1. Tình hình tham gia bảo hiểm P&I của những công ty vận tải biển
Việt Nam có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Lý do trước hết
cho sự gia tăng này là đội tàu ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng nên nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng. Tuy nhiên, không thể không ghi
nhận sự nâng cao trong nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm P&I của
các chủ tàu. Cùng những điểu kiện tốt về sự phát triển kinh tế trong những
năm tới và sự tham gia mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực bảo
hiểm P&I, chắc chắn thị trường bảo hiể m P&I tại Việt Nam còn phát triển
hơn nữa.
98 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4195 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động bảo hiểm P&I đối với các công ty vận tải biển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cảng Raoping (Trung Quốc). Khi hành trình đến
khu vực trả hoa tiêu Hòn Dáu, hoa tiêu dẫn tầu phát hiện thấy một mục tiêu đi
đối hướng cách khoảng 400m hiện trên màn hình radar. Tàu Inchon Gas đang
hành trình với tốc độ 8,6 hải lý/h liền lệnh giảm máy tới thật chậm. Lúc này
tốc độ tàu còn 7 hải lý/h, nhưng phần mũi tài Inchon Gas vẫn đâm vào hầm
máy mạn phải của sà lan TB0712 gây tai nạn. Phân tích của cơ quan an toàn
hàng hải, tàu Inchon Gas đã mất cảnh giới trong khi không hành trình với tốc
độ an toàn. Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan là Tàu Inchon Gas đã không
phát tín hiệu âm thanh trong hành trình và thuyền trưởng thiếu mẫn cán khi
điều khiển tàu trong điều kiện tầm nhìn xa bị hạn chế, gần khu vực có mật độ
giao thông thuỷ lớn. Sau này các sỹ quan, thuỷ thủ thừa nhận: chưa thật tuân
thủ triệt để quy định của quy tắc phòng ngừa đâm va. Một sỹ quan tàu thẳng
62
thắn nhận ra rằng, ngay sau khi hoa tiêu dẫn tàu phát hiện có mục tiêu đổi
hướng, tàu phải được điều khiển trở về tốc độ an toàn và lập tức đổi hướng
chạy. Ngược lại tàu không được điều khiển theo quy trình đó nên tai nạn hàng
hải xảy ra là điều khó tránh khỏi.
- Cũng theo cảng vụ Hải Phòng, vụ va chạm của Peace và đèn trắng
Đông Đình Vũ tại khu vực luồng Sông Cấm càng đáng tiếc hơn khi mà
thuyền trưởng và hoa tiêu không đưa ra được biện pháp xử lý kịp thời. Cụ thể,
theo kế hoạch điều động của Cảng vụ, tàu Peace (quốc tịch Singapore) rời cầu
cảng Petec hành trình đi Singapore hồi 19h ngày 13-6-2009. Bắt đầu hành
trình thì hệ thống động lực của tàu bị sự cố đã phải neo lại trên luồng để khắc
phục. Đến 19h13’ sau khi khởi động được hệ thống động lực, tàu kéo neo tiếp
tục hành trình với tốc độ máy tới chậm. Đến 19h18’ hệ thống động lực lại bị
sự cố lần hai. Thuyền trưởng cho rằng, hệ thống động lực sẽ nhanh chóng
được khởi động lại nên không thả neo mà thả trôi trong kênh Đình Vũ. Do tàu
mất chủ động và tác động của dòng chảy, hướng gió làm dạt vào tiêu đèn
trắng Đông Đình Vũ, bị be chắn sóng mạn trái nên mũi tàu đâm va vào thân
tiêu đèn. Ngay sao đó, nhờ sự hỗ trợ của hai tàu lai Hải Long-688 và Sao
Việt, tàu Peace được đưa ra khu vực Bạch Đằng neo đậu khắc phục sự cố.
Đến 2h30’ ngày 14-6, tàu Peace mới quay lại cập cảng Petec an toàn.
Qua đây, bài học mà thuyền trưởng Inchon Gas và Peace nhắn nhủ đến
tất cả các tàu thuyền hành trình trên biển phải triệt để tuân thủ quy tắc phòng
ngừa đâm va, phải có trách nhiệm đảm bảo rằng mọi thuyền viên có thể ứng
phó với tình huống khẩn cấp vào bất cứ thời điểm nào. Trên hết, nhiệm vụ
này cần được hiểu đầy đủ các quy trình của công việc và quy định về an toàn
hàng hải.
Ta thấy rằng việc nâng ý thức con người, cụ thể là ý thức thuyền viên,
từ đó giảm thiểu các tai nạn hàng hải là rất quan trọng bởi sau mỗi vụ tai nạn
63
hàng hải, cùng với sự mất mát lớn về con người thì sự thiệt hại về tài sản cũng
rất đáng kể.
2. Khó khăn trong công tác giám định, bồi thƣờng, khiếu nại
Khi xảy ra tổn thất đối với các tàu biển, công tác giám định rất quan
trọng trong việc xác định bồi thường, lập hồ sơ khiếu nại. Tuy nhiên, công tác
này tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế với nhiều lý do, từ cả hãng tàu và
các công ty bảo hiểm và cần phải khắc phục bởi ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi các tàu khi tham gia bảo hiểm.
2.1 Khó khăn do không tham gia trực tiếp Hội P&I
Việc không tham gia trực tiếp vào Hội P&I quốc tế không chỉ là
nguyên nhân làm cho các chủ tàu phải chịu mức phí cao hơn mà còn gây khó
khăn cho các chủ tàu khi bị tổn thất trong việc đòi bồi thường.
Khi xảy ra tổn thất, chủ tàu phải thông báo cho công ty bảo hiểm rồi
sau đó công ty bảo hiểm mới thông báo cho Hội. Việc thông báo qua nhiều
bậc sẽ gây chậm trễ trong việc giám định tổn thất và nhiều khi sẽ không tìm
hiểu chính xác được nguyên nhân tổn thất. Ngoài ra, trong trường hợp tàu bị
bắt giữ ở nước ngoài thì phải có giấy bảo lãnh của Hội tàu mới được thả.
Việc bị kéo dài thời gian giam giữ cũng làm tăng các chi phí phụ cho chủ tàu
như chi phí bảo dưỡng tàu, chi phí ăn ở, đi lại của thủy thủ,… Nhiều khi làm
cho thiệt hại còn lớn hơn giá trị tàu.
2.2. Hạn chế về nghiệp vụ của người bảo hiểm
Công việc giám định của người bảo hiểm là rất quan trọng để xác định
kịp thời những tổn thất gây ra với tàu, giúp đỡ chủ tàu cùng lấy căn cứ để bồi
thường tổn thất cho tàu. Tuy nhiên các cán bộ làm nhiệm vụ giám định trong
các công ty bảo hiểm còn yếu kém trong nghiệp vụ, việc thu thập hồ sơ còn
chậm trễ, nhiều khi giám định chưa chính xác dẫn đến những khiếu nại không
đáng có.
64
Sự yếu kém trong nghiệp vụ này trước hết là do nước ta chưa có những
trường lớp chuyên đào tạo chuyên môn giám định do đó kiến thức của những
cán bộ làm công việc về nghiệp vụ này còn nhiều thiếu sót. Bên cạnh đó, sự
đào tạo chuyên sâu khi đi làm cũng không được nhiều mà chủ yếu là dựa trên
kinh nghiệm làm việc nhưng những tình huống xảy ra trên thực tế thì không
thể lường hết được nên việc đào tạo bài bản là rất quan trọng. Tuy nhiên,
nguyên nhân chủ quan là bản thân các cán bộ chưa chịu khó trau dồi kiến
thức thể hiện trong việc yếu kém về khả năng tiếng Anh, là yếu tố cần để
nâng cao khả năng trong thời điểm hiện nay khi các tài liệu học tập chuyên
môn, luật pháp, quy định của các tổ chức liên quan được viết chủ yếu bằng
tiếng Anh.
