠNG III - GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM.
Nhiều dự báo về tình hình buôn bán và cung cầu cà phê cho thấy: trong những năm tới, tình trạng cung vượt cầu vẫn là xu hướng chủ yếu và vì vậy giá cà phê khó có khả năng phục hồi trở lại những thời điểm huy hoàng. Điều đó cũng có nghĩa, cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết liệt. Do đó, muốn đứng vững và phát triển, không để bị loại trừ, ngành cà phê Việt Nam phải sớm có những phương hướng, giải pháp để khắc phục những hạn chế, những tồn tại đang đe dọa đến khả năng cạnh tranh của ngành.
1. Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam đến 2015 và định hướng 2020
Về phương hướng, nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế so sánh của sản phẩm trên thị trường xuất khẩu và nội địa; phát triển toàn diện, bền vững, hiện đại hóa đồng bộ các khâu: sản xuất nông nghiệp – chế biến công nghiệp – giao dịch thương mại. Đến năm 2020, toàn bộ sản phẩm cà phê Việt Nam được sản xuất – chế biến hợp chuẩn, hợp quy, giao dịch bình đẳng tại các sàn giao dịch trong nước và nước ngoài với giá bán ngang bằng hoặc cao hơn giá sản phẩm cùng loại trên thị trường; giá trị gia tăng của sản phẩm do yếu tố chất lượng mang lại tăng từ 30 - 50% (tính theo giá cố định); hạn chế tối đa những thiệt hại đối với ngành cà phê do sự biến động bất lợi của thị trường thế giới; góp phần ổn định cuộc sống, cải thiện thu nhập của người trồng cà phê, trong đó phần đông là đồng bào các dân tộc thiểu số; nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp và vị thế của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế; đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước
2. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
2.1. Tạo nguồn vốn đầu tư.
Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng vốn đầu tư có tầm quan trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê Việt Nam và chất lượng sản phẩm. Do đó, tìm và tạo nguồn vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đối với Nhà nước, bên cạnh các hình thức trực tiếp, thì cần có sự hỗ trợ gián tiếp cho nông nghiệp. Kinh nghiệm hiện đại hoá nông nghiệp ở một số nước như Đài Loan, Thái Lan cho thấy ngoài những chương trình đầu tư trực tiếp về giao thông, thuỷ lợi, điện khí hoá, tín dụng...( hiện nay chúng ta đã và đang thực hiện từng bước những chương trình này), thì đầu tư gián tiếp cũng tỏ ra có hiệu quả. Đầu tư gián tiếp là những chính sách ưu đãi về thuế khoá, bán điện, xăng dầu vật tư...Hiệu quả của chính sách này sẽ làm hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh.Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây dựng cơ bản, vốn định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê ( một lực lượng tích cực tham gia vào các chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất cà phê ), và tạo điều kiện cho ngành cà phê được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng.
Đối với các doanh nghiệp, cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng, nhanh chóng cổ phần hoá các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến cà phê.
Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cũng quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín dụng nông thôn để hỗ trợ vốn kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các vùng cà phê trọng điểm. Thêm nữa , nên giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, gây lãng phí thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết vay hay hỗ trợ vốn.
Và cuối cùng việc khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, hỗ trợ vốn là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả to lớn.
2.2. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất theo hai hướng. Thứ nhất là giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích cà phê kém phát triển, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hạt điều, hồ tiêu...Thứ hai là mở rộng diện tích cà phê Arabica ở nơi có điều kiện khí hậu, đất đai thật thích hợp.
Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ 450000 ha đến 500000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi. Trong đó cà phê Robusta là 350000 ha đến 400000 ha ( giảm 100000-150000 ha ). Cà phê Arabica là 100000 ha ( tăng 60000 ha so với kế hoạch cũ ). Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600000 tấn tương đương 10 triệu bao so với hiện nay, giảm 5 triệu bao cà phê Robusta. Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như với thị trường cà phê quốc tế . Điều kiện đất đai khí hậu ở Việt Nam cho phép phát triển nhiều loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như cao su, ca cao, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả...giảm bớt đất cà phê để nhường chỗ cho cây trồng khác là cần thiết.
Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kĩ thuật đầy đủ, chu đáo.
2.3. Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê.
Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần nghiên cứu và triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000. Chỉ có áp dụng tốt hệ tiêu chuẩn này thì mới đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm vào thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tham gia vào chương trình phối hợp khuyến khích thương mại của các nước ASEAN ( gồm 15 mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản, trong đó có mặt hàng cà phê ) để từ đó xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chung phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng của WTO, tham gia luồng hàng cùng loại của các nước ASEAN vào thị trường thế giới.
