Qua phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, ta thấy
hoạt động của QTD tương đối tốt, có hiệu quả và mang lại lợi nhuận, mặc dù
trong năm qua QTD gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, lợi nhuận chủ yếu của
QTD là từ hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang nhiều rủi ro.
Qua phân tích và đánh giá tình hình cho vay mua, xây dựng và sửa
chữa nhà ở tại QTDND xã Vân Diên cho thấy hoạt động này đã góp phần vào
việc cung cấp, bổ sung, hỗ trợ vốn cho các hộ dân trong việc xây dựng, sửa
chữa nhà ở, làm thay đổi diện mạo chung của tỉnh, và thúc đẩy nền kinh tế
phát triển theo xu hướng chung của đất nước.
Mặc dù năm 2011, nền kinh tế của tỉnh nói riêng và kinh tế cả nước nói
chung gặp nhiều khó khăn (tình hình lạm phát tăng cao ) nhưng nhìn chung
dư nợ của QTD vẫn tăng, trong đó dư nợ cho vay xây dựng và sửa chữa nhà
tăng tương đối cao, kết quả này đã nói lên sự cố gắng của Ban Giám đốc cùng
toàn thể cán bộ - nhân viên của chi nhánh trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2470 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạn chế rủi ro trong cho vay xây dựng nhà tại Quỹ tín Dụng Nhân Dân Xã Vân Diên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các yếu tố khác để
dẫn đến nợ xấu và nợ quá hạn tăng cao.
- Thường xuyên cập nhật thông tin về khách hàng thông qua trung tâm
thông tin tín dụng của Hội sở (CIH), NHNN các tỉnh và NHNN Việt Nam
(CIC), từ các cơ quan quản lý khách hàng.
- Cán bộ tín dụng thực hiện tốt các quy định, quy trình tín dụng. Tờ trình
thẩm định thể hiện rõ các chỉ tiêu đánh giá tín dụng, tuân theo tiêu chuẩn cấp
tín dụng 6C: Tư cách người vay (Character), Năng lực của người vay
(Capacity), Thu nhập của người vay (Cash), Bảo đảm tiền vay (Collateral),
Các điều kiện (Conditions), Kiểm soát (Control). Thực hiện chấm điểm tín
dụng thông qua bảng phân loại xếp hạng tín dụng khách hàng. Do vậy chất
lượng tín dụng đã được nâng lên đáng kể.
- Hầu hết các khoản vay xây dựng nhà ở đều có tài sản thế chấp, việc
thẩm định tài sản thế chấp được tiến hành theo đúng pháp luật, định giá tài
sản theo khung giá nhà nước. Nên hạn chế được phần nào rủi ro.
- Tăng cường công tác quản trị rủi ro, thực hiện nghiêm ngặt mô hình
quản lý tín dụng tại chi nhánh theo công văn số 1821/NHN-TD ngày
28/12/2007 về việc chỉnh sửa mô hình bộ máy quản ký tín dụng tại chi nhánh,
phòng giao dịch theo định hướng lập thêm phòng quản lý rủi ro và hỗ trợ kinh
doanh. Thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động của QTD
- Tăng cường giám sát và xử lý nợ sau khi cho vay nhằm phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những rủi ro có thể xảy ra, đôn đốc khách hàng thanh toán
nợ khi phát hiện nợ quá hạn, nợ xấu. Đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ từ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 29
chính quyền địa phương và các ngành chức năng có liên quan phục vụ cho xử
lý nợ.
- Đối với các khoản quá hạn, nợ xấu QTD thực hiện phân tích rõ nguyên
nhân tình hình thực tế từng khoản vay có biện pháp xử lý thích hợp cho từng
trường hợp cụ thể. Khởi kiện, bán đấu giá, tìm người mua tài sản…kể cả việc
sử dụng dự phòng để xử lý và xem xét đến trường hợp được miễn giảm.
- Trong cho vay xây dựng nhà ở QTD thực hiện giải ngân từng lần phù
hợp với tiến độ thi công và mức độ hoàn thành của công trình nhằm giám sát,
kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng tránh tình trạng sử dụng
vốn sai mục đích, không xây cất nhà đúng như trong bản vẽ cũng như trong
giấy phép xây dựng đã đăng ký.
- Bộ phận kiểm soát tín dụng, tín dụng nội bộ đã tăng cường công tác
kiểm tra kiểm soát theo quy định, mọi công đoạn trong công tác tín dụng đều
phải có người giám sát việc tuân thủ chấp hành quy định, quy trình tín dụng.
Nhằm phát hiện sai sót trong việc chấp hành quy định, quy trình tín dụng, để
kịp thời chấn chỉnh những sai sót, có biện pháp quản lý tốt hơn.
2.3.7 Kết quả đạt được:
Trong những năm qua mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt
động nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ cũng như sự lãnh đạo
kinh nghiệm của Ban Giám đốc, Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở xã Vân Diên
luôn đạt được chỉ tiêu trên giao, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Từ năm 2009-2011, Quỹ tín dụng đã mở thêm được 2 phòng giao dịch tại
2 xã Nam Nghĩa và Nam Lộc, tạo điều kiện thu hút ngày càng nhiều khách
hàng, đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngày càng phát triển. Uy tín của
Quỹ tín dụng cũng như các phòng giao dịch ngày một củng cố và nâng cao,
thị phần của Quỹ tín dụng ngày càng được mở rộng, tạo được nhiều lòng tin
đối với khách hàng, tạo được mối quan hệ giữa Quỹ tín dụng và khách hàng
ngày càng tốt đẹp hơn.
Kết quả kinh doanh của Quỹ tín dụng trong 3 năm qua tăng dần, thu nhập
đều tăng, lợi nhuận tăng, kết quả huy động vốn cũng tăng sẵn sàng đáp ứng
một cách nhanh chóng các nhu cầu vay vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư
tham gia sản xuất.
Cụ thể qua 3 năm 2009-2011, theo bảng 1.2 ở phần trước, vốn huy động
không ngừng tăng, năm 2010 tăng 21.215 triệu đồng so với năm 2009 và năm
2011 tăng 42.555 triệu đồng so với năm 2010.