3. Khó khăn trong việc huy động các chủ tàu tham gia bảo hiểm P&I
3.1 Hạn chế trong nghiệp vụ của người bảo hiểm
Việc thu hút được các chủ tàu tham gia bảo hiểm P&I phần nhiều phụ
thuộc vào chiến lược marketing của các công ty bảo hiểm mà trong đó các
nhân viên tư vấn góp phần quan trọng. Muốn thuyết phục được các chủ tàu
tham gia bảo hiểm thì các nhân viên tư vấn phải am hiểu về lĩnh vực này, am
hiểu pháp luật liên quan để cho khách hàng thấy hết lợi ích và tầm quan trọng
của bảo hiểm P&I.
Tuy nhiên thực tế trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, các nhân viên tư
vấn không am hiểu về sản phẩm bảo hiểm và luật định không phải hiếm bởi
không phải nhân viên tư vấn nào cũng được học về bảo hiểm. Trong thời kỳ
bùng nổ của các công ty bảo hiểm, còn phải đối mặt với tình trạng thiếu nhân
viên giỏi chuyên môn, các nhân viên phải làm việc không đúng lĩnh vực của
mình sẽ gây khó khăn trong việc tư vấn cho khách hàng. Đặc biệt, bảo hiểm
P&I là một lĩnh vực khó trong bảo hiểm hàng hải bởi liên quan đến nhiều luật
và nhất là luật quốc tế. Các nhân viên tư vấn, nhiều khi còn là những người có
trình độ không cao, khả năng tiếng Anh không tốt nên việc đọc và hiểu luật
65
quốc tế là rất khó. Hơn nữa, quy định của các Hội P&I được đưa ra thường
xuyên theo các mùa tái tục nên khả năng tiếng Anh càng cần thiết hơn để nắm
được hết thông tin của Hội và tư vấn cho các chủ tàu rõ hơn.
3.2. Hạn chế trong nhận thức của người được bảo hiểm
Trong những năm vừa qua, đội tàu của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh
chóng cả về số lượng và chất lượng. Cùng với xu hướng đó, lượng hợp đồng
bảo hiểm P&I được ký kết trên thị trường Việt Nam cũng ngày càng tăng.
Tuy nhiên, số tàu được bảo hiểm so với số lượng tàu trên thực tế là một tỷ lệ
rất nhỏ (dưới 30%) và những tàu được bảo hiểm P&I chủ yếu của các công ty
lớn; có nghĩa rằng một số lượng lớn tàu biển Việt Nam hoạt động phải đối
mặt với việc khi xảy ra tổn thất sẽ không được bảo hiểm P&I. Bảo hiểm P&I
vẫn chưa được tham gia phổ biến tại Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu đó là do
nhận thức của các chủ tàu về tầm quan trọng của bảo hiểm P&I đối với hoạt
động tàu biển của mình trên các tuyến quốc tế.
Đội tàu của Việt Nam chủ yếu là của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm
ăn theo mùa vụ, tiềm lực tài chính không cao nên không chú ý nhiều tới vấn
đề bảo hiểm cho tàu. Thông thường, để bảo hiểm P&I cho một con tàu, chủ
tàu phải bỏ ra ít nhất tới hàng chục ngàn USD, đây là một khoản phí không
nhỏ đối với các chủ tàu Việt Nam và các chủ tàu không nhận thức hết được
những rủi ro trên biển do thiếu kinh nghiệm nên nghĩ mình có thể tự hạn chế
được rủi ro và không mua bảo hiểm để tiết kiệm chi phí.
4. Một số khó khăn khác
Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công ty bảo hiểm trên thị trường
Việt Nam khiến cho sự cạnh tranh giữa các công ty ngày càng lớn. Nhiều
công ty chạy theo doanh số, hạ mức phí và mức khấu trừ xuống thấp để cạnh
tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh với mức phí thấp cũng báo
động một thị trường với những sản phẩm bảo hiểm kém chất lượng mà người
phải gánh chịu hậu quả chính là những chủ tàu khi tham gia bảo hiểm P&I.
66
Trong những năm gần đây, đã có nhiều thay đổi trong các văn bản pháp
luật, các quy định liên quan tới ngành bảo hiểm mà trong đó có nghiệp vụ bảo
hiểm P&I. Tuy nhiên, sự thống nhất trong các luật định trong nước cũng như
trong nước với nước ngoài vẫn còn nhiều bất cập và cần phải cải thiện để các
công ty bảo hiểm cũng như các hãng tàu thực hiện các hoạt động bảo hiểm
được tốt hơn.
67
CHƢƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM
P&I ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY VẬN TẢI BIỂN VIỆT NAM
I. Xu hƣớng phát triển của bảo hiểm P&I trên thị trƣờng Việt Nam
1. Xu hƣớng phát triển chung của toàn thị trƣờng bảo hiểm
Kinh tế thế giới vừa trải qua thời kỳ khủng hoảng đầy khó khăn, có tác
động đến Việt Nam nói chung, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư
trực tiếp nước ngoài, và do đó cũng có ảnh hưởng đến ngành bảo hiểm Việt
Nam nhưng không nặng nề. Điều này được chứng minh qua tỷ trọng phí bảo
hiểm/GDP vẫn tăng đều qua các năm, tăng từ 1,62% năm 2005 lên 2,3% năm
2009 (Nguồn: Vinare, Chiến lược kinh doanh 2010 – 2015).Chất lượng và
hiệu quả trong ngành bảo hiểm cũng được nâng cao rõ rệt. Hiện nay trên thị
trường đã phát triển được hơn 700 sản phẩm bảo hiểm (Nguồn: Vinare, Chiến
lược kinh doanh 2010 – 2015), là một con số không hề nhỏ so với quy mô của
thị trường Việt Nam còn nhỏ bé.
Bên cạnh những mặt phát triển tích cực của thị trường bảo hiểm Việt
Nam, vẫn còn một số hạn chế nhất định như quy mô thị trường còn nhỏ, hạn
chế về năng lực cạnh tranh và chậm phát triển hoạt động môi giới. Tuy nhiên,
trong năm 2010 và những năm tới, thị trường bảo hiểm Việt Nam được nhận
định sẽ phát triển mạnh và tiến xa hơn nữa. Theo các chuyên gia, trong thời
gian tới, khi nền kinh tế phục hồi, nhu cầu bảo hiểm tăng lên, dự kiến tốc độ
tăng phí bảo hiểm khoảng 15% - 20%. Phát triển cơ sở hạ tầng, các doanh
nghiệp mới thành lập hoặc mở rộng, ngành nghề mới phát triển và giao thông
vận tải tăng là những yếu tố giúp thị trường bảo hiểm phát triển. Các doanh
nghiệp bảo hiểm mới cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn cùng những kênh phân
phối mới và nhiều sản phẩm bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế xã hội như bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm
nông nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm,… Ngoài ra, khi thị trường chứng khoán
68
và bất động sản ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để liên kết đơn vị phát triển
và giúp vấn đề tài chính trong thị trường bảo hiểm được ổn định và mở rộng
hơn.
2. Xu thế phát triển của thị trƣờng bảo hiểm P&I
Đi cùng với xu hướng chung của toàn thị trường bảo hiểm nói chúng và
thị trường bảo hiểm hàng hải nói riêng, thị trường bảo hiểm P&I trong những
năm tới cũng có chiều hướng phát triển đi lên cả về số lượng và chất lượng.
Tình hình kinh tế thế giới phục hồi là một trong những yếu tố giúp ổn định thị
trường. Đầu tư tài chính của các Hội P&I đều khả quan nhờ những dấu hiệu
khởi sắc của kinh tế thế giới trong các lĩnh vực chứng khoán, nhà đất. Do tình
hình tài chính các Hội P&I được cải thiện nên mức tăng chung của P&I cho
tái tục năm 2010 – 2011 tăng không đáng kể, tạo điều kiện để phát triển thị
trường.