Việc bố trí cơ cấu giống hợp lý là hết sức cần thiết nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng và phòng chống sâu bệnh. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu các giống mới có năng suất và chất lượng cao, đồng thời nâng việc quản lý cây trồng và quy hoạch. Trong thời gian tới, công tác giống cần phát triển theo các hướng xây dựng cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, từng bước tăng diện tích cà phê chè ở miền Bắc và miền Trung. Cần tạo điều kiện cho các trung tâm giống về vốn và thiết bị, tạo cơ hội cho cán bộ nghiên cứu tiếp cận với các trung tâm giống của các nước trong khu vực và thế giới. Tăng cường công tác khuyến nông thông qua Hiệp hội cà phê Việt Nam phối hợp với Tổng công ty cà phê Việt Nam thực hiện việc đào tạo tập huấn kĩ thuật trồng và chăm sóc cà phê, có sự phối hợp giúp đỡ của Cục Khuyến nông và Cục Bảo vệ thực vật Bộ NN và PTNT cũng như các trung tâm, chi cục của từng địa phương. Công tác bảo vệ thực vật là không thể thiếu trong quá trình gieo trồng, chăm bón cây cà phê. Trước hết các nhà sản xuất cà phê cần hợp tác với trung tâm bảo vệ thực vật để triển khai chương trình phòng trừ sâu bệnh cho câu trồng. Nhà nước có biện pháp tích cực để điều hành công tác nhập khẩu phân bón nhanh, đúng chủng loại, từng bước khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu cơ thay thế phân bón hoá học, tăng hiệu quả cây trồng, giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí phân bón trong sản xuất.
Ngoài ra, đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cà phê phải có kế hoạch tuyển dụng và thường xuyên bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính chiến lược cao. Bởi chỉ có được một đội ngũ cán bộ lao động cao mới biết sử dụng tốt các thiết bị máy móc, biết tạo ra sản phẩm chất lượng với năng suất cao, giá thành hạ.
Để tăng độ hấp dẫn của sản phẩm các doanh nghiệp cần chú ý đến bao bì đóng gói cà phê phù hợp từng loại sản phẩm, thị trường, tập quán. Cà phê xuất khẩu chủ yếu vận chuyển bằng đường biển do đó bao bì phải có độ bền tốt, bảo vệ được hàng hoá trong quá trình bốc xếp, bảo quản, vận chuyển. Bao bì của những sản phẩm cà phê chế biến phải gọn, hợp vệ sinh, dễ trưng bày, giữ được màu sắc, hương vị, hình dáng của sản phẩm và phản ánh đủ các thông tin chủ yếu về sản phẩm như thành phần, thời hạn sử dụng, trọng lượng, giá cả...Việc thiết kế nhãn hiệu sản phẩm nên theo hướng đơn giản, dễ gợi nhớ và mang ý nghĩa.
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng sản phẩm tốt mới chỉ là bước đầu, sản phẩm ấy phải được hoàn thiện một cách liên tục mới có khả năng duy trì khách hàng cũ cũng như thu hút khách hàng mới. Các doanh nghiệp phải kiên trì lắng nghe ý kiến khách hàng để biết những hạn chế trong sản phẩm của mình nhằm tìm cách cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu sản phẩm đối phương cũng là một yếu tố giúp cải tiến sản phẩm ngày càng phù hợp với người tiêu dùng.
2.4. Đổi mới công nghệ chế biến.
Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết. Để tạo đà cho các doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những thay đổi về chất lượng, giá cả ...cần tập trung máy móc thiết bị chế biến cà phê thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê tư nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư trang thiết bị để chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát, đánh bóng, sân phơi, nhà kho... Một việc không kém phần cấp bách là Tổng công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành lập doanh nghiệp cơ khí thiết bị chế biến để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên dùng trong công nghiệp cà phê. Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến cà phê hoà tan tại các vùng sản xuất cà phê lớn, cà phê hoà tan có giá trị xuất khẩu cao, giá cả ổn định, bảo quản lâu dài.
2.5. Xây dựng hệ thống thu mua phân phối cà phê
Để cải thiện hệ thống thu mua phân phối cà phê, các doanh nghiệp cà phê cần tập trung cải tiến cách thức tổ chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại cà phê, trước khi thu hoạch nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi thu hoạch cần tập trung cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông dân. Bên cạnh đó cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác chế biến bảo quản cà phê ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng cà phê ngày càng cao, đảm bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu.
Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống tổ chức các doanh nghiệp cà phê có tác dụng quan trọng đến phát triển ngành. Các doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo khuyến mại cho phù hợp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được điều này các doang nghiệp xuất khẩu và các doang nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng hàng xuất khẩu phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ thể. Các doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, những giải pháp cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm...cho người sản xuất và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trách nhiệm cung ứng hàng đảm bảo đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất khẩu và đúng thời gian, địa điểm, có như vậy thì việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê mới hoạt động có hiệu quả, việc thâm nhập thị trường thế giới chắc chắn sẽ có những biến đổi mạng mẽ.
2.6. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin
Kinh doanh cà phê của các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua bán hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch cà phê trong ngày của thị trường cà phê London ( đối với cà phê Robusta ) và thị trường New York ( đối với cà phê Arabica ). Yếu tố quan trọng nhất của hình thức kinh doanh này là thông tin và dữ liệu chính xác, kịp thời về thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự đoán thị trường, ra quyết định mua bán. Đây là điều quan trọng nhất và cũng chính là điều chúng ta đang thiếu. Nguồn tin hạn hẹp duy nhất về thị trường thế giới mà các doanh nghiệp có là mua từ hãng tin Reuters. Từ nguồn tin này và một số nguồn tin hạn chế khác, kết hợp với kinh nghiệm và cảm tính kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định mua bán đầy rủi ro. Như vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Nhà nước nên tổ chức hệ thống thu thập thông tin và phân tích thông tin để cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp làm cơ sở ra quyết định mua bán. Mô hình chợ giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột dự kiến xây dựng vào năm nay đáp ứng được những nhu cầu đặt ra. Chợ giao dịch tập trung hầu hết đại diện của các công ty kinh doanh cà phê toàn quốc. Tại đó người bán, người mua có thể tham khảo giá cả, thậm chí còn được tư vấn, cung cấp thông tin, dự báo cung cầu và biến động giá tăng giảm ra sao trong thời gian tới. Điều này giúp họ có nhiều cơ hội để lựa chọn, phán đoán và quyết định nên bán sản phẩm với giá bao nhiêu, cho đơn vị nào hoặc gửi hàng lại chờ giá lên...Theo ông Lý Thanh Tùng, giám đốc sở Thương mại-Du lịch Đăk Lăk, chợ giao dịch cà phê ra đời sẽ giải quyết cơ bản những hạn chế về thiếu thông tin cho người nông dân trồng cà phê hay các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cho rằng thành lập chợ giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột trong thời gian tới sẽ là bước tiến quan trọng mang tính đột phá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê. Theo ông Văn Thành Huy, Giám đốc Công ty Đầu tư XNK Đăk Lăk Chợ giao dịch này sẽ là một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp xuất khẩu , đây là nơi mua bán bằng thương lượng theo trật tự, luật lệ mua bán công bằng, công khai. Mua bán trên thị trường kỳ hạn giúp nông dân có thể bảo hộ giá, đề phòng trường hợp giá bị sụt giảm, tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu cà phê có công cụ hạn chế, phòng chống rủi ro, tăng cường cạnh tranh trên thị trường kỳ hạn... Ngoài ra, các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài phải có nhiệm vụ hỗ trợ phát triển kinh tế trong nước thông qua việc cung cấp hiểu biết về đặc điểm thị trường ( luật pháp, chính sách kinh tế thương mại, các hiệp định mà Việt Nam đã ký, tập quán thị trường, các đối thủ cạnh tranh, hỗ trợ các vấn đề pháp lý trong tranh chấp thương mại...). Tổ chức tốt, chặt chẽ hệ thống thông tin sẽ giúp ngành cà phê Việt Nam vững vàng hơn trên con đường hội nhập quốc tế, luôn chủ động và sẵn sàng.
