Phần I: Mở đầu 1. Đặt vấn đề Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều sản phẩm được sản xuất trực tiếp tại làng nghề trở thành thương phẩm trao đổi góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng lao động lúc nông nhàn. Theo số liệu công bố mới đây của đại diện lãnh đạo Cục Cảnh sát môi trường (Bộ công an) ngày 26/08/2009, hiện nay trong cả nước có 2790 làng nghề, các làng nghề phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%); còn lại là miền Trung (chiếm khoảng 30%) và miền Nam (chiếm khoảng 10%) (Nguồn: Tổng cục môi trường tổng hợp, 2008).
Sự phát triển của các làng nghề trong những năm gần đây đã và đang góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho dân cư ở khu vực nông thôn. Cải thiện đời sống gia đình, tận dụng lao động lúc nông nhàn và góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Vân Hà là một xã thuộc ngoại thành Hà Nội, nổi tiếng với các sản phẩm thủ công gỗ mỹ nghệ truyền thống như bàn, ghế, sập, tủ, tượng Các sản phẩm này được các thương lái mang đi khắp nơi trong và ngoài nước, vì vậy quy mô của làng nghề là tương đối lớn. Toàn xã có 20 doanh nghiệp, khoảng 500 hộ hoạt động sản xuất hàng thủ công gỗ mỹ nghệ với quy mô lán xưởng lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây giữ ở mức 10%. Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp đã có nhiều đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, việc phát triển nghề mộc đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm bụi và tiếng ồn, làm ảnh hưởng đến đời sống, mỹ quan cũng như sức khỏe của người dân. Hoạt động sản xuất hàng thủ công gỗ mỹ nghệ không theo quy mô sản xuất tập trung mà chủ yếu nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình, chính vì thế mức độ đầu tư cho sản xuất đặc biệt là đầu tư máy móc, dây chuyền công nghệ nhằm giảm thiểu các tác động tới môi trường là còn rất hạn chế, bởi vậy nên trong quá trình sản xuất có nhiều công đoạn phát sinh ô nhiễm làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường xung quanh. Bên cạnh những áp lực do phát triển làng nghề mộc thì quá trình sản xuất nông nghiệp, vấn đề thu gom và quản lý rác thải cũng gây ra không ít tác động đến môi trường trên địa bàn của khu vực.
Đứng trước thực trạng về môi trường như vậy khiến cho các cấp chính quyền, nhân dân trong xã cảm thấy lo lắng, cần phải có các nghiên cứu, đánh giá cụ thể và hơn hết cần phải đề ra các giải pháp cụ thể để quản lý các hoạt động sao cho vừa có thể thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng môi trường sống và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Chính vì những thực trạng như vậy nên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Hiện trạng và giải pháp cho vấn đề môi trường làng nghề mộc xã Vân Hà – Đông Anh – Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại xã Vân Hà và công tác quản lý môi trường tại địa phương trong thời gian qua.
- Tham gia hoạt động xã hội xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp . ở địa phương.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả của quá trình thu gom rác thải tại địa phương và hiệu quả của công tác quản lý môi trường tại xã Vân Hà.
3. Yêu cầu - Tìm hiều về tình hình, thực trạng các ngành sản xuất và đời sống nhân dân xã Vân Hà
- Tìm hiểu về các vấn đề sản xuất làng nghề, các khâu gây ô nhiễm môi trường và những thách thức đặt ra. Từ đó đề xuất các giải pháp giúp địa phương cải thiện được điều kiện môi trường.
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4079 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện trạng và giải pháp cho vấn đề môi trường làng nghề mộc xã Vân Hà – Đông Anh – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nông nghiệp
Tỷ đồng
7,5
7,5
9
16
16
16
Ngành dịch vụ, thương mại
Tỷ đồng
2,5
3,2
4,5
6
9
12
Cơ cấu kinh tế
%
Tiểu thủ công nghiệp
%
70
71
68
67
70,2
75,4
Nông nghiệp
%
24
20
22,6
23
19
14
Thương mại, dịch vụ
%
6
9
9,4
10
10,8
10,6
( Theo số liệu thống kê của UBND xã Vân Hà năm 2010 )
Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Dân số
Năm 2011, dân số của xã Vân Hà là 10.073 người/2508 hộ dân, trong đó có 2473 hộ nông nghiệp, 35 hộ phi nông nghiệp. Mật độ dân số trung bình toàn xã là 1,93 người/1000 m2 , tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 2,1% năm 2009 lên 2,3% năm 2010.
Tính tới 30/9/2011 toàn xã Vân Hà có 10.073 người/2508 hộ. Trong đó:
Bảng 2:Phân bố dân số ở các thôn trong xã Vân Hà
Thôn
Cổ Châu
Hà Khê
Thiết Bình
Thiết Úng
Vân Điềm
Toàn xã
Số hộ
220
504
587
592
605
2508
Số người
856
2045
2443
2389
2340
10073
Lao động và việc làm
Năm 2011, toàn xã có 6410 người trong độ tuổi lao động chiếm 63,63% dân số, trong đó lao động nông nghiệp là 3.483 lao động, và đây chính là thế mạnh để phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa thực sự cũng như đáp ứng nhu cầu về lao động cho các ngành công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn. Nhìn chung, dân số có khẩu là lao đông nông nghiệp chiểm tỷ lệ lớn, tuy nhiên thu nhập của người dân lại chủ yếu từ tiểu thủ công nghiệp (sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ).
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, đến năm 2010 có 3179 lao động trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 125 hộ có thu nhập từ lĩnh vực thương mại dịch vụ và 2.383 hộ có thu nhập từ lĩnh vực nông nghiệp. Thu nhập bình quân 14 triệu đồng/người/năm.
Ngoài nguồn lao động sẵn có tại địa phương, nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống tại đây đã và đang thu hút một lượng lớn lao động tại các vùng lân cận. Theo số liệu thống kê của trưởng công an xã Vân Hà, toàn xã có khoảng 3500 lao động tạm trú tại địa phương. Nguồn lao động này đã góp phần đáp ứng được yêu cầu của làng nghề, nhưng cũng làm tăng thêm áp lực về vấn đề môi trường cũng như an ninh tại địa phương.
3.1.2.4 Giao thông, thủy lợi
Giao thông
Dự án xây dựng đường Quốc lộ 3 đang được triển khai xây dựng và một phần đường có đi qua địa bàn xã. Dự án đường Quốc lộ 3 hoàn thành sẽ tạo điều kiện cho giao thông đi lại trong địa bàn xã với các địa phương lân cận, thúc đẩy lưu thông và trao đổi hang hóa.
Đường giao thông nông thôn, nội đồng: Hiện tại mạng lưới giao thông nông thôn, nội đồng của xã đã được khép kín, hầu hết mặt đường đã được nhựa hóa và bê tông hóa thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân, tuy nhiên trong những năm tới cần được nâng cấp cải tạo để tránh tình trạng bị xuống câp.
Thủy lợi
Mạng lưới thủy lợi của xã cơ bản đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, các tuyến kênh mương hàng năm được tu sửa nạo vét đảm bảo đủ nước phục vụ nhu cầu tưới tiêu của xã.
Hệ thống thủy lợi được đầu tư tập trung, nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiện lợi cho sinh hoạt. Hệ thống các kênh mương đã dần được kiên cố hóa và góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giao lưu hàng hóa phát triển kinh tế.
3.1.2.5 Thực trạng các cơ sở hạ tầng khác
Giáo dục và đào tạo:
Với nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục hiện nay nên công tác giáo dục của xã Vân Hà luôn được Đảng và các cấp quan tâm. Hệ thống cơ sở vật chất, các trang thiết bị trường học được tu sửa, mua sắm ngày càng đầy đủ và hoàn thiện. Chất lượng dạy và học không ngừng được nâng lên. Năm 2010 - 2011, toàn xã có 1 trường Trung học cơ sở với 31 giáo viên và 574 học sinh; 1 trường Tiểu học có 47 giáo viên và 1040 học sinh; 1 trường mẫu giáo mầm non có 27 giáo viên và 724 học sinh.
Y tế:
Xã Vân Hà có 1 trạm y tế đã được xây dựng kiên cố, đội ngũ cán bộ được tăng cường. Trong những năm qua y tế xã đã làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và thực hiện các chương trình y tế quốc gia đạt chất lượng khá. Toàn xã luôn làm tốt công tác tiêm chủng mở rộng, uống Vitamin A, cân đo theo dõi sức khỏe cho trẻ trong độ tuổi đạt 100%....
Văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao: Thực hiện tốt công tác quản lý văn hóa và dịch vụ văn hóa, tổ chức các ngày lễ, làm công tác thông tin tuyên truyền góp phần vào thắng lợi các nhiệm vụ của địa phương. Chỉ đạo tốt xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng gia đinh văn hóa, đơn vị văn hóa. Thực hiện tốt phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa dân cư.
Chợ:
Xã Vân Hà hiện tại có 5 chợ nhỏ tại 5 thôn và một chợ nằm ở trung tâm xã với chức năng là đầu mỗi giao lưu hàng hóa của nhân dân trong và ngoài xã.
3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện kinh tế - xã hội của xã:
Vân Hà là xã đồng bằng, cách trung tâm huyện lị và khu vực nội thành không xa, tiện lợi trong tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển một nền kinh tế đa dạng: Nông – ngư – tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ thương mại và du lịch.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội như giao thông, thủy lợi, bưu chính viễn thông, giáo dục y tế, văn hóa, thể dục thể thao…tuy đã đáp ứng được nhu cầu của người dân nhưng phải được thường xuyên nâng cấp, cải tạo tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của xã.
Lực lượng lao động dồi dào nhưng phần lớn chưa qua đào tạo, gây khó khăn trở ngại cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ mới.
Tốc độ gia tăng dân số đã giảm nhưng số hộ tăng thêm hàng năm còn lớn. Do đó trong những năm tới quỹ đất của xã dành cho việc phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng nhà ở cho nhân dân tăng lên, gây áp lực lớn cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của xã sau này.
Sự tăng dân số gây sức ép đến hệ thống cơ sở hạ tầng của xã đồng thời trong những năm tới nhu cầu đời sống của người dân ngày càng tăng cao, nên đòi hỏi phải bố trí một quỹ đất lớn cho xây dựng các công trình phục vụ văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí.
Trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội cần khai thác sử dụng đất khoa học, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Việc bố trí sử dụng đất cũng phải đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
Thực trạng sản xuất và đời sống
Sản xuất nông nghiệp
3.2.2.1 Trồng trọt
Về sản xuất nông nghiệp xã đã thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Chú trọng khuyến khích các mô hình trang trại, quy hoạch vùng sản xuất chuyên trồng lúa nước. Bằng hình thức “kích cầu” khuyến khích nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi giá trị đầu tư.
Theo số liệu thống kê đất đai toàn xã năm 2010 cho thấy năm 2010 xã Vân Hà có 314 ha (đất chuyên trồng lúa nước) chiếm 60,26% diện tích tự nhiên của xã (diện tích tự nhiên của xã là 521 ha) . Số nhân khẩu lao động trung bình trong lĩnh vực nông nghiệp là 3.483 lao động trong tổng số 6410 lao động toàn xã.
Trong giai đoạn 2005 – 2009, diện tích giữa các loại đất của xã có biến động lớn, đặc biệt đất nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp giảm 9,65 ha là do chuyển sang mục đích phi nông nghiệp, trong đó chuyển sang:
+ Đất ở nông thôn 1,05 ha
+ Đất có mục đích công cộng 0,12 ha;
+ Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 8,48 ha.
Nguyên nhân chủ yếu theo xu hướng trên là do áp lực từ tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã hội. Diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm, các loại đất chuyên dụng và đất ở đều có xu hướng tăng. Việc tăng giảm diện tích đất nông nghiệp trong những năm qua phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của xã và của huyện.
* Về cơ cấu kinh tế: Tính đến năm 2010, nông nghiệp chiếm 20% cơ cấu kinh tế toàn xã. Trong đó trồng trọt chiếm 16%, chăn nuôi 3%, dịch vụ lâm nghiệp là 1% và tính giá trị thu nhập/ha canh tác thì đạt 72 triệu đồng/ ha. Đây là con số không lớn nhưng cũng đã góp phần đáng kể vào GDP của xã.
* Thực trạng công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng thời gian qua:
Nhìn chung, công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng thời gian qua chưa diễn ra mạnh mẽ, xã chưa có quy hoạch nông nghiệp cụ thể, diện tích chuyển đổi còn manh mún chưa tập chung, cây lúa vẫn là cây chính của xã. Ở xã chủ yếu canh tác 2 vụ lúa, nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức nên năng suất còn thấp, nhiều sâu, bệnh, vụ đông diện tích không đáng kể là trồng rau các loại, ngô, lạc và khoai tây còn lại chủ yếu là đất bị bỏ hoang. Nông nghiệp chủ yếu dựa vào phân bón hóa học, không hoặc rất ít bổ sung thêm phân hữu cơ nên chất lượng đất ngày càng kém, làm năng suất lúa giảm.
Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính
STT
Loại cây trồng
Năm 2007
Năm 2008
Diện tích (ha)
Năng xuất (tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
Diện tích (ha)
Năng xuất (tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
1
Lúa cả năm
599.00
43.10
2580.00
572.00
47.20
2702.00
2
Rau các lại
5.00
150.00
75.00
3.00
164.70
49.00
3
Khoai tây
3.00
97.00
29.00
1.00
97.00
9.70
4
Lạc
0.00
0.00
0.00
3.00
8.30
2.00
(Nguồn: Số liệu thống kê của xã Vân Hà năm 2009)
* Mức độ đầu tư vào sản xuất nông nghiệp
Theo kết quả điều tra nông hộ cho thấy, hầu hết những hộ gia đình tại đây đều sử dụng phân bón hóa học, rất ít hộ dùng phân chuồng, phân xanh cũng như các loại phân hữu cơ khác. Tổng hợp phiếu điều tra thu được, chỉ có 2/17 hộ có trồng lúa sử dụng phân gà, phân chuồng để bón cho lúa, còn lại 15 hộ chỉ dùng các loại phân hóa học với lượng bón trung bình được thống kê trong bảng sau:
Bảng 4: Thực trạng đầu tư sản xuất nông nghiệp tại xã Vân Hà
Loại cây
Giống
(kg/sào)
Phân bón (kg/sào)
Thuốc BVTV
(gói/sào/năm)
NPK
Đạm
Lân
Kali
Lúa
1,2
10 - 12
3
10
4 - 5
20 - 30
Khoai tây
10 - 12
10
20
8
25 - 30
Lạc
1.5 - 2
8 - 10
2.5
15 - 20
10
15 - 18
3.2.2.2 Chăn nuôi:
Theo điều tra toàn xã chỉ có 5 hộ làm trang trại theo mô hình VAC đó có 4 trang trại ở thôn Vân Điềm và 1 trang trại ở thôn Thiết Úng, còn lại các hộ gia đình làm nông nghiệp thì việc chăn nuôi diễn ra nhỏ lẻ, lượng rác thải phát sinh trong chăn nuôi là không đánh kể.
Bảng 5: Chăn nuôi gia súc gia cầm trên địa bàn xã Vân Hà
Loại vật nuôi
Đơn vị tính
Số lượng
Trọng lượng
(kg)
Sản lượng
(Kg)
Trâu
con
12
800
9600
Bò
con
18
460
8280
Lợn
con
70
70
4900
Gia cầm
con
1200
2
2400
* Thủy lợi: Mạng lưới thủy lợi của xã cơ bản đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, các tuyến kênh mương hàng năm được tu sửa nạo vét đảm bảo đủ nước phục vụ nhu cầu tưới tiêu của xã.
Hệ thống thủy lợi được đầu tư tập trung, nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiện lợi cho sinh hoạt. Hệ thống các kênh mương đã dần được kiên cố hóa và góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giao lưu hàng hóa phát triển kinh tế.
3.2.3 Sản xuất đồ gỗ
Xã Vân Hà - Đông Anh – Hà Nội, là khu vực làng nghề đã có từ lâu và mới phát triển mạnh trong những năm gần đây. Dân Vân Hà nổi tiếng khéo tay, có con mắt nghệ thuật cao. Sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ truyền thống là sự kết hợp khéo léo giữa chất liệu tự nhiên là gỗ với bàn tay khối óc của người thợ. Mỗi sản phẩm làm ra đều đánh dấu sự phân công lao động hợp lí, kết hợp với đồ họa, kiến trúc tỉ mỉ của con người.
Hoạt động sản xuất gỗ tại địa phương
Toàn xã có 5 thôn thì cả 5 thôn đều tham gia sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, trong đó thôn Thiết Úng đã công nhận làng nghề (26/2/2010, thôn Thiết Úng, đã tổ chức lễ đón nhận và rước Bằng công nhận Làng nghề điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống Hà Nội). Trong đó có sự phân chia loại sản phẩm theo từng thôn.