Tình hình kinh tế ổn định, các doanh nghiệp vận tải biển hoạt động tốt
hơn, tài chính được mở rộng sẽ giúp các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm P&I
dễ dàng hơn. Hơn nữa, trong những năm tới, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có
xu hướng khai thác các sản phẩm bảo hiểm mới, tiềm năng, do đó thị trường
bảo hiểm P&I sẽ sôi động hơn nhờ sự tham gia của nhiều doanh nghiệp bảo
hiểm. Các chủ tàu biển sẽ có nhiều lựa chọn hơn cho mình nhờ sự mở rộng thị
trường. Cạnh tranh trong bảo hiểm P&I cũng ngày càng mạnh mẽ, các doanh
nghiệp bảo hiểm không thể giảm giá mãi do đó sẽ chú trọng vào đào tạo
chuyên môn, kỹ thuật, các mô hình quản lý rủi ro và giúp chất lượng của sản
phẩm bảo hiểm P&I cũng ngày được nâng cao.
Tuy nhiên, để phát triển thị trường bảo hiểm P&I tại Việt Nam, chúng
ta cần phải chú trọng vào một số yếu tố như cải thiện được chất lượng của đội
tàu, giảm thiểu tai nạn và số lượng tàu bị bắt giữ để đảm bảo an toàn hơn cho
những chuyến hành trình; nâng cao chất lượng thuyền viên. Ngoài ra, các
69
doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần chủ động mở rộng thị trường bằng nhiều
biện pháp khác nhau và không thể thiếu sự giúp đỡ của các cơ quan chức
năng.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động bảo hiểm P&I đối với các
công ty vận tải biển Việt Nam
1. Đối với các chủ tàu và thuyền viên
1. 1.Thực hiện tốt các quy định về chất lượng tàu, an toàn hàng hải
a) Các chủ tàu cần tăng cường công tác quản lý kỹ thuật, sửa chữa, bảo
dưỡng tàu thường xuyên; chú ý việc trang bị bổ sung và trang bị lại các trang
thiết bị an toàn cho tàu; đưa tàu vào kiểm tra đúng qui định; không tiếp tục
khai thác khi biết tàu còn khiếm khuyết, đặc biệt lưu ý các tàu cao tuổi, các
tàu lắp máy chính và các máy quan trọng là máy cũ đã qua sử dụng, tàu chở
khách, tàu chở dầu, tàu chở hóa chất và tàu chở khí hóa lỏng. Không khai
thác tàu vượt cấp, vượt tuyến ngoài khu vực an toàn được qui định; không
chở hàng quá tải, chở khách vượt quá số lượng qui định.
b) Chủ tàu luôn phải đảm bảo định biên tối thiểu của tàu; chỉ sử dụng
các sỹ quan và thuyền viên có đủ năng lực và tinh thần trách nhiệm. Đối với
tàu chạy tuyến quốc tế, các sỹ quan chủ chốt của tàu phải thông thạo tiếng
Anh giao tiếp bởi thực tế đã có rất nhiều tàu bị lưu giữ tại cảng nước ngoài do
các sỹ quan chủ chốt không đủ khả năng giao tiếp trong quá trình kiểm tra
của chính quyền cảng.
c) Các chủ tàu nên duy trì một cách hiệu quả và thiết thực hệ thống
quản lý an toàn đối với khai thác tàu và ngăn ngừa ô nhiễm theo qui định của
Bộ luật ISM và hệ thống quản lý an ninh theo qui định của Bộ luật ISPS. Kể
từ sau sự cố khủng bố 11- 9 ở Mỹ, người ta luôn lo sợ khả năng bị tấn công
khủng bố. Hơn lúc nào hết các giải pháp về an ninh được cấp tốc đặt ra, đặc
biệt là đối với các hiểm họa chưa được sử dụng đến như ngành hàng hải. Các
70
tàu chở dầu, khí đốt và phân bón... đều có nguy cơ bị cướp và trở thành những
trái bom khổng lồ di động. Hoặc như tàu bè sẽ là phương tiện chuyên chở
khủng bố, buôn lậu ma túy, cướp biển... thâm nhập quốc gia. Việc triển khai
Bộ luật quốc tế về an ninh tàu và bến cảng (ISPS) vào 1-7-2004 này được
xem như là một giải pháp. Việc tuân thủ quy định của cả hai bộ luật này sẽ
đảm bảo được an toàn cho tàu và cũng tạo thuận lợi cho tàu khi hoạt động
trên vùng biển quốc tế, qua nhiều nước có sự kiểm tra gắt gao như Mỹ, Nhật,
Châu Âu.
d) Các chủ tàu phải tạo điều kiện, thiện chí kết hợp cùng cơ quan Đăng
kiểm và Cảng vụ thực hiện việc thanh tra tàu khi có yêu cầu để có thể tìm ra
những khiếm khuyết của tàu và kịp thời sửa chữa để đảm bảo tàu được an
toàn khi hoạt động.
e) Các chủ tàu không nên quá tiết kiệm, sử dụng máy cũ đã qua sử
dụng để lắp đặt cho tàu đóng mới. Tàu lắp máy cũ, công suất yếu, khi gặp
thời tiết xấu rất dễ dẫn tới sự cố hoặc tai nạn, thậm chí là chìm đắm tàu.
1.2. Nâng cao trình độ nhận thức của chủ tàu về công tác khiếu nại, bồi
thường
Khi tàu xảy ra sự cố, nhiệm vụ của các chủ tàu cũng không hề nhỏ
trong việc xác định tổn thất để báo cáo tình hình cho các công ty bảo hiểm và
cũng là để bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tuy nhiên, nhiều chủ tàu không
ý thức được điều đó mà thường phụ thuộc vào công ty bảo hiểm để xác định
tổn thất và bồi thường và nhiều khi phải chịu những thiệt hại không đáng có
do sự giám định thiếu cẩn thận và trung thực của giám định viên của công ty
bảo hiểm. Do đó, các chủ tàu cần phải có những biện pháp để có thể hạn chế
những khiếu nại xảy ra và đòi được mức bồi thường lớn nhất có thể cho mình
như:
71
- Chủ tàu nên có những cán bộ chuyên trách về nghiệp vụ bảo hiểm để
khi xảy ra tình huống có thể xác định được những công việc cần thực hiện
ngay, thậm chí có thể xác định được tổn thất cho chính mình để đối chiếu với
giám định của công ty bảo hiểm. Bản thân chủ tàu cũng cần am hiểu về những
quy định liên quan tới bảo hiểm mình tham gia để chủ động trong việc thương
lượng với các công ty bảo hiểm.
- Bên cạnh đó, các chủ tàu nên quan tâm đến các thuyền viên, có những
khuyến khích về cả tinh thần và vật chất để nâng cao tinh thần cộng tác của
các thuyền viên trong việc đảm bảo an toàn cho tàu cũng như việc giải quyết
kịp thời tình huống khi tổn thất xảy ra.
- Các chủ tàu nên chủ động thu thập thông tin từ các công ty bảo hiểm
và Hội quốc tế về các vụ tai nạn hàng hải đã xảy ra, những bài học cần chú ý
trong các tình huống để rút kinh nghiệm cho chính mình và các thuyền viên
trên tàu.
- Chất lượng của các thuyền viên có ảnh hưởng lớn tới an toàn trong
hoạt động của tàu. Do đó, khi tuyển dụng các thuyền viên, các chủ tàu cần
dựa vào thực lực của thuyền viên và cũng nên kiểm tra cả khả năng tiếng Anh
của thuyền viên để giúp hoạt động của tàu trên các tuyến biển quốc tế được
đảm bảo an toàn và dễ dàng hơn.
1.3. Nâng cao trình độ, ý thức của thuyền viên
Những thuyền viên khi làm việc trên tàu biển, đặc biệt là những chuyến
đi dài ngày thì vấn đề sức khỏe càng quan trọng hơn. Do đó, các thuyền viên
luôn phải luyện tập để đảm bảo sức khỏe tốt cho chuyến đi, không để gây
những phiền toái cho chính mình và chủ tàu.
