MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VÁN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN 2
1.1 Chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản 2
1.1.1 Ngân sách nhà nước và Chi Ngân sách Nhà nước 2
1.1.2 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản 4
1.1.3 Đặc điểm vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước 5
1.1.4 Vai trò vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước 6
1.1.5 Phân loại vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách nhà nước 8
1.2 Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 9
1.2.1 Khái niệm kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 9
1.2.2 Sự cần thiết phải kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 9
1.2.3 Yêu cầu đối với công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 11
1.3 Kho bạc Nhà nước và nhiệm vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư 12
1.3.1 Chức năng nhiệm vụ của Kho bạc Nhà nước 12
1.3.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành Kho bạc Nhà nước 12
1.3.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Kho bạc Nhà nước 15
1.3.1.3 Phân cấp quản lý và kiểm soát thanh toán qua KBNN: 18
1.3.2 Nội dung và đặc điểm kiểm soát thanh toán vốn đầu tư qua Kho bạc nhà nước 19
1.3.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư qua Kho bạc nhà nước 19
1.3.4 Vai trò của Kho bạc nhà nước trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 22
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC 24
2.1 Cơ chế kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay 24
2.1.1 Những nguyên tắc chung 24
2.1.1.1 Nguyên tắc kiểm soát thanh toán vốn các dự án đầu tư xây dựng cơ bản 24
2.1.1.2 Đối tượng kiểm soát thanh toán 25
2.1.1.3 Trách nhiệm, quyền hạn các cơ quan có liên quan 25
2.1.2 Kiểm soát thanh toán vốn quy hoạch 29
2.1.2.1 Nội dung chi phí dự án quy hoạch 29
2.1.2.2 Tài liệu làm căn cứ kiểm soát thanh toán vốn quy hoạch 29
2.1.2.3 Tạm ứng và thanh toán khối lượng quy hoạch hoàn thành 30
2.1.3 Kiểm soát thanh toán vốn chuẩn bị đầu tư 33
2.1.3.1 Nội dung chi phí công tác chuẩn bị đầu tư 33
2.1.3.2 Hồ sơ, tài liệu làm căn cứ kiểm soát thanh toán chuẩn bị đầu tư 34
2.1.3.3 Tạm ứng và thanh toán khối lượng chuẩn bị đầu tư hoàn thành 34
2.1.4 Kiểm soát thanh toán vốn thực hiện dự án 35
2.1.4.1 Tài liệu làm căn cứ kiểm soát thanh toán vốn thực hiện dự án 35
2.1.4.2. Tạm ứng và thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành 38
2.1.4.3 Quy định việc ủy nhiệm kiểm soát thanh toán vốn đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư 43
2.2 Đánh giá công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong giai đoạn 2001-2007 45
2.2.1 Những thành công đạt được 45
2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại 49
2.2.2.1 Định mức đơn giá còn nhiều bất cập 49
2.2.2.2 Hạn chế trong việc áp dụng quy trình giao dịch một cửa trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản 51
2.2.2.3 Hạn chế trong thanh toán tạm ứng và thu hồi tạm ứng 52
2.2.2.4 Hạn chế trong quy định mở tài khoải tiền gửi của các ban quản lý dự án 54
2.2.2.5 Quy định chưa rõ ràng về các loại dự toán làm căn cứ thanh toán khối lượng hoàn thành 55
2.2.2.6 Hạn chế trong kiểm soát chi ủy nhiếm vốn bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng 56
2.2.3 Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế 57
2.2.3.1 Nguyên nhân khách quan 57
2.2.3.2 Nguyên nhân chủ quan 60
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA KBNN TRONG CÔNG TÁC QUẢN KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN 62
3.1 Mục tiêu và định hướng hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư XDCB 62
3.1.1 Mục tiêu chung 62
3.1.2 Mục tiêu đối với hệ thống thanh toán 62
3.1.3 Mục tiêu đối với công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB 63
3.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB 63
3.2.1 Giải pháp trong quản lý giá xây dựng 63
3.2.2 Cải tiến mô hình giao dịch một của trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay 64
3.2.3 Quy định tạm ứng và thu hồi tạm ứng 66
3.2.4 Điều chỉnh qui định về mở tài khoản tiền gửi của các Ban quản lý dự án 66
3.2.5 Qui định cụ thể về căn cứ cho kiểm soát thanh toán khối lượng hoàn thành 67
3.2.6 Kiểm soát thanh toán vốn ủy nhiệm bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng 68
3.2.7 Hoàn thiện công tác kiểm tra trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB 68
3.3 Những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong tương lai 69
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5492 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó số tiền từ chối thanh toán cũng giảm đi.
Đặc biệt, từ năm 2007 trở đi, theo quy định của Nghị định số 99/2007/CP-NĐ thì Chủ đầu tư phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về đơn giá, định mức cũng như mọi hoạt động thực hiện dự án. Nhà nước chỉ quản lý và công bố các định mức XDCB để chủ đầu tư vận dụng, áp dụng cụ thể vào từng dự án, công trình. Đơn giá có thể do địa phương ban hành cho phù hợp với tình hình khu vực mình, cũng có thể do bộ chủ quản ban hành. Dựa vào đó các bên sẽ đưa ra đơn giá riêng cho hợp đồng. Đơn giá được áp dụng cho thanh toán sẽ chỉ phụ thuộc vào hợp đồng. KBNN chỉ phải đảm bảo tính hợp pháp hợp lệ của hồ sơ, cũng như đảm bảo chi không quá kế hoạch vốn, và hồ sơ thanh toán không áp dụng vượt mức đơn giá trong hợp đồng. Do đó cũng góp phần làm số từ chối chi giảm đi. Năm 2008 số từ chối chi chỉ còn 241 tỉ đồng
Tuy chế độ chính sách áp từng thời kì khác nhau, nhưng con số từ chối chi này vẫn là một tiêu chí để đánh giá tình hình thanh toán vốn qua KBNN.
Thứ ba, chất lượng của đội ngũ cán bộ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB đã trưởng thành trên mọi mặt,cả về chất lượng cũng như số lượng, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, có cách nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về nhiệm vụ của ngành KBNN. Đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định nâng cao chất lượng, hiệu quả trong kiểm soát thanh toán, là điều kiện sẵn sàng đảm nhiệm những nhiệm vụ với yêu cầu cao hơn trong tương lai.
Thứ tư, quy trình nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB đã được quy định rõ ràng từng nội dung thanh toán, thời hạn kiểm soát thanh toán, hồ sơ thủ tục trong thanh toán được công khai minh bạch đã làm giảm những mập mờ trong xử lý công việc, góp phần đáng kể trong công cuộc cải cách hành chính.
Thứ năm, từ sự chủ động tích cực từ hệ thống KBNN, thời gian giải quyết, giải ngân các khoản thanh toán vốn đầu tư XDCB đã được rút ngắn một cách đáng kể, việc chấp hành thời gian kiểm soát thanh toán theo quy định tương đối tốt đã tạo điều kiện cho các nhà thầu, đơn vị cung cấp hàng hóa được tiếp nhận vốn một cách kịp thời, phục vụ triển khai thực hiện dự án, giảm chi phí cũng như nâng cao hiệu quả dử dụng của vốn.
Thứ sáu, việc triển khai tốt ứng dụng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB trên mạng diện rộng đã góp phần chuẩn hóa nghiệp vụ thanh toán vốn đầu tư XDCB và nâng cao chất lượng, giảm thiểu thời gian trong quản lý, kiểm soát thanh toán vốn.
Thứ bảy, thực hiện tốt chế độ kế toán chi đầu tư XDCB, các khoản thanh toán được thực hiện chính xác, kịp thời, đúng nội dung kinh tế và mục lục NSNN quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kế toán NSNN, phục vụ quản lý, điều hành NSNN nói chung, thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN nói riêng một cách có hiệu quả.
2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại
2.2.2.1 Định mức đơn giá còn nhiều bất cập
- Có nhiều loại định mức.