Ở Thiết Bình chủ yếu là buôn bán và chế biến gỗ phục vụ nhu cầu sản xuất trong toàn xã (ước tính tiêu thụ khoảng 2000m3/năm), theo nguồn số liệu thống kê của xã thì có khoảng 60-70 hộ kinh doanh gỗ, có 15 máy xẻ CD trên tổng số 20 máy, ngoài ra còn sản xuất mặt hàng như tủ, bàn, ghế...
Thôn Hà Khê và Cổ Châu chuyên sản xuất đồ gia dụng phục vụ đời sống như giường, tủ, bàn, ghế...
Thôn Thiết Úng (làng Ống) và thôn Vân Điềm (làng Đóm) vẫn giữ được nghề cổ truyền của cha ông là chạm khắc mỹ nghệ và tạc tượng, đặc biệt ở thôn Vân Điềm chuyên sản xuất các sản phẩm từ gỗ trác có giá trị cao và là sản phẩm xuất khẩu với thị trừơng là Trung Quốc.
Trong những năm gần đây thì nghề thủ công mỹ nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ với, cơ cấu kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% và giá trị sản xuất như bảng sau;
Bảng6: Giá trị sản xuất của các ngành trong xã Vân Hà
Chỉ tiêu
ĐVT
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế
Tỷ đ
34
37,5
41
50
84
Ngành tiểu thủ công nghiệp
Tỷ đ
24
26,8
27,5
28
59
Ngành nông nghiệp
Tỷ đ
7,5
7,5
9
16
16
Ngành dịch vụ, thương mại
Tỷ đ
2,5
3,2
4,5
6
9
(nguồn tài liệu thống kê của UBND xã Vân Hà)
Thông qua bảng số liệu trên ta nhận thấy rằng TTCN có vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề phát triển kinh tế của xã. Tổng giá trị sản xuất của ngành TTCN so với các ngành nghề khác là rất cao.
Tương ứng với nguồn lao động rất lớn, người lao động lành nghề, mỗi gia đình trung bình có 2 - 4 lao động chính. Tuy vậy nhu cầu thuê lao động cũng rất lớn, số lao động làm thuê ở Vân Hà chiếm khoảng 1/3 số dân trong xã. Ước tính có khoảng 3500 người (số liệu thống kê của xã năm 2010).
Quy mô sản xuất: toàn xã có 20 doanh nghiệp còn lại theo quy mô hộ gia đình.
Theo điều tra phỏng vấn cán bộ xã cho ta tỉ lệ hộ dân tham gia sản xuất nghề:
Bảng 7: số hộ tham gia sản xuất nghề TTCN năm 2010
Thôn
Cổ Châu
Hà Khê
Thiết Bình
Thiết Úng
Vân Điềm
Toàn xã
Số hộ làm nghề
198
504
499
474
484
2159
Tổng số hộ
220
504
587
592
605
2508
% số hộ
90
100
85
80
80
86
(Dựa theo thống kê 30/9/2010)
Về thị trường tiêu thụ: Có thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn mạnh ở Trung Quốc và một số nước Châu Á.
Vốn: Có vốn đầu tư cho sản xuất lớn, trong đó tính cả vốn sẵn có của hộ gia đình và vốn cho vay của ngân hàng.
Đầu vào : Xã Vân Hà sản xuất chủ yếu các loại gỗ tốt như: gỗ trắc, gỗ hương, gỗ gụ.
Sản phẩm: Các sản phẩm đa dạng về mẫu mã, chất lượng tốt như đồ nội thất, giường ,tủ, bàn ghế, ,tượng phật…
Vân Hà là một xã làm nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp là chủ yếu. Sản xuất đồ gỗ ở Vân Hà đã có từ lâu nhưng phát triển mạnh trong mấy năm gần đây. Sản phẩm chủ yếu là đồ trang trí nội thất, đồ thờ cao cấp, và tiêu thụ mạnh trên thị trường Trung Quốc. Làm đồ gỗ ở Vân Hà đã tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động trong xã cũng như các vùng lân cận. Mỗi năm trừ chi phí mỗi hộ gia đình có thể để lại được từ 100 - 200 triệu nhờ sản xuất đồ gỗ, cuộc sống người dân được đảm bảo và ngày càng nâng cao.
Thương mại – Dịch vụ
Các hình thức kinh doanh thương mại, dịch vụ phát triển đa dạng cung cấp và phục vụ kịp thời tại chỗ cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân
Một số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã chuyển hướng từ sản xuất sang kinh doanh, thương mại, mở rộng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hàng hóa, xây dựng mẫu mã sản phẩm mang thương hiệu đặc thù riêng.
Theo số liệu từ cán bộ xã, thu nhập từ thương mại và dịch vụ 9 tháng đầu năm 2011 ước đạt 10,4 tỷ đồng, đạt 74% kế hoạch của năm.
3.3 Thực trạng những vấn đề môi trường làng nghề Vân Hà
Theo kết quả khảo sát mới đây ở một số làng nghề tại Hà Nội: Kiêu kỵ, Bát Tràng ( Gia Lâm); Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Tân Triều (Thanh Trì)… thì có tới 74,2% số hộ sống trong tình trạng môi trường bị ô nhiễm do hoạt động sản xuất kinh doanh. Khảo sát trên diện rộng của 42 xã làng nghề ngoại thành thì có 24 xã bị ô nhiễm nặng từ hoạt động nội tại của làng nghề.
Xã Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội được biết đến là một xã có thế mạnh về sản xuất các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ. Các sản phẩm chính được sản xuất ở đây là tủ thờ, tượng phật, bàn, ghế…Xã có 5 thôn, tất cả các thôn đều tham gia vào quá trình sản xuất, nên vấn đề chất thải rắn làng nghề trở nên rất cấp thiết.
Quy mô sản xuất tại xã thường là hộ gia đình, quy mô nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, do đó chưa tận dụng được tối đa nguồn nguyên liệu trong sản xuất, một phần nguyên liệu dư ra trở thành phế thải. Đặc trưng của quá trình sản xuất tại đây chủ yếu là công đoạn làm thô, giai đoạn hoàn thiện, phun sơn và đánh bóng sản phẩm thường được thuê ở các xã lân cận nên vấn đề ô nhiễm chủ yếu là do bụi và tiếng ồn. Toàn xã chỉ có vài hộ tham gia phun sơn, vecni nên ảnh hưởng không đáng kể.
Ngoài quá trình sản xuất thủ công mỹ nghệ, Vân Hà còn có 1 diện tích rộng lớn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vào vụ thu hoạch khói bụi tràn ngập ở các đường làng ngõ xóm do thói quen đốt rơm rạ sau thu hoạch. Chăn nuôi chiếm số lượng rất ít, manh mún, nhỏ lẻ nên vấn đề đảm bảo vệ sinh chưa được quan tâm đúng mức.
Do phải sống trong môi trường độc hại, nhiều bụi và tiếng ồn, người dân nơi đây thường bị các bệnh liên quan đến đường hô hấp như khó thở, hắt hơi, sổ mũi; các bệnh khác như đau lưng…
3.3.1 Rác thải nông nghiệp
* Các phế phụ phẩm trong nông nghiệp:
Tại xã Vân Hà, do phần lớn diện tích đất nông nghiệp là trồng lúa (314 ha trồng lúa cả 2 vụ), chỉ có khoảng 8 ha/năm là trồng rau màu nên phế phụ phẩm trong nông nghiệp chủ yếu là rơm rạ từ hoạt động trồng lúa. Theo nghiên cứu tổng khối lượng rơm rạ sau khi thu hoạch khoảng 8 – 10 tấn/ha. Do hiện nay gặt hoặc tuốt lúa bằng máy liên hoàn nên khối lượng phần rạ còn lại trên ruộng chiếm khoảng 50% tức khoảng 4 – 5 tấn/ha.
Bảng 8: Ước tính khối lượng rác thải nông nghiệp tại xã Vân Hà
Thành phần phế phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch
Khối lượng (tấn/ha)
Tổng khối lượng 2 vụ (tấn/ha/năm)
Tỷ lệ phần trăm (%)
Rơm + rạ
8 – 10
5024 – 6280
100
Rơm
4 – 5
2512 – 3140
50
Rạ
4 – 5
2512 – 3140
50
Phần rạ (2512 – 3140 tấn/năm) sau khi thu hoạch còn lại trên ruộng người dân phạt gốc vùi xuống đất làm phân bón quay vòng lại trả lại cho đất.