Như đã nói, chất lượng thuyền viên rất quan trọng đối với những
chuyến đi của tàu hoạt động trên vùng biển quốc tế. Một thuyền viên đảm bảo
điều kiện đi biển thì ngoài sức khỏe phải có kiến thức chuyên môn về nghiệp
72
vụ, khả năng đi biển và trình độ ngoại ngữ cũng rất quan trọng. Các thuyền
viên cần học hỏi thường xuyên về nghiệp vụ, trau dồi kiến thức ngay từ trong
trường học và luôn phải rút kinh nghiệm qua mỗi chuyến đi và nâng cao khả
năng tiếng Anh là không thể thiếu để làm việc hiệu quả hơn. Đặc biệt trong
thời gian này, các hãng tàu ngày càng lớn mạnh, đầu tư những con tàu lớn, giá
trị và họ không thể giao vào tay những người không đảm bảo khả năng đi
biển, đảm bảo an toàn cho tàu của họ. Vì vậy các thuyền viên cần liên tục
nâng cao khả năng của mình để có thể làm việc trong những môi trường tốt,
đảm bảo an toàn.
Tuy nhiên, một thuyền viên đảm bảo cả hai điều kiện sức khỏe và
chuyên môn thì vẫn chưa đủ mà ý thức trách nhiệm của các thuyền viên quyết
định phần lớn đến hoạt động của tàu có hiệu quả hay không. Nhiều thuyền
viên giỏi nhưng ý thức kém, sẽ không hết mình vì công việc, thậm chí có
những hành động phá hoại như ăn cắp hàng, đồ dùng trên tàu.
Để nâng cao ý thức trách nhiệm của thuyền viên, một phần nhờ vào
những đãi ngộ, khuyến khích tinh thần thuyền viên của người quản lý nhưng
chủ yếu là ở chính bản thân các thuyền viên. Một chế tài phạt thật nặng đối
những hành động thiếu trách nhiệm, phá hoại sẽ có thể răn đe và nâng cao
hơn nữa ý thức trách nhiệm trong công việc đối với các thuyền viên. Người
quản lý trước khi tiếp nhận các thuyền viên lên tàu cần có văn bản gồm những
quy định trên tàu và các hình thức xử phạt nếu vi phạm buộc các thuyền viên
phải chấp nhận và ký vào. Có thể ban đầu nó chỉ được làm theo tính chất hình
thức nhưng nếu các chủ tàu cương quyết làm theo thì sẽ có thể trở thành thói
quen và nâng cao ý thức thuyền viên.
73
2. Đối với các công ty bảo hiểm
2.1. Giải pháp thu hút khách hàng tiềm năng
Nhận thức của chủ tàu về vai trò của bảo hiểm P&I quyết định phần lớn
đến hoạt động của loại hình bảo hiểm này trên thị trường. Để nâng cao nhận
thức của các chủ tàu, bên cạnh nhận thức tự bản thân các chủ tàu, các công ty
bảo hiểm cũng cần có những chính sách mở rộng thị trường, đào tạo những
nhân viên tư vấn có kiến thức chuyên sâu để tư vấn cho các chủ tàu hiểu một
cách thấu đáo về lợi ích và vai trò của bảo hiểm P&I. Để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của công ty mình phát triển hơn, cũng là để phát triển một
loại hình bảo hiểm thực sự có ý nghĩa với các chủ tàu trên thị trường Việt
Nam, các công ty bảo hiểm cần thực hiện một số biện pháp sau:
2.1.1. Nâng cao khả năng của đội ngũ nhân viên tư vấn
Cán bộ khai thác bảo hiểm cần am hiểu kỹ thuật của nghiệp vụ, biết tư
vấn cho khách hàng xem loại tài sản của họ thì nên mua bảo hiểm theo điều
kiện bảo hiểm mọi rủi ro hay chỉ nên mua bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm
hẹp hơn… Như vậy khách hàng sẽ không phải trả những khoản phí bảo hiểm
không cần thiết và cũng được bồi thường với những rủi ro tương ứng trong
trường hợp tài sản của họ bị tổn thất và sẽ lấy được lòng tin của khách hàng.
Nhân viên tư vấn cũng cần có những kiến thức, những am hiểu về hàng hải để
có thể tư vấn cho khách hàng biết tàu của họ nên và không nên chở những
loại hàng hoá nào hay phương thức chuyên chở đối với từng loại hàng hoá để
mức độ rủi ro là ít nhất. Đặc biệt đối với sản phẩm bảo hiểm P&I, ngoại ngữ
rất cần thiết để các nhân viên tư vấn có thể đọc hiểu và theo kịp những quy
định, pháp luật của nước ngoài, của Hội để phổ biến cho khách hàng của mình
hiểu và có thể tin tưởng lựa chọn dịch vụ của công ty.
Nhân viên tư vấn là người giới thiệu hình ảnh công ty, sản phẩm của
công ty đến khách hàng nên trước hết người đó phải thực sự nhiệt tình với
74
công việc, am hiểu về công ty và đặc biệt là về sản phẩm phục vụ khách hàng.
Khách hàng không thể tin tưởng một công ty mà khi hỏi về sản phẩm thì nhân
viên của công ty đó không biết hoặc biết rất ít, không thể thuyết phục được
khách hàng.
2.1.2. Phát triển các hoạt động marketing
Ngoài cách các nhân viên tư vấn tiếp cận trực tiếp khách hàng để giới
thiệu sản phẩm thì công ty bảo hiểm cũng cần đẩy mạnh công tác marketing,
tuyên truyền thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu là bằng các
phương tiện thông tin đại chúng (như báo chí, truyền hình, phát thanh, phim
ảnh, áp phích..), tổ chức các buổi hội thảo để gặp gỡ khách hàng cũng như
cung cấp thông tin về sản phẩm, lợi ích của sản phẩm bảo hiểm mang lại cho
khách hàng chính là các chủ tàu. Ngoài ra công ty cũng có thể tổ chức các
buổi nói chuyện, hướng dẫn nghiệp vụ cho các chủ tàu để chủ tàu cảm thấy
gần gũi và tin tưởng hơn với công ty và sản phẩm công ty cung cấp.
Bên cạnh các biện pháp gặp trực tiếp khách hàng để tư vấn và truyền
đạt kinh nghiệm thì hình thức marketing trực tuyến cũng đang rất phát triển.
Hầu hết các công ty bảo hiểm đều đã có trang web riêng cho mình nhưng ứng
dụng cho việc marketing thì chưa được cao. Đây là hình thức marketing tốn ít
chi phí mà lại tiếp cận được nhiều đối tượng cùng một lúc. Những thông tin
về thị trường, doanh nghiệp hay những bài viết kinh nghiệm được cập nhật
trên trang web sẽ giúp các khách hàng ghé thăm nhiều hơn và qua đó cũng
giúp khách hàng biết đến công ty và các sản phẩm công ty cung cấp nhiều
hơn.
Kênh phân phối không còn mới trên thị trường bảo hiểm thế giới là
thông qua kênh ngân hàng (Bancassurance) nhưng chưa được khai thác nhiều
trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm cung cấp sản phẩm
bảo hiểm hàng hải nói chung và sản phẩm P&I nói riêng cũng nên tìm hiểu
75
khai thác kênh phân phối này bởi các hãng tàu thường xuyên phải giao dịch
với các ngân hàng với những số tiền lớn, dễ trở thành những khách hàng quen
của các ngân hàng. Đây sẽ là nguồn để khai thác khách hàng tiềm năng tham
gia bảo hiểm P&I tiềm năng của các công ty bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm cần tăng cường công tác bám sát khách hàng, duy trì
thường xuyên mối quan hệ với các đầu mối mua bảo hiểm của các Công ty có
quan hệ với Công ty, mở rộng hệ thống cộng tác viên ở các cơ quan quản lý.