Theo bảng 1.3 ở phần trước, doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ tại Quỹ tín
dụng đều tăng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt là doanh số
cho vay trong năm 2009 chỉ giải ngân cho vay 69.474 triệu đồng, nhưng năm
2010 là 86.967 triệu đồng, đến năm 2011 đã giải ngân cho vay 128.701 triệu
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 30
đồng tăng lên 41.734 triệu đồng so với năm 2010. Về thu nợ, năm 2010 doanh
số thu nợ là 78.626 triệu đồng tăng 19.235 triệu đồng so với năm 2009. Năm
2011 là 110.383 triệu đồng tăng 31.757 triệu đồng so với năm 2010. Về dư
nợ, năm 2010 là 44.591 triệu đồng tăng 8.341 triệu đồng so với năm 2009.
Năm 2011 là 62.910 triệu đồng tăng 18.319 triệu đồng. Về nợ quá hạn, tuy
năm 2010 nợ quá hạn có tăng so với năm 2009 nhưng sang năm 2011, số nợ
quá hạn đã giảm hẳn từ 217 triệu đồng xuống chỉ còn 54 triệu đồng so với
năm 2010. Điều này thể hiện công tác thu hồi nợ của cán bộ tín dụng khá
nhiệt tình đạt hiệu quả cao.
Các sản phẩm tín dụng mà Quỹ tín dụng cung cấp khá phong phú, nhất là
dành cho khách hàng cá nhân, đó là cho vay phát triển chăn nuôi, xây dựng
nhà ở, cho vay tín chấp dựa trên thu nhập người vay, cho vay kinh doanh dịch
vụ, cho vay đi xuất khẩu lao động…
Quỹ tín dụng có đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, năng lực, đầy nhiệt tình.
Đặc biệt là cán bộ tín dụng thì công việc tín dụng sẽ thuận lợi hơn và phát
triển hơn rất nhiều. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của đôi ngũ cán bộ
đều được tiến hành theo kế hoạch, cán bộ nhân viên nhiệt tình hưởng ứng,
quán triệt tư tưởng, năng nổ tích cực trong công việc và hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Hoạt động tín dụng của Quỹ tín dụng đã góp phần quan trọng trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi của địa phương, góp phần trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo của Huyện. Mặt khác xu hướng tín dụng tăng
và phân bố thích hợp với cơ cấu thành phần khách hàng đã phản ánh rõ vai trò
của Quỹ tín dụng ngày càng tham gia mạnh vào quá trình đổi mới kinh tế, đáp
ứng các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế.
2.3.8 Hạn chế
Tuy nhiên trên địa bàn tỉnh có nhiều tổ chức tín dụng cùng hoạt động,
trong đó nhiều tổ chức tín dụng mới là các ngân hàng thương mại cổ phần,
các Quỹ tín dụng nhân dân, đối tượng cạnh tranh thâm nhập thời gian đầu của
họ chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì thế làm cho sức cạnh
tranh của Quỹ tín dụng đối với hoạt động tín dụng ngày càng gay gắt hơn.
Bên cạnh đó thì sản phẩm và dịch vụ của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở xã Vân
Diên chưa đa dạng, lãi suất chưa thật sự phù hợp theo cơ chế thị trường điều
đó cũng ảnh hưởng đến tình hình tín dụng của Quỹ. Hơn nữa Quỹ chưa đáp
ứng đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu vốn của kinh tế hộ, của nền kinh tế. Coi giá
trị tài sản bảo đảm tiền vay là điều kiện tiên quyết khi xem xét cho vay mà
không tính đến hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của người vay. Chính điều
này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Quỹ. Cụ thể hơn:
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 31
- Đầu tư tín dụng góp phần cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn chưa toàn
diện và đồng bộ, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ
trọng dưới 15% tổng dư nợ là quá thấp so với chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao.
Đối với cho vay dài hạn thì Quỹ chưa đáp ứng được. Từ đó, Quỹ chưa khai
thác được tiềm năng của thị trường vốn ở địa bàn.
- Sản phẩm dịch vụ của Quỹ tín dụng còn nghèo nàn, thiết bị công nghệ lạc
hậu, hoạt động makerting tuy có cố gắng cải thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa
thu hút được khách hàng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư.
- Chương trình vi tính chỉ mới phục vụ cho yêu cầu công tác kế toán nhưng
vẫn chưa được kịp thời, bộ phận kế toán thường xuyên làm việc 1 ngày trên
10 giờ, tin học chưa đáp ứng được yêu cầu công tác tín dụng và công tác điều
hành.
- Hiện nhu cầu vay vốn của khách hàng trên địa bàn này là rất lớn, nhất là
các doanh nghiệp nhỏ, các nhà kinh doanh buôn bán, nhưng do một số hạn
chế về tài sản thế chấp, bảo đảm mà khách hàng vay vốn không đáp ứng đủ
nhu cầu. Quỹ cho vay các doanh nghiệp nhỏ còn rất ít, trong khi vay cá nhân,
hộ sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ.
- Mặc dù Quỹ tín dụng có sự đầu tư vốn đúng hướng nhưng công tác thu
nợ còn một số hạn chế, đây là vấn đề Quỹ cần quan tâm đúng mức, tìm biện
pháp giải quyết để Quỹ hoạt động tốt hơn trong tương lai.
- Chưa thực sự có giải pháp hợp lý rủi ro toàn diện trong điều kiện hoạt
động ở nông thôn, còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thời gian (mùa vụ,...) và
thiên tai.
- Các loại hình sản phẩm dịch vụ của Quỹ thực hiện còn ít, chưa ngang tầm
với nhu cầu phát triển hiện nay.
2.4. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng trong cho vay xây
dựng nhà tại QTDND xã Vân Diên:
QTD ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh
tế hàng hoá, để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…, phục
vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá
nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt động QTD
chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được.