Phần rơm (2512 – 3140 tấn/năm) hầu hết người dân đem đốt (81%) và chỉ có 14% hộ gia đình được hỏi là sử dụng làm phân bón, còn lại 5% người dân sử dụng vào mục đích khác.
Bảng 9: các hình thức xử lý rơm, rạ trong sản xuất tại xã Vân Hà
Đơn vị
Tổng
Đốt
Làm phân bón
Mục đích khác
Phần trăm (%)
100
81
14
5
Khối lượng (tấn/năm)
2512 – 3140
2034.7 – 2543.4
351.7– 439.6
125.6 –157
Hình 1: Các hình thức xử lý phế phụ phẩm
Với khối lượng rơm rạ được đốt mỗi vụ nhiều như vậy, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường không khí trong và ngoài xã. Đặc biệt trong thời kỳ mùa vụ, khắp các ngả đường của cánh đồng đều toàn là khói và bụi do đốt rơm. Không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, việc đốt rơm rạ còn làm mất đi một lượng lớn chất có trong đó.
* Bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV):
Theo điều tra 100% các hộ sản xuất nông nghiệp đều sử dụng thuốc BVTV. Cũng theo phiếu điều tra cho thấy, một vụ lúa thường phun 1 lần thuốc trừ cỏ, 3 – 6 lần thuốc trừ sâu, bệnh. Đối với thuốc trừ cỏ thường phải sử dụng 1 gói thuốc/ sào. Còn khi phun thuốc trừ sâu người dân thường trộn lẫn 2 – 3 loại thuốc sâu, bệnh với nhau. Như vậy bình quân mỗi sào người dân vứt ra từ 10 – 15 vỏ/vụ và 1 năm sẽ từ 20 – 30 vỏ/ sào/năm. Ước tính trên diện tích trồng lúa cả xã năm 2011, lượng bao bì thuốc BVTV thải ra môi trường khoảng 174444 – 261667 vỏ/năm.
Với khối lượng thuốc trừ sâu sử dụng nhiều như trên thì ngoài việc làm giảm chất lượng nông sản (do có dư lượng thuốc BVTV trong nông sản, gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng và có thể gây ngộ độc cấp tính).
Do ở các cánh đồng không có các hố đựng vỏ bao bì thuốc trừ sâu nên người dân thường vứt ở các kênh rạch nơi họ lấy nước để pha thuốc. Vỏ thuốc BVTV do không được thu gom và xử lý nên chúng sẽ được tích tụ ngoài đồng ruộng, tạo ra lượng rác thải mỗi năm lớn. Điều đáng quan tâm hơn nữa là lượng thuốc BVTV còn sót lại trong chai, lọ, bao bì khi bị vứt bỏ sẽ phát tán mùi độc hại ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người và chất lượng hàng hóa gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường đất, nước mặt và nước ngầm, các lại thủy sinh vật sẽ bị hủy hoại.
Qua đây cho thấy rằng nhận thức của nông dân về việc bảo vệ môi trường là chưa tốt, họ chưa biết tác hại của việc vứt rác bừa bãi sẽ gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của họ như thế nào.
3.3.2 Rác thải sinh hoạt
3.3.2.1 Nguồn phát sinh rác thải sinh hoạt
Vân Hà là xã có sự phát triển kinh tế tương đối mạnh của huyện Đông Anh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây giữ ở mức 10%. Vì kinh tế phát triển như thế nên mức sống của người dân ngày càng cao dẫn tới lượng phát thải rác thải sinh hoạt ở đây cũng tương đối lớn. Nguồn gốc phát sinh rác thải sinh hoạt chủ yếu là từ các hộ gia đình, ngoài ra còn phát sinh từ các chợ, trường học, một số cơ sở kinh doanh dịch vụ, …
Trên địa bàn xã có 1 chợ chính nằm ở trung tâm xã và có 5 chợ nhỏ ở 5 thôn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân gần đó
Do trong xã đa số các hộ gia đình đều làm nghề mộc, số lượng thời gian làm việc lớn nên việc hưởng thụ các nhu cầu thiết yếu khác là rất ít. Mặt khác ngành dịch vụ ở xã lân cận lại phát triển, giao thông thuận lợi, trong khi ngành dịch vụ ở xã cũng chưa thực sự phát triển, vì vậy mà rác thải do các của hàng dịch vụ, ăn uống phát sinh là không nhiều.
Toàn xã có 1 trường mẫu giáo mầm non tại 5 thôn với tổng số cháu là 724, 1 trường tiểu học với 1040 học sinh và 1 trường trung học cơ sở với 574 học sinh. Lượng rác thải từ các trường học không đáng kể, chủ yếu là các loại giấy, vỏ hộp, bìa…
3.3.2.2 Khối lượng rác thải sinh hoạt
Theo số liệu thống kê của địa phương năm 2010, thì lượng rác thải sinh hoạt trong xã tương đối lớn là khoảng 7,1 tấn/ngày. Với 10.073 người dân có khẩu trong xã và gần 3.500 lao động từ địa phương khác đến làm việc thì bình quân lượng rác thải sinh hoạt là 0,523kg/người/ngày. Do ở xã ký hợp đồng với Công ty Môi trường đô thị mỗi ngày khối lượng rác phải chở đi bãi rác Nam Sơn là 5 tấn/ngày. Khối lượng rác thải mỗi ngày của xã khoảng 7,1 tấn mà xe của công ty vệ sinh môi trường chỉ thu gom có 5 tấn, nên lượng rác thải lưu cữu lại lên đến 2,1 tấn/ngày
3.3.2.3 Hệ thống quản lý rác thải sinh hoạt tại xã
Lãnh đạo thôn
Công nhân VSMT
01 Cán bộ MT chuyên trách
UBND xã
Các hộ gia đình
Hình : Hệ thống quản lý môi trường xã Vân Hà
Việc quản lý thu gom rác thải trong xã thường được phân về các thôn, các thôn sẽ có trách nhiệm thu gom, việc thu gom được giao cho các công nhân thu gom đứng ra đảm nhiệm, mỗi thôn thường có 2 - 3 công nhân thu gom rác
Cụ thể dưới đây là bảng số công nhân và tần xuất thu gom từng thôn trong xã:
Bảng 10: Quy mô tổ chức và hoạt động thu gom của tổ công tác vệ sinh môi trường
Thôn
Số công nhân (người)
Tần suất thu gom
( ngày/lần)
Vân Điềm
3
2
Thiết Bình
2
1
Thiết Úng
2
2
Cổ Châu
2
2
Hà Khê
0
0
(Nguồn số liệu thống kê của UBND xã Vân Hà năm 2011)
Từ bảng số liệu trên cho thấy số lượng công nhân quá ít so với lượng rác hằng ngày phải thu gom, mỗi công nhân hằng ngày phải thu gom từ 2 – 3 xe thu gom ra điểm tập kết. Tần suất thu gom liên tục hằng ngày và lương của công nhân thu gom còn thấp và phụ thuộc vào từng thôn nên số lượng công nhân muốn bổ xung để làm công tác VSMT đang còn thiếu. Khi được hỏi các công nhân thì do lương thấp và công việc nặng nhọc vì trách nhiệm nên họ mới tham gia. Đặc biệt, tại thôn Hà Khê, trong hơn một năm nay, không thể thuê được công nhân vệ sinh, lượng rác thải sinh hoạt hàng ngày chỉ do các hộ gia đình tự đem đi đổ tại bãi rác của thôn. Ước tính số lượng rác thải sinh hoạt tại thôn không được thu gom khoảng 1,540tấn/ngày ( tính cả lượng rác thải do lao động từ nơi khác đến khoảng 900 người)
Bảng 11: Llượng rác đã được thu gom và các hình thức xử lý
Lượng rác toàn xã (tấn/ngày)
Lượng rác chưa được thu gom (tấn/ngày)
Lượng rác đã được thu gom (tấn/ngày)
Lượng rác đã thu gom nhưng chưa đem đi xử lý (tấn/ngày)
7,1
1,54
5.56
0.56
Theo phản ánh của một số người dân trong thôn Thiết Bình, theo quy định của thôn mỗi ngày công nhân phải thu gom rác một lần nhưng tại đây thì 2 - 3 ngày/lần rác mới được thu gom (những trục đường chính mới thường xuyên thu gom) cộng với việc 2 - 3 ngày Công ty Môi trường đô thị mới đến chở rác đi một lần. Rác thải bị ứ đọng tại nơi tập kết gây mùi hôi thối rất khó chịu. Đặc biệt, tại thôn Thiết Úng, chưa có chỗ tập kết rác riêng mà để ngay tại sân nhà văn hóa thôn. Nhà văn hóa thôn là nơi vui chơi của nhân dân sau những giờ làm việc mệt nhọc, nhưng lại trở thành nơi tập kết rác thải, vì vậy đã gây rất nhiều bức xúc cho người dân.