Đặc biệt, đối với các công ty vận tải có tài sản lớn, các Công ty bảo hiểm có
thể vận động và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng bằng việc ký kết
hợp đồng bao nhiều năm. Điều này giúp cho khách hàng không phải ký hợp
đồng nhiều lần mà tài sản của họ vẫn được bảo hiểm. Đồng thời cần đơn giản
hoá thủ tục hành chính, đảm bảo thuận lợi cho khách hàng trong khâu ký kết
hợp đồng bảo hiểm. Đầu tư công nghệ thông tin để khách hàng có thể
Trên bất kỳ thị trường nào cũng có sự cạnh tranh, tuy nhiên cạnh tranh
bằng cách hạ phí như các công ty bảo hiểm trong thời gian gần đây là không
nên, vừa làm thất thu doanh thu của cả thị trường và trong những trường hợp
tổn thất lớn thì các công ty bảo hiểm cũng bị ảnh hưởng đến tài chính của
công ty, phí thu không đủ để bù đắp tổn thất. Do đó, các công ty bảo hiểm cần
có những cách cạnh tranh lành mạnh hơn bằng chất lượng dịch vụ hay những
đãi ngộ với khách hàng để thu lợi cho chính công ty và cũng giúp các chủ tàu
yên tâm hơn với những sản phẩm bảo hiểm chất lượng.
Để phát triển sản phẩm bảo hiểm P&I được rộng khắp, các công ty cần
dành một phần tài chính lớn cho hoạt động marketing. Do đó, các công ty bảo
hiểm cũng cần có những giải pháp về việc đầu tư vốn để có thể thu được lợi
nhuận cao hơn để có chi phí trong các hoạt động đầu tư mở rộng thị trường và
nâng cao chất lượng dịch vụ. Các công ty bảo hiểm nên xây dựng một chiến
lược đầu tư phù hợp để nâng cao lợi nhuận của đồng vốn bỏ ra, đồng thời tăng
được chi trả cho các hoạt động của công ty. Đồng thời các công ty bảo hiểm
76
cũng nên đào tạo những nhân viên làm việc trong lĩnh vực đầu tư, tài chính để
giúp công ty nắm bắt cơ hội và đầu tư tốt hơn.
2.2. Giải pháp về phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là mối quan tâm đặc biệt của các chủ tàu khi họ muốn ký
kết hợp đồng bảo hiểm với các Công ty bảo hiểm. Phí bảo hiểm P&I đối với
các chủ tàu Việt Nam là một khoản phí rất lớn. Có những chủ tàu ý thức được
sự cần thiết của bảo hiểm P&I nhưng do tiết kiệm hoặc tài chính không đủ lớn
để mua nên chấp nhận rủi ro mà không mua bảo hiểm. Bên cạnh đó, các chủ
tàu Việt Nam phải chịu phí bảo hiểm cao hơn so với phí Hội đưa ra. Do đó,
các Công ty bảo hiểm nên tìm mọi biện pháp để giảm phí xuống một cách hợp
lý, tức là vẫn đảm bảo đủ chi trả bồi thường và có lãi, đồng thời phải đảm bảo
chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Biện pháp đưa ra ở đây là cần định phí bảo
hiểm hợp lý trên cơ sở không gian và thời gian.
- Như đã nghiên cứu ở trên, hiện nay phí bảo hiểm P&I được đóng theo
năm. Hội P&I sẽ yêu cầu thu phí đóng trước, và sau khi cân đối được tình
hình tài chính trong năm, Hội sẽ yêu cầu các chủ tàu đóng thêm phí nếu còn
thiếu hoặc sẽ trả lại chủ tàu nếu dôi ra. Tuy nhiên, đối với thị trường Việt
Nam thì các công ty bảo hiểm tham gia vào các Hội với tư cách người kinh
doanh bảo hiểm và các chủ tàu đóng phí cho Hội thông qua các công ty bảo
hiểm. Các chủ tàu không bắt buộc phải tuân theo quy định đóng phí của Hội
mà chỉ phải tuân theo quy định đóng phí của công ty bảo hiểm. Do đó, các
công ty bảo hiểm có thể xác định phí theo thời gian tức là ở những thời gian
khác nhau, các công ty bảo hiểm có thể xác định phí theo những mức khác
nhau. Chẳng hạn như về mùa mưa bão thường xảy ra mưa giông, gió lớn, biển
động do đó tàu thuyền có khả năng gặp rủi ro cao thì mức phí bảo hiểm sẽ
cao, còn ngược lại vào thời kỳ biển lặng thì phí bảo hiểm sẽ hạ hơn. Có thể
mức phí chung là không thay đổi nhưng sự phân chia phí như thế sẽ tác động
77
được đến tâm lý của các chủ tàu và khuyến khích được các chủ tàu tham gia
bảo hiểm P&I nhiều hơn.
- Mỗi một đội tàu sẽ có những đặc điểm riêng của mình, hoạt động trên
những tuyến đường biển khác nhau, chuyên chở những loại hàng hóa có đặc
tính khác nhau. Các công ty bảo hiểm có thể dựa vào đó để xác định mức phí
bảo hiểm khác nhau. Những tàu đi trên tuyến đường ít xảy ra thiên tai, cướp
biển hay chở những loại hàng ít nguy hiểm, các công ty có thể hạ phí so với
những tàu chở các loại hàng hóa nguy hiểm, dễ dẫn đến tổn thất hay đi trên
tuyến biển thường xuyên xảy ra cướp biển, tai nạn. Đối với những khách hàng
có phương thức thanh toán bằng tiền mặt, trả ngay một lần, công ty bảo hiểm
cũng cần có những chiết khấu so với những khách hàng thanh toán bằng séc
hoặc trả dần.
- Việc giảm mức phí theo trọng tải hoặc số lượng mà chủ tàu mua bảo
hiểm có thể đã được một số công ty bảo hiểm áp dụng tuy nhiên việc giảm
chưa được nhiều nên các chủ tàu vẫn chưa thấy được sự đãi ngộ thực sự và
tham gia chưa nhiều. Do đó, các công ty bảo hiểm cũng cần xem xét và cân
đối mức phí cho những chủ tàu tham gia bảo hiểm P&I với số lượng lớn để
thu hút được nhiều khách hàng hơn. Đối với những chủ tàu đã tham gia bảo
hiểm của Công ty bảo hiểm trong nhiều năm không xảy ra tổn thất thì có thể
giảm phí bảo hiểm hoặc có một khoản khuyến khích hay chi phí cho họ trong
công tác đề phòng hạn chế tổn thất một cách hợp lý. Hàng năm, công ty bảo
hiểm có thể trích ra một khoản tiền từ việc thu phí cho các hãng tàu có kinh
nghiệm trong hoạt động vận chuyển và kinh doanh, làm tốt công tác đề phòng
hạn chế tổn thất đưa vào quỹ hạn chế tổn thất của các hãng tàu để khuyến
khích các chủ tàu tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn cũng như
khuyến khích chủ tàu tham gia dịch vụ tại công ty.
78
2.3. Nâng cao chất lƣợng cán bộ làm công tác giám định, bồi thƣờng,
khiếu nại
Trong thời điểm này, thị trường được mở rộng và thiếu nhiều cán bộ có
nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực bảo hiểm P&I, dó đó các Công ty bảo
hiểm cần phải có những chính sách đào tạo như cho cán bộ giỏi, có năng lực
được học thêm qua các chương trình liên kết với các Hội, nhờ sự giúp đỡ của
Hội trong việc đào tạo.
- Đối với cán bộ làm công tác giám định thì phải đào tạo cho họ không
chỉ kiến thức về hàng hải mà còn cả kiến thức về kỹ thuật để họ có được
những đánh giá đúng khi xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chất
lượng công tác bồi thường ra sao phụ thuộc hoàn toàn vào biên bản giám
định. Việc đòi người thứ ba cũng không thể có kết quả nếu biên bản giám
định không xác định rõ nguyên nhân gây tổn thất. Người giám định cũng phải
biết trong trường hợp nào thì cần lấy mẫu nhờ phân tích trên máy móc, tránh
việc giám định theo cảm tính…
Những cán bộ làm công tác bồi thường phải là những cán bộ giỏi,
chuyên sâu, hiểu kỹ về điều khoản bảo hiểm để có thể biết rủi ro có thuộc
trách nhiệm bồi thường bảo hiểm hay không. Có thể thiệt hại tổn thất là có
thật, nhưng khách hàng không mua bảo hiểm rủi ro đó thì không được bồi
thường, ngược lại, phải bồi thường đầy đủ cho khách hàng nếu không sẽ dẫn
đến tranh chấp, ảnh hưởng đến uy tín của Công ty bảo hiểm.