Sau đây là một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay xây dựng nhà
ở của QTDND xã Vân Diên
2.4.1. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan:
a. Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật,
văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 32
Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động QTD
thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một
số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy
định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, QTD có quyền xử lý
tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, QTD không làm được điều này vì QTD
là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có
chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân
hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua
con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng QTD
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Để có thể thu hồi được các khoản nợ quá hạn, nợ xấu, QTD thường tiến
hành bán đấu giá tài sản thế chấp. Tuy nhiên để có thể tiến hành bán đấu giá
tài sản thế chấp đúng pháp luật, QTD phải làm các thủ tục pháp lý cần thiết
theo đúng quy định pháp luật. Trong quá trình đó, QTD phải mất một khoảng
thời gian dài thông thường là một năm. Điều đó có thể làm cho tài sản đảm
bảo nợ vay bị xuống cấp, giá tài sản giảm so với ban đầu khi thẩm định khiến
QTD không thể thu hồi được đầy đủ các khoản nợ.
b. Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về
doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC)
của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình
hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh
nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu
cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống QTD trong việc mở rộng và
kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông
tin tương xứng. Nếu các QTD cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ
nợ xấu cho hệ thống QTD.
2.4.2. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan:
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Đối tượng khách hàng là các hộ nông dân, thu nhập thường bấp bênh,
không ổn định, phụ thuộc vào biến động của thị trường, điều kiện khí hậu,
thời tiết. Do thiên tai, lũ lụt, làm năng suất sản xuất không cao, hoặc do biến
động của thị trường giảm giá thành sản phẩm, tăng chi phí, làm lợi nhuận
không cao, thu nhập của người dân không ổn định gây thiệt hại cho người dân
và gây rủi ro cho QTD.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: đa số khách hàng khi vay vốn
QTD đều có các phương án vay vốn cụ thể, phương án trả nợ khả thi. Tuy
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 33
nhiên, trong quá trình sử dụng vốn vay có một số khách hàng đã sử dụng vốn
sai với mục đích vay vốn.
- Nhu cầu vốn vay của khách hàng vay xây dựng nhà ở quá cao so với các
điều kiện về bảo đảm tiền vay của QTD nên đã có nhiều phương án, dự án
không thực hiện được và QTD khó có thể cho vay hoặc nếu cho vay thì QTD
sẽ gặp nhiều rủi ro.
b. Nguyên nhân từ phía QTD:
- Lãi suất cho vay thường cao hơn các ngành nghề khác: Do loại hình cho
vay xây dựng nhà có thời hạn là trung - dài hạn, nên đây là loại hình rủi ro
cao. Chính vì thế QTD thường áp dụng mức lãi suất cho vay rất cao so với
các ngành nghề khác nên khi người vay gặp khó khăn thì việc lãi suất cho vay
cao sẽ càng gây khó khăn hơn cho khách hàng trong việc trả nợ gốc và nợ lãi
cho QTD.
- Đối với hình thức cho vay có tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay,
QTD thiếu sự giám sát chặt chẽ đối với tài sản hình thành từ vốn vay. Do
không có đủ điều kiện để theo dõi sát sao tiến độ thi công, số lượng vật tư,
hàng hóa tham gia vào dự án. Nên có một số khách hàng đã nâng không số
lượng, giá trị so với thực tế. Kết quả là giá trị đích thực của tài sản hình thành
từ vốn vay giảm. Vì vậy, nếu QTD có áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ thì giá trị tài sản có khả năng xử lý thu hồi nợ là rất thấp so
với số vốn QTD đã đầu tư. Và như vậy rủi ro, tổn thất cho QTD là rất lớn.
- Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các cán bộ tín dụng thường
có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay
mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi QTD
cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm
bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng
nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của QTDND nói chung. Việc theo dõi
hoạt động của khách hàng vay nhằm buộc khách hàng tuân thủ các điều khoản
đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và QTD, từ đó có thể hạn chế
được rủi ro tín dụng. Tuy nhiên trong thời gian qua QTD thực hiện chưa được
tốt công tác này, và còn nhiều thiếu sót. Điều này một phần do yếu tố tâm lý
ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ QTD, một phần do hệ thống
thông tin quản lý phục vụ còn lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ
các thông tin mà QTD yêu cầu.
- Công việc quản lý nợ và đôn đốc khách hàng trả nợ không được cán bộ
tín dụng và cán bộ quản lý thực hiện liên tục.
- Cán bộ tín dụng ở QTD còn thiếu, đa số là các cán bộ trẻ nên thiếu kinh
nghiệm trong quá trình thẩm định. Trong quá trình thẩm định khách hàng đôi
khi cán bộ tín dụng còn chưa sâu sát, còn chủ quan thậm chí có trường hợp
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 34
chỉ chú trọng vào tài sản thế chấp, chưa chú trọng vào việc thẩm định phương
án kinh doanh, phương án trả nợ của khách hàng có khả thi hay không. Đối
với một số khách hàng mới, cán bộ tín dụng không nắm bắt được hoàn cảnh
và khả năng trả nợ vay của họ. Đối với khách hàng cũ vay lại, công tác thẩm
định lại mang tính chủ quan, thiếu cẩn trọng, làm sai quy trình.
- Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin
không đầy đủ dẫn đến việc cho vay không hiệu quả. Công tác bám sát địa bàn,
theo dõi việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay không còn
hạn chế.
- Nợ xấu phát sinh một phần là do tình hình cạnh tranh giữa các tổ chức
nên QTD quá chú trọng đến yếu tố tìm kiếm khách hàng, đặt lợi nhuận lên
cao hơn mức độ rủi ro của các khoản vay.
Tóm lại, rủi ro tín dụng luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của
QTD và phát sinh từ rất nhiều nguyên nhân, có thể do nguyên nhân chủ quan
hoặc khách quan. Tùy thuộc vào phương pháp quản lý tín dụng của QTD có
hiệu quả hay không mà rủi ro tín dụng nhiều hay ít. QTDND xã Vân Diên
cũng không ngoại lệ, tuy nhiên rủi ro tín dụng trong QTD là khá thấp, do có
sự quản lý tốt trong hoạt động tín dụng.
2.5 Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay xây dựng
nhà tại QTDND xã Vân Diên
2.5.1 Định hướng phát triển của QTDND xã Vân Diên trong năm 2012
* Mục tiêu hoạt động:
- Giữ vững vai trò chủ đạo, chủ lực, thực hiện đầu tư có chọn lọc trên thị
trường nông nghiệp, nông thôn đồng thời cũng cố phát triển thị trường, thị
phần.
- Tăng trưởng ổn định, an toàn.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ Quỹ tín dụng.
- Đào tạo nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả kinh doanh của Qũy tín
dụng nhằm tăng thêm năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh.