2.7. Mở rộng thị trường nội địa và tăng cường hợp tác quốc tế.
Theo Vicofa, một trong những giải pháp cho tình trạng cung cao hơn cầu hiện nay nằm ở chính thị trường nội địa. Đây cũng chính là điều mà những cường quốc sản xuất cà phê lớn trên thế giới như Brazil, Pêru đã làm thành công. Bà Đào thị Mùi, Tổng thư ký Vicofa nhìn nhận rằng, kích cầu trong nước là một mục tiêu mà Vicofa cần đạt đến. Bởi cũng như Brazil, Malaysia, doanh nghiệp Việt Nam phải học tập các nước chính là tiêu thụ nội địa của họ rất lớn, nhờ đó giảm bớt số lượng cà phê dư thừa. Hiện nay, Vicofa đang khuyến khích các hội viên mở rộng cửa hàng và tuyên truyền cho việc tiêu thụ cà phê đến những thành phố nhỏ và các tỉnh xa xôi...Với hướng đi biết nhìn xa trông rộng, Vinacafe ( Nhà máy cà phê Biên Hoà ) đã đi vào thị trường cà phê tan và từng bước giành lại thị phần trong nước. Năm 2000, Vinacafe đã nâng công suất lên 10 lần so với trước và giành lại 45% thị phần cà phê nội địa. Chất lượng và tên tuổi của Vinacafe được khẳng định. “ Bụt chùa nhà đã thiêng “, sản phẩm cà phê hoà tan mang thương hiệu Vinacafe từ “vô danh tiểu tốt”, lọt thỏm trong tên tuổi của các đại gia ngoại nhập, giờ đây đã trở thành niềm tự hào cho một sản phẩm “made in Việt Nam”. Trước các đối thủ từ bên ngoài, sức cạnh tranh của Vinacafe không chỉ ở chất lượng sản phẩm mà còn là lợi thế từ tâm lý người tiêu dùng-một trong những lợi thế sân nhà. Khi chất lượng đã được khẳng định, lòng tự hào dân tộc là một khía cạnh cần khai thác. Thương hiệu cà phê Việt Nam đến với người Việt Nam bằng con đường ấy. Như vậy, những gì mà nhà máy cà phê Biên Hoà đã làm được với Vinacafe cho thấy rằng thị trường nội địa cũng là một mảnh đất màu mỡ cần được khai thác. Không thể để bỏ ngỏ thị trường ấy cho sản phẩm ngoại tràn vào mà cần phải tích cực giành lấy, có đứng vững trong nước thì ngành cà phê Việt Nam mới tự tin tiến ra thị trường nước ngoài. Đây thực sự là giải pháp hữu hiệu trong tình hình hiện nay, khi mà thị trường cà phê thế giới đang trong giai đoạn khó khăn.
Trên cơ sở đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, mở rộng thị trường toàn cầu, tăng uy tín và vị thế cà phê Việt Nam là công việc không dễ dàng cần phải thực hiện. Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở rộng thị trường. Đây là một trong những quốc sách lớn của Nhà nước và nhiệm vụ chung của các ngành các cấp. Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp ngành cà phê tiếp cận với thị trường nước ngoài thông qua hệ thống tham tán thương mại, qua hội chợ triển lãm thương mại quốc tế. Ngoài ra còn mở cơ quan đại diện và sử dụng các phương thức thương mại khác như đổi hàng, các Hiệp định Chính phủ, Bộ Thương mại. Cơ quan thường vụ ở các nước cần mở rộng hoạt động xúc tiến thương mại bằng nhiều hình thức để quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham gia ACPC và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
KẾT LUẬN
Có thể nói, trong những năm gần đây, Việt Nam nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu. Với lợi thế so sánh về điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ, năng suất lao động thuộc loại cao nhất nhì thế giới nên trong vòng 5 năm qua ngành cà phê Việt Nam đã chiếm được một thị phần đáng kể, có mặt trên 50 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau thuỷ hải sản và gạo. Tuy nhiên, trước bối cảnh thị trường thế giới ngày càng cạnh tranh gay gắt và những lợi thế so sánh đang “ hao mòn” dần, đòi hỏi ngành cà phê phải có những chiến lược cạnh tranh thích hợp bảo đảm hiệu quả bền vững. Nếu không nguy cơ tụt hậu và phá sản có thể ập đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, tìm kiếm và tiến hành các giải pháp để hạn chế, khắc phục những mặt còn kém yếu là công việc phải sớm thực hiện nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành.
Bên cạnh đó, sự ủng hộ, giúp đỡ, hỗ trợ từ phía nhà nước không bao giờ là thừa mà luôn luôn cần thiết. Tự bản thân mình cộng với sự hỗ trợ đó, trong tương lai không xa chắc chắn rằng cà phê Việt Nam sẽ tồn tại và phát triển nhanh chóng. Đây cũng là mong muốn chung cho các ngành, các mặt hàng tiềm năng và có triển vọng phát triển của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Marketing căn bản - PGS.PTS Trần Minh Đạo - NXB Thống kê 1999.
2. Giáo trình quản trị Marketing - Philip Kotler NXB Thống kê năm 1997.
3. Giáo trình Marketing - Philip Kotler NXB Thống kê 1997.
4. Các tạp chí Thương mại, Công nghiệp.
5. Các tài liệu khác.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cà phê Việt Nam.doc