Với điều kiện khó khăn hiện nay ở Việt Nam trong việc đào tạo các
nghiệp vụ chuyên cho ngành bảo hiểm, để nâng cao nghiệp vụ của cán bộ
trong công tác giám định và bồi thường, các công ty bảo hiểm cần chủ động
có những lớp bồi dưỡng trong nội bộ công ty, liên kết với các công ty bảo
hiểm trong và ngoài nước, đặc biệt là hội P&I quốc tế. Các công ty bảo hiểm
nên thường tổ chức các buổi hội thảo về các vấn đề trong công tác giám định,
bồi thường để các cán bộ chia sẻ kinh nghiệm và đồng thời học hỏi lẫn nhau.
79
Công ty cũng nên mời các chuyên gia trong lĩnh vực này ở một số nước mà có
hoạt động bảo hiểm P&I phát triển có những buổi nói chuyện với cán bộ của
mình để tiếp thu thêm kiến thức.
- Các công ty bảo hiểm có thể xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên sâu
về công tác vận chuyển. Đội ngũ cán bộ này sẽ làm công tác hạn chế tổn thất
những hành trình được Công ty bảo hiểm bảo hiểm bằng việc có thể tham gia
trực tiếp vào quá trình vận chuyển. Qua đó, các Công ty bảo hiểm có thể chủ
động kiểm soát những rủi ro của khách hàng và hạn chế rủi ro của chính mình
và cũng có thêm những tình huống thực tế, rút kinh nghiệm trong việc hạn
chế tổn thất xảy ra cho những tàu khác và có thể hướng dẫn cho khách hàng
trong công tác phòng ngừa rủi ro tốt hơn, lấy được lòng tin của khách hàng
nhiều hơn.
- Vấn đề trục lợi bảo hiểm hiện nay không chỉ xảy ra đối với khách
hàng tham gia bảo hiểm mà với cả những cán bộ trong các công ty bảo hiểm,
trong đó dễ xảy ra nhất đối với những cán bộ làm công tác giám định, bồi
thường. Để hạn chế được vấn đề này thực sự khó khăn đối với các công ty
bảo hiểm. Việc đầu tiên mà các công ty có thể làm đó là đánh vào ý thức của
các cán bộ. Nếu được hưởng những đãi ngộ tốt thì nhân viên sẽ làm việc nhiệt
tình và trung thực với công ty hơn. Tuy nhiên bên cạnh những đãi ngộ vẫn
cần những quy định xử phạt đối với hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm gây
hại cho công ty. Và phạt bao giờ cũng phải nặng hơn thưởng để cán bộ, nhân
viên có thể nâng cao ý thức của mình hơn.
- Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu cần có mối
quan hệ quốc tế rộng lớn, do đó cần có những cán bộ giỏi ngoại ngữ. Việc đào
tào lại và làm mới đội ngũ cán bộ của các Công ty bảo hiểm không chỉ trên
lĩnh vực nghiệp vụ mà còn cần phải quan tâm đến trình độ ngoại ngữ để hoạt
động bảo hiểm thích ứng với điều kiện thực tế, có thể hiểu sâu những tài liệu
80
của các Hội quốc tế, bắt kịp những luật định quốc tế mới để phổ biến lại cho
khách hàng, tránh những khiếu nại do sự nhầm lẫn về ngôn ngữ.
3. Đối với các cơ quan chức năng
Các tàu Việt Nam chạy tuyến quốc tế hay xảy ra tai nạn và có tỷ lệ bị
bắt giữ cao có ảnh hưởng tới phí bảo hiểm P&I mà các chủ tàu Việt Nam
tham gia loại hình bảo hiểm này. Ngoài nhiệm vụ của các chủ tàu, các cơ
quan chức năng cũng nên tham gia và điều chỉnh để đảm bảo an toàn cho các
tàu biển Việt Nam hoạt động cũng như tăng uy tín của đội tàu Việt Nam,
đồng thời góp phần giúp hoạt động của loại hình bảo hiểm P&I trên thị trường
Việt Nam được tốt hơn.
3.1. Cơ quan đăng kiểm
- Cơ quan đăng kiểm cần nâng cao chất lượng giám sát kỹ thuật trong
đóng mới và sửa chữa tàu, đảm bảo các tàu khi xuất xưởng tuân thủ đầy đủ
các quy định của quy phạm và các điều ước quốc tế, không còn khiếm khuyết
dẫn đến việc tàu bị lưu giữ.
- Bên cạnh đó, cơ quan cũng cần kiểm soát chặt chẽ công việc kiểm tra
tàu của các đăng kiểm viên, đảm bảo tất cả các tàu đều được kiểm tra đủ,
đúng khối lượng theo quy định, đăng kiểm viên không được tuỳ tiện miễn
giảm các khiếm khuyết của tàu. Đối với những đăng kiểm viên liên quan đến
tàu bị lưu giữ phải bị quy trách nhiệm và xử lý thích đáng. Việc tăng cường
công tác đào tạo nâng cao trình độ các đăng kiểm viên tàu biển cũng nên
được triển khai liên tục để đảm bảo một đội ngũ đăng kiểm viên có năng lực
và hiệu quả. Ngoài ra, cơ quan cũng cần kiểm soát nghiêm ngặt công tác
đăng kiểm do các tổ chức Đăng kiểm nước ngoài thực hiện theo sự uỷ quyền
của Cục Đăng kiểm Việt Nam đối với các tàu biển Việt Nam; trao đổi thông
tin và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức này để giải quyết các tàu Việt Nam
mang cấp của họ bị lưu giữ.
81
- Tăng cường khối lượng kiểm tra, đặc biệt là tại các đợt kiểm tra định
kỳ, đối với các tàu nhiều tuổi, tàu có tình trạng kỹ thuật hạn chế, tàu chở dầu,
tàu chở hàng rời và tàu chở hàng nguy hiểm; lập danh sách các tàu có nguy
cơ bị lưu giữ cao/ tàu có tình trạng kỹ thuật hạn chế, thông báo cho các chủ
tàu và đăng kiểm viên để có sự quan tâm đặc biệt đến các tàu này.
- Cục đăng kiểm nên cập nhật đầy đủ danh mục thời hạn kiểm tra, các
quy định mới của các điều ước quốc tế và hướng dẫn áp dụng các quy định
này cho từng tàu, thông báo cho các chủ tàu bằng văn bản và qua trang tin
điện tử của Cục Đăng kiểm Việt Nam.
- Đánh giá lại hoặc đánh giá bổ sung hệ thống quản lý an toàn và an
ninh theo qui định của Bộ luật ISM và Bộ luật ISPS đối với các tàu bị lưu giữ,
tai nạn do yếu tố con người và các công ty có tàu bị tai nạn, sự cố hoặc có
nhiều lượt tàu bị lưu giữ trong năm. Thông báo cho các công ty về các sỹ
quan và thuyền viên không đủ năng lực hoặc thiếu trách nhiệm khi có đầy đủ
các bằng chứng.
3.2. Cục Hàng hải Việt Nam
- Yêu cầu các Cảng vụ hàng hải phải kiểm tra các tàu bị lưu giữ ở các
cảng biển nước ngoài ngay khi tàu về đến cảng biển Việt Nam và yêu cầu các
tàu phải khắc phục các khiếm khuyết còn tồn tại.