Định mức, đơn giá trong XDCB là để quản lý, kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng. Theo tinh thần của nghị định 99/2007/NĐ-CP, Nhà nước không quy định định mức và đơn giá nữa. Khoản 1 Điều 13 của nghị định có ghi rõ: “Bộ Xây dựng hướng dẫn phương pháp lập định mức xây dựng, xây dựng và công bố định mức xây dựng”.
Các nội dụng tiếp theo trong điều 13 cho thấy rằng định mức mà Bộ Xây dựng công bố chỉ có tính chất dùng để tham khảo và có thể được điều chỉnh bởi rất nhiều đối tượng: các Bộ, các UBNN tỉnh, nhà thầu, Chủ đầu tư, tư vấn thiết kế. Khoản 2 điều này cũng quy định: “Căn cứ phương pháp lập định mức xây dựng theo quy định tại khoản 1 Điều này, các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức xây dựng, công bố các định mức xây dựng cho các công trình, công việc đặc thù của ngành, địa phương”; và khoản 3: “Đối với công tác xây dựng đã có trong hệ thống định mức xây dựng được công bố nhưng chưa phù hợp với biện pháp, điều kiện thi công hoặc yêu cầu kỹ thuật của công trình thì Chủ đầu tư, nhà thầu, tổ chức tư vấn điều chỉnh những định mức đó cho phù hợp để áp dụng cho công trình”
- Có nhiều đơn giá vật liệu, nhân công:
Cũng trong Nghị định 99/2007/NĐ-CP, điều 14 khoản 2 có ghi rõ: “Hệ thống giá xây dựng công trình dùng để xác định chi phí xây dựng trong tổng mức đầu tư và dự toán công trình”
Điều 15 khoản 1 là: Đơn giá xây dựng công trình được lập trên cơ sở định mức kinh tế- kỹ thuật và các yếu tố chi phí sau đây:
a) Giá vật liệu xây dựng được xác định phù hợp với tiêu chuẩn, chủng loại và chất lượng vật liệu sử dụng cho công trình xây dựng cụ thể. Giá vật liệu xây dựng xác định trên cơ sở giá thị trường do tổ chức có chức năng cung cấp, báo giá của nhà sản xuất, thông tin giá của nhà cung cấp hoặc giá đã được áp dụng cho công trình khác có tiêu chuẩn, chất lượng tương tự. Giá vật liệu đến chân công trình được tính theo phương pháp lập đơn giá xây dựng công trình;
b) Giá nhân công xây dựng được xác định theo mặt bằng thị trường lao động phổ biến của từng khu vực, tỉnh theo từng ngành nghề cần sử dụng. Giá nhân công xây dựng được tính toán căn cứ theo mức tiền lương tối thiểu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố; khả năng nguồn vốn, khả năng chi trả của Chủ đầu tư và các yêu cầu khác ;
c) Giá cả máy và thiết bị thi công được xác định theo phương pháp do Bộ Xây dựng hướng dẫn.
Như vậy, có rất nhiều những căn cứ để xây dựng đơn giá vật liệu và nhân công. Do đó sẽ dẫn tới đơn giá của nhiều công trình rất khác nhau. Mỗi tư vấn khi quyết định sử dụng một căn cứ nào để lập nên đơn giá cũng hoàn toàn chẳng có gì để chứng minh rằng tại sao là căn cứ này mà không phải là căn cứ kia. Giá nhân công ngay điều trên yêu cầu “theo mặt bằng giá thị trường” thì ngay dưới đã là theo “khả năng nguồn vốn, khả năng chi trả của Chủ đầu tư”. Trên thực tế, hai căn cứ này đều rất có thể mâu thuẫn nhau.
Chính sự không rõ ràng trong việc xác định định mức, đơn giá này có thể sẽ là kẽ hở cho tiêu cực, gây thất thoát cho NSNN. Đồng thời, cùng với việc quy định Chủ đầu tư chịu hoàn toàn trách nhiệm về đơn giá định mức, thì phần nào chức năng kiểm soát chi của KBNN cũng bị suy giảm.
2.2.2.2 Hạn chế trong việc áp dụng quy trình giao dịch một cửa trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Sau thời gian triển khai kiểm soát thanh toán theo phương thức giao dịch một cửa của hệ thống KBNN nhằm mục đích công khai, minh bạch, rõ ràng, thuận tiện cho các cá nhân, tổ chức tới thanh toán tại KBNN, thì phương thức giao dịch này cũng bộ lộ nhiều hạn chế:
- Về bố trí cán bộ: Trong điều kiện hiện nay với số lượng biên chế có hạn, thì việc bố trí cán bộ cho bộ phận giao nhận hồ sơ và trả kết quả theo hướng tách người giao dịch trực tiếp với khách hàng là không thể thực hiện được. Nhất là tại các Kho bạc huyện, một số Kho bạc huyện bộ phận kế hoạch chỉ được giao biên chế 1,2 người và kế toán là 4,5 người.
Đặc biệt vào các thời điểm cuối năm ngân sách, khóa sổ niên độ kế hoạch năm, lượng khách hàng rất đông, KBNN luôn luôn trong tình trạng quá tải dù là theo mô hình cán bộ thanh toán giao dịch trực tiếp với khách hàng. Nếu theo mô hình một cửa, thì mọi giao dịch đều tập trung vào bộ phận giao nhận hồ sơ và kết quả là không khả thi. Vì khi đó, sẽ không thể đảm bảo kịp thời gian và chậm hơn so với trước đây.
- Về kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB, thì cán bộ giao dịch nắm hoàn toàn vai trò trung gian giữa cán bộ làm nghiệp vụ và khách hàng. Cán bộ giao dịch có thể trả lời khách hàng về tính hợp lệ của hồ sơ cũng như kí nhận số hồ sơ đã nhận. Nhưng không thể đảm bảo là hồ sơ này đã đầy đủ hay chưa. Cũng như không thể trả lời được điểm chưa hợp lý trong hồ sơ khiến họ bị từ chối thanh toán. Do đó không chỉ thời gian giải ngân kéo dài, mà khách hàng sẽ phải giao dịch nhiều lần hơn. Chưa kể với những giao dịch kiểm soát chi thường xuyên cần thanh toán tiền mặt trong ngày thì việc áp dụng một cửa sẽ gây mất nhiều thời gian, và vất vả cho cả cán bộ thanh toán cũng như khách hàng.
- Một trong những mục đích lớn nhất của giao dịch một cửa đó là hạn chế tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu của cán bộ nghiệp vụ khi giao dịch trực tiếp. Nhưng giao dịch một cửa sẽ không thể điều chỉnh được nếu đó là giao dịch gián tiếp và diễn ra ngoài trụ sở.
Hơn nữa, những vướng mặc trong hồ sơ thanh toán nếu được trao đổi trực tiếp giữa khách hàng và cán bộ nghiệp vụ thì công việc sẽ nhanh hơn rất nhiều so với trả lời lại bằng văn bản, gây nhiêu khê và chậm trễ cho việc thanh toán. Khi khách hàng giao dịch chưa đồng tình với cách xử lý của Kho bạc, thì cũng không thể nào đối chấp với cán bộ tại bộ phận giao dịch.
- Khi thực hiện một cửa, công việc giao nhận hồ sơ và trả kết quả giữa cán bộ giao dịch với khách hàng, giữa cán bộ giao dịch và cán bộ nghiệp vụ thì những giao dịch này sẽ được thực hiện bằng văn bản. Do đó đã vô hình hóa làm tăng thủ tục hành chính lên thêm 2 lần.
- Các đơn vị có giao dịch với Kho bạc, không phải đơn vị nào cũng có sử hiểu biết tường tận trong chính sách quản lý chi Ngân sách, cũng như trình độ kế toán của các đơn vị không đồng đều. Chưa kể cơ chế kiểm soát chưa được ban hành đồng bộ, lại thường xuyên thay đổi bổ sung. Nên thiếu sót trong hồ sơ thanh toán là không thể tránh khỏi. Mà khi có thiếu xót, tất yếu hồ sơ đó sẽ bị trả lại để hoàn chỉnh, có thể một lần, cũng có thể phải nhiều lần mới xong nếu tiếp tục với mộ hình một cửa như hiện nay.