* Mức phí vệ sinh hàng tháng: Các thôn trên địa bàn xã đều thu phí chi trả cho công tác thu gom và xử lý rác thải. Phí thu gom được thu theo số nhân khẩu trong gia đình với mức phí mà mỗi nhân khẩu phải đóng từ 1500- 3000đồng/người/tháng.
Dưới đây là:
Bảng 12: phí thu gom hàng tháng của từng thôn trong xã:
Thôn
Vân Điềm
Thiết Úng
Thiết Bình
Cổ Châu
Hà Khê
Phí môi trường
(đồng/người/tháng)
1500
2000
3000
2000
0
( theo phiếu điều tra hộ gia đình)
Hầu hết các hộ dân đều chấp hành nghiêm chỉnh việc nộp phí vệ sinh môi trường và việc thu phí thường do tổ trưởng tổ vệ sinh thu gom thu vào đầu tháng.
3.3.3 Rác thải từ hoạt động làm nghề thủ công gỗ mỹ nghệ
3.3.3.1 Nguồn phát sinh chất thải trong từng công đoạn sản xuất
Hình : Quy trình sản xuất và nguồn phát sinh chất thải tiểu thủ công nghiệp
Khối lượng các loại chất thải từ sau quá trình sản xuất TTCN:
Theo thống kê của cán bộ môi trường xã Nguyễn Thị Vui, lượng chất thải tiểu thủ công nghiệp toàn xã là 4,6 tấn/ngày. Rác thải từ hoạt động tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là gỗ vụn, dăm bào, mùn cưa, bụi trà…
Thông qua phiếu điều tra có 19/30 phiếu được hỏi là hộ sản xuất TTCN cho ta lượng chất thải trung bình thời kỳ chính vụ (cuối năm) có thể lên đến: Gỗ vụn là 28,3 kg/hộ/ngày, mùn cưa là 16,5 kg/hộ/ngày. Ước tính số lượng chất thải rắn từ quá trình sản xuất thời kỳ này khoảng khoảng 61,1 tấn gỗ vụn/ngày và 35,62 tấn mùn cưa/ngày. Đây là một khối lượng vô cùng lớn, rất khó để xử lý.
Cách xử lý chất thải từ hoạt động sản xuất TTCN
+ Gỗ vụn:
Những năm trước đây, lượng chất thải rắn này thường được sử dụng vào mục đích sinh hoạt như đun nấu hoặc bán cho các hộ gia đình khác. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, do mức sống tăng cao, các hộ gia đình chủ yếu sử dụng bếp gas nên lượng mùn cưa, gỗ vụn không được thu mua và sử dụng. Các hộ gia đình phải từ xử lý bằng cách đem ra ngoài bãi đổ và đốt.
Thông qua phiếu điều tra ta thu được kết qua là: có 7/30 hộ sử dụng gỗ vụn làm chất đốt, 7/30 hộ đem bán, các hộ còn lại có hình thức xử lý khác (đổ ra ao hồ, cho các gia đình khác…) điều này gây mất diện tích mặt nước, mất mỹ quan và lãng phí tài nguyên
Hình : Các hình thức xử lý gỗ vụn
+ Mùn cưa:
Thông qua phiếu điều tra cho ta đuợc kết quả sau: có 26/30 hộ sản xuất thu gom mùn cưa đổ ra khu đất trống (ngoài đồng) sau đó tiến hành đốt, 2/30 hộ thu gom đổ ra vườn còn 2/30 hộ xử dụng để đun.
Hình : Các hình thức xử lý mùn cưa
Từ bảng trên ta có số mùn trong toàn xã được đốt bỏ mỗi ngày là 4000 kg/ngày, lượng đổ ra ao vườn là 310kg/ngày, lượng mùn cưa này đang tạo nên những bức xúc về môi trường cho người dân toàn xã.
Nguyên nhân là do xã chưa quy hoạch được khu đổ chất thải của làng, không bán được mùn cưa làm chất đốt như trước.
Những vấn đề môi trường nảy sinh như: trên 4 tấn mùn cưa đốt mỗi ngày đã tạo nên 1 lượng khói lớn, lượng mùn cháy không hết tràn ra đường gây cản trở giao thông, mặt khác gây lãng phí 1 lượng lớn tài nguyên. Lượng rác đổ ra ao, vườn gây mất đất canh tác, ô nhiễm môi trường nước... Đây là những bất cập cần nhanh chống giải quyết.
Nước thải từ quá trình sản xuất:
Lượng nước thải từ sản xuất thủ công mỹ nghệ là không lớn chủ yếu sinh ra trong khâu chà ướt, nhưng do thải ra chung với hệ thống nước thải sinh hoạt nên rất dễ gây cản trở dòng nước thải ( tạo nhiều bùn cặn do chứa một lượng bụi lớn), bên cạnh đó cũng làm tăng nguy cơ ô nhiễm chất hữu cơ của nước thải sinh hoạt ( nguồn nước mặt).
Bụi và hơi sơn từ quá trình sản xuất TTCN:
+ Bụi:
Trong hầu hết các khâu của quá trình sản xuất thì đều làm xuất hiện bụi, đặc biệt là trong khâu làm mịn, nhẵn sản phẩm.
Mặc dù chưa có nghiên cứu cụ thể nhằm đo lượng bụi trong không khí nhưng thông qua đi khảo sát thực địa và thời gian lưu trú tại thôn Thiết Bình chúng tôi nhận thấy rằng lượng bụi sinh ra từ quá trình sản xuất là rất lớn, gây nên những bất tiện cho đời sống của người dân do khu nhà xưởng nằm trong khu dân cư, gây nên ảnh hưởng tới sức khỏe người dân, đặc biệt đối với người lao động trực tiếp sản xuất.
Điều tra thông qua phiếu cho kết quả là có 22/30 phiếu trả lời hộ sản xuất không áp dụng biện pháp giảm bụi trong nhà xưởng, 4/30 phiếu có áp dụng (sử dụng quạt) nhưng cho rằng không có hiệu quả, 4/30 phiếu không trả lời.
Đầu tháng 12 năm 2010, một chương trình nhằm cung cấp máy xử lý bụi gỗ, nằm trong dự án kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề do Tổng cục Môi trường triển khai với định hướng giảm thiểu ô nhiễm bụi gỗ phát sinh từ các làng nghề chế biến gỗ được triển khai tại xã Vân Hà. Tuy máy xử lý bụi gỗ do Công ty CP Công nghệ thân thiện môi trường Bách khoa (Đại học Bách khoa Hà Nội) thiết kế có công suất 1.000m3/giờ, hiệu suất lọc bụi đạt 99% nhưng dường như chưa được chính quyền và nhân dân địa phương đón nhận. Toàn xã chỉ có 1 cơ sở sản xuất đồ gỗ Hợi Chung, đóng tại ngã tư Cổ Châu – Vân Hà mua và sử dụng.
+ Hơi sơn:
Theo các hộ gia đình tại đây cho biết, các sản phẩm tại địa phương được đánh bóng và sơn chủ yếu bằng hai loại đó là sơn PU và Vecni. Các loại sơn này có tác dụng tăng thêm tính thẩm mỹ cho sản phẩm. Các loại sơn này thường có mùi khó chịu, gây ảnh hưởng đến đường hô hấp, tạo cảm giác khó thở, khô mũi…Tuy nhiên, các hộ gia đình thường không tự sơn mà thường mang sản phẩm đến thuê tại địa phương khác. Theo điều tra thực tế và phỏng vấn cán bộ thôn cho kết quả ở xã Vân Hà chỉ có 2 thôn có hoạt động phun sơn là: Cổ Châu với 2 xưởng phun (đã có ống khói cao và phòng phun riêng và không có ý kiến phản hồi của người dân) và Thiết Úng với 4 xưởng phun, nhưng chưa được đầu tư xây dựng đầy đủ. Ở Thiết Úng chủ yếu vẫn phun ở ngoài đường làm ảnh hưởng lớn tới người dân (do không có ống khói để dẫn khí lên cao, khí phát tán ở tầng thấp tạo mùi khó chịu, gây dị ứng và có khả năng gây cháy nổ cao). Thợ phun sơn chưa được trang bị đồ bảo hộ lao động, nguy cơ gây bệnh đường hô hấp là rất cao có thể dẫn tới ung thư. Điều này đặt ra vấn đề quản lý các xưởng phun chặt chẽ hơn.