- Bảo đảm 100% tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến quốc tế được
kiểm tra vào thời điểm thích hợp trước khi nhận hàng xuất khẩu hoặc trước
khi rời cảng đi các cảng nước ngoài và chỉ cấp phép rời cảng cho tàu khi các
khiếm khuyết phát hiện được qua kiểm tra đã được khắc phục. Đối với
những cán bộ nhân viên là công tác kiểm tra không hoàn thành nhiệm vụ, để
tàu rời cảng mà không đảm bảo an toàn, chất lượng sẽ phải chịu phạt của cơ
quan quản lý để không còn bị tái phạm. Hình phạt đối với những nhân viên
này phải thực hiện đúng, không được phạt theo kiểu hình thức bởi đó là một
vi phạm quan trọng. Nếu 1% tàu không được kiểm tra cũng có thể gây ảnh
82
hưởng đến cả đội tàu Việt Nam, làm cho những tàu đi sau của chúng ta sẽ bị
kiểm soát nghiêm hơn tại các cảng vụ nước ngoài và sẽ bị gây khó khăn, ảnh
hưởng đến hoạt động của tàu.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các nội dung, yêu cầu kiểm tra
của nhà nước cảng biển của Tổ chức Hàng hải Quốc tế IMO và Tokyo MOU
đến cho các công ty quản lý tàu, sỹ quan và thuyền viên của tàu bằng các
buổi hội thảo hay có những chuyên viên đến từng hãng tàu để phổ biến giúp
nâng cao ý thức của chủ tàu đối với việc đảm bảo an toàn cho đội tàu của
mình.
- Cục Hàng hải cần phối hợp với các cơ sở đào tạo, huấn luyện sĩ
quan, thuyền viên trong việc cải tiến nội dung, chương trình đào tạo, huấn
luyện chuyên môn nghiệp vụ; cập nhật quy định pháp luật hàng hải quốc tế;
nâng cao trình độ Anh ngữ chuyên ngành để việc đào tạo đạt kết quản tốt
hơn, cung cấp cho thị trường những thuyền viên có chất lượng cao.
III. Kiến nghị
Ta đã biết có rất nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng đến việc tham gia
bảo hiểm P&I của các chủ tàu Việt Nam. Ngoài những giải pháp đã nêu ở trên
đối với các chủ tàu, các công ty bảo hiểm và một số cơ quan chức năng liên
quan đến hoạt động tàu biển; để nâng cao hoạt động của loại hình bảo hiểm
này em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị khác như sau:
a. Nhà nước sớm hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển
của bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. Các chủ thể tham gia vào các hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam cần phải thực hiện theo pháp luật của Việt Nam.
Đối với hoạt động bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải quốc tế cần phải tuân thủ
theo cả các luật quốc tế do đó việc thống nhất giữa luật trong nước và luật
quốc tế là cần thiết để các chủ thể có thể dễ dàng thực hiện.
83
b. Một trong những nguyên nhân dẫn đến phí bảo hiểm cao đó là đội
tàu biển Việt Nam có độ tuổi cao, gây tỷ lệ tổn thất lớn. Vì vậy việc đổi mới
đội tàu là thực sự cần thiết. Đối với những tàu đã hoạt động tuyến quốc tế
được nhiều năm, không còn đủ an toàn, các chủ tàu có thể chuyển về hoạt
động tuyến nội địa để kiểm soát hoạt động được dễ dàng hơn. Hơn nữa, các
chủ tàu cũng không nên quá tiết kiệm mà mua những tàu quá cũ của nước
ngoài, sẽ làm cho độ tuổi trung bình của đội tàu cao hơn lại không đảm bảo
được an toàn. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng nên có những chính
sách giúp đỡ các công ty vận tải biển về tài chính để có thể trẻ hóa được đội
tàu, giúp giảm độ tuổi trung bình của cả đội tàu Việt Nam.
c. Các chủ tàu biển Việt Nam gặp nhiều khó khăn do không được tham
gia trực tiếp bảo hiểm P&I ở các Hội mà phải thông qua các công ty bảo hiểm
tại Việt Nam. Do đó, nhà nước cần có những hình thức khuyến khích việc ra
đời của mô hình công ty bảo hiểm tương hỗ để các chủ tàu ý thức được tốt
hơn về trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo chất lượng, an toàn cho tàu.
Bên cạnh đó, các chủ tàu cũng không phải chịu nhiều thiệt thòi như bây giờ
và có được dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, khi chưa có loại hình công ty bảo
hiểm tương hỗ tại Việt Nam, các chủ tàu có thể mạnh dạn tham gia trực tiếp ở
các Hội quốc tế để được hưởng nhiều lợi ích hơn bằng những nỗ lực của
chính công ty như:
- Các công ty muốn tham gia trực tiếp vào Hội P&I quốc tế trước hết
cần có một bộ phận chuyên trách trong lĩnh vực bảo hiểm. Những người làm
trong bộ phận này phải thực sự am hiểu về hoạt động bảo hiểm hàng hải nói
chung và bảo hiểm P&I nói riêng, các văn bản luật pháp liên quan và đặc biệt
là thành thạo tiếng Anh để có thể làm việc trực tiếp với Hội, hiểu những luật
định do Hội đưa ra và áp dụng chính xác cho những hoạt động của công ty
mình.
84
- Các công ty vận tải của Việt Nam chủ yếu là những doanh nghiệp
nghiệp vừa và nhỏ, nguồn tài chính còn yếu kém nên chỉ bảo hiểm một vài tàu
lớn mình có qua những công ty bảo hiểm do ở cùng trong nước nên cũng dễ
giàn xếp việc đóng phí và có thể nhận được sự giúp đỡ của các công ty bảo
hiểm. Khi tham gia tại các Hội quốc tế thì quy định về việc đóng phí nghiêm
ngặt hơn cả về thời gian và số lượng nên các công ty sẽ dễ bị Hội chấm dứt
hợp đồng. Do đó, các công ty vận tải cần phát triển lớn mạnh hơn về kinh tế
để có thể tham gia vào Hội P&I quốc tế dễ dàng hơn.
- Sự uy tín đối với các Hội P&I quốc tế cũng rất quan trọng. Trong quá
khứ, có một số tàu biển Việt Nam đã để lại những ấn tượng không tốt do làm
ăn chộp giật, manh mún và gây ảnh hưởng tới hoạt động của những tàu đi sau.
Việc làm ăn uy tín của các đội tàu trên thị trường quốc tế hay một tỷ lệ tổn
thất thấp sẽ giúp các chủ tàu có thể yên tâm được chấp nhận khi viết đơn xin
gia nhập Hội bởi Hội có thể từ chối bảo hiểm mà không công bố lý do. Đo đó,
các công ty vận tải biển cần xác định phương hướng làm ăn rõ ràng, uy tín và
đặc biệt cần áp dụng triệt để những biện pháp an toàn để giảm thiểu tỷ lệ tổn
thất, đó cũng là yếu tố được các Hội P&I quốc tế đánh giá cao.
d. Tiếng Anh là nhu cầu thực sự cần thiết đối với cả các cán bộ làm
công tác bảo hiểm và cả các nhân viên trong hãng tàu. Những người có nhiều
năm kinh nghiệm lĩnh vực bảo hiểm và vận tải đa phần đã lớn tuổi, do đó
tiếng Anh không được tốt. Các công bảo hiểm và các hãng tàu có thể liên kết
với các trung tâm tiếng Anh để dạy cho các cán bộ của công ty mình, vừa
khuyến khích tinh thần của các cán bộ nhân viên, vừa tạo cơ hội cho các cán
bộ được nâng cao ngoại ngữ để hội nhập tốt hơn. Còn đối với những nhân
viên mới, trẻ tuổi, khi tuyển dụng các công ty nên kiểm tra trực tiếp năng lực
ngoại ngữ, không nên chỉ đánh giá qua bằng cấp để đảm bảo một nguồn nhân
lực chất lượng, giỏi cả về chuyên môn và ngoại ngữ.
85
e. Sự ra đời của Hiệp Hội Bảo hiểm Việt Nam năm 1999 đã đánh dấu
bước phát triển quan trọng của ngành bảo hiểm Việt Nam. Đây chính là ngôi
nhà chung, mang tiếng nói chung thể hiện sự hợp tác của các công ty bảo
hiểm. Hiệp Hội Bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc liên kết hoạt động
của các công ty bảo hiểm. Vì vậy Hiệp hội cần có những hoạt động để thúc
đẩy thị trường ngày càng phát triển.