2.2.2.3 Hạn chế trong thanh toán tạm ứng và thu hồi tạm ứng
Thông tư số 130/2007/TT-BTC ngày 2/11/2007 về hướng dẫn quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN. Đây là thông tư hướng dẫn cho nghị định 99/2007/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Trong đó, có quy định về mức tạm ứng tối thiểu và không khống chế mức tạm ứng tối đa. Do đó, có thể hiểu rằng, nếu Chủ đầu tư và nhà thầu đồng ý với mức tạm ứng 100% thì vẫn phù hợp với quy định hiện hành. Nhưng việc thu hồi tạm ứng thì bắt đầu từ lần thanh toán đầu tiên và thu hồi hết khi thanh toán khối lượng hoàn thành đạt 80% giá trị hợp đồng. Đây là một vấn đề vô lý, vì khi tạm ứng một lượng vốn lớn cho nhà thầu thì chưa chắc nhà thầu đó đã sử dụng hết 100%. Đó là còn chưa kể trong các trường hợp có khối lượng phát sinh giảm, đình hoãn thi công, thì việc tạm ứng quá nhiều sẽ là một sự lãng phí lớn, gây căng thẳng vốn trong thanh toán, có dự án thì thừa tiền, dự án thì thiếu. Đặc biệt trong một chừng mực nào đó, có thể gây lạm phát.
Trong các công trình XDCB, do đặc điểm riêng, một số cấu kiện bán thành phẩm có giá trị lớn phải được sản xuất trước để đảm bảo tiến độ thi công và một số vật tư đặc chủng, vật tư phải dự trữ theo mùa, nếu thấy cần cần thiết được tạm ứng theo nhu cầu cần thiết của việc tạm ứng, nhập khẩu và dự trữ. Việc thu hồi số vốn tạm ứng trên khi thanh toán khối lượng hoàn thành có cấu thành các loại vật tư đã được tạm ứng nói trên.
Quy định này chưa rõ ràng và cụ thể ở chỗ vật tư theo mùa là những vật tư gì? Các loại vật tư như đá, cát, sỏi,... có phải vật tư cần được dự trữ theo mùa không? Chưa kể khi thu hồi tạm ứng đối với gói thầu chỉ định thầu mà có chênh lệch giá vật tư giữa thời điểm tạm ứng và thời điểm thu hồi thì xử lý ra sao? Những vấn đề này vẫn chưa được giải quyết.
Cụ thể, ví dụ trong trường hợp KBNN tạm ứng để nhà thầu nhập khẩu vật tư, cấu kiện, bán thành phẩm đối với gói thầu chỉ định thầu. KBNN sẽ dựa trên đơn giá được duyệt theo dự toán. Khi thanh toán khối lượng, nhà thầu và Chủ đầu tư sẽ nghiệm thu khối lượng hoàn thành với giá tại thời điểm thi công hoặc thời điểm nghiệm thu. Do đó sẽ xảy ra sự chênh lệch tương đối so với giá đã tạm ứng. Đồng thời Chủ đầu tư cũng duyệt điều chỉnh dự toán đơn giá vật tư cấu kiện bán thành phẩm đó theo thời điểm nghiệm thu. Do đó, KBNN sẽ lúng túng không biết kiểm soát theo đơn giá nào. Nếu ở đây, nhà thầu tự ứng vốn ra thi công hoặc gói thầu có tổ chức đấu thầu sẽ không có vấn đề gì. Nhưng ở đây nhà thầu lại được tạm ứng từ NSNN, hồ sơ tạm ứng được lưu trong tài liệu kiểm soát của KBNN. Vấn đề không chỉ đơn giản ở chỗ làm sao thu hồi số vốn đã ứng ra cho nhà thầu, mà phải xử lý ra sao số tiền chênh lệch do vật tư cấu kiện, bán thành phẩm đã được tạm ứng từ NSNN.
Bên cạnh đó, cũng chưa có quy định về số tiền tạm ứng cho vật tư, cấu kiện, bán thành phẩm đó, Chủ đầu tư sẽ chuyển cho ai, đơn vị cung ứng vật tư cấu kiện hay nhà thầu. Trong thực tế, thì tiền tạm ứng này cũng được xử lý một cách tình thế, khi thì chuyển thẳng cho đơn vị cung ứng, khi thì chuyển cho nhà thầu.
Ngoài ra còn một vấn đề, đó là khi đã không hạn chế mức tạm ứng tối đa thì liệu có cần thiết phải quy định thêm về tạm ứng vật tư, cấu kiện, bán thành phẩm nữa hay không.
2.2.2.4 Hạn chế trong quy định mở tài khoải tiền gửi của các ban quản lý dự án
Theo quy định của Bộ Tài chính tại Thông tư số 27/2007/TT-BTC về hướng dẫn quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN, thì Chủ đầu tư được mở tài khoản tại KBNN nơi thuận tiện cho việc kiểm soát thanh toán và thuận tiện cho giao dịch của Chủ đầu tư.
Tuy nhiên theo công văn 3802/KBNN-TTVĐT hướng dẫn việc kiểm soát thoanh toán chi phí cho Ban quản lý dự án thì:
“Việc mở TKTG chi phí quản lý dự án nhằm tập trung các nguồn kinh phí quản lý dự án thuộc ngân sách trong nước mà Ban quản lý dự án được hưởng theo quy định để từ đó thanh toán theo dự toán chi phí được duyệt.
Các Ban quản lý dự án được giao quản lý nhiều dự án hoặc có kinh phí quản lý dự án được hưởng nhiều từ nhiều nguồn khác nhau cần mở TKTG chi phí quản lý dự án tại KBNN nơi thuận tiện nhất cho giao dịch của Ban quản lý dự án”.
Theo đó, Ban quản lý dự án có thể mở TKTG tại bất kì Kho bạc nào thuận tiện cho việc giao dịch của họ. Vì thế đã dẫn tới, QBLDA quản lý từ 2 dự án trời lên, các dự án này lần lượt mở tài khoản thanh toán vốn đầu tư tại KBNN A, KBNN B. Nhưng khi mở TKTG thì Ban quản lý dự án lại mở tại KBNN C. Đây là trường hợp đặc biệt chưa từng có trong thông lệ từ trước tới nay. Vì thường thì Ban quản lý dự án sẽ mở TKTG BLQDA tại KBNN A hoặc B.
Nhưng riêng với trường hợp này chưa có nghiên cứu cũng như đánh giá về cách xử lý cụ thể cũng như ảnh hưởng của nó tới nghiệp vụ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư của KBNN. Đặc biệt là khi quyết toán và phân bổ chi phi Ban quản lý dự án, kiểm soát chi Ban quản lý dự án từ TKTG,... Đây vẫn là một hạn chế đang còn tồn tại
2.2.2.5 Quy định chưa rõ ràng về các loại dự toán làm căn cứ thanh toán khối lượng hoàn thành
Thông tư 27/2007/TT-BTC ngày 3/4/2007 và Thông tư 130/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc NSNN, tại điểm 2 mục B phần 2 hướng dẫn tài liệu cơ sở của dự án, trong đó quy định một trong các tài liệu cơ sở của dự án mà Chủ đầu tư phải gửi tới KBNN để thanh toán cho dự án thực hiện đầu tư trong trường hợp chỉ định thầu đối với dự án vốn trong nước là:
“Dự toán và quyết định phê duyệt dự toán của từng công việc, hạng mục công trình, công trình đối với trường hợp chỉ định thầu hoặc tự thực hiện các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng”
Dự toán trong xây dựng có đặc thù khác hẳn với dự toán chi thường xuyên của các đơn vị thủ hưởng ngân sách. Dự toán công trình được lập căn cứ trên cơ sở xác định khối lượng các công việc theo thiết kế kĩ thuật hoặc thiết kế bản vẻ thi công, nhiệm vụ phải thực hiện của công trình, định mức chi phí theo tỉ lệ phần trăm cần thiết để hoàn thành khối lượng nhiệm vụ công việc đó.