Tiếng ồn do hoạt động sản xuất:
Trong quá trình sản xuất thì tiếng ồn được phát ra từ mọi khâu, đặc biệt khi mà sử dụng máy móc như máy xẻ CD, máy cưa, máy vanh, máy đục, máy chà...thì nó càng lớn.
Theo điều tra bằng phiếu, thì có 28/30 phiếu của hộ làm nghề thừa nhận là máy móc của họ gây ra tiếng ồn lớn. Cùng với đặc thù của xã là hầu hết các gia đình đều làm nghề, nên khoảng cách giữa nhà xưởng và các hộ gia đình xung quanh rất nhỏ, thậm chí san sát nhau, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Tiếng ồn phát sinh từ quá trình sản xuất phụ thuộc vào thời gian sản xuất. Theo điều tra, khảo sát tại các hộ gia đình, có 30/30 phiếu điều tra cho thấy mỗi ngày xưởng sản xuất làm khoảng 10 – 12 tiếng, buổi sáng từ 7h – 11h30’, buổi chiều từ 2h – 6h30’, buổi tối từ 8h – 10h30’. Cá biệt trong khoảng thời gian từ tháng 8 âm lịch đến tết nguyên đán, thời gian làm việc có thể còn nhiều hơn. Chính thời gian làm việc của các hộ gia đình trùng với thời gian nghỉ ngơi, nên ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt của người dân.
Việc sống trong môi trường có tiếng ồn lớn và thường xuyên đã có những ảnh hưởng tới thính giác như tạo thói quen nói to, nghe âm thanh phải ở mức to mới rõ, đặc biệt ở trẻ nhỏ với việc xem tivi mở âm thanh rất to...ảnh hưởng xấu tới thính giác sau này.
Việc phát triển nghề thủ công mỹ nghệ đã tạo nên một xã Vân Hà với kinh tế vững mạnh, đảm bảo cuộc sống no đủ cho nhân dân. Song song với sự phát triển kinh tế thì môi trường của xã đang có chiều hướng suy giảm, vấn đề mùn cưa chưa có biện pháp xử lý triệt để, tiếng ồn, nước đang tạo nên áp lực to lớn cho môi trường của xã. Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp cho vấn đề môi trường nhằm thiết lập lên cân bằng giữa môi trường và phát triển.
3.4 Ô nhiễm môi trường nước
Do xã Vân Hà chỉ có 50% dân số của xã được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của bộ y tế, số còn lại người dân phải sử dụng nguồn nước chính là nước giếng khoan lấy từ hệ thống nước ngầm.
Vì vậy mà nước ngầm có vai trò quan trọng đến cuộc sống của người dân trong xã, qua con số khảo sát hiện xã Vân Hà có số giếng khoan là: 1990 giếng, trong đó số giếng khoan có bể lọc là: 1729 giếng, còn số giếng khoan không có bể lọc là: 261 giếng và số giếng đào là: 18 giếng. Điều đó có thể thấy 90% dân số trong xã được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Chỉ có duy nhất thôn Vân Điềm môi trường chưa có dấu hiệu của sự xuống cấp. Tình hình môi trường nước của xã theo đánh giá chung của người dân là có sự ô nhiễm về mặt nước ngầm.
Theo chủ tịch xã Vân Hà ông Nguyễn Đình Chiến cho biết: “ Người dân chủ yếu sử dụng nước ngầm ở độ sâu 30 – 45m, còn mực nước ở độ sâu 10 - 15m thì bị ô nhiễm, không thể sử dụng được do ô nhiễm Mn và Fe”.
Môi trường nước mặt bao gồm các ao, hồ, đầm nuôi thủy sản, các kênh mương qua khảo sát điều tra có 20/30 phiếu điều tra cho rằng nguồn nước mặt đang bị ô nhiễm (chiếm 66,7% tổng số phiếu được hỏi), 9/30 phiếu điều tra cho rằng có ô nhiễm nhưng không đáng kể (chiếm 30% tổng số phiếu được hỏi), còn lại 1 phiếu không trả lời (chiếm 3,3% tổng số phiếu được hỏi). Ở xã Thiết Bình qua khảo sát 90% các ao hồ trong thôn đều có màu đen do người dân thải trực tiếp nước thải sinh hoạt ra ao, hồ và một phần là do việc đổ gỗ vụn, mùn cưa ra ao hồ đã làm các ao hồ này bị nhiễm bẩn chất hữu cơ.
Theo người phụ trách về mặt quản lý rác thôn Văn Điểm cho biết: “ Toàn bộ nước thải trong thôn đều được dẫn và xả trực tiếp ra cánh đồng” gây ra hiện tượng các con kênh, mương đều bị ô nhiễm, chủ yếu bị phú dưỡng do nồng độ các chất hữu cơ cao.
Ngoài ra sự ô nhiễm nước mặt ở các kênh mương còn do việc sử dụng bừa bãi các loại thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học đã gây nên tình trạng nước mặt ở kênh mương thường chứa các kim loại nặng như: Cu, Fe, Mn.
Về nước sinh hoạt theo báo cáo thực trạng môi trường của xã Vân Hà năm 2009 cho biết có tới 12000m3 nước thải sinh hoạt được thải ra trên ngày và 1700m3 nước thải dùng trong chăn nuôi và sản xuất thải ra trên ngày. Toàn bộ các lượng nước thải này đều không qua xử lý và bị đổ trực tiếp ra môi trường sống của người dân trong xã, khiến cho các ao, hồ trong xã dần trở thành các hồ chứa nước thải gây mất mỹ quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân trong xã Vân Hà.
Đánh giá tình trạng sức khỏe người dân trong xã Vân Hà
Tại xã Vân Hà nơi sản xuất và chế biến các loại gỗ đan xen với khu nhà ở và hầu hết dân cư của xã đều tham gia vào quá trình sản xuất “Từ người già đến trẻ nhỏ”. Trong quá trình sản xuất thường thải ra một lượng lớn các bụi gỗ nên nguy cơ ảnh hưởng từ điều kiện lao động và các loại chất thải trong sản xuất đến sức khỏe người dân trong xã là rất lớn. Qua nghiên cứu các bệnh mà người dân trong xã thường mắc phải như: tai- mũi- họng, các bệnh về đường hô hấp và dị ứng ngoài da, ngoài ra còn các bệnh mang tính chất nghề nghiệp như: Đau lưng, các bệnh về cột sống hoặc bụi phổi.
Bảng 13: Tỷ lệ các bệnh thường mắc ở xã Vân Hà
Đơn vị
Người
Phần trăm (%)
Trẻ em < 15 tuổi (người)
Người lớn (Người)
Tổng số người đến khám bệnh
3525
100
Bệnh liên quan đến hô hấp
1664
47,2
128
1374
Dị ứng
666
18,9
128
537
Ung thư
257
7,3
Bệnh liên quan đến mắt và bệnh mang tính chất nghề nghiệp
434
12,3
Các bệnh khác
504
14,3
( Báo cáo thống kê số người tới khám trạm y tế xã Vân Hà năm 2010)
Theo Trạm Trưởng trạm Y Tế xã Vân Hà cho biết: “Các bệnh nhân tới khám chủ yếu là mắc phải các bệnh liên quan đến hô hấp chiếm 47,2% trên tổng số người tới trạm y tế khám ( 3525 người), trong đó có 128 trẻ em <15 tuổi và 1374 người lớn. ( Báo cáo thống kê số người tới khám trạm y tế xã Vân Hà năm 2010)
Đứng thứ hai là bệnh do dị ứng do tiếp xúc với các loại dung môi hữu cơ và dị ứng do tiếp xúc với gỗ Trắc chiếm 18,9% trên tổng số người tới khám (3525 người) trong đó có 128 trẻ em <15 tuổi và 537 ngừời lớn. Số còn lại là mắc các bệnh khác.(báo cáo thống kê số bệnh nhân tới khám trạm y tế xã Vân Hà năm 2010).
Về các bệnh nhân mắc bệnh ung thư theo trạm trưởng trạm y tế xã Vân Hà cho biết tỷ lệ này chiếm 7,3% trên tổng số người tới khám (2010) trong đó chủ yếu là người già và trung niên có độ tuổi > 57 tuổi, ở trẻ em thì số lượng chỉ có một hoặc 2 trẻ nhỏ mắc phải/ năm.