+ Hiệp hội nên mở rộng phạm vi hợp tác giữa các công ty bảo hiểm
cung cấp dịch vụ bảo hiểm P&I để có thể đưa ra những giải pháp phát triển
thị trường, cạnh tranh lành mạnh hơn nữa.
+ Hiệp hội có thể tổ chức các Hội thảo hoặc các lớp đào tạo cho các
cán bộ bảo hiểm để giúp nâng cao nghiệp vụ giúp thị trường hoạt động tốt
hơn.
+ Thông tin đối với thị trường là rất quan trọng. Trên thị trường bảo
hiểm Việt Nam, nguồn thông tin chủ yếu là do các công ty bảo hiểm tự tìm
hiểu và không công khai, ai có thông tin thì người đó hoạt động. Do đó sự
cạnh tranh trên thị trường không lành mạnh. Hiệp hội nên phát huy vai trò là
người mang tiếng nói chung đến cho các công ty bảo hiểm và cả các chủ tàu,
cập nhật thông tin trong nước và thị trường quốc tế để các bên có thể nắm
vững thông tin, giúp hoạt động hiệu quả hơn.
86
KẾT LUẬN
Khóa luận có thể rút ra được những kết luận như sau:
1. Tình hình tham gia bảo hiểm P&I của những công ty vận tải biển
Việt Nam có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Lý do trước hết
cho sự gia tăng này là đội tàu ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng nên nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng. Tuy nhiên, không thể không ghi
nhận sự nâng cao trong nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm P&I của
các chủ tàu. Cùng những điểu kiện tốt về sự phát triển kinh tế trong những
năm tới và sự tham gia mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực bảo
hiểm P&I, chắc chắn thị trường bảo hiểm P&I tại Việt Nam còn phát triển
hơn nữa.
2. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm P&I tại Việt Nam vẫn còn gặp nhiều
khó khăn trong đó có cả lý do chủ quan từ các công ty vận tải biển, các công
ty bảo hiểm và lý do khách quan từ các cơ quan, bộ ngành. Những nguyên
nhân chính hạn chế hoạt động của thị trường đó là đội tàu già, chất lượng kém
và sự yếu kém trong nghiệp vụ của cả các công ty vận tải biển và các công ty
bảo hiểm.
3. Để hạn chế được những khuyết điểm đó cần có sự nỗ lực của tất cả
các bên liên quan, giúp đỡ nhau cùng áp dụng những giải pháp hiệu quả giúp
thị trường hoạt động tốt hơn. Các chủ tàu cần nâng cao nhận thức, chủ động
trong công tác đảm bảo an toàn cho đội tàu. Với các công ty bảo hiểm, trong
thời điểm thị trường cạnh tranh mạnh mẽ, cần phát huy lợi thế, khắc phục khó
khăn để hoạt động hiệu quả hơn. Còn các cơ quan bộ ngành, cần phải tạo điều
kiện bằng hành lang pháp lý hoàn chỉnh, thông thoáng như thứ dầu bôi trơn
cho hoạt động của thị trường.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. GS. TS. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình bảo hiểm trong kinh
doanh. NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
2. PGS. TS. Nguyễn Hồng Đàm (ch.b), GS. TS. Hoàng Văn Châu,
PGS. TS. Nguyễn Như Tiến, TS. Vũ Sỹ Tuấn (2005), Vận tải và giao nhận
trong ngoại thương, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Dương Hữu Hạnh (2004), Vận tải - giao nhận quốc tế và bảo hiểm
hàng hải, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Trần Thúy Hà (2005), Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm chủ tàu tại
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp - Đại học Ngoại
Thương, Hà Nội.
5. Phùng Đắc Lộc, Th.S Hoàng Mạnh Cường (2007), Cẩm nang bảo
hiểm phi nhân thọ, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, Hà Nội.
6. Phùng Đắc Lộc (2006), Thị trường bảo hiểm việt nam khi gia nhập
WTO, Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam, số 4 tháng 11/2006, Hà
Nội.
7. Đặng Giáng Hương (2006a), Tình hình thị trường bảo hiểm P&I
2005 và dự báo mùa tái tục 2006/07, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo
hiểm Việt Nam số 1 tháng 1/2006, trang 27-29, Hà Nội.
8. Đặng Giáng Hương (2006b), Thị trường bảo hiểm P&I có bước phát
triển vững chắc, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 3
thang 8/2006, trang 3-6, Hà Nội.
9. Đặng Giáng Hương (2007), Thị trường P&I 2005 trước mùa tái tục
2007/08, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 1 tháng
1/2007, trang 23-27, Hà Nội.
88
10. Đặng Giáng Hương (2008a), Thị trường P&I mùa tái tục 2008, Tạp
chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 1tháng 2/2008, trang 22 -
25, Hà Nội.
11. Đặng Giáng Hương (2008b), Sự phát triển của bảo hiểm P&I quốc
tế. Những khoa khăn thách thức của các Hội P&I và các Công ty bảo hiểm,
Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 2+3 tháng 8/2008,
trang 14 – 17, Hà Nội.
12. Đặng Giáng Hương (2009), Tình hình thị trường trách nhiệm dân
sự chủ tàu trước ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu và mùa tái tục P&I
2008, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 1tháng 2/2009,
trang 27-30, Hà Nội.
13. Đặng Giáng Hương (2010), Mùa tái tục P&I 2009 – 2010, Tạp chí
thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 1 tháng 2/2010, trang 25-28,
Hà Nội.
14. Trần Thái Phương (2005), Thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam
năm 2004, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 1 tháng
1/2005, trang 13 – 16, Hà Nội.
15. Hồ Thuỷ Tiên (ch.b.), Nguyễn Tấn Hoàng, Nguyễn Tiến Hùng
(2007) Bảo hiểm hàng hải, NXB Tài chính, Hà Nội.
16. Vinare (2005), Bản thỏa thuận hợp tác số 1 trong bảo hiểm tàu biển,
Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam, số 2 tháng 4/2005, Hà Nội
17. Vinare (2005), Thị trường bảo hiểm Việt Nam 6 tháng đầu năm
2005. Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 3 tháng
8/2005, trang 6-8, Hà Nội.
18. Vinare (2007), Thị trường bảo hiểm hàng hải thế giới nửa đầu năm
2007, Tạp chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 4 tháng
12/2007, trang 20-21, Hà Nội.
89
19. Vinare (2009), Thị trường bảo hiểm hàng hải Châu Á ổn định, Tạp
chí thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt Nam số 4 tháng 12/2009, trang
22-24, Hà Nội.
20. Vinare (2010), Chiến lược kinh doanh 2010 – 2015, Hà Nội.
II. Tiếng Anh
21. Vinare (2005), Protection and imdemnity, Annual report Vinare
2005, trang 18 – 19, Hà Nội.
22. Vinare (2006), Protection and imdemnity, Annual report Vinare
2006, trang 18 – 19, Hà Nội.
23. Vinare (2007), Protection and imdemnity, Annual report Vinare
2007, trang 20 – 21, Hà Nội.
24. Vinare (2008), Protection and imdemnity, Annual report Vinare
2008, trang 20 – 21, Hà Nội.
25. West of England (2009) The rules of classes 1 & 2
III. Website
26.
chung-ve-bao-hiem-p-i.html, Sự cần thiết của bảo hiểm P&I, sự hỗ trợ của
các Hội, 20/2/2010.
27.
tai/Phat_trien_doi_tau_bien_Viet_Nam_Trung_huong_dung_loai/, Phát triển
đội tàu biển Việt Nam trúng hướng – đúng loại, 20/2/2010.
28.
Kiểm tra PSC đối với đội tàu biển Việt Nam và các biện pháp hạn chế tàu bị
lưu giữ, 20/2/2010.
29.
tang-Quy-hoach/2007/12/2A7051B1/, Phát triển đội tàu biển Việt Nam: Vẫn
còn nhiều khó khăn, 25/2/2010.
90
30.
atid=5&subcatid=23&ArticleId=263 , Ý thức của thuyền viên quyết định vấn
đề an toàn trong lĩnh vực Hàng hải, 25/2/2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5486_0139.pdf