Hoạt động bảo hiểm tiền gửi đang ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng và
xu hưóng phát triển mạnh mẽ mang tính chất toàn cầu trong thời gian tới. Với
mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về hoạt động này, bài
khóa luận đã nghiên cứu và phân tích rõ những nội dung cơ bản nhất về bảo
hiể m tiền gửi như khái niệm bảo hiểm tiền gửi, bản chất bảo hiểm tiền gửi là
loại hàng hóa công không loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối và vai trò của
bảo hiểm tiền gửi đối với nền kinh tế quốc dân. Đồng thời bài khóa luận đưa ra
ba mô hình hệ thống bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên thế giới, phân tí ch những
yếu tố tạo nên sự thành công của ba hệ thống này để rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng hiệu quả hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
99 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3501 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam -Thực trạng và giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo hiểm nhân thọ, tổ chức nhận uỷ thác đầu tư chứng khoán, quỹ tiết
kiệm bưu điện. Quy định này sẽ tạo ra một sân chơi không bình đẳng giữa
những tổ chức cùng tham gia kinh doanh một loại hình dịch vụ do các tổ chức
không tham gia BHTG sẽ không phải đóng phí bảo hiểm hàng năm, hơn nữa
quyền lợi của chính người gửi tiền tại các tổ chức này lại không được đảm bảo.
Về nội dung hoạt động còn một số hạn chế như chất lượng giám sát
kiểm tra tại chỗ chưa cao, thông tin chưa thực sự cập nhật kịp thời. Hơn nữa
các cuộc kiểm tra trực tiếp thường tốn nhiều chi phí và nhân lực nên BHTG
cần phải giảm bớt công tác này và tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác
giám sát từ xa. Hoạt động chi trả tiền bảo hiểm còn diễn ra chậm chạp do chủ
yếu chi trả bằng tiền mặt và điều này cũng khiến cho việc tái huy động các
khoản tiền bảo hiểm này trở nên khó khăn. Công tác tuyên truyền còn yếu
kém, thực tế sau 6 năm BHTG Việt Nam chính thức đi vào hoạt động vẫn còn
rất nhiều người chưa biết đến hoạt động BHTG mặc dù hoạt động này bảo
hiểm quyền lợi của chính họ.
3.2.3. Năng lực tài chính còn yếu
64
Năng lực tài chính của BHTG Việt Nam còn yếu, chưa thực sự bảo vệ
được lợi ích của người gửi tiền một cách rộng rãi theo pháp luật. Hiện nay số
vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng do ngân sách Chính phủ cấp, mỗi năm số tiền bổ
sung cho nguồn vốn chủ sở hữu nguồn gốc từ thu phí bảo hiểm chỉ khoảng 60
tỷ đồng là con số ít ỏi; nếu như chỉ hai, ba ngân hàng lớn phá sản cùng lúc
BHTG Việt Nam sẽ mất khả năng chi trả. Mặt khác, trên thế giới tỷ lệ vốn
điều lệ/tổng tiền gửi được bảo hiểm tại các hệ thống BHTG dao động từ
0,5%-50% tùy thuộc vào mức độ ổn định của hệ thống tài chính từng quốc
gia, càng những nước mà hệ thống tài chính kém ổn định thì tỷ lệ này càng
cao. Ở Việt Nam, tỷ lệ này khoảng 1,5% là con số khá thấp so với thế giới và
tình hình thực tế ở Việt Nam. Như vậy, nhu cầu tất yếu là phải tăng vốn điều
lệ và tổ chức BHTG Việt Nam đang trình Chính phủ duyệt kế hoạch tăng vốn
điều lệ lên 10.000 tỷ đồng vào năm 2010, tuy nhiên cũng cần xem xét việc
tăng vốn hoạt động nhờ vào các nguồn khác ngoài ngân sách Chính phủ để
giảm gánh nặng cho ngân sách Chính phủ và cũng tránh sự ỷ lại của các tổ
chức tham gia BHTG vào ngân sách Chính phủ.
Tóm lại: Sau 6 năm chính thức đi vào hoạt động, BHTG Việt Nam về
cơ bản đã thực hiện tốt hai chức năng giám sát hoạt động các tổ chức tham gia
BHTG và cho vay hỗ trợ đối với các tổ chức tín dụng gặp khó khăn, thực hiện
tốt nhiệm vụ của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp phấp của người gửi
tiền, duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. BHTG Việt Nam đã và đang ngày
càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển ổn định
của hệ thống tài chính nói riêng và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế,
xã hội Việt Nam nói chung. Sự phát triển lớn mạnh của hoạt động BHTG
trong thời gian tới tại Việt Nam là một yêu cầu khách quan và cần thiết, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang mang