Các bệnh liên quan đến mắt và bệnh mang tính chất nghề nghiệp chiếm khoảng 12.3% trên tổng số người tới khám (2010).
Ngoài ra, gỗ được dùng cho sản xuất thường bị người dân để tràn lan ra đường quốc lộ, đường làng, các công trình công cộng cũng được tận dụng là xưởng sản xuất gây ảnh hưởng đến giao thông và mỹ quan của xã, đồng thời cũng mất đi không gian sinh hoạt cho trẻ em. Hầu hết các thôn mất sân chơi dành cho thanh thiếu niên, do bị tận dùng làm nơi tập kết gỗ hay nơi chứa chất thải từ quá trình sản xuất.
3.6 Đánh giá chung về tình hình môi trường
Vân Hà là một xã với hướng phát triển tiểu thủ công nghiệp là chính, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn là một xã có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn, vì vậy vấn đề môi trường ở đây tương đối phức tạp. Chất thải tại đây vừa bao gồm chất thải của nghề gỗ, vừa gồm chất thải sinh hoạt hàng ngày của người dân vừa có cả chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp ( trồng trọt và chăn nuôi ). Nguồn chất thải này tương đối đa dạng và có tính chất khá khác nhau nên yêu cầu phải có các biện pháp thích hợp để xử lý nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường. Tuy nhiên, do lực lượng còn khá mỏng, cùng với ý thức của người dân chưa thực sự tốt, chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế nên vấn đề môi trường tại đây dường như đang bị bỏ ngỏ.
3.5 Hoạt động giáo dục, tuyên truyền
Được sự đồng ý của tổ chức Đoàn xã Vân Hà; sự quan tâm và tạo điều kiện giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu trường Tiểu học Vân Hà, nhóm thực tập đã tổ chức hoạt động truyền thông môi trường cho đối tượng là các em học sinh trường tiểu học Vân Hà diễn ra vào ngày 3/11/2010.
Cách thức tổ chức
Nhóm đặt vấn đề , xin ý kiến và được sự đồng ý của tổ chức Đoàn xã Vân Hà về tổ chức hoạt động truyền thông môi trường trong địa phương cho đối tượng là các em học sinh trường tiểu học Vân Hà.
Tổ chức Đoàn xã liên hệ với bên Đoàn trường và được Ban giám hiệu trường chấp thuận, tạo mọi điều kiện giúp đỡ.
Theo đúng kế hoạch, sáng ngày 24/10/2011, nhóm tổ chức 1 chương trình giáo dục và tuyên truyền về môi trường tại sân trường, đối tượng là toàn bộ học sinh trong trường tiểu học
Nội dung truyền thông
Tiết sinh hoạt tập thể trước toàn trường xoay quanh nội dung: vấn đề rác thải và phân loại rác ( rác vô cơ, rác hữu cơ); bảo vệ môi trường như thế nào từ trong những thói quen sinh hoạt hằng ngày của các em cũng như làm thế nào để bảo vệ chính môi trường sống xung quanh nơi mà các em đang sinh sống. Cụ thể:
Giới thiệu, mục đích của buổi tuyên truyền
Diễn kịch: vở “Táo Quân chầu trời” với nội dung táo môi trường báo cáo tình hình môi trường tại hạ giới. Các vấn đề môi trường tại trường học như vứt rác bừa bãi, bẻ cành, hái hoa…
Thời trang rác dựa trên câu truyện “công chúa nilon”.
Thuyết trình về phân loại rác, mục đích của việc phân loại rác thải
Tổ chức trò chơi “phân loại rác”cho các em học sinh tiểu học
Tổng kết toàn chương trình
Kết quả
Buổi truyền thông diễn ra khá thuận lợi và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp. Các em học sinh chăm chú lắng nghe và tham gia rất hào hứng, sôi nổi. Ban giám hiệu có lời cảm ơn nhóm thực tập rất nhiều và mong muốn sẽ có nhiều buổi giao lưu như thế này nữa để nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường cho các em học sinh tiểu học một cách thường xuyên và tốt hơn.
Hoạt động truyền thông môi trường của nhóm còn rất hạn chế về cách thức tổ chức nội dung vì kinh nghiệm chưa có nhiều. Thời gian thực tập có hạn nên nhóm không thể tổ chức được nhiều buổi giáo dục môi trường như thế này cho các em học sinh, đây cũng là một hạn chế nữa.
4. Đề xuất giải pháp
4.1 Giải pháp trong quản lý rác thải nông nghiệp
4.1.1 Đối với rác thải đồng ruộng
- Xây dựng các hố, bể, thùng chứa để thu gom vỏ, bao bì thuốc BVTV tại chính những cánh đồng trên địa bàn xã ( với vị trí hợp lý ).
- Liên kết với công ty môi trường đô thị (bãi rác Nam Sơn) để thu gom, vận chuyển và xử lý toàn bộ số lượng vỏ, bao bì thuốc trừ sâu, thuốc BVTV ở trên.
- Không nên đốt rơm rạ vì sẽ gây ra khói bụi, ảnh hưởng đến môi trường không khí cũng như làm mất đi một số chất dinh dưỡng trong cây. Rơm rạ nên được thu gom, ủ tại chỗ kết hợp với việc sử dụng các chế phẩm sinh học xử lý phế phụ phẩm đồng ruộng. Nguồn rơm rạ này sau khi xử lý sẽ trở thành nguồn phân bón rất tốt, bù lại lượng chất đã mất của đất.
4.1.2 Đối với chất thải chăn nuôi
Như đã nói ở trên, chăn nuôi ở xã Vân Hà không phát triển lắm, nên nguồn chất thải chăn nuôi không đáng kể. Tuy nhiên, cũng cần có những biện pháp nhằm tránh gây ô nhiễm môi trường do chúng gây ra
Rác thải chăn nuôi như: thức ăn thừa, chất thải của vật nuôi, nước rửa chuồng trại… phải được thu gom và xử lý, không được thải trực tiếp ra môi trường
Xây dựng chuồng trại đúng kỹ thuật và cách xa khu dân cư, tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý chất thải chăn nuôi. Khuyến khích các hộ gia đình chăn nuôi xây dựng các hầm biogas, vừa xử lý chất thải chăn nuôi, vừa tạo ra nguồn năng lượng phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Chính quyền địa phương cần quan tâm giúp đỡ về vốn và kỹ thuật cho các hộ gia đình để phát triển chăn nuôi cũng như bảo vệ môi trường.
4.2 Giải pháp trong quản lý rác thải sinh hoạt
4.2.1 Giải pháp liên quan đến cơ chế - chính sách
Hàng năm phải xây dựng kế hoạch quản lý chất thải rắn trên toàn xã, theo dõi, đôn đốc, phối hợp với các cơ quan đoàn thể trong xã để thực hiện tốt việc quản lý chất thải rắn. Lập báo cáo định kỳ để kiểm tra giám sát công tác quản lý rác thải được tốt hơn.
Phải có các biện pháp cụ thể ngăn cấm các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ đổ chất thải ra ao hồ và đường phố. Có những biện pháp xử lý nghiêm nhằm dăn đe các cơ sở vi phạm
Chính quyển xã nên trích ra cho từng thôn một quỹ đất nhỏ làm nơi tập kết rác, tạo điều kiện thuận lợi cho xe thu gom rác của thành phố đến thu gom
Chính quyền địa phương nên có quỹ hỗ trợ về vấn đề môi trường, nhằm trợ cấp thêm cho các công nhân vệ sinh.
4.2.2 Giải pháp tuyên truyền, giáo dục
Sử dụng hình thức phát thanh trên đài truyền thanh của xã, của thôn về các vấn đề liên quan đến môi trường
Tổ chức các chiến dịch tổng vệ sinh môi trường, tranh ảnh cổ động như chiến dịch “hạn chế sử dụng túi nilon vì môi trường”…
Đưa vấn đề giáo dục môi trường vào các trường học trên địa bàn xã thông qua các buổi học ngoại khóa.
Liên kết giữa đoàn trường và đoàn thanh niên, tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể, tuyên truyền về vấn đề môi trường, giúp các em học sinh biết được rác thải nào dễ phân hủy, rác thải nào có thể tái sử dụng, rác thải nào khó phân hủy để hạn chế sử dụng,
4.2.3 Giải pháp công nghệ
Tăng cường sử dụng các xe vận chuyển rác chuyên dụng cho các thôn, xóm. Trang bị đầy đủ các trang thiết bị bảo hộ lao động cho công nhân vệ sinh như: quần áo bảo hộ lao động, bao tay, khẩu trang…
Ký kết với công ty vệ sinh môi trường nhằm thu gom hết toàn bộ rác tại địa phương, tránh để rác lưu cữu lâu, gây mùi hôi thối khó chịu.
Tăng cường tần suất thu gom của vệ sinh viên cũng như xe ô tô chở rác của thành phố nhằm đảm bảo rác được thu gom hết hoàn toàn mỗi ngày
Thu gom và xử lý lượng rác thải sinh hoạt vẫn đang còn tồn đọng tại các bãi rác tự do trên địa bàn đặc biệt là đối với thôn Hà Khê ( không có tổ vệ sinh thu gom rác sinh hoạt từ hơn 1 năm trở lại đây)
4.2.4 Giải pháp kinh tế
Tăng mức thu phí vệ sinh môi trường một cách phù hợp, đảm bảo đồng đều giữa các thôn
Tăng lương cho các công nhân vệ sinh nhằm đảm bảo xứng đáng với sức lao động họ bỏ ra.
Đầu tư mua sắm đầy đủ trang thiết bị cần thiết để các công nhân thu gom một cách thuận lợi nhất.
4.3 Giải pháp quản lý rác thải làng nghề
4.3.1 Giải pháp quản lý
Các cấp chính quyền cần có các biện pháp nhằm quy hoạch và tách riêng khu vực sản xuất nghề thủ công gỗ ra khỏi khu dân cư tập trung vừa đảm bảo sức khỏe cho người dân, vừa tăng thêm thương hiệu cho sản phẩm của địa phương.
Cần tăng cường về nhân lực để quản lý vấn đề rác thải làng nghề một cách tốt hơn.
4.3.2 Giải pháp công nghệ
Áp dụng công nghệ mới, hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
Đầu tư máy xử lý bụi gỗ nhằm giảm thiểu ô nhiễm bụi trong các xưởng sản xuất
Đầu tư trang thiết bị xử lý bụi trong nhà xưởng như hệ thống quạt gió, túi thu bụi, che chắn nhà xưởng xung quanh khu vực cưa xẻ gỗ.
Xây dựng các xưởng phun kín với hệ thống ống khói cao; trang bị đồ bảo hộ lao động cho người phun như mặt nạ chống độc, thiết bị phòng chống cháy nổ,… đối với những hộ gia đình phun sơn PU (chỉ có thôn Thiết Úng)
4.3.2 Giải pháp xử lý chất thải làng nghề
- Đối với lượng mùn cưa, phoi bào, gỗ vụn thì cần xây dựng bãi chứa tập trung để thu gom trong toàn xã. Mùn cưa có lẫn phoi bào và gỗ vụn thì có thể áp dụng công nghệ đốt không khói.
- Riêng đối với mùn cưa, có thể:
+ Ép để sản xuất ra những sản phẩm dân dụng hữu ích khác như bàn, ghế
+ Sử dụng men vi sinh để ủ mùn cưa ( các vi sinh vật có tác dụng phân giải xenlulo và lignhin ) thành phân bón. Sản phẩm phân bón này có thể bán cho các vùng trồng rau sạch lân cận.
+ Bán cho các hộ gia đình, các vùng khác có nhu cầu sử dụng nó để sản xuất nấm ăn; làm hương ( nhang ),…
- Nước thải: cần có hệ thống thu gom riêng để thu lại phần cặn lắng ( bụi lắng ).
Tiếng ồn: quy định thời gian làm việc đưa vào hương ước làng ( chi tiết các điều khoản thi hành và hoạt động của làng nghề).
Phần IV: Kết luận, kiến nghị
Phân tích SWOT
Mặt mạnh ( S- Strengths )
Cơ hội ( O – Opportunities )
Được công nhận là làng nghề điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống.
Nguồn lao động dồi dào, lành nghề.
Có thị trường tiêu thụ mạnh (chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc và 1 số nước châu Á khác).
Sản phẩm đa dạng về mẫu mã, có chất lượng cao.
Nhiều cơ sở sản xuất với quy mô lớn được hỗ trợ vốn.
Mở rộng quy mô sản xuất.
Đưa thương hiệu đồ gỗ mỹ nghệ Vân Hà đến tất cả các nước trên thế giới.
Tăng mức sống của nhân dân.
Mặt yếu ( W – Weaknesses )
Thách thức ( T – Threats )
Thiếu diện tích nhà xưởng
Hoạt động sản xuất làng nghề ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, nước, không khí và sức khoẻ công nhân, người dân.
Chưa có quy hoạch cho làng nghề, mà chủ yếu nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình.
Người dân không chú trọng phát triển nông nghiệp.
Chưa có hệ thống thu gom và xử lý rác thải nông nghiệp.
Rác thải sinh hoạt chưa được thu gom và xử lý triệt để.
Mức độ đầu tư cho sản xuất đặc biệt là đầu tư máy móc, dây chuyền công nghệ nhằm giảm thiểu các tác động tới môi trường là còn rất hạn chế.
Hoạt động sản xuất làng nghề nằm trong khu dân cư nên sức khoẻ của người dân không được đảm bảo và việc mở rộng sản xuất bị hạn chế.
Chất thải làng nghề quá lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống
Đất bị hoang hoá, lãng phí tài nguyên đất.
Ô nhiễm môi trường đất và thuỷ sinh vật; mất dinh dưỡng của đất.
Mất mỹ quan, là điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn, virus truyền bệnh.
Tăng áp lực lên tài nguyên rừng.
Trong quá trình sản xuất có nhiều công đoạn phát sinh ô nhiễm làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường xung quanh.
4.2 Kết luận:
Từ những kết quả nghiên cứu trên có thể rút ra một số kết luận sau:
Xã Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội là một xã nông nghiệp nhưng có nghề mộc thủ công phát triển mạnh, Nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và đang có xu hướng bị mai một.
Đời sống của nhân dân tương đối cao, các vấn đề về giáo dục và y tế không ngừng được quan tâm và đảm bảo.
Do là một xã có nghề phụ phát triển, nên đã thu hút một lượng lao động lớn từ khu vực lân cận đến làm ăn, cộng thêm đặc thù ngành nghề mộc có nhiều chất thải đã làm môi trường nơi đây bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm bụi và tiếng ồn.
Rác thải sinh hoạt cũng là một vấn đề đáng quan tâm tại đây, do lượng lao động tạm trú cũng như dân số địa phương khá đông đúc. Rác thải sinh hoạt tại 5 thôn trong xã đều không được phân loại và thu gom một cách triệt để, đã gây ra tình trạng ô nhiễm mùi nghiêm trọng
Công tác quản lý rác thải và vệ sinh môi trường tại địa phương chưa thực sự tốt, một thôn trong xã không có nhân viên vệ sinh.
Lực lượng cán bộ môi trường còn mỏng, chưa có chế độ ưu đãi đối với công nhân thu gom rác, nên hiệu quả làm việc chưa cao.
4.3 Kiến nghị
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm có một số kiến nghị sau:
Chính quyền các cấp cần có những chiến lược chính sách phù hợp nhằm phát triển làng nghề, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đồng thời hướng tới phát triển bền vững làng nghề.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề môi trường.
Cần tuyển thêm nhân viên vệ sinh, đặc biệt tại thôn Hà Khê. Có những chế độ đãi ngộ xứng đáng với công sức họ bỏ ra.
Tiến hành phân loại rác thải tại nguồn
Tăng cường xe chở rác thành phố về thu gom, đảm bảo không để rác thải ứ đọng lại tại địa phương.
Có nơi tập kết rác riêng, cách xa khu dân cư tập trung
Áp dụng các hình thức xử phạt thích đáng đối với những hành vi vi phạm.
Phần VI: Tài liệu tham khảo
Nguồn tài liệu thứ cấp từ địa phương gồm:
UBND xã Vân Hà - Đông Anh - Hà Nội, 2008, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009
UBND xã Vân Hà - Đông Anh - Hà Nội, 2010, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2009 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010
UBND xã Vân Hà - Đông Anh - Hà Nội, 2011, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và phương hướng thực hiện nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2011
UBND xã Vân Hà - Đông Anh - Hà Nội, 2010, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011
Hồ Thị Lam Trà, Lương Đức Anh. 2008. Bài giảng Quản lý Môi trường.
Nhóm 12, 2010, Báo cáo thực tập giáo trình xã Liên Hà
Hoạt động tuyên truyền giáo dục môi trường
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hiện trạng và giải pháp cho vấn đề môi trường làng nghề mộc xã Vân Hà – Đông Anh – Hà Nội.doc