* Định hướng phát triển của Quỹ tín dụng:
- Mở rộng địa bàn hoạt động sang các xã cận kề đó là Thị trấn, Nam Tân
theo quy định của pháp luật.
- Mở dịch vụ chuyển tiền trong nước.
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ công nhân viên trong mọi công tác,
nhất là công tác huy động vốn, nắm các gia đình có Việt Kiều và thân nhân ở
nước ngoài vận động chuyển tiền qua Western Union, mở rộng tín dụng đi đôi
với mức độ an toàn và nâng cao chất lượng làm hàng đầu.
- Cương quyết tất cả các món cho vay mới tuyệt đối không để nợ quá hạn
phát sinh.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 35
- Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo và giúp đỡ của cấp ủy Đảng, chính
quyền các cơ quan ban ngành các cấp, Quỹ tín dụng cấp trên để hỗ trợ và tạo
điều kiện cho hoạt động kinh doanh đúng hướng, có hiệu quả.
- Phân công lãnh đạo từng phòng, bộ phận. Tăng cường kiểm tra, đánh
giá việc thực hiện, đồng thời để rút kinh nghiệm và làm tốt việc xây dựng kế
hoạch tháng, quý, đi đôi với việc thi đua khen thưởng, kỷ luật kip thời.
- Hiện nay tình trạng quá tải công việc đối với cán bộ tín dụng cần phải
được xem xét. Một số cán bộ phải phụ trách với rất nhiều hộ nên gây khó
khăn cho việc kiểm tra và tìm hiểu khách hàng làm cho hiệu quả hoạt động
kinh doanh của đơn vị phát triển chưa cao. Do đó cần tăng thêm cán bộ tín
dụng để việc quản lý món vay có chất lượng hơn.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ, phong cách làm việc…để khách
hàng thấy rõ hình ảnh tốt đẹp của Quỹ tín dụng nhằm tạo sức cạnh tranh với
các đơn vị khác.
- Việc đầu tư vốn đối với nông nghiệp nông thôn rủi ro rất lớn vì vậy cần
phải thẩm định, tái thẩm định, kiểm tra, kiểm soát đầu tư có hiệu quả kinh tế -
xã hội cao, an toàn vốn, rủi ro ít.
Là một Qũy tín dụng mục tiêu hàng đầu của Quỹ là kinh doanh có hiệu
quả mang lại lợi nhuận cao. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là kết quả tốt
nhất để đánh giá hiệu quả đầu tư vốn tín dụng của Quỹ tín dụng. Bên cạnh đó
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở xã Vân Diên còn thực hiện nhiệm vụ của một
Quỹ tín dụng đi đầu trong quá trình cung cấp vốn cho phát triển sản xuất nông
nghiệp và nông thôn trên địa bàn, nên hiệu quả đầu tư tín dụng của Quỹ gắn
liền với quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn.
Giữa đầu tư tín dụng của Quỹ tín dụng và sự phát triển sản xuất nông
nghiệp có mối quan hệ tương hỗ thể hiện qua sự phát triển sản xuất nông
nghiệp và nông thôn cần có vốn tín dụng đầu tư, tài trợ của Quỹ tín dụng và
thành quả của quá trình đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn
sẽ cho thấy đồng vốn tín dụng của Quỹ đầu tư có hiệu quả, đúng hướng, hợp
lý sẽ thúc đẩy tăng trưởng nguồn vốn tín dụng của Quỹ.
Do đó để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở xã Vân Diên không chỉ đòi hỏi những nỗ lực của bản
thân trong việc cung nguồn vốn hiệu quả, kịp thời, quản lý nguồn vốn chặt
chẽ tạo mọi điều kiện cho khách hàng tiếp cận với nguồn vốn của Quỹ, mà
còn phải có sự phối hợp của chính quyền địa phương, các ban ngành có liên
quan trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và nông thôn.
Sau đây là một số biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở xã Vân Diên.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 36
2.5.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay
xây dựng nhà ở:
Chúng ta đều nhận thấy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không chỉ ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của QTD mà kéo theo là một quá trình xử lý
phức tạp, kéo dài thậm chí gây ra sự mệt mỏi về tâm lý. Do vậy giải pháp
phòng ngừa rủi ro tín dụng là biện pháp tối ưu mà mỗi QTD cần lựa chọn.
Sau đây là một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay
xây dựng nhà.
a. Đối với QTDND:
- QTDND phải luôn coi trọng công tác tín dụng và phẩm chất cán bộ tín
dụng. Có chính sách chi tiết rõ ràng, phân quyền phán quyết cụ thể, quy định
rõ chức năng nhiệm vụ cho từng bộ phận liên quan đến việc cho vay, thu nợ
thậm chí là xử lý nợ, …
Hiên nay, một số QTDND đã ban hành sổ tay tín dụng có chất lượng,
mang lại hiệu quả tốt trong hoạt động tín dụng, tạo điều kiện tốt cho hoạt
động tín dụng.
- Thực hiện đúng quy trình, nghiệp vụ từ khi xét duyệt cho vay tới khi thu
hồi nợ, xử lý nợ. Luôn coi trọng công tác kiểm tra kiểm soát tại các tổ chức
tín dụng, thậm chí nội bộ chi nhánh nên tổ chức các đoàn kiểm tra chéo, thực
tế việc tổ chức kiểm tra cheo đã cho kết quả tích cực.
- Luôn nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Việc bổ
nhiệm các chức danh liên quan đến công tác cho vay phải thực sự khách quan,
đúng quy trình, lựa chọn người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự. Việc bố
trí cán bộ tín dụng phải được chọn lọc và phù hợp với năng lực thực tế cũng
như lĩnh vực công việc được phân công.
- Cần quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ
vào kết quả công tác của họ để có đãi ngộ, đối xử công bằng:
- Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả
về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ mang lại, kể cả việc nâng
lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm nhiệm ở vị trí cao hơn; đối với cán bộ có
sai phạm, tuỳ theo tính chất, mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc
phải xử lý kỷ luật. Có như vậy, không những kỷ cương trong hoạt động tín
dụng và uy tín của TCTD sẽ ngày càng nâng cao mà chất lượng tín dụng chắc
chắn sẽ được cải thiện đáng kể.
- Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay
sau khi cho vay.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 37
- Một trong những giải pháp hữu hiệu là bản thân cán bộ liên quan đến
công tác cho vay phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp.
b. Đối với việc nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay:
- Khi nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay, TCTD
cần phân loại khách hàng và vận dụng linh hoạt điều kiện về mức vốn tự có
của khách hàng tham gia vào dự án cho phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể:
+ Nếu là khách hàng truyền thống, có uy tín với TCTD thì chỉ cần có mức
vốn tự có tham gia vào dự án bằng 15% tổng giá trị dự án đầu tư là TCTD có
thể nhận tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm để xem xét cho
vay.
+ Nhưng nếu là khách hàng mới quan hệ tín dụng, hoặc khách hàng ít tín
nhiệm hơn thì tuỳ từng trường hợp mà tỷ lệ trên cần áp dụng ở mức cao hơn.
Như vậy, không những vừa tạo ra được sự thông thoáng cần thiết, nhưng
đồng thời cũng gắn trách nhiệm của khách hàng với tài sản nhiều hơn để khi
cần xử lý tài sản thu hồi nợ đỡ bị thiệt thòi cho TCTD.
- Cần tăng cường quản lý tài sản hình thành từ vốn vay, đặc biệt là vật tư
hàng hoá tham gia vào dự án thông qua khâu thanh toán vốn. Muốn vậy, khi
cho vay TCTD nên thoả thuận với khách hàng cho vay theo dự án, giải ngân
thanh toán trên cơ sở chứng từ, hoá đơn liên quan đến giá cả vật tư, hàng hoá
tham gia vào dự án nhưng phải được kiểm soát chặt chẽ.
- Khi cần thiết có thể tiến hành kiểm tra, đối chiếu giữa số liệu trên chứng
từ, hoá đơn với thực tế phát sinh nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng
nâng khống số lượng, giá trị vật tư, hàng hoá để tham ô, lợi dụng.
c. Bán các khoản nợ quá hạn cho công ty mua bán nợ:
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa
IX đã xác định : “Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các
khoản nợ không có khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với ngân sách
nhà nước và ngân hàng đồng thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát.
Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp nhà
nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện để lành mạnh hóa
tình hình tài chính doanh nghiệp”. Như vậy, công ty mua bán nợ và tài sản tồn
đọng của doanh nghiệp đã được thành lập theo Quyết định số:
109/2003/QĐ/TTG ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Việc ra đời công ty này nhằm tạo ra công cụ mới thích hợp với nền kinh tế
thị trường để giúp các doanh nghiệp xử lý nợ và tài sản tồn đọng, để nhằm
lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là góp phần giải quyết những
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 38
tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy nhanh hơn quá trình sắp xếp, cổ phần hóa,
giao, khoán, bán và cho thuê doanh nghiệp.
Xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng trước và sau khi chuyển đổi doanh
nghiệp, các khoản nợ và tài sản được loại trừ khi xác định giá trị doanh
nghiệp, góp phần thúc đẩy tiến trình hình thành, phát triển của thị trường
chứng khoán, thị trường tài sản, cũng như sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường trong nền kinh tế đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật bảo đảm sự
quản lý và giám sát của Nhà nước.
QTD tiến hành thực hiện bán các khoản nợ quá hạn cho công ty mua bán
nợ, giúp QTD hạn chế được rủi ro tín dụng.
d. Ứng dụng các nguyên tắc của Basel về quản lý nợ xấu:
Nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu - những định hướng trong xây dựng
mô hình quản lý rủi ro tín dụng hiện đại.
Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất
là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả
và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các
nội dung cơ bản sau đây:
- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung
này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định
kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến
lược xuyên suốt trong hoạt động của TCTD (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận
rủi ro…). Trên cơ sở này, ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định
hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường,
theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản
tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các TCTD cần xác định và quản lý rủi ro tín
dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là các sản phẩm
mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của Hội đồng
quản trị.
- Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): các TCTD cần xác
định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối
tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…) TCTD cần xây
dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách
hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so
sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng
trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
- Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10
nguyên tắc): Các TCTD cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với
các danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 39
thập thông tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay…
theo quy mô và mức độ phức tạp của QTD.
Như vậy, trong xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc
Basel có một số điểm cơ bản:
- Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân
tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của
các bộ phận tham gia.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
- Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì
một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm
định và quản lý rủi ro tín dụng.
Những ứng dụng của nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu trong xây dựng
mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại QTD:
- Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý
rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp. Theo đó, toàn bộ việc xây dựng giới hạn tín dụng trên cơ sở
xác định rủi ro tổng thể (thông qua thực hiện xếp hạng tín dụng, phân tích
ngành, khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai…) sẽ do bộ phận
quản lý rủi ro tín dụng thực hiện độc lập, đảm bảo tính khách quan cũng như
hạn chế sự phân tán thông tin khi cung cấp các sản phẩm tín dụng (cho vay,
tài trợ thương mại…)
- Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận
quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ. Sự rạch ròi trong
phân định trách nhiệm sẽ đảm bảo tính công bằng trong đánh giá chất lượng
công việc, là điều kiện để quá trình xử lý các dấu hiệu rủi ro tín dụng được
nhanh chóng, hịêu quả và kịp thời cũng như tạo sự yên tâm trong suy nghĩ,
hành động của cán bộ các bộ phận.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu
của nguyên tắc Basel. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín
dụng có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh
giá các đề xuất tín dụng. TCTD có thể xây dựng một hệ tiêu chuẩn đối với
cán bộ rủi ro tín dụng như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, có thời
gian trải qua công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng…
- Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường
xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận
chức năng trong hoạt động cấp tín dụng.
Đồng thời, TCTD cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông tin
toàn diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận
chuyên môn có liên quan. Các phân tích về ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 40
đang được các TCTD bắt đầu thực hiện để xây dựng kho dữ liệu phân tích tín
dụng nhưng chưa được đầy đủ và thiếu tính kết nối, hỗ trợ giữa các TCTD
trong chia sẻ thông tin. Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các TCTD trong
xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, về ngành là con
đường ngắn nhất để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác
thông tin một cách hợp lý nhất.
- Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ, thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một
cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn
tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín
dụng với từng khách hàng. Xếp hạng tín dụng là một công cụ hiệu quả, mang
tính khoa học trong quản trị rủi ro tín dụng thông qua lượng hóa các đánh giá
và đưa ra các quyết định phù hợp.
e. Ứng dụng phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống
cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ-IRR trong quản lý rủi ro:
Tháng 6 năm 2004, ủy ban Basel đã xây dựng Hiệp định mới về “Tiêu
chuẩn vốn quốc tế” - mà chúng ta vẫn gọi là Basel II. Theo đó, các TCTD sẽ
sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu của nội bộ để đánh giá vấn đề rủi ro tín dụng,
từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, theo yêu cầu của Basel II, các TCTD sẽ sử dụng các mô hình
dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Các
TCTD sẽ xác định các biến số như:
- PD - Probability of Default: xác suất khách hàng không trả được nợ;
- LGD: Loss Given Default - tỷ trọng tổn thất ước tính;
- EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm
khách hàng không trả được nợ.
- EL: Expected Loss - tổn thất có thể ước tính.
Thông qua các biến số trên, TCTD sẽ xác định được EL
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên
công thức sau:
EL = PD x EAD x LGD
Chúng ta sẽ xem xét lần lượt ba chỉ tiêu cấu thành công thức trên.
Thứ nhất, PD- xác suất không trả dược nợ: cơ sơ của xá suất này là các
số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ đã
trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của
Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, TCTD
phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm
trước đó. Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau:
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 41
- Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng
cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng
- Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả
năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng
trưởng của ngành,…
- Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo
hiệu khả năng không trả được nợ cho TCTD như số dư tiền gửi, hạn mức thấu
chi…
Từ những dữ liệu trên, TCTD nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính
được xác xuất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến
tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn
chuyên nghiệp.
Thứ hai, EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại
thời điểm khách hàng không trả được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn,
EAD được xác định không quá khó khăn. Tuy nhiên, đối với khoản vay theo
hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì vấn đề lại khá phức tạp. Theo thống
kê của ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có
xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó, ủy ban
Basel II yêu cầu tính EAD như sau:
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng
bình quân
Trong đó, LEQ - Loan Equivalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử
dụng có nhiều khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả
được nợ. “LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân” chính là phần
dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ
bình quân.
Việc xác định LEQ - tỷ trọng phần vốn rút thêm có ý nghĩa quyết định đối
với độ chính xác của ước lượng về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không
trả được nợ. Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ. Điều này dẫn đến
những khó khăn lớn trong tính toán. Ví dụ, khách hàng uy tín, trả nợ đầy đủ
thường hiếm khi rơi vào tình trạng này, do đó, không thể tính chính xác được
LEQ của một khách hàng tốt. Ngoài ra, một số vấn đề dẫn đến sự phức tạp
của LEQ có thể còn gồm: loại hình kinh doanh của khách hàng, khả năng
khách hàng tiếp cận với thị trường tài chính, quy mô hạn mức tín dụng, tỷ lệ
dư nợ đang sử dụng so với hạn mức,…
Thứ ba, LGD: tỷ trọng tổn thất ước tính- đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn
thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không
chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát
sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 42
được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý
tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan.
Tỷ trọng tổng thất ước tính có thể tính toán theo công thức sau đây:
LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD
Trong đó, số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng
trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có
thể được coi là 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được. Theo thống kê của ủy
ban Basel, tỷ lệ thu hồi vốn thường mang giá trị rất cao (70% - 80%) hoặc rất
thấp (20 - 30%). Do đó, chúng ta không nên sử dụng tỷ lệ thu hồi vốn bình
quân. Theo nghiên cứu của ủy ban Basel, hai yếu tố giữ vai trò quan trọng
nhất quyết định khả năng thu hồi vốn của TCTD khi khách hàng không trả
được nợ là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của khách hàng.
Cơ cấu tài sản của khách hàng được nhắc đến ở đây với ý nghĩa thứ tự ưu tiên
trả nợ khác nhau của các khoản phải trả trong trường hợp doanh nghiệp phải
phá sản. Trên thực tế, khi một doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ thu hồi vốn từ các
khoản vay của TCTD thường cao hơn tỷ lệ thu hồi vốn từ trái phiếu bởi
TCTD có quyền được ưu tiên trả nợ trước các nhà đầu tư trái phiếu. Bên cạnh
đó, khi kinh tế trong tình trạng suy thoái, tỷ lệ thu hồi vốn cũng sụt giảm.
Ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng nhất định đến tỷ lệ thu hồi vốn: các
khách hàng hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng thường cho tỷ lệ thu
hồi vốn cao hơn các khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ.
Với việc xác định được tổn thất ước tính của một khoản cho vay, TCTD
sẽ thực hiện được thêm các mục tiêu sau:
- Thứ nhất, giúp TCTD tăng cường khả năng quản trị nhân sự, cụ thể là
quản trị đội ngũ cán bộ tín dụng. Theo lý thuyết quản trị, quản trị nhân sự bao
gồm bốn vấn đề chính: (1) tuyển dụng; (2) đào tạo lại; (3) hệ thống lương
thưởng; (4) vấn đề thăng tiến. Trên thực tế, nhiều TCTD trên thế giới đã xây
dựng hệ thống chấm điểm kết quả công việc của cán bộ tín dụng để xác định
mức lương và lộ trình thăng tiến phù hợp. Với cán bộ tín dụng, lương và
thưởng thường được dựa vào số dư nợ, số lượng khách hàng và chất lượng tín
dụng. Nếu cán bộ tín dụng có dư nợ cao nhưng chất lượng tín dụng thấp thì
lương - thưởng vẫn có thể rất thấp, và tất nhiên là không thể thăng tiến. Như
vậy, việc xác định mức tổn thất ước tính với từng danh mục cho vay của từng
cán bộ tín dụng sẽ định lượng rõ chất lượng tín dụng của từng cán bộ. Điều
này buộc cán bộ tín dụng phải luôn nỗ lực tránh rủi ro nếu không sẽ nhận mức
lương - thưởng rất thấp cho dù là cán bộ có thâm niên cao.
- Thứ hai, xác định tổn thất ước tính sẽ giúp TCTD xây dựng hiệu quả
hơn Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Hiện nay, theo Quyết định 493/2005/QĐ-
NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 43
trong hoạt động TCTD của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng Việt Nam đa
phần vẫn áp dụng việc trích lập dự phòng theo “tuổi nợ”, chỉ có một số ít
ngân hàng đã có hệ thống xếp hạng hiệu quả và sử dụng phương pháp định
tính để xác định mức độ rủi ro của các khoản tín dụng, từ đó trích lập dự
phòng theo tỷ lệ phù hợp. Tuy nhiên, nếu TCTD xác định được chính xác tổn
thất ước tính thì việc trích lập trở nên đơn giản, hiệu quả và chính xác hơn rất
nhiều.
- Thứ ba, việc xác định được tổn thất ước tính, đặc biệt là xác định được
PD - xác suất khả năng vỡ nợ của khách hàng sẽ giúp TCTD nâng cao được
chất lượng việc giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay.
- Thứ tư, việc xác định chính xác tổn thất có thể dự tính sẽ giúp TCTD
xác định chính xác được giá trị khoản vay. Điều này sẽ phục vụ hiệu quả cho
việc thực hiện quy trình swap tín dụng. Đây là một xu thế tất yếu mà các ngân
hàng thương mại Việt Nam sẽ hướng tới vì swap tín dụng và chứng khoán
hóa chính là những công cụ hiệu quả nhất để san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt
trong quản lý danh mục các khoản cho vay của mỗi ngân hàng thương mại.
Như vậy, việc xây dựng hệ thống ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ
thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ - IRB là xu thế tất yếu của các ngân hàng
thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, việc tính toán bất
kỳ chỉ tiêu nào trong số 3 chỉ tiêu PD, LGD hay EAD luôn hết sức phức tạp,
đòi hỏi các TCTD phải có một cơ sở dữ liệu đầy đủ, được lưu trữ khoa học
với những chương trình phần mềm xử lý dữ liệu hiện đại. Tất cả những vấn
đề trên đều đòi hỏi các TCTD phải đầu tư nguồn lực về tài chính, con người,
thời gian rất khổng lồ và đặc biệt phải có lộ trình khoa học.
h. Đẩy mạnh thu hồi nợ xấu thông qua tố tụng:
Việc khởi kiện đòi nợ cho vay của các TCTD trước toà án không những là
một biện pháp pháp lý mang lại hiệu quả không nhỏ cho TCTD mà ở đây còn
mang tính phòng ngừa chung, tức là thông qua hoạt động tố tụng của TCTD
mà góp phần răn đe, giáo dục những khách hàng dây dưa, chây ỳ không chịu
trả nợ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho TCCTD đúng như cam kết trong các
Hợp đồng tín dụng. Để đưa công tác thu hồi nợ xấu thông qua các hoạt động
tố tụng trong hệ thống các TCTD thương mại được quản lý thống nhất và đảm
bảo các bước quy trình theo quy định pháp luật. Các phòng khách hàng (hoặc
phòng nghiệp vụ kinh doanh) tại các chi nhánh trong hệ thống TCTD cần thực
hiện những nội dung sau đây:
1. Tập trung và rà soát lại tất cả những món nợ quá hạn từ nhóm 3 đến
nhóm 5, tiến hành lên danh sách những khách hàng không có thiện chí trả nợ
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 44
(Lưu ý: Theo quy định pháp luật về tố tụng dân sự, TCTD chỉ có quyền
khởi kiện trong thời hạn 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp hợp đồng tín
dụng).
2. Chỉ đạo đôn đốc trả nợ bằng văn bản đối với những khách hàng nằm
trong diện sẽ khởi kiện; ít nhất là 02 lần cho mỗi khách hàng (kể cả người thế
chấp, bảo lãnh cho món vay) trước khi tiến hành làm hồ sơ khởi kiện bằng 02
hình thức: Biên bản đôn đốc trả nợ và Thông báo yêu cầu trả nợ.
3. Tiến hành lập hồ sơ đề nghị khởi kiện gồm có những giấy tờ, tài liệu
sau đây:
- Bản sao CMND, hộ khẩu khách hàng
- Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (nếu có);
- Bản sao Hợp đồng tín dụng;
- Bản sao Giấy nhận nợ;
- Bản sao Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản;
- Bản sao Biên bản thẩm định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay;
- Bản sao quyền sở hữu tài sản dùng để bảo đảm tiền vay;
- Bản sao các giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu tài sản đảm bảo tiền
vay;
- Bản sao các Biên bản đôn đốc nợ, Thông báo yêu cầu trả nợ, các giấy tờ
cam kết trả nợ của khách hàng;
- Bản tính gốc và lãi của khách hàng vào thời điểm khởi kiện (có xác nhận
của kế toán theo dõi món nợ trên);
- Giấy đề nghị khởi kiện khách hàng của cán bộ tín dụng (có ý kiến của
Trưởng phòng và lãnh đạo Chi nhánh.
Khi đề nghị khởi kiện khách hàng có nợ xấu, các TCTD cần lưu ý chỉ đạo
cán bộ tín dụng thẩm tra, xác minh chính xác địa chỉ của khách hàng kể cả nơi
tạm trú thường xuyên (nếu có), địa chỉ tài sản và cả địa chỉ của người có tài
sản bảo đảm cho món vay. Nếu cung cấp địa chỉ không đúng với thực tế khiến
Toà không triệu tập được đương sự thì Toà sẽ trả lại hồ sơ cho TCTD hoặc
tạm đình chỉ vụ án theo đúng quy định của pháp luật về tố tụng.
Sau khi tập hợp đầy đủ các giấy tờ tài liệu trên đây thì cán bộ pháp chế
TCTD tiến hành soạn thảo văn bản khởi kiện đồng thời tham mưu cho lãnh
đạo chi nhánh TCTD thông báo cho khách hàng lần cuối cùng (gửi kèm theo
đơn khởi kiện của ngân hàng), trong đó ghi rõ thời hạn cuối cùng phải trả hết
nợ nếu không muốn bị khởi kiện ra trước Toà án, phải chịu án phí và bị xử lý
tài sản đảm bảo nợ vay.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 45
KIẾN NGHỊ:
Kiến nghị với QTDND xã Vân Diên
+ Nâng cấp hệ thống trang thiết bị, phương tiện ( như xe cộ) Và phương
tiện làm việc nhất là các phòng giao dịch mới được thành lập.
+ Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ QTDND xã Vân Diên
chưa được đồng đều do đó QTD phải tổ chức bồi dưỡng và đào tạo thêm về
nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ.
+ QTDND xã Vân Diên phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra hoạt động
của QTD cấp giới để phát hiện kịp thời những sai sót để có hướng khắc phục
sửa chữa
+ Hạn chế rủi ro và khống chế tỷ lệ nợ quá hạn bằng cách tăng cường hơn nữa
việc nâng cao chất lượng thẩm định cũng như thường xuyên kiểm tra khách
hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích không? Nếu không Quỹ tín dụng cần
phải có biện pháp xử lý kịp thời để thu hồi nợ trước thời hạn.
+Nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ, phong cách làm việc…để khách
hàng thấy rõ hình ảnh tốt đẹp của Quỹ tín dụng nhằm tạo sức cạnh tranh với
các đơn vị khác.
Đối với Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương:
- Cần giảm bớt thủ tục giấy tờ cho vay hộ nông dân, cải tiến về mặt thủ
tục, hồ sơ vay vốn được gọn nhẹ, đơn giản, dễ hiểu đối với người nông dân
giúp khách hàng thuận tiện khi lập hồ sơ vay vốn đồng thời giảm bớt công
việc của cán bộ tín dụng.
- Thủ tục vay vốn đối với hộ sản xuất vay trên 15 triệu đồng còn phức
tạp vì nhìn chung trình độ dân trí trong vùng còn thấp, có thể xem xét để đơn
giản hóa các giấy tờ trong hồ sơ vay vốn nhưng vẫn đảm bảo tính hợp lệ
nhằm tạo sự thõa mãn nhu cầu của người vay.
- Có thể xem xét rút ngắn thời gian thẩm định những món vay lớn vượt
mức phán quyết của chi nhánh bởi vì thời gian là rất quan trọng nhất là khi có
nhu cầu cần thiết. Thêm vào đó nên cung cấp miễn phí hồ sơ vay vốn cho
khách hàng, nguồn chi phí này chiếm rất nhỏ trong tổng chi phí của đơn vị,
nhưng nó có thể tạo nên sự thông thoáng cho mục tiêu phục vụ khách hàng
ngày càng tốt hơn.
Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng,
thanh toán do đó chuyên đề này em xin kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
triển khai và thực hiện tốt những yêu cầu sau:
+ Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, để chính phủ xem xét trình
Quốc hội phê chuẩn và triển khai.
+ Xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng .
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 46
+ Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh về tiền tệ , hoạt động ngân hàng
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong thời kỳ gia nhập WTO
Kiến nghị với Chính phủ.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả đòi hỏi phải được hoạt
động trong điều kiện nền kinh tế chính trị ổn định. Đối với nước ta hiện nay
điểm nổi bật là tình hình chính trị tương đối ổn định, nhưng xét về mặt môi
trường pháp lý thì chúng ta chưa có hành lang pháp lý thực sự thông thoáng
tạo cơ sở vững chắc cho các ngành hoạt động tốt và hoạt động kinh doanh của
ngân hàng còn gặp phải nhiều khó khăn. Ví dụ : việc sửa đổi luật đất đai, luật
thuế, luật doanh nghiệp ... thường xuyên khiến các giấy tờ liên quan như giấy
phép kinh doanh, giấy sở hữu đất đai không rõ ràng gây trở ngại cho khâu
thẩm định và khó khăn cho việc xem xét các dự án khả thi. Vì vậy chính phủ
phải tạo được hành lang pháp lý ổn định để hoạt động ngân hàng được thuận
lợi.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 47
KẾT LUẬN:
Qua phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, ta thấy
hoạt động của QTD tương đối tốt, có hiệu quả và mang lại lợi nhuận, mặc dù
trong năm qua QTD gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, lợi nhuận chủ yếu của
QTD là từ hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang nhiều rủi ro.
Qua phân tích và đánh giá tình hình cho vay mua, xây dựng và sửa
chữa nhà ở tại QTDND xã Vân Diên cho thấy hoạt động này đã góp phần vào
việc cung cấp, bổ sung, hỗ trợ vốn cho các hộ dân trong việc xây dựng, sửa
chữa nhà ở, làm thay đổi diện mạo chung của tỉnh, và thúc đẩy nền kinh tế
phát triển theo xu hướng chung của đất nước.
Mặc dù năm 2011, nền kinh tế của tỉnh nói riêng và kinh tế cả nước nói
chung gặp nhiều khó khăn (tình hình lạm phát tăng cao…) nhưng nhìn chung
dư nợ của QTD vẫn tăng, trong đó dư nợ cho vay xây dựng và sửa chữa nhà
tăng tương đối cao, kết quả này đã nói lên sự cố gắng của Ban Giám đốc cùng
toàn thể cán bộ - nhân viên của chi nhánh trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Về kết quả hoạt đông kinh doanh trong ba năm qua đã có những chuyển
biến tích cực, điều này được thấy rõ qua lợi nhuận được tăng dần qua các
năm. Cụ thể như sau: lợi nhuận năm 2009 đạt 488 triệu đồng sang năm 2010
đạt 691 triệu đồng và đến năm 2011 lợi nhuận lại tăng lên 1010 triệu đồng.
Đạt được kết quả như vậy là nhờ sự chỉ đạo của Ban giám đốc cùng với sự
nhiệt tình, cố gắng phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên ở Quỹ tín
dụng.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Trường: Đại Học Vinh
GVHD: Trịnh Thị Hằng SVTT:Nguyễn Bá Hoàng 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Phạm Văn Được, Đặng Kim Cương (2005), Phân tích hoạt động
kinh doanh, Nhà xuất bản tổng hợp TP Hồ Chí Minh,
2. TS Nguyễn Quang Thu (2007), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà
xuất bản Thống Kê,
3. PGS, TS Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, nhà xuất
bản tài chính Hà Nội.
4. Các báo cáo của QTDND xã Vân Diên qua 3 năm (2009-2011).
5. Các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trong_nam_2011_vua_qua_3282.pdf