Theo nghị định 99/2007/NĐ-CP thì Chủ đầu tư chịu mọi trách nhiệm khi xảy ra sai phạm về định mức, đơn giá, KBNN không chịu trách nhiệm về vấn đề này nữa. Đối với trường hợp chỉ định thầu, có hợp đồng rõ ràng giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, thì KBNN chỉ cần dựa theo hợp đồng kí kết giữa hai bên làm căn cứ để thanh toán. Nhưng với trường hợp chỉ định thầu này dự toán này lại rất tiềm tàng sai phạm vể đơn giá, định mức. Về nguyên tắc thì Chủ đầu tư chịu hết trách nhiệm. Nhưng cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm thường sẽ phát hiện ra sai phạm. Biết là sai nhưng không lẽ lại thanh toán, nên vấn đề này cũng dễ tiềm tàng những rủi ro dẫn tới tai nạn nghề nghiệp.
2.2.2.6 Hạn chế trong kiểm soát chi ủy nhiếm vốn bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng
Trong những hồ sơ Chủ đầu tư phải gửi tới KBNN nhận ủy nhiệm để được giải ngân, một hồ sơ quan trọng đó chính là Phương án đền bù giải phóng mặt bằng được duyệt. Trường hợp, đơn vị bị thiệt hại tài sải thuộc sở hữu vốn Nhà nước khi thực hiện giải phóng mặt bằng, ví dụ như trường học bệnh viện, nếu có nhu cầu đầu tư xây dựng lại thì phải lập dự án đầu tư trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; nếu không có nhu cầu sẽ được ghi giảm vốn do Nhà nước giao quản lý sử dụng đối với phần bị thiệt hại, như vậy số tiền này sẽ không được giải ngân. Nhưng quy trình nghiệp vụ vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện vấn đề này. Nên thực tế đang diễn ra là nhiều nơi vẫn giải quyết theo Quyết định phê duyệt phương án đền bù. Trách nhiệm cho vấn đề này vẫn còn để ngỏ.
Chi phí cho hội đồng giải phóng mặt bằng và Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng phải lập dự toán và được tạm ứng khi có phát sinh và phải được quyết toán kinh phí theo từng dự án tại KBNN. Nhưng thực tế nhiều địa phương cho thấy Hội đồng giải phóng mặt bằng và Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng được giao nhiệm vụ trong năm đồng thời triển khai công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án nhiều cấp ngân sách. Do đó, họ được mở tài khoản tại KBNN để nhận kinh phí tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng của tất cả dự án trên địa bàn, lập dự toán chi phi chung cho đơn vị của họ trình cấp có thẩm quyền tại địa phương phê duyệt. Chính vì thế họ không thể tách riêng chứng từ, hay xé lẻ các khoản chi để phân bổ cho các dự án đã chuyển kinh phí. Kinh phí thực hiện theo dự toán được duyệt sẽ quyết toán với cơ quan tài chính đồng cấp hàng năm. Nên đó cũng là lý do tại sao họ không thể quyết toán với KBNN và KBNN cũng không thực hiện được thanh toán tạm ứng. Hơn nữa, KBNN cũng chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với Chủ đầu tư chứ không thể quản lý các đơn vị thuộc đối tác của Chủ đầu tư.(Nhà thầu, tư vấn, Hội đồng giải phóng mặt bằng; Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng,...)
Bên cạnh đó, công văn số 3906/KBNN-TTVĐT ngày 31/12/2007 của KBNN cũng chưa quy định cụ thể cho hồ sơ mà Chủ đầu tư phải gửi tới KBNN ủy nhiệm để được chuyển vốn đối với trường hợp tái định cư, tái đầu tư.
2.2.3 Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế
2.2.3.1 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, đó là tình trạng phê duyệt quy hoạch các dự án đầu tư xây dựng không hợp lý, hiệu quả thấp hoặc phải di dời gây lãng phí vốn đầu tư. Điển hình đó là việc quy hoạch chi tiết chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể, chưa dựa trên quy hoạch tổng thể của ngành, khu vực. Quy hoạch vẫn còn mang tính cục bộ của từng địa phương, nên dẫn tới địa phương nào cũng muốn có cảng biển, cảng hàng không mặc dù vị trí địa lí của các cảng này rất gần nhau, hoặc ở nơi không có nhu cầu không cao nên không phát huy hết công suất thiết kế, dẫn tới lãng phí vốn đầu tư và không mang lại hiệu quả kinh tế cũng như xã hội.
Thứ hai, nhiều dự án sai về chủ trương đầu tư, không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng, không phù hợp với qui hoạch, có những dự án sau khi có quyết định đầu tư lại bị đình hoãn, giãn tiến độ thi công. Công tác tư vấn lập dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế dự toán, thẩm định, phê duyệt thiết kế, tổng dự toán của các cấp có thẩm quyền chất lượng thấp, còn tùy tiện ở nhiều nơi, đơn giản trong khâu phê duyệt chủ trương, nhiều hạng mục của dự án chỉ tạm tính để cho tổng mức đầu tư thấp.
Thứ ba, đó là việc lập dự toán và bố trí kế hoạch vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN cho các dự án đầu tư vẫn còn rất phân tán và dàn trải. Điều đó dẫn tới nhiều dự án nhóm B có thời gian quy định phải hoàn thành trong 4 năm, dự án nhóm C có thời gian quy định phải hoàn thành trong 2 năm, mà không có đủ vốn để thực hiện dự án, làm cho dự án phải kéo dài thời gian thi công. Cá biệt một số dự án suốt từ những năm 2001 tới nay vẫn chỉ ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Cơ chế điều hành kế hoạch hóa đầu tư trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi cùng với công tác cải cách hành chính nhà nước, nhưng vẫn bộc lộ nhiều nhược điểm, như bố trí danh mục kế hoạch các dự án đầu tư quá phân tán và dàn trải, bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm vẫn còn mang nhiều tính bình quân, bao cấp và không đồng bộ.
Thứ tư, đó là tình trạng chậm tiến độ, kéo dài thời gian của nhiều dự án đầu tư do công tác chuẩn bị xây dựng và đền bù giải phóng mặt bằng không kịp thời. Do đó làm tăng lãi vay trong quá trình đầu tư ( nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA), làm tăng chi phí vốn đầu tư do phải kéo dài thời gian triển khai dự án, chưa kể có thể phải điều chỉnh lại tổng mức đầu tư, tổng dự toán cao hơn ban đầu.
Thứ năm, là công tác định giá và quản lý trong đầu tư. Công tác này ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung lẫn phương pháp. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy trong các hoạt động đầu tư XDCB, công tác định giá đang được thả nổi, nhiều nội dung công việc vẫn chưa có đơn giá, định mức cụ thể
Thứ sáu, đó là cơ chế đấu thầu hiện nay. Cơ chế đấu thầu được ban hành cùng Nghị định số 88/1999/NĐ-CP, sau này là Luật Đấu thầu , đã chứng tỏ sự phù hợp với nền kinh tế thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế, tiết kiệm chi phí đầu tư XDCB cho Nhà nước, thúc đẩy sự cạnh tranh, hoàn thiện của các nhà thầu cả về năng lực tổ chức, cũng như điều hành. Nhưng cơ chế đấu thầu hiện nay vẫn tồn tại bên trong những lỗ hổng cho tiêu cực diễn ra. Nhiều trường hợp đấu thầu chỉ mang tính chất hình thức . Nhiều trường hợp thì nhận thầu bằng mọi giá, thậm chí bằng cách giảm giá thầu tới 50% so với dự toán hoặc giá mời thầu. Sau đó khi thi công, nhà thầu tìm mọi cách để cắt xén vật liệu, thay đổi chủng loại vật tư, và phổ biến là làm tăng khối lượng phát sinh để trình duyệt đơn giá mới, hay chia nhỏ gói thầu để chỉ định thầu,.v.v....
Thứ bảy, là trách nhiệm quyết toán và phê duyệt quyết toán của dự án công trình hoàn thành thuộc về Chủ đầu tư và các Bộ, các ngành và các địa phương. Tuy nhiên, thời gian qua cho thấy nhiều dự án công trình đã hoàn thành nhưng vẫn chưa được phê duyệt quyết toán. Nguyên nhân cho việc chậm trễ phê duyệt quyết toán dự án chủ yếu do thiếu sự quan tâm chỉ đạo của các bộ, ngành, địa phương. Nhiều dự án và công trình sau khi hoàn thanh, thì ban quản lý hoặc Chủ đầu tư đã giải thể, hoặc dự án bàn giao qua quá nhiều đơn vị làm Chủ đầu tư cũng gây khó khăn cho việc quyết toán.
Thứ tám, quá trình thực hiện các dự án còn có quá nhiều sai phạm. Chủ yếu là do Chủ đầu tư, ban quản lý năng lực hạn chế. Một số dự án đầu tư XDCB có khối lượng thực hiện nhưng chưa đủ thủ tục thanh toán do Chủ đầu tư và nhà thầu kí kết hợp đồng tổ chức thi công trước khi thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Một số dự án chưa đủ thủ tục khởi công xây dựng theo quy định nhưng Chủ đầu tư vẫn tổ chức khởi công xây dựng.
Thứ chín, đó là sự thay đổi thường xuyên và thiếu đồng bộ của cơ chế chính sách quản lý vốn đầu tư XDCB. Kể từ những năm 1980 tới nay, Chính phủ đã 12 lần sửa đổi, bổ sung các quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Mặc dù nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã ra đời để điều chình hoạt động này, nhưng vẫn chưa đày đủ và chưa có chế tài đủ mạnh để hạn chế các sai phạm của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động này. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật khá đại khái, chung chung, không cụ thể rõ ràng, có nhiều mâu thuẫn với nhau, làm cho đối tượng thực hiện gặp nhiều khó khăn.
2.2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đó là chất lượng kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB chưa đồng đều. Trình độ đội ngũ cán bộ trong hệ thống KBNN còn nhiều bất cập. Nhất là các cán bộ các KBNN cấp dưới, trình độ hạn chế, số lượng lại ít. Do đó chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đặc biệt là trong việc cải cách thủ tục hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Một số không nhỏ các cán bộ còn giải quyết công việc theo kinh nghiệm, chưa nắm bắt được cơ chế, chế độ mới, giải quyết công việc còn trậm chễ so với quy định của quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB.
Thứ hai, các chương trình tin học kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB tuy đã phát huy hiệu quả. Nhưng công việc đa phần vẫn được diễn ra thủ công, giải quyết thủ tục thông qua giấy tờ là chính. Dữ liệu số vẫn chưa có được giá trị pháp lý cao. Hơn nữa, một số lượng lớn cán bộ thanh toán đều có tuổi, tiếp cận với công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các chương trình này mới chỉ hoạt động tốt trong các mạng nội bộ, vẫn chưa thể vươn ra toàn hệ thống KBNN. Ngoài ra các chương trình này vẫn chưa thể kết xuất ra những báo cáo tổng hợp quan trọng nhằm phục vụ cho công tác kiểm soát vốn đầu tư XDCB.
Thứ ba, đó là công tác cán bộ. Bố trí cán bộ kiểm tra không tập trung, dàn trải ở nhiều nơi, chưa phát huy được vai trò, dẫn tới cùng một vấn đề có vướng mắc cần vận dụng linh hoạt cơ chế thì mỗi nơi lại có một cách giải quyết khác nhau.
Thứ tư, là quy trình thanh toán vốn đầu tư XDCB còn nhiều bất cập, đồng thời chưa có điều chỉnh kịp thời khi có những thay đổi lớn trong cơ chế chính sách. Bên cạnh đó, một số cán bộ chưa chấp hành nghiêm chỉnh những quy định trong quy trình.
Thứ năm, đó là áp lực giải ngân vào những tháng cuối năm. Cuối năm cũng là thời điểm kết thúc niên độ ngân sách cho đầu tư XDCB. Do đặc thù riêng của chi đầu tư XDCB, nên hồ sơ thanh toán thường được các Chủ đầu tư đưa tới KBNN thanh toán vào thời điểm cuối cùng của niên độ với khối lượng lớn. Nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này, một phần do khách quan gây ra, nhưng cũng có một phần do tâm lý chủ quan của Chủ đầu tư trong công tác này. Hơn nữa, trong những thời điểm này, khối lượng công việc thường nhiều, do đó cán bộ thanh toán dễ bỏ xót sai phạm trong hồ sơ.
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA KBNN TRONG CÔNG TÁC QUẢN KIỂM SOÁT THANH TOÁN VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
3.1 Mục tiêu và định hướng hoàn thiện công tác kiểm soát chi đầu tư XDCB
3.1.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của toàn ngành Kho bạc, đó là xây dựng Kho bạc Nhà nước hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững chắc trên cơ sở cải cách thể chế, chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt các chức năng: quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và quản lý nợ Chính phủ; tăng cường năng lực, hiệu quả và tính công khai, minh bạch trong quản lý các nguồn lực tài chính của Nhà nước trên cơ sở thực hiện tổng kế toán nhà nước. Đến năm 2020, các hoạt động Kho bạc Nhà nước được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử.
3.1.2 Mục tiêu đối với hệ thống thanh toán
Hiện đại hóa công tác thanh toán của Kho bạc Nhà nước trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, theo hướng tự động hóa và tăng tốc độ xử lý các giao dịch; bảo đảm dễ dàng kết nối, giao diện với các hệ thống ứng dụng khác; tham gia hệ thống thanh toán điện tử song phương, thanh toán điện tử liên ngân hàng, thanh toán bù trừ điện tử với các ngân hàng; ứng dụng có hiệu quả công nghệ, phương tiện và hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến của quốc tế. Đến năm 2020, về cơ bản Kho bạc Nhà nước không thực hiện giao dịch bằng tiền mặt;
Nghiên cứu triển khai thực hiện mô hình thanh toán tập trung, theo hướng mọi giao dịch của ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước đều được thực hiện qua tài khoản thanh toán tập trung.
3.1.3 Mục tiêu đối với công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB
Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm soát trên cơ sở đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình kiểm tra, kiểm soát phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin và hiện đại hóa hoạt động Kho bạc Nhà nước; xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát và hệ thống quản lý rủi ro nhằm cảnh báo sớm mọi rủi ro trong hoạt động Kho bạc Nhà nước, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng vi phạm chính sách, chế độ của Nhà nước.
3.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB
3.2.1 Giải pháp trong quản lý giá xây dựng
Mục tiêu của đổi mới cơ chế định giá xây dựng là chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang hệ thống định giá theo cơ chế thị trường, làm cho giá cả phản ảnh đúng đắn giá trị và quy luật cung cầu trên thị trường. Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giá xây dựng trên nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý giá xây dựng thông qua việc ban hành các chính sách chế độ về giá, các nguyên tắc lập và quản lý đơn giá, dự toán, các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật, định mức các loại chi phí sao cho phù hợp với từng thời kì, theo nhịp độ phát triển của nền kinh tế, làm căn cứ xác định tổng mức đầu tư, dự toán các hạng mục, giá xét thầu, giá chỉ định thầu
Do đó, cần thống nhất quản lý giá xây dựng vào một đầu mối và có phân cấp rõ ràng để tránh tình trạng chồng chéo lên nhau như hiện nay khi công bố các định mức đơn giá,…
Các cơ quan quản lý Nhà nước cần phối hợp nghiên cứu để ban hành đồng bộ các căn cứ pháp lý như suất vốn đầu tư, định mức đơn giá dự toán phục vụ quy trình xác định giá sản phẩm xây dựng ( tổng mức đầu tư, tổng dự toán, dự toán các hạng mục công trình) cũng như các văn bản hướng dẫn phương pháp lập giá sản phẩm xây dựng đối với những công trình đầu tư, xây dựng sử dụng vốn NSNN.
Thu thập thông tin và sử dụng các thông tin về giá được tích lũy qua các dự án đầu tư xây dựng qua những năm qua. Đây là nguồn tài liệu khá quan trọng trong việc hoàn thành hệ thống định mức đơn giá xây dựng.
3.2.2 Cải tiến mô hình giao dịch một của trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay
Mục tiêu của kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB cũng như NSNN qua KBNN theo quy trình một cửa đó là giảm phiền hà cho các đơn vị sử dụng NSNN khi giao dịch với KBNN. Đồng thời giải quyết nhanh chóng các yêu cầu của khách hàng tới giao dịch. Tuy nhiên cũng phải kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN để đảm bảo hồ sơ đầy đủ, cũng như hợp pháp hợp lệ, đủ điều kiện để thanh toán. Đây cũng là mục tiêu cuối cùng của công tác cái cách thủ tục hành chính hiện nay. Đó là tạo sự thuận lợi cho các khách hàng tới giao dịch, chấp hành đúng chính sách chế độ, phòng ngừa ngăn chặn các hiện tượng cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách giao dịch; thực hiện công khai, minh bạch, phát huy dân chủ, giám sát của người dân, khách hàng đối với hoạt động của KBNN.
Quy chuẩn giao dịch một cửa theo quy định của Chính phủ là khách hàng chỉ giao dịch tại một nơi, tách bạch giữa người nhận hồ sơ, trả kết quả với người trực tiếp xử lý công việc. Việc tách bạch người nhận hồ sơ và người xử lý công việc nhằm mục đích thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, phòng ngừa cửa quyền, tham nhũng trong quá trình thực thi nghiệp vụ. Quy chuẩn này đã được triển khai tại một số cơ quan hành chính Trung ương và địa phương trong nhiều lĩnh vực và đã đem lại một số kết quả khả quan như: cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng, giấy đăng kí kinh doanh, thành lập doanh nghiệp,.v.v… Quy trình này đã được nhiều người dân đánh giá cao là có chuyển biến tích cực về thủ tục hành chính. Mô hình này cũng phù hợp với các công việc đã được chuẩn hóa về chế độ, chính sách, các điều kiện về hồ sơ, mẫu biểu, tờ khai và các thông tin khác liên quan, cũng như cách thực hiện giải quyết công việc đều được chuẩn hóa trên các hồ sơ đó. Do vậy người trực tiếp giải quyết công việc không nhất thiết phải trao đổi trực tiếp với khách hàng giao dịch, mà chỉ cần chủ động dựa vào hồ sơ mà giải quyết theo các trình tư đã được quy định. Do đó có thể khẳng định giao dịch một cửa là một chủ trương cần thiết cho cải cách thủ tục hành chính.
Nhưng vấn đề hiện nay trong kiểm soát chi đầu tư XDCB, đó là giao dịch một cửa yêu cầu có sự tách bạch giữa 2 bộ phận giao nhận hồ sơ và xử lý nghiệp vụ. Với đặc thù kiểm soát thanh toán đa dạng của KBNN, hệ thống chính sách lại chưa đồng bộ, liên tục thay đổi theo thời gian. Do đó, nhiều đơn vị còn chưa nắm được các quy định, điều kiện, thủ tục kiểm soát thanh toán nên thường nảy sinh vướng mắc. Các vướng mắc này có thể được giải quyết nhanh chóng thông qua việc trao đổi hướng dẫn của cán bộ nghiệp vụ. Nếu tách bạch hai bộ phận này, tất yếu sẽ dẫn tới tao thêm một trung gian giữa khách hàng giao dịch và cán bộ thanh toán, tạo thêm một khâu trung gian cho quy trình xử lý nghiệp vụ, trờ thành rào cản cho việc thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, gây bất lượi cho khách hàng. Đây là vướng mắc lớn của tất cả hệ thống KBNN và KBNN hiện nay rất cần sự hoàn thiện mô hình này một cách nhanh chóng.
Do đó cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu, sự đóng góp ý kiến từ những người am hiểu công tác kiểm soát thanh toán để xây dựng một mô hình thanh toán một cửa hoàn chỉnh. Theo hướng khách hàng tới giao dịch chỉ phải giao dịch duy nhất với một cán bộ của KBNN. Cán bộ này sẽ trực tiếp nhận hồ sơ, xử lý nghiệp vụ, luân chuyển chứng từ trong nội bộ KBNN và sau đó trả kết quả cho khách hàng giao dịch. Cán bộ này cũng sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin quan trọng cho người thanh toán như: hồ sơ đầy đủ chưa, tính hợp pháp hợp lệ, có đủ điều kiện giải ngân chưa, số lần giao dịch, và thời gian giao dịch. Bên cạnh đó cũng phải đảm bảo không để xảy ra cửa quyền nhũng nhiễu từ những cán bộ này.
3.2.3 Quy định tạm ứng và thu hồi tạm ứng
Cần có những quy định rõ ràng trong vấn đề tạm ứng vật tư dự trữ theo mùa trong các dự án XDCB. Quy định rõ những vật tư đó gồm những chủng loại nào. Để có thể tạm ứng vật tư dự trữ theo mùa hoặc cấu kiện, bán thành phẩm thì Chủ đầu tư cần gửi cho KBNN những loại hồ sơ nào. Khi nghiệm thu khối lượng thực hiện, xác định giá phục vụ cho thanh toán đối với vật tư, cấu kiện, bán thành phẩm được tạm ứng sẽ áp dụng giá đã tạm ứng và không chấp nhận thanh toán chênh lệch vật tư đối với những khoản mục vật tư, cấu kiện bán thành phẩm này. Nếu nghiệm thu theo đơn giá tại thời điểm thi công hoặc nghiệm thu thì cần có hướng dẫn xử lý chênh lêch này của cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, nếu mức tạm ứng theo hợp đồng không khống chế mức tối đa, thì không áp dụng tạm ứng vật tư, cấu kiện, bán thành phẩm nữa.
Ngoài ra, việc xác định giá chấp nhận thanh toán đối với gói thầu chỉ định thầu cần quán triệt rõ với các bên có liên quan là khối lượng phát sinh thời điểm nào thì thực hiện chính sách và chế độ tại thời điểm đó.
3.2.4 Điều chỉnh qui định về mở tài khoản tiền gửi của các Ban quản lý dự án
Điều chỉnh lại quy định mở tài khoản tiền gửi Ban quản lý dự án là một trong những yêu cầu cần thiết. Theo đó cần chỉnh sửa nôi dung tại mục 2.1 tại quy định mở TKTG chi phí quản lý dự án theo công văn số 3892/KBNN-TTVĐT theo hướng. Các Ban quản lý dự án được giao quản lý nhiều dự án hoặc có kinh phí quản lý dự án được hưởng từ nhiều nguồn khác nhau cần phải mở TKTG chi phí quản lý dự án tại KBNN nơi thuận tiện cho các giao dịch, nhưng phải cùng nơi có tài khoản cấp phát vốn đầu tư XDCB của Ban quản lý dự án. Trường hợp ban quản lý dự án chỉ quán lý một dự án hoặc được giao kế hoạch vốn năm để thực hiện quản lý dự án, không có nguồn kinh phí trích từ các dự án công trình thì không phải mở TKTG, khi đó việc tạm ứng thanh toán chi phí quản lý dự án được thực hiện trực tiếp từ tài khoản khấp phát vốn của Ban quản lý dự án.
3.2.5 Qui định cụ thể về căn cứ cho kiểm soát thanh toán khối lượng hoàn thành
- Quy trình 1539/2007/KBNN-TTVĐT về phương thức thanh toán trước kiểm soát sau được nhiều cấp, ngành, Chủ đầu tư ủng hộ. Đây là một bước tiến lớn trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB. Nhưng quy định cần hướng dẫn rõ ràng hơn phạm vi kiểm soát cũng như nội dụng kiểm soát, đặc biết là điều kiện tối thiểu về hồ sơ để được thanh toán trước, kiểm soát sau. Đây là vấn đề quan trọng, cần được rỡ ràng, bởi vì sẽ rất dễ tạo tiền lệ cho các đơn vị sử dụng vốn đầu tư XDCB là chỉ cần giao hồ sơ chứng từ, là có thể được thanh toán, sau có bị trừ khoản thanh toán nào thì giải trình sau. Đây là một tiền lệ hoàn toàn không tốt. Vì KBNN trước đây thực hiện quy trình theo phương pháp kiểm soát trước, thanh toán sau. Thì mọi dấu hiệu của sai phạm có thể diễn ra sẽ được ngăn chặn ngay từ đầu và đảm bảo tránh lãng phí cho Ngân sách. Nhưng với cơ chế hiện nay, cùng với việc thanh toán trước kiểm soát sau, cũng một phần tạo điều kiện để các chủ đầu tư và nhà thầu lợi dụng vốn ngân sách. Sau này, nếu thanh tra, kiểm toán có phát hiện ra sai phạm thì sai phạm này cũng đã để lại hậu quả, và gây thất thoát lãng phí cho NSNN. Nhất là khi tạm ứng hiện nay không bị giới hạn mức tối đa, thì những sai phạm này xảy ra sẽ gây ra những thất thoát lớn cho Ngân sách
- Cần thiết phải có quy định rõ ràng từng loại dự toán được duyệt và gửi đến KBNN. Và đó phải là dự toán của đơn vị tư vấn thiết kế lập, hoặc dự toán do nhà thầu lập có sự chấp thuận của tư vấn thiết kế hoặc cấp có thẩm quyền phêp duyệt. Để tránh tình trạng thiếu thống nhất, mỗi KBNN lại áp dụng một loại theo cách hiểu của riêng mình khi yêu cầu dự toán từ Chủ đầu tư như hiện nay.
3.2.6 Kiểm soát thanh toán vốn ủy nhiệm bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng
KBNN và các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần có những hướng dẫn chi tiết và đầy đủ đối với việc giải ngân vốn đền bù giải phóng mặt bằng trong trương hợp ủy nhiệm giải ngân. Thiết kế bổ sung những mẫu biểu và chứng từ thanh toán chi phí Ban quản lý dự án từ tài khoản tiền gửi ban quản lý với nôi dung bao gồm: tên đơn vị thụ hưởng; số hiệu tài khoản và nơi mở tài khoản của đơn vị đó.
Ngoài ra, về phía Bộ Tài chính cần nghiên cứu và ban hành hướng dẫn tạm ứng và thanh quyết toán chi phí tổ chức thực hiện đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng của hội đồng giải phóng mặt bằng và ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng có trách nhiệm mở tài khoản tại KBNN, quản lý và sử dụng theo dự toán được duyệt và có trách nhiệm quết toán với cơ quan tài chính đồng cấp. Thực hiện theo hướng này sẽ đảm bảo sự chặt chẽ đối với hội đồng giải phóng mặt bằng và ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng đồng thời thuận lợi hơn trong quá trình giải ngân của Chủ đầu tư, KBNN.
3.2.7 Hoàn thiện công tác kiểm tra trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB
Công tác kiểm tra của KBNN có vai trò khá quan trọng.
- Yêu cầu đối với công tác kiểm tra:
+ Kiểm tra việc chấp hành đúng chính sách, chế độ hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng.
+ Phải tuân theo đơn giá dự toán đã được phê duyệt, đon giá dự toán trược khi được phê duyệt phải xây dựng trên cơ sở có tham chiếu các định mức, đơn giá XDCB được cấp có thẩm quyền công bố
+ Phải đảm bảo đúng thời gian quy định không gây ách tắc trong quá trình thanh toán, không ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình và không gây phiền hà cho các đơn vị.
- Phạm vi kiểm tra:
Phạm vi kiểm tra bao gồm các nội dung:
+ Kiểm tra hồ sơ thanh toán:
Kiểm tra dự toán: kiểm tra việc xây dựng định mức đơn giá
Kiểm tra việc thanh toán với hợp đồng có điều chỉnh giá: kiểm tra việc áp dụng định mức đơn giá và đặc biệt là đối tượng được điều chỉnh giá theo quy định điều chỉnh giá. Nắm bắt tình hình thực hiện khối lượng từng thời điểm để xem xét chế độ dự án được hưởng trong từng thời điểm cho phù hợp
Kiểm tra việc thanh toán đối với hợp đồng khoán: kiểm tra khối lượng nghiệm thu theo khối lượng và đơn giá trúng thầu hoặc đơn giá giao khoán.
Đối với khối lượng phát sinh, cần có kiểm tra kỹ khối lượng phát sinh trong thầu và khối lượng phát sinh ngoài thầu, đơn giá được duyệt.
+ Kiểm tra thực tế ngoài hiện trường nếu cần thiết. Đối chiếu giữa nội dung khối lượng thanh toán với khối lượng thực tế hoàn thành.
3.3 Những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong tương lai
Về công tác phổ biến quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB qua KBNN:
Các văn bản pháp quy được ban hành về quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB qua KBNN cũng như các quy trình của KBNN về kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB, ngoài việc phổ biến trong toàn hệ thống KBNN, thì KBNN cũng cần phải công bố rộng rãi cho các đơn vị khác như các Bộ, các ngành, các địa phương, các Chủ đầu tư, nhà thầu, các Ban quản lý dự án,.v.v… Phương thức thông báo có thể thông qua các phương tiện truyền thông, như đăng công báo, đưa lên các website chính thức của các bộ ngành, cũng như của KBNN, hoặc phổ biến trực tiếp tới các đối tượng có giao dịch tại KBNN .v.v… Từ đó các đơn vị này có thể nắm rõ được các quy định, chế độ hiện hành trong thanh toán, từ đó không phải đi lại giao dịch nhiều lần, hiểu rõ được quyền cũng như trách nhiệm của đơn vị mình.
Về công tác tổ chức cán bộ:
- Cần tiếp tục có những biện pháp nhằm thu hút người tài vào làm trong hệ thống KBNN. Để làm được điều này KBNN cần kiến nghị các cấp có thẩm quyền trong cơ chế đối đãi, cũng như lương bổ đối với đối tượng này
- Cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho từng cán bộ bộ Kho bạc Nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, đủ trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức. Bên cạnh đó cần liên tục đào tảo để cán bộ nắm bắt được các yêu cầu nhiệm vụ mới của công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Hỗ trợ họ thông qua nhiều hình thức như:
+ Cơ quan cử đi học và đài thọ toàn bộ kinh phí
+ Cơ quan hỗ trợ tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ một phần kinh phí
+ Cơ quan hỗ trợ tạo điều kiện về thời gian và cán bộ tự túc kinh phí
+ Cơ quan cho cán bộ tự đào bằng thời gian và kinh phí của chính mình
Về công tác tổ chức bộ máy:
Kiện toàn tổ chức bộ máy Kho bạc Nhà nước tinh gọn, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và chuyên nghiệp. Tổ chức lại các đơn vị thuộc Kho bạc Nhà nước tại trung ương theo hướng tập trung quản lý, điều hành; nâng cao khả năng nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách; tăng cường tính chuyên môn hóa của một số đơn vị, đặc biệt là việc hình thành một số Kho bạc Nhà nước hoạt động theo chức năng (Kho bạc Nhà nước thực hiện quản lý ngân quỹ và quản lý nợ; Kho bạc Nhà nước thực hiện nhiệm vụ tổng kế toán nhà nước,
). Cơ cấu lại các Kho bạc Nhà nước địa phương theo hướng thành lập một số Kho bạc Nhà nước khu vực, có lộ trình bố trí lại Kho bạc Nhà nước theo địa giới hành chính. Chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy Kho bạc Nhà nước, bảo đảm thực hiện đầy đủ 3 chức năng: quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và quản lý nợ Chính phủ; tổng kế toán nhà nước;
Hoàn thiện chính sách và quy trình quản lý cán bộ theo hướng nâng cao tính chuyên nghiệp, trình độ quản lý tiên tiến của đội ngũ cán bộ Kho bạc Nhà nước; chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách, chuyên gia đầu ngành có năng lực và trình độ chuyên môn cao; sắp xếp và hợp lý hóa nguồn nhân lực Kho bạc Nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý mới của Kho bạc Nhà nước; thực hiện quản lý cán bộ theo khối lượng và chất lượng công việc được giao; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật chất của cán bộ trên từng vị trí công tác; sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của các tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp.
Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu:
Trên thế giới hiện nay, phương thực giao thầu chủ yếu là thông qua đấu thầu xây dựng. Đấu thầu yêu cầu sự cạnh tranh giữa các nhà thầu trong việc đưa ra những phương án thi công hiệu quả, cũng như giá bỏ thầu cạnh tranh. Áp dụng nghiêm túc, khách quan các nguyên tắc, điều kiện đấu thầu vào thực tế sẽ đem lại hiệu quả lớn đối với kinh tế -xã hội.
Thực tế nước ta hiện nay cho thấy, việc áp dụng đấu thầu vẫn còn nhiều bất cập. Không ít trường hợp mua bán thầu vẫn ngang nhiên xảy ra, gây thất thoát lớn cho NSNN. Chiều hướng nhiều nhà thầu bỏ giá quá thấp trong nhiều công trình hiện nay là bài toán khó cho các nhà quản lý. Việc bỏ giá thầu quá thấp, thậm chí dưới mức giá thành đã khiến cho chất lượng nhiều công trình bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Không chỉ vậy, nó còn tạo ra môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh trên thị trường xây dựng trong nước. Do đó cần nâng cao chất lượng đấu thầu để hạn chế hiện tượng phá giá này. Để thực hiện điều này, cần nâng cao công tác tư vấn trong đấu thầu xây dựng, cũng như phải đảm bảo sản phẩm tư vấn đáp ứng được yêu cầu chất lượng, kĩ thuật,.v.v… mà mục tiêu dự án đề ra. Có cơ chế xử phạt nghiêm khắc đối với sản phẩm, đặc biệt cần quy định trách nhiệm đối với từng cá nhân thực hiện.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về khối lượng và chất lượng công trình. Qua đó đánh giá và xử lý nghiêm khắc các trường hợp sai phạm
Về ứng dụng công nghê thông tin trong KBNN:
Hiện nay, cùng với tốc độ phát triển vụ bão của công nghệ thông tin thì việc ứng dụng nó trong công tác thanh toán vốn đầu tư XDCB là một vấn đề cấp thiết. Công nghệ thông tin, cũng như tin học đã được đưa vào KBNN từ những năm 90 của thế kỉ trước. Tuy sự phát triển của công nghệ thông tin trong ngành có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn chưa theo kịp thời đại, cũng như còn mang tính nhỏ lẻ nội bộ.
Thời đại mới đòi hỏi phải có một tư duy hệ thống cao hơn không chỉ là trong nội tại ngành Kho bạc mà là toàn thể bộ máy tài chính của đất nước. Cần xây dựng một kiến trúc tổng thể cho một hệ thống thông tin có tầm bao quát lớn. Và đó sẽ là nền tảng để xây dựng các ứng dụng phục vụ cho công tác quản lý. Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn khá xa với với Việt Nam hiện nay, vì để làm điều này không chỉ là sức người và sức của, mà nó còn cần có sự quyết tâm cũng như rất nhiều những điều kiện khác. Nhưng cần nhìn đó làm mục tiêu lâu dài cho toàn hệ thống tài chính.
Trong khi điều kiện hiện tại vẫn chưa cho phép, KBNN cần xây dựng cho mình những mục tiêu trước mắt:
- Xây dựng kiến trúc tổng thể hệ thống thông tin Kho bạc Nhà nước, trong đó lấy hệ thống thông tin quản lý ngân sách và Kho bạc làm xương sống nhằm đáp ứng các yêu cầu cải cách quản lý tài chính - ngân sách; mở rộng các ứng dụng tin học hiện đại vào hoạt động nghiệp vụ của Kho bạc Nhà nước theo hướng tập trung và tích hợp với hệ thống thông tin quản lý ngân sách và Kho bạc;
- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiên tiến, đáp ứng mục tiêu hiện đại hoá công nghệ thông tin của Kho bạc Nhà nước; triển khai hệ thống an toàn bảo mật cho hệ thống thông tin Kho bạc Nhà nước; thiết lập hệ thống dự phòng khắc phục thảm hoạ;
- Tăng cường đầu tư cho công nghệ thông tin, bảo đảm phát triển nhanh và vững chắc; trong đó, đặc biệt quan tâm đến một số yếu tố trong đầu tư XDCB, như: cơ cấu và chất lượng thiết bị, công nghệ thông tin; dự phòng về trang thiết bị; tăng cường sử dụng các nguồn lực tư vấn phát triển ứng dụng từ bên ngoài theo hướng chuyên nghiệp hoá;
- Thiết kế và xây dựng các kho dữ liệu về thu, chi ngân sách, quản lý nợ, tài sản và các hoạt động nghiệp vụ khác của Kho bạc Nhà nước để cung cấp thông tin cho cơ sở dữ liệu quốc gia và phục vụ công tác quản lý, điều hành về tài chính - ngân sách;
- Xây dựng trang thông tin điện tử riêng cho ngành KBNN, cung cấp đầy đủ các thông tin chính thống của ngành, không chỉ để phục vụ cho các đối tượng có liên hệ, giao dịch với KBNN, mà còn là công khai, minh bạch các khoản chi của NSNN, cũng như cung cấp thông tin khác cho tất cả mọi người dân.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB qua KBNN đã và đang là một trong nhưng vấn đề quan trọng trong quá trình cải cách hệ thống tài chính tiền tệ của nước tạ hiện nay. Kết quả nghiên cứu của chuyên đề đã nghiên cứu, làm sáng tỏ các nội dung cơ bản:
Thứ nhất, đã hệ thống hóa tổng quan về những nội dung cơ bản của hoạt động kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB qua KBNN; cũng như vai trò của KBNN trong hệ thống tài chính của nước ta
Thứ hai, chuyên đề đã đưa ra các phân tích sát thực về thực trạng công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB trong giai đoạn 2001-2008 và có những đánh giá về hạn chế, cũng như nguyên nhân dẫn tới các hạn chế đó.
Thứ ba, dựa trên những phân tích, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp cũng như một số kiến nghị của cá nhân trong việc hoàn thiện công tác, nhiệm vụ thanh toán vốn đầu tư XDCB qua KBNN.
Đây là một vấn đề phức tạp, có phạm vi rộng và liên quan tới nhiều ngành nhiều cấp. Nội dung của luận văn không thể tránh khỏi những thiếu xót và hạn chế. Do đó, em rất mong muốn nhận được những đóng góp quý báu của các thầy cô và bạn bè để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Đồng thời, em xin được cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Bất đã tạo điều kiện, giúp đỡ trong việc hoàn thiện chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002
Quốc hội, Luật Xây dựng năm 2003
Quốc hội, Luật Đấu thầu năm 2005
Quốc hội, Luật Đầu tư năm 2005
Chính phủ, Nghị định số: 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về quy chế đầu tư và xây dựng.
Chính phủ, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình Chính phủ ban hành ngày 7/2/2005
Chính phủ, Nghị định 99/2007/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình
Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sử nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng trong nước (ban hành kèm quyết định số 601/QĐ/KB/TTVĐT ngày 28/10/2003 của Tổng giám độc KBNN)
Bộ Tài chính (2007), Một số vấn đề về kinh tế - tài chính Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2008), Chiến lược phát triển KBNN tới năm 2020, NXB Tài chính, Hà Nội.
KBNN, Báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư XDCB các năm 2001 tới 2008.
Kho bạc Nhà nước (2005), Kho bạc Nhà nước Việt Nam – Quá trình hình thành và phát triển, Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội
Kho bạc Nhà nước (2007), Quyết định 1116/QĐ-KBNN ngày 24/8/2007 của Tổng giám đốc KBNN về việc ban hành quy chế thực hiện một cửa trong kiểm soát chi NSNN qua KBNN
Kho bạc Nhà nước (2007), Quyết định số 1539/QĐ-KBNN ngày 11/12/2007 của Tổng giám đốc KBNN về việc sửa đổi bổ sung quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng trong nước qua hệ thống KBNN
Trang web Chính phủ
Trang web Bộ tài chính
Trang web Kho bạc Nhà nước
18. Một số tài liệu khác
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KBNN Kho bạc nhà nước
NSNN Ngân sách Nhà nước
NSTW Ngân sách Trung ương
NSĐP Ngân sách địa phương
UBND Ủy ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Quy định về mức tạm ứng đối với các nội dung thanh toán 39
Bảng 2: Vốn đầu tư đã kiểm soát thanh toán qua Kho bạc Nhà nước giai đoạn 2001-2008 42
Bảng 3: Tình hình từ chối thanh toán vốn đầu tư NSNN qua KBNN 46
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước hiện nay.doc