Đề tài Giải pháp phát triển các dịch vụ Logistics của các Doanh nghiệp Việt Nam

Mục Lục A. Lời mở đầu 1 B.Nội Dung 2 Chương I: Những lý luận cơ bản về logistics và các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 2 I. Bản chất và vai trò của logistics ở các doanh nghiệp 2 1. Doanh nghiệp 2 1.1. Khái niệm 2 1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp 4 2. Logistic là gì? 8 2.1. Khái niệm về logistics 8 2.2. Sự hình thành và phát triển logistics 9 2.4.Vai trò của logistics 11 II. Nội dung cơ bản của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 12 1.Dịch vụ logistics là gì? 12 1.1. Khái niệm về dịch vụ logistics 12 1.2. Phân loại các dịch vụ logistics 13 1.3. Dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh 14 2. Những bước cơ bản của quy trình logistics 14 3. Dịch vụ logistics gia tăng giá trị trong kinh doanh, khai thác cảng biển 16 III. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 16 1. Điều kiện tự nhiên 16 2. Điều kiện kinh tế kỹ thuật 17 2.1. Cơ sở hạ tầng 17 2.2. Trình độ công nghệ thông tin 17 3. Trình độ quản lý hoạt động logistics 18 4. Sự cạnh trạnh của các doanh nghiệp trong nước 18 5. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế 18 Chương II. Thực trạng phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 20 I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và quá trình phát triển của các dịch vụ logistics 20 1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam 20 1.1.Cơ sở hạ tầng của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam 20 1.2.Trình độ tổ chức quản lý hoạt động logistics 20 1.3. Hệ thống pháp lý 20 1.4. Quy mô tổ chức logistics ở Việt Nam 21 1.5. Trình độ công nghệ logistics 21 2. Quá trình phát triển của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 22 II. Khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 22 1. Thực trạng chung hoạt động kinh doanh các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam. 22 1.1. Quy mô các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ logistics 22 1.2. Cơ sở hạ tầng của các dịch vụ logistics tại Việt Nam 24 1.3. Thực trạng nguồn lực ngành logistics tại Việt Nam 31 1.4. Thực trạng các dịch vụ logistics 31 2. Thực trạng các công ty cung cấp dịch vụ logistics theo các nhóm sau: 31 2.1. Các công ty kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận của Việt Nam 31 2.2. Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối 32 2.3. Các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa 33 2.4. Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành 34 3. Thực trạng hoạt động các dịch vụ logistics của một số doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam 34 3.1. Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) 34 3.2.VietnamShipper 37 3.3. Vietnam Airlines 38 III.Thực trạng phát triển của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 39 IV. Đánh giá các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 42 1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics ở các doanh nghiệp Việt Nam 42 2. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics 42 3. Ưu điểm và nhược điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics 43 3.1.Ưu điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics 43 3.2. Nhược điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics 44 4. Những thách thức đặt ra trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics của doanh nghiệp Việt Nam 45 Chương III. Phương hướng và giải pháp phát triển các dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 47 I. Mục tiêu phát triển các dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 47 1. Mục tiêu cần đạt được của logistics trên bình diện quốc gia 47 2. Mục tiêu là dựa vào 48 3. Tiếp thu công nghệ kỹ thuật 48 4. Mục tiêu là dựa vào bạn hàng lâu dài 48 II. Phương hướng phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2010 48 1. Hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh 48 2 .Về chính sách, giải pháp khuyến khích đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại 49 3. Phát triển giao thông vận tải Việt Nam 49 4. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 50 III. Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam. 51 1. Những thách thức đối với ngành logistics Việt Nam 51 2. Nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng. 52 3. Mở rộng, đa dạng hoá 53 4. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý và khai thác. 53 5. Liên doanh, liên kết với các công ty logistics nước ngoài. 54 6. Tăng cường hoạt động Marketing nhằm thu hút khách hàng. 54 C.Kết Luận 56 D.Tài liệu tham khảo 57

doc60 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4747 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển các dịch vụ Logistics của các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước, cho đến nay chưa có một doanh nghiệp nào kể cả các doanh nghiệp lớn của Việt Nam có khả năng thành lập chi nhánh của mình ở nước ngoài để khai thác nguồn hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, kể cả những nước lân cận như Lào, Campuchia, Trung Quốc… trừ vận tải hàng không như Vietnam Airline và Pacific Airline có đặt văn phòng đại diện ở nước ngoài. 2.2. Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối - Công ty cung cấp dịch vụ kho bãi - Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối Về phân phối hàng hóa, nếu các doanh nghiệp nhà nước có thế mạnh trong việc vận chuyển hàng hóa có khối lượng lớn, hàng theo kế hoạch, hàng siêu trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã…lại có thế mạnh trong vận chuyển hàng thông thường như hàng bách hóa, hàng rời, hàng container có số lượng nhỏ và đặc biệt là thầu việc phân phối các sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh như: hãng xe máy VMEP, hãng nước ngọt cocacola, Pepsi…hoặc vận chuyển máy móc, thiết bị, hàng công trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách hàng. Dịch vụ thầu phân phối có thời gian từng quý, từng năm và lượng hàng giao nhận khá ổn định cho nên hiệu quả kinh doanh cao. Về dịch vụ kinh doanh kho bãi, hệ thống kho bãi phục vụ hoạt động vận tải giao nhận ở Việt Nam hiện nay phần lớn tập trung ở các doanh nghiệp lớn thuộc nhà nước hay các bộ, còn các doanh nghiệp khác như tư nhân hoặc cổ phần có nhưng rất nhỏ và hạn chế. Kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải phần lớn tập trung ở các cảng biển lớn, phần còn lại có thể nằm sâu trong đất liền. Các chủ hàng xuất nhập khẩu rất ít có kho bãi riêng của mình để thực hiện lưu giữ hàng hóa, vì vậy thường phải thuê kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh giao nhận hoặc cảng. Hệ thống kho bãi các cảng lớn như cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng là phát triển nhất, còn các cảng khác quy mô kho bãi còn rất khiêm tốn. Loại hình kho bãi được kinh doanh ở Việt Nam cũng khá đa dạng và phong phú, điển hình là bãi container, kho hàng lẻ, kho ngoại quan và các loại hình kho bãi khác. 2.3. Các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa - Các công ty môi giới khai thuế hải quan - Các công ty giao nhận, gom hàng lẻ - Các công ty chuyên ngành hàng nguy hiểm - Các công ty dịch vụ đóng gói vận chuyển Về phân loại và đóng gói bao bì cho hàng hóa xuất khẩu hiện nay cũng là một trong chuỗi dịch vụ mà các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ kinh doanh vận tải giao nhận triển khai cung cấp cho khách hàng. Các hàng mậu dịch có khối lượng lớn, nhu cầu xuất nhập khẩu thường xuyên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế suất thường sử dụng trọn gói các dịch vụ do các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận cung cấp, từ việc đóng gói bao bì, kiểm đếm…cho đến việc làm thủ tục hải quan cho hàng hóa. Một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam tự đứng ra để thực hiện tất cả các công việc này nhằm mục đích tiết kiệm chi phí Nhiều đơn vị có những vị trí thích hợp tại các cảng, sân bay, các công ty vận tải... đã tận dụng lợi thế này để độc quyền kinh doanh loại hình dịch vụ, đơn phương quy định giá dịch vụ mà khách hàng không có cơ hội hay quyền lựa chọn. Cụ thể, theo ông Dương, giá xử lý hàng hóa xuất nhập khẩu do một công ty làm ở sân bay Tân Sơn Nhất thu khoảng 0,05 USD/kg, mức này đã gần bằng giá ở Singapore, trong khi đó thu nhập GDP của Singapore gấp đến 20 lần của Việt Nam nên mức thu này hoàn toàn không hợp lý. "Do đây là đơn vị duy nhất cung cấp dịch vụ này ở sân bay nên các khách hàng bắt buộc phải chấp nhận. Nếu tại đây có một công ty thứ hai cung cấp dịch vụ giao nhận hàng hóa, lưu kho bãi thì chắc chắn giá dịch vụ sẽ thấp hơn và chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam cũng được cải thiện", ông Dương nhấn mạnh. 2.4. Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành - Các công ty công nghệ thông tin - Các công ty viễn thông - Các công ty cung cấp giải pháp tài chính, bảo hiểm - Các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành đã có những tác động rất mạnh mẽ tới việc phát triển các dịch vụ logistics tạo ra cơ hội cho logistics Việt Nam phát triển hội nhập với thế giới. Là các công ty hỗ trợ cho quá trình dịch vụ logistics trơn tru hơn và đáp ứng được yêu cầu của chuỗi cung cấp. 3. Thực trạng hoạt động các dịch vụ logistics của một số doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam 3.1. Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) Tổng công ty hàng hải Việt Nam được xếp vào vị trí số 1 trong nước về khả năng thực hiện dịch vụ logistics. Được thành lập và hoạt động từ ngày 1/1/1996 theo Quyết định 250/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/4/1995, Vinalines lúc đầu gồm 22 công ty nhà nước, 2 công ty cổ phần và 9 công ty liên doanh, sở hữu 49 tàu với tổng trọng tải là 396696 DWT và có 18456 lao động Kể từ khi đi vào hoạt động năm 1996, Tổng công ty đã tham gia vào rất nhiều hoạt động vận tải, như: Vận tải biển, khai thác cảng, đại lý vận tải, môi giới, giao nhận , kinh doanh vận tải đa phương thức, sửa chữa tàu biển, cung cấp dịch vụ hàng hải và các hoạt động khác liên quan; Xuất khẩu, nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị chuyên ngành; Cung cấp thuyền viên; Tham gia liên doanh, hợp tác kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước theo đúng quy định của pháp luật. Năm 2007, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam cùng các doanh nghiệp thành viên đã tham gia góp vốn thành lập các công ty cổ phần như Vinalines Logistics, Kinh doanh Bất động sản Vinalines, Kinh doanh Bất động sản Vinalines Vĩnh Phúc, Đầu tư cảng Cái Lân, cảng Hiệp Phước, Đầu tư dầu khí Sao Mai - Bến Đình ... Trong năm 2007, tổng sản lượng vận tải biển ước đạt 24,9 triệu tấn và 75,1 tỷ Tkm, tương ứng tăng 7% và 30%, tổng sản lượng hàng thông qua cảng đạt 54,2 triệu tấn, tăng 9%. Năm 2008, Tổng công ty phấn đấu vận chuyển 27,3 triệu tấn, và 92,6 tỷ tấn Tkm, tăng 9% và 23%; sản lượng hàng hóa thông qua cảng đạt 47,5 triệu tấn, tăng 5% so với năm 2007. Vận tải biển Đến cuối năm 2007, Vinalines có đội tàu gồm 134 chiếc với tổng trọng tải là 2,1 triệu DWT. Tổng số hàng hoá vận chuyển bởi đội tàu đạt 24,9 triệu tấn và 75,1 tỷ Tkm. Tuy nhiên, điều này lại đem lại những cơ hội to lớn cho Tổng công ty khi nhu cầu vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu gia tăng đáng kể. Tất cả những yếu tố này buộc Vinalines phải nhanh chóng đẩy mạnh hoạt động vận tải của đội tàu. Trên thực tế, Vinalines đã có kế hoạch phát triển đội tàu để tăng năng lực lên 2,6 - 3 triệu DWT vào năm 2010 và 6 - 7 triệu DWT vào năm 2020. Cơ cấu đội tàu sẽ được thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ các tàu chuyên dụng như tàu container, tàu hàng rời cỡ lớn và tàu chở tàu, đồng thời giảm độ tuổi trung bình của đội tàu xuống dưới 16 tuổi. Theo đó, Vinalines mong muốn chiếm được thị phần lớn hơn nhờ nâng cao vị trí và thương hiệu của mình tại thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Dịch vụ phụ trợ khác Hiện nay, Vinalines nắm giữ khoảng 40 công ty dịch vụ tham gia vào nhiều hoạt động logistics khác nhau trong hệ thống logistics toàn quốc. Những công ty này cung cấp nhiều dịch vụ như giao nhận, đại lý tàu biển, vận tải đường bộ, thông quan, cung cấp thuyền viên, quản lý tài sản … Với hệ thống dịch vụ rộng khắp, Vinalines có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường vận tải trong nước Với hệ thống dịch vụ rộng khắp, Vinalines có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường vận tải trong nước Bên cạnh đó, Vinalines đã đẩy mạnh hoạt động cung cấp thuyền viên, đáp ứng kế hoạch đầu tư đội tàu, và bắt đầu triển khai những hoạt động mới tại Việt Nam như môi giới hàng hải, môi giới tàu … Để tăng cường và mở rộng mạng lưới logistics, Vinalines sẽ thành lập hệ thống các cảng container nội địa (ICD) Bắc vào Nam thông qua việc cơ cấu lại các ICD hiện có và đầu tư xây dựng các ICD mới. Việc này sẽ giúp Vinalines cung cấp các dịch vụ tốt hơn cho khách hàng và bạn hàng đồng thời cắt giảm chi phí hoạt động. Nhờ đó, Vinalines sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập mạng lưới logistics khu vực và quốc tế thông qua việc hợp tác với các tập đoàn và công ty quốc tế, thành lập các công ty, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nước ngoài Khai thác cảng Với việc quản lý và khai thác 5 cảng biển chính tại 5 khu vực kinh tế trọng điểm là Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, Vinalines hiện là nhà khai thác cảng hàng đầu tại Việt Nam. Năm 2006, tổng sản lượng thông qua các cảng của Vinalines đạt gần 41,5 triệu tấn. Kể từ năm 2007, ngoài việc đầu tư đổi mới đội tàu, Vinalines đã xúc tiến một số dự án cải tạo, mở rộng và xây dựng nhiều cảng mới dọc bờ biển, trong đó có một số dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động, góp phần không nhỏ cho sự tăng trưởng về doanh thu của Vinalines. Các dự án thu hút vốn đầu tư lớn trong 5 năm tới hiện đang tiếp tục thực hiện gồm: Cảng nước sâu Lạch Huyện, Cảng Đình Vũ và Cảng Cái Lân (ở miền Bắc), Bến Hiệp Phước và các bến tại Vũng Tàu (ở miền Nam), và nhất là cảng trung chuyển quốc tế đầu tiên của Việt Nam tại Vân Phong, Khánh Hoà (ở miền Trung). Khi đi vào hoạt động, các dự án này sẽ giúp Vinalines đạt mục tiêu 55 triệu tấn hàng hoá thông qua vào năm 2010. Năng suất hàng rời từ 3500 - 4500 tấn/m bến/năm, năng suất hàng container từ 10000 - 12000 tấn/m bến/năm. Khi đó, hệ thống cảng biển của Vinalines không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn chiếm vị trí cạnh tranh đáng kể trong khu vực. Năm 2006: - Tổng số chiều dài cầu Cảng của Vinalines là 9.400m - Tổng số hàng hoá thông qua cảng đạt 41,5 triệu tấn (hơn 9% so với năm 2005) Năm 2007: - Tổng sản lượng vận tải biển đạt 24,9 triệu tấn và 75,1 tỷ Tkm. Vận tải nước ngoài đạt 21 triệu tấn và 69,7 tỷ Tkm Sản lượng vận tải nội địa 3,9 triệu tấn và 5,5 tỷ Tkm Sản lượng vận chuyển container đạt 488.387 TEU -  Tổng sản lượng hàng hoá thông qua cảng đạt 45,2 triệu tấn -  Các chỉ tiêu tài chính: Tổng doanh thu đạt 14.641 tỉ đồng Lợi nhuận đạt 861 tỉ đồng Hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước đạt 777 tỷ đồng. 3.2.VietnamShipper www.vietnamshipper.com : Tạp chí điện tử Vietnamshipper cung cấp các thông tin cần thiết cho giới chủ hàng tại Việt Nam, gồm các thông tin về lịch tàu, lịch bay, tin Logistics, hàng hải. Là một kênh thông tin điện tử được đánh giá cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, giao nhận, tiếp vận và logistics… www.vietnamshipper.com có lượng thông tin lớn, được cập nhật nhanh liên tục trong ngày. Website có giao diện thiết kế thuận lợi cho việc truy cập và tìm kiếm thông tin và là nơi cung cấp dữ liệu tìm kiếm cho các search engine như Google, Yahoo, MSN… Mỗi ngày có trên 7000 người truy cập website, chủ yếu là những người hoạt động trong những ngành lĩnh vực xuất nhập khẩu, giao nhận, tiếp vận và logistics. Mạng www.vietnamshipper.com có 10% diện tích dành cho quảng cáo với các hình thức quảng cáo đặt top banner, bottom banner, right banner…Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà vận tải, các hãng tàu, các hãng hàng không,… mong muốn giới thiệu dịch vụ của mình đến khách hàng một cách hiệu quả thông qua dịch vụ quảng cáo. Tạp chí chủ hàng Việt Nam là một kênh thông tin để liên kết khách hàng với chủ hàng, nó đóng góp một phần rất lớn trong việc liên kết và phát triển chuỗi logistics. 3.3. Vietnam Airlines Tổng công ty Hàng không Quốc gia Việt Nam (tên giao dịch tiếng anh là Vietnam Airlines) được thành lập vào ngày 27 tháng 5 năm 1996 trên cơ sở sát nhập 20 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hàng không với Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam là nòng cốt. Hãng nằm dưới sự quản lí của một hội đồng 7 người do Thủ tướng chỉ định. Hãng từng là cổ đông chi phối của hãng hàng không thứ hai của Việt Nam – Pacific Airlines nhưng cổ phần của hãng đã được chuyển sang Bộ tài chính vào tháng 1 năm 2005 Dịch vụ hành khách Vận tải hàng hóa - Dịch vụ hạng thương gia - Sản phẩm và dịch vụ - Dịch vụ trước chuyến bay - Tàu bay - Dịch vụ tại sân bay - Các phương tiện chất xếp - Dịch vụ đặc biệt - Dịch vụ trực tuyến - Thông tin hành lý - Hướng dẫn gửi hàng đặc biệt - Thông tin cần biết - Thông tin liên lạc Trong những năm qua, các DN vận tải hàng không Việt Nam, nhất là Vietnam Airlines đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay, Vietnam Airlines đang có đội máy bay trẻ và hiện đại thuộc hàng đầu thế giới. Tỷ lệ máy bay hiện đại và mới trong tổng số đầu máy của Vietnam Airlines là rất cao so với các hãng hàng không trong khu vực và trên thế giới. Độ tuổi trung bình đội máy bay của Vietnam Airlines là 8,3 năm và đội máy bay sở hữu là 5,2 năm. Đặc biệt, Vietnam Airlines đã khẳng định được vị trí vững chắc trong khu vực cũng như tạo lập được thương hiệu, hình ảnh riêng. Vietnam Airlines là một trong những công ty quốc doanh hoạt động kinh doanh có hiệu quả và sinh lãi khá của Việt Nam. Tổng kết năm 2006, Vietnam Airlines đã vận chuyển hơn 6,8 triệu lượt hành khách (trong đó có 3,1 triệu khách quốc tế), nhiều hơn năm 2005 gần 1 triệu lượt khách; và 106.600 tấn hàng với tổng doanh thu đạt 17.500 tỷ đồng (gần 1,1 tỷ USD), cao hơn mục tiêu đề ra đến 5% và tăng 12,4% so với doanh thu năm 2005. Nhưng do chi phí gia tăng, đặc biệt là giá nhiên liệu đã tăng quá cao nên lãi trước thuế chỉ đạt 92% kế hoạch, cụ thể là 304,5 tỷ đồng. Trong năm 2007, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) đã thực hiện hơn 62.900 chuyến bay an toàn, đạt doanh thu hơn 20.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 370 tỷ đồng. Cũng trong năm 2007, hãng đã vận chuyển hơn 8 triệu lượt khách, vượt mức kế hoạch ban đầu là 7,6 triệu khách và đạt mức tăng trưởng 15,5 %. Hệ số sử dụng ghế của hãng đạt 75,7%. III.Thực trạng phát triển của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Hiện nay trên thị trường Việt Nam có hơn 800 nhà cung cấp dịch vụ giao nhận và logistics, trong đó có khoảng 18% là công ty nhà nước, 70% là công ty tư nhân, 10% là không đăng ký và 2% là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài . Theo ước tính, mặc dù chỉ chiếm 2% tổng số doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 30-35% thị phần của thị trường. Và hơn 784 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3PL trong nước sẽ phải chia 60% - 65% thị phần còn lại. Vì thế thị trường dịch vụ logistics tại Việt Nam rất phân tán (fragmented), điều này dẫn đến mức độ cạnh tranh ngành sẽ rất cao. Hơn thế nữa, do áp lực cạnh tranh và thiếu hẳn những dịch vụ giá trị gia tăng, giá sẽ trở thành công cụ cạnh tranh chính của các doanh nghiệp giao nhận và logistics. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào khai thác những mảng nhỏ trong toàn bộ chuỗi cung ứng mà chúng ta thấy phổ biến là hình thức giao nhận vận tải (Freight Forwarding). Đây là hình thức khá đơn giản, các công ty giao nhận đóng vai trò là người buôn cước sỉ sau đó bán lại cho người mua lẻ. Thông qua các hãng vận tải biển, cũng như hàng không. Hàng sau khi được gom thành những container đầy sẽ được vận chuyển đến quốc gia của người nhận. Tại đó các đại lý mà các công ty Việt Nam có đối tác sẽ làm thủ tục hải quan và giao hàng cho người nhận kho. Đối với doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp xây dựng: Dịch vụ logistics đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển về xu hướng phát triển, về quy mô. Logistics phát triển yêu cầu lớn tới nghành xây dựng đó là kho bến bãi…nó giúp cho quá trình hoàn thiện chuỗi logistics một các thông suốt và giảm thiểu chi phí. Thật vậy: Theo đánh giá và khảo sát của các công ty bất động sản, phân khúc thị trường bất động sản công nghiệp ở Việt Nam vẫn đang trong tình trạng cung không đủ cầu. Tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, gần như các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Tp.HCM, Đồng Nai, Bình Dương đều hoạt động hết công suất với tỉ lệ lấp kín gần 100%. Từ những năm cuối 1990, đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tăng mạnh. Hiện tại Việt Nam có hơn 150 khu công nghiệp, khu chế xuất với khoảng 320.000 ha tại 55 tỉnh thành trên cả nước, trong đó đã có 21.700 ha đã được lấp kín. Cả nước đang có 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài trị giá 25,3 tỷ USD, chiếm 72% quỹ đất của khu công nghiệp, khu chế xuất, chiếm 60% nguồn vốn FDI và 2.800 dự án của doanh nghiệp trong nước đầu tư đạt tổng giá trị hơn 437 tỷ USD. Theo kế hoạch Chính phủ đã phê duyệt phát triển khu công nghiệp của cả nước, đến năm 2010 diện tích đất công nghiệp sẽ đạt 40.000 - 45.000 ha. Đến năm 2020, diện tích đất công nghiệp sẽ tăng lên khoảng 70.000-80.000 ha. Theo kế hoạch trong giai đoạn từ 2006-2010, Việt Nam sẽ lập thêm 100 khu công nghiệp, khu chế xuất nâng đất công nghiệp lên khoảng trên 40.000 ha. Theo Giám đốc bộ phận công nghiệp và logistics của công ty tư vấn bất động sản CBRE Việt Nam, ông David W.Neal, cho biết: xu hướng thuê nhà xưởng đang rộ lên. Ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu thuê nhà xưởng xây sẵn. Hầu hết phía nhà đầu tư nước ngoài muốn khi đặt chân vào Việt Nam là có thể tiến hành ngay hoạt động sản xuất. Do đó, nhu cầu nhà xưởng hiện nay rất lớn. Có rất nhiều khách hàng của CBRE Việt Nam có nhu cầu thuê nhà xưởng, song nhà xưởng xây sẵn, một trong những hàng hóa đang khan hiếm trên thị trường bất động sản công nghiệp tại Việt Nam hiện nay. Lâu nay, các nhà đầu tư bất động sản công nghiệp mới chỉ tập trung và dừng lại ở hoạt động đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, rất ít nhà đầu tư quan tâm đến vấn đề trang bị sẵn hệ thống nhà xưởng. Một nhà xưởng đạt theo tiêu chuẩn phải tốn thời gian từ 4-5 tháng mới hoàn thành. Chi phí xây dựng trong quý 4/2007, 1m2 nhà xưởng cho ngành công nghiệp nhẹ khoảng 165-280 USD/m2. Chi phí xây dựng nhà xưởng và kho hàng cho ngành công nghiệp nặng và nhà xưởng theo mô hình truyền thống (1 tầng) khoảng từ 280-380 USD/m2. Với tình hình giá cả ngành vật liệu xây dựng những tháng đầu năm 2008 tăng mạnh thì chi phí xây dựng nhà xưởng cũng sẽ tăng lên.Nhu cầu cao đã đẩy giá cho thuê nhà xưởng tại các địa phương đắt hơn trước đây. Nếu muốn thuê mức giá tương đối rẻ hơn, doanh nghiệp phải đi xa hơn,giá nhà xưởng cho thuê từ 1,5-2,2 USD/m2. Tuy nhiên, giá cho thuê phụ thuộc vào chất lượng và giá trị dịch vụ của các dịch vụ phụ trợ. Theo dự báo của Công ty CBRE Việt Nam, thị trường bất động sản công nghiệp sẽ còn tiếp tục sôi động trong vài năm tới, bởi lẽ Việt Nam đang là một trong những điểm đầu tư thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2007 được đánh giá là năm có vốn FDI đạt đến con số cao nhất từ trước đến nay, đạt hơn 20,3 tỷ USD. Công nghiệp là một trong những lĩnh vực chiếm lượng lớn vốn FDI đổ vào Việt Nam. IV. Đánh giá các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics ở các doanh nghiệp Việt Nam Những năm gần đây, dịch vụ logistics bắt đầu thu hút sự chú ý của Nhà nước cũng như các DN hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận trong và ngoài nước. Các cảng container và sân bay của Việt Nam đã được đầu tư và quy hoạch theo chiến lược phát triển lâu dài, các tuyến đường bộ cũng được mở mang và nâng cấp Ở Việt Nam từ sau khi Luật Đầu tư nước ngoài và một số bộ luật khác như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật phá sản, Luật dân sự … được ban hành, dịch vụ logistics đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của tất cả các đơn vị, tổ chức hay cá nhân. Đặc biệt là những dịch vụ mà hàng hóa xuất nhập khẩu đòi hỏi phải được cung cấp trong lĩnh vực vận tải giao nhận. 2. Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics Mặc dù còn thực hiện theo lộ trình nhưng ngành logistics của Việt Nam đã thực sự gia nhập WTO, một tổ chức thiết lập các nguyên tắc và quy tắc nhằm tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển trong thương mại dịch vụ và cũng như mở rộng xuất khẩu dịch vụ của các nước này thông qua việc tăng cường khả năng cạnh tranh trong nước. Đó là mục tiêu gia nhập WTO của ngành thương mại dịch vụ và như vậy logistics Việt Nam đã có cơ hội lớn hơn để xã hội hóa dịch vụ của mình. Thực tế trong thời gian qua, một số doanh nghiệp logistics Việt Nam đã cung cấp dịch vụ logistics ở các nước láng giềng như Lào, Campuchia và phối hợp với bạn hàng nước ngoài để thắng thầu cung cấp dịch vụ logistics từ nước thứ ba quá cảnh Việt Nam đi Trung Quốc, Lào hay Campuchia. Đây thực sự là những sản phẩm dịch vụ đã xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho đất nước, cho doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp cận, hợp tác, liên kết với các bạn hàng nước ngoài một cách bình đẳng, đặc biệt là những bạn hàng thuộc các nước đã có nghề logistics phát triển cao để học hỏi kinh nghiệm về tổ chức, quản lý nghề nghiệp, chính là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận trực tiếp khách hàng nước ngoài ngay trên đất nước mình. Theo dự báo, trong tương lai không xa, thì dịch vụ giao nhận kho vận (logistics) sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Dự báo, đến năm 2010, hàng container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6 -4,2 triệu TEU. Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 7,7 triệu TEU. Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của Bộ Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới 200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam còn khá lớn.Những năm gần đây, vận tải biển VN đang có những bước phát triển vượt đáng kể. Hiện 90% hàng hóa XNK được vận chuyển bằng đường biển. Đặc biệt, lĩnh vực vận chuyển container luôn đạt tốc độ tăng trưởng 2 chữ số trong những năm gần đây. Tuy vậy, điều này lại dẫn đến hệ luỵ là VN đang rất cần các cảng nước sâu để có thể thoả mãn được nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Tổng khối lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam hiện nay vào khoảng 140 triệu tấn/năm (năm 2006: 153 triệu tấn), tốc độ tăng trưởng hàng năm trong vòng 10 năm tới theo dự đoán là 20 - 25%. Hiện chính phủ Việt Nam và các nhà đầu tư quốc tế đang triển khai một loạt dự án xây dựng các cụm cảng nước sâu như ở khu vực Cái Mép - Thị Vải ở phía Nam cũng như Hải Phòng ở phía Bắc. Các dự án này đang phấn đấu hoàn thành vào năm 2009.Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều DN nước ngoài từ nơi khác đến Việt Nam đã tạo ra cơ hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận hoạt động hiệu quả. 3. Ưu điểm và nhược điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics 3.1.Ưu điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics. Qua nghiên cứu cũng như kết quả khảo sát thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã có những nhận thức nhất định ở các cấp độ khác nhau về vai trò, ý nghĩa, tác dụng của logistics. Ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đã và đang phát triển rất nhanh chóng, từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến nay đã có hơn 600 công ty được thành lập và hoạt động từ Nam, Trung, Bắc. Theo thông tin từ Sở kế hoạch đầu tư TP.HCM thì trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận, logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Sự phát triển ồ ạt về số lượng các công ty giao nhận, logistics trong thời gian qua là kết quả của Luật doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-1-2000 với việc dở bỏ rất nhiều rào cản trong việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp. Hiện nay, đối với doanh nghiệp làm dịch vụ giao nhận, logistics tại Việt Nam, vốn và trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, ngay cả các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn của ngành cũng không còn là rào cản nữa và lợi nhuận biên (profit margin), lợi nhuận trên vốn tương đối cao (theo các thống kê ở mức trung bình ngành vào khoảng 18-20%) 3.2. Nhược điểm của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics Logistics muốn phát triển thì hạ tầng phải đi trước, tuy nhiên ở các sân bay quốc tế như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng hiện không có một ga hàng hóa, không có khu vực hoạt động cho đại lý logistics làm công việc gom hàng và khai quan. Trong khi đó, các tổ chức dịch vụ mặt đất của hàng không, công ty liên doanh TCS làm việc thiếu trách nhiệm, độc quyền nên giá họ đưa ra như thế nào DN cũng phải chấp nhận. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam muốn có kho ở đó cho các DN thuận lợi hơn trong hoạt động nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được. Trong quan hệ thương mại quốc tế, phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu hàng theo điều kiện FOB,FCA nghĩa là chỉ cần bán hàng qua lan can tầu cảng bốc hàng theo quy định là hết trách nhiệm. Như vậy quyền định đoạt về vận tải đều do người mua chỉ định và dĩ nhiên người mua sẽ chỉ định một công ty nước họ để thực hiện điều này. Và các công ty logistics Việt Nam sẽ là người ngoài cuộc. Chúng ta đang đối mặt với hệ thống hạ tầng giao thông vận tải còn rất thiếu và yếu. Điều này làm cho các chi phí logistics của Việt Nam cao hơn hẳn các nước khác. Bản thân các công ty logistics sẽ tốn nhiều chi phí đầu tư, làm giảm lợi nhuận của họ cũng như khả năng mở rộng dịch vụ. Vấn đề thương hiệu: Hiện tại Việt Nam vẫn chưa có được thương hiệu mạnh tầm cỡ khu vực chứ chưa nói gì đến tầm cỡ thế giới, về vấn đề này cần có sự hỗ trợ chặt chẽ và nhiệt tình từ phía nhà nước thì mới có thể làm được. Chúng ta cần có những thương hiệu đầu ngành làm đầu kéo cho logistics phát triển đúng hướng Nhân lực: Chúng ta đang thiếu một đội ngũ chuyên viên trong ngành logistic chuyên nghiệp và được đào tạo bài bản. Bản thân các trường đại học lớn cũng chỉ có khóa học đơn giản về ngành nghề này. Hơn bao giờ hết sự thành công bắt đầu từ con người. 4. Những thách thức đặt ra trong quá trình phát triển các dịch vụ logistics của doanh nghiệp Việt Nam Hạn định 2009 mở cửa lĩnh vực logistic không còn xa. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt Doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà. Áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp là rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các DN logistic. Một điều đáng buồn nữa là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước tuy quy mô nhỏ, manh mún nhưng lại chưa biết liên kết lại, mà kinh doanh theo kiểu chụp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh, thi nhau hạ giá dịch vụ để giành được hợp đồng. Và hình thức chủ yếu là hạ giá thành thuê container, điều này chỉ có các doanh nghiệp trong nước bị thiệt, còn doanh nghiệp nước ngoài là những người chủ tàu sẽ đóng vai trò ngư ông đắc lợi, bởi nguồn vốn nhỏ sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh,và các dịch vụ của các doanh nghiệp yếu kém. Một thực tế khác là trong khi các doanh nghiệp của ta còn đang mải “đá nhau” thì các tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới như APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics, NYK Logistics..., những tập đoàn hùng mạnh với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Một ví dụ thực tế điển hình là khi nhà máy Canon ở Quế Võ, Bắc Ninh chào dịch vụ logistics trọn gói vận chuyển phân phối sản phẩm thì NYK Logistics, LOGITEM, MOL Vietnam, Dragon Logistics đều tham gia đấu thầu. Cuối cùng doanh nghiệp thắng là doanh nghiệp chào giá dưới giá thành ở công đoạn chuyên chở bằng xe tải nặng và lấy giá vận tải biển bù lại. Như vậy, các doanh nghiệp không có tàu biển chắc chắn phải chịu thua độc chiêu này… Logistics đối với nước ta chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Do đó rất nhiều công ty giao nhận vẫn còn rất bỡ ngỡ với hoạt động này, thiếu kinh nghiệm trong phương pháp tổ chức cũng như trong nghiệp vụ. Việc ứng dụng Logistics trong các công ty giao nhận Việt Nam mang tính tự phát, theo phong trào là chính, hầu như chưa có công ty nào có kế hoạch phát triển Logistics cho mình một cách rõ ràng, cụ thể và có hiệu quả. Hầu hết các DN cung cấp dịch vụ logistics trong vận tải biển ở Việt Nam mới chỉ đóng vai trò là một nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các đối tác nước ngoài. Chưa có một DN nào của Việt Nam đủ sức để tổ chức và điều hành toàn bộ quy trình hoạt động logistics. Hiện nay, các DN Việt Nam có một điểm yếu là không kết nối được với mạng lưới toàn cầu và DN chúng ta chỉ hoạt động như những nhà cung cấp dịch vụ cấp 2; thậm chí là cấp 3, cấp 4 cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành dịch vụ toàn cầu. chúng ta mới chỉ làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ mà các DN nước ngoài giành được ngay trên thị trường Việt Nam. Gia nhập WTO, áp lực với cạnh tranh trong ngành logistics của Việt Nam ngày một cao hơn. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt DN Việt Nam trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà. Chương III. Phương hướng và giải pháp phát triển các dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp Việt Nam I. Mục tiêu phát triển các dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp Việt Nam 1. Mục tiêu cần đạt được của logistics trên bình diện quốc gia Là khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất mọi nguồn lực quốc gia trong các hoạt động vận tải, giao nhận, lưu trữ hàng hoá và những hoạt động khác có liên quan. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giao thông vận tải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của WTO và các nghĩa vụ của thành viên, bảo đảm thực hiện đúng các cam kết về mở cửa thị trường, tự do hoá dần từng bước đối với việc cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực giao thông vận tải theo các phương thức phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài Chú trọng phát triển nhanh hệ thống phân phối hiện đại theo mô hình "chuỗi” để mở rộng địa bàn theo không gian kinh tế, trong đó lấy các đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu… làm trung tâm, phát triển các kênh lưu thông đến các vùng nông thôn. Trên cơ sở tạo quy mô kinh doanh đủ lớn để tổ chức hệ thống logistics, tổng kho bán buôn, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phát triển thương mại điện tử, mở rộng hệ thống phân phối theo phương thức nhượng quyền để thương mại trong nước thực sự trở thành lực lượng vật chất có khả năng tác động, định hướng sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng phát triển. - Thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logistics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng hoá từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ (cửa hàng trực thuộc, các đại lý) trên địa bàn; - Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối quan hệ với nhau trong tiêu dùng phát triển mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu thông và giảm chi phí của xã hội do tiết kiệm được thời gian mua sắm (liên kết ngang trong khâu bán buôn thông qua việc cùng xây dựng các trung tâm giao dịch, tổng kho bán buôn, trung tâm logistics; liên kết ngang trong khâu bán lẻ thông qua việc cùng phát triển mạng lưới cửa hàng tiện lợi); 2. Mục tiêu là dựa vào khách hàng logistics của công ty nước ngoài, cung cấp toàn bộ dịch vụ logistics nội địa (khắc phục được tình trạng bẻ gãy chuỗi logistics). Xây dựng chiến lược khách hàng nhằm gia tăng thị phần vận chuyển của các công ty giao nhận VN. Nhằm tạo được nguồn hàng vận chuyển ổn định; xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để có điều kiện thuận lợi trong việc thiết kế chuỗi Logistics và giảm chi phí cho khách hàng, tăng lợi nhuận cho công ty Logistics. 3. Tiếp thu công nghệ kỹ thuật, trình độ quản lý logistics, kinh nghiệm,… khi đủ lớn mạnh về thế và lực có thể vươn ra cung cấp logistics toàn cầu. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, giữa kết cấu hạ tầng giao thông với vận tải và công nghiệp tạo thành mạng lưới giao thông vận tải hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước, liên kết các phương thức vận tải đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hoá, hành khách tăng nhanh trong giai đoạn 2007- 2012 và các năm tiếp theo 4. Mục tiêu là dựa vào bạn hàng lâu dài, dựa vào điều kiện thực tế, thị trường tiềm năng để thiết kế logistics cho một vài tuyến chính. Đầu tiên phải tìm kiếm đối tác và đại lý; nghiên cứu tổ chức hoạt động Logistics tại thị trường nước ngoài. Tiếp theo mở chi nhánh/ gửi đại diện để giao dịch. Thuê nhân viên để tổ chức hoạt động giao nhận hàng hóa tại thị trường nước ngoài. Cuối cùng là xây dựng kho/ thuê kho, đầu tư cơ sở vật chất để tổ chức hoạt động Logistics tại thị trường nước ngoài II. Phương hướng phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2010 1. Hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh: Sớm ban hành các quy định pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển logistics Các văn bản pháp luật cho hoạt động logistics. Giải thích cụ thể hóa các nội dung như: “khái niệm logistics, người kinh doanh dịch vụ logistics, …” để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ logistics của các doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật cho những lĩnh vực hỗ trợ logistics như vận tải đa phương thức, thương mại điện tử, thủ tục hải quan.. Tăng cường thể chế logistics. 2 .Về chính sách, giải pháp khuyến khích đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại Phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hòa giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của thị trường trên từng địa bàn. Đồng thời, phát triển các mô hình tổ chức lưu thông theo từng thị trường ngành hàng, phù hợp với tính chất và trình độ của sản xuất, xu hướng và phương thức thỏa mãn của tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhất là đối với các ngành hàng thuộc diện quan trọng hoặc đặc thù: củng cố hệ thống phân phối được hình thành trên cơ sở xác lập mối liên kết dọc, có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông qua quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý mua bán; thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logistics; khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối quan hệ với nhau trong tiêu dùng phát triển mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu thông và giảm chi phí của xã hội; Nhà nước can thiệp vào thị trường các ngành hàng này chủ yếu bằng quy chế về tổ chức và kiểm soát hệ thống phân phối, sử dụng các công cụ gián tiếp. 3. Phát triển giao thông vận tải Việt Nam Đầu tư duy trì, củng cố, nâng cấp và phát triển có trọng điểm cơ sở vật chất hạ tầng giao thông vận tải. Nâng cấp các công trình giao thông đường bộ hiện có, xây dựng mới một số công trình trọng điểm, từng bước xây dựng hệ thống đường cao tốc, trước hết là hệ thống nối liền các khu kinh tế trọng điểm, các trục giao thông quan trọng có lưu lượng giao thông lớn, kết nối các khu vực du lịch, các khu di tích lịch sử văn hóa đặc sắc của Việt Nam cũng như khu vực. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách và hàng hóa, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Cải tạo, nâng cấp và đồng bộ hóa mạng đường sắt hiện có, hiện đại hóa hệ thống thông tin, tín hiệu, nâng cao chất lượng dịch vụ, phấn đấu bắt kịp trình độ khu vực. Đầu tư đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống cảng biển. Hình thành một số cảng biển theo mô hình cảng mở, từng bước gia tăng dịch vụ chuyển tải. Phát triển đội tàu vận tải biển quốc gia theo hướng chuyên dùng, hiện đại. Trẻ hóa đội tàu, kết hợp việc đóng mới trong nước và mua tàu ở nước ngoài. Đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp dịch vụ hàng hải. Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp xuất khẩu dịch vụ vận tải và thuyền viên, chú trọng phát triển loại hình dịch vụ hàng hải trọn gói. Đầu tư cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa và xây dựng mới hệ thống cảng hàng không quốc tế, các cơ sở phục vụ điều hành và kiểm soát bay. Đầu tư mua sắm máy bay mới và hiện đại hóa đội bay, đủ sức cạnh tranh với thị trường hàng không khu vực. Từng bước mở cửa thị trường, thu hút sự tham gia của các hãng hàng không quốc tế. (Chỉ thị về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010) 4. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Mở các bộ môn và khoa logistics trong các trường đại học, cao đẳng kinh tế ngoại thương Tổ chức xuất bản một tờ tạp chí riêng (như tờ Việt Nam Logistics chẳng hạn) cho mình để làm diễn đàn cho các hội viên tham gia đóng góp ý kiến về các vấn đề thuộc về ngành nghề của mình, có tiếng nói với chính phủ, các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách cũng như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành logistics Việt Nam Đào tạo và chuyên môn hóa lực lượng lo thủ tục Hải quan trong các công ty giao nhận quốc tế. Xây dựng kế hoạch, cử người đi tham quan, học hỏi ở nước ngoài, có chính sách đãi ngộ tốt và xứng đáng với các nhân viên giỏi chuyên môn, kỹ thuật. Đào tạo và tái đào tạo nguồn lực hiện có, thu hút lao động từ xã hội có trình độ đại học, cao đẳng chuyên ngành liên quan, am tường ngoại ngữ, có kiến thức địa lý, ngoại thương, cập nhật thường xuyên kỹ thuật mới trong nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế. Các công ty cần có chương trình hỗ trợ sinh viên thực tập, thuyết trình về thực tiễn hoạt động ngành hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới cho sinh viên. Các công ty phải có đóng góp vật chất cụ thể cho đào tạo, hỗ trợ chuyên môn cho các trường nếu muốn sử dụng sinh viên tốt nghiệp từ những trường này. III. Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam. 1. Những thách thức đối với ngành logistics Việt Nam. Tại Việt Nam thị trường logistics là một mảng thị trường khá mới mẻ, mặc dù logistics đã phổ biến trên thế giới hàng trăm năm nay. Theo tính toán cho thấy, chi tiêu hàng năm của một quốc gia cho mảng logistics là rất lớn. Các nước Châu Âu và Mỹ là những nước có nhiều kinh nghiệm về chuỗi quản lý logistics thì chi tiêu cho logistics cũng chiếm gần 10% GDP. Ở Trung Quốc thì chi tiêu cho Logistics chiếm gần 19%. Phải nói thẳng thắn rằng ở Việt Nam, ngành logistics chưa được coi trọng tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Các doanh nghiệp vận tải Việt Nam thì chỉ mới dừng lại ở một trong rất nhiều chuỗi Logistics là hình thức giao nhận vận tải, cho thuê kho bãi và vận chuyển nội địa. Tầm cỡ của các công ty Việt Nam trong lĩnh vực này là rất yếu và thiếu chuyên nghiệp.Ngành logistic tại Việt nam hiện đang phát triển rất nhanh, thực tế họat động ngành đã đi nhanh hơn các qui định luật pháp. Cùng với các chính sách hổ trợ của chính phủ, các doanh nghiệp logistic Việt Nam cũng cần phải nổ lực hơn, chuyên nghiệp hơn để có thể cạnh tranh tốt trong thời gian sắp tới và đóng góp  chung vào việc phát triển của  ngành nói riêng và nền kinh tế Việt nam nói chung. Hiệp hội hy vọng ngày càng có nhiều thành viên gia nhập đại gia đình VIFFAS để cùng chung sức, chung lòng, góp phần đưa ngành logistics Việt nam hội nhập và phát triển ngày càng tốt hơn. Khái niệm logistics, theo ESCAP, là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và bao gồm cả vận chuyển các tài nguyên - yếu tố đầu vào và đầu ra  từ nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, chỉ riêng họat động logistics đã chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Binh Dương.Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả họat động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước. Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài toán đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ…logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thế nhưng các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mất thị phần nội địa. Sự bình đẳng trong kinh doanh cuối cùng được đo bằng vốn. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam đều được xếp vào loại vừa và nhỏ, thậm chí rất nhỏ. Do vậy, cơ hội thắng thầu đều thuộc về các doanh nghiệp lớn, có tính chuyên ngành logistics cao, có mạng lưới cung cấp dịch vụ toàn cầu. Đối với thị trường nước ngoài, hiện các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn chưa có văn phòng đặt tại nước ngoài, và cũng chưa có doanh nghiệp nào tham gia thầu cung ứng dịch vụ tại nước ngoài nên xét trên nhiều mặt thì cơ hội xuất khẩu dịch vụ rất hạn chế. Thêm vào đó, hệ thống pháp luật của Việt Nam đang được điều chỉnh để ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và phù hợp với cam kết trong gia nhập WTO. Tuy nhiên vẫn có sự chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Trong khi đó, các doanh nghiệp cũng chưa nắm vững luật pháp quốc tế, luật pháp của các quốc gia mà dịch vụ logistics Việt Nam có thể liên quan tới. Đây cũng là một nguy cơ tiềm ẩn khả năng thua thiệt trong kinh doanh. Hiểu biết pháp luật để áp dụng là một điều không thể thiếu trong kiến thức kinh doanh ngành logistics 2. Nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không có sự bảo hộ của nhà nước, muốn đứng vững thì không có một giải pháp nào hữu hiệu hơn là các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng dịch vụ mà mình cung cấp cho khách hàng, thu hút khách hàng dễ hơn nhiều so với giữ khách hàng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ mà mình cung cấp, các doanh nghiệp cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng đã có, hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ, mua sắm các trang thiết bị mới, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dịch vụ cung cấp cho khách hàng về vận chuyển , kho bãi… 3. Mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ vận tải giao nhận, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng để dần hướng tới phát triển toàn diện mô hình logistics. Là giải pháp hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp tổ chức tốt các dịch vụ cung ứng cho khách hàng sẽ giúp nhà sản xuất kinh doanh tiết kiệm kho bãi, nhân sự, phương tiện vận chuyển, trong các cung đoạn của dòng lưu chuyển hàng hóa (nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm) Phát triển toàn diện mô hình logistics là giải pháp hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận của Việt Nam hiện nay. Xu hướng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận cần tập trung vào 3 khâu chính là: Đảm nhận việc đóng gói, phân loại hàng hoá cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời cung cấp dịch vụ kiểm kê, phân phối hàng hoá đến đúng địa chỉ tiếp nhận; cuối cùng, đầu tư, xây dựng hợp lý, có hiệu quả hệ thống kho bãi của doanh nghiệp... 4. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý và khai thác. Phải nói rằng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin của Việt Nam nói chung, ngành logistics nói riêng còn nhiều bất cập. Các trang Website của các cơ quan chuyên ngành logistics chưa thực sự mạnh, chưa thực sự hỗ trợ nhiều cho doanh nghiệp, dữ liệu thông tin còn chưa phong phú, chưa đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nhiều khi các trang Website ở nước ngoài lại chứa đựng nhiều thông tin về Việt Nam hơn hẳn những Website trong nước. Đặc biệt các công ty trong nước thì chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về công ty mình, những dịch vụ mà mình có. Những tiện ích dành cho khách hàng như hệ thống (Track and Trace) tìm kiếm cơ sở dữ liệu của lô hàng hầu như không doanh nghiệp nào làm được. Phải xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, cơ sở dữ liệu phải mạnh để nó thật sự giúp ích là cầu nối giữa cộng đồng logistics Việt Nam và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin trong họat động logistics. Thực hiện các phương pháp công nghệ logistics tiên tiến như quản trị chuỗi cung ứng (supply chain management-SCM) hay giao hàng đúng thời điểm (JIT), trong thiết kế luồng vận tải nhiều chặng và sắp xếp các công đoạn trong dây chuyền cung ứng dịch vụ logistics 5. Liên doanh, liên kết với các công ty logistics nước ngoài. Logistics còn là một lĩnh vực mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì vậy việc ứng dụng còn rất sơ sài và đơn lẻ cho nên chưa phát huy được hiệu quả của logistics. Thực tế hiện nay chưa một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nào trở thành người cung cấp dịch vụ logistics theo đúng nghĩa của nó, mà hoạt động chủ yếu là đại lý cho hãng kinh doanh logistics nước ngoài, có mọt số công ty liên doanh với Việt Nam theo chương trình khai thác dịch vụ logistics, xong về phía Việt Nam trong liên doanh hoàn toàn yếu thế về kiến thức, kinh nghiệm tổ chức và quản lý… Khi chưa đủ năng lực và điều kiện cung ứng đầy đủ, trọn gói dây chuyền dịch vụ logistics cho khách hàng các doanh nghiệp phải mở rộng hoạt động liên doanh, liên kết các công ty, các tập đoàn logistics nước ngoài để có thể tận dụng và học hỏi công nghệ hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến, vốn và thị trường nước ngoài.Qua hợp tác ,liên doanh , liên kết dưới nhiều hình thức sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm tạo điều kiện có thể phát triển logistics một cách hoàn toàn độc lập, không phải chỉ ở thị trường trong nước mà vươn ra thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới trong thời gian không xa. 6. Tăng cường hoạt động Marketing nhằm thu hút khách hàng. Hoạt động Marketing của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong thời gian qua chưa được các doanh nghiệp quan tâm và phát triển thích đáng. Các hình thức triển khai còn đơn giản, tên doanh nghiệp, nội dung, nội dung nghiệp vụ kinh doanh chỉ được đăng tải trong một vài kỳ của tạp chí ngành, báo…Vì vậy phần nào cũng hạn chế việc thu hút khách hàng của doanh nghiệp. Để phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thu hút được khách hàng thì việc tăng cường hoạt động Marketing phải được xem là hoạt động ưu tiên hàng đầu đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận hiện nay. Các doanh nghiệp cần Thiết lập và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các văn phòng đại diện và các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam. Thường xuyên giữ liên hệ tốt với các cơ quan thương vụ và các tổ chức quốc tế của nước ngoài tại Việt Nam cũng như của Việt Nam tại nước ngoài để khai thác thông tin về các hợp đồng thương mại và đầu tư nhằm mục đích khai thác nhu cầu dịch vụ vận tải và giao nhận. Có kế hoạch tham quan, khảo sát để tìm tòi và học hỏi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng theo những tiêu chuẩn quốc tế. Nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc mở các văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài để khai thác và mở rộng thị trương kinh doanh C.Kết Luận Ngày 11/01/2007 Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO. Đã tạo ra những cơ hội mới và cũng kèm theo nhiều thách thức. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác, thông qua các cam kết mở cửa thị trường. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy Việt Nam là một điểm đến lý tưởng để đầu tư kinh doanh, sản xuất. Việt Nam có được lợi thế giá nhân công rẻ, chính trị ổn định, vị trị địa lý rất thuận lợi trong việc vận tải hàng hóa quốc tế vv. Tuy nhiên để ngành Logistics phát triển kịp với tốc độ phát triển kinh tế thì chúng ta còn rất nhiều điều phải làm. Chính phủ cần phải xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại đủ thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đường sắt cũng như đường hàng không. Khi làm được điều này thì chắc chắn Việt nam sẽ còn thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn nữa. Không phải ngẫu nhiên mà trong 10 năm trở lại đây lĩnh vực Logistics ở Việt Nam lại phát triển mạnh đến như vậy. Đây là một điều tất yếu, theo quy luật cung‐cầu. Khi các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam xuất hàng đi thì việc đầu tiên là họ nghĩ đến một công ty Logistics có khả năng cung cấp cho họ những dịch vụ tốt nhất và các hãng tàu, các công ty Logistics Việt Nam thì chưa đủ sức làm những việc này một cách bài bản. Miếng fomát Logistics ngon một lần nữa lại thuộc về các công ty nước ngoài. Cơ sở hạ tầng của chúng ta chưa phát triển nên chi phí vận tải luôn cao hơn so với các nước trong khu vực, một lý do đơn giản là khi hàng hóa từ Việt Nam xuất đi quốc tế phải qua cảng trung chuyển và sẽ bị mất thêm nhiều chi phí khác. Một khi chúng ta có hệ thống cầu cảng bến bãi hiện đại tầm cỡ trong khu vực thì chúng ta sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình và sẽ giảm bớt được thời gian và chi phí vận chuyển, mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành Logistics. D.Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế Thương mại (Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân) NXB Thống Kê năm - 2003 Giáo trình Quản trị chiến lược (Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân) NXB Thống Kê năm - 2003 Giáo trình Quản trị doanh nghiệp Thương mại (Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân) NXB Lao Động – Xã Hội -2005 Những Văn bản pháp luật kinh tế (Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân) NXB Lao Động – Xã Hội – 2006 Logistics – Khả năng ứng dụng và phát triển trong kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Như Tiến NXB Giao thông vận tải Hà Nội – 2006 Nghị định của Chính Phủ số 140/2007/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2007 Quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Một số Website về Thương mại, Kinh tế, Xã hội … …………………………….. Và một số website khác có liên quan. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp phát triển các dịch vụ Logistics của các Doanh nghiệp VN.DOC
Luận văn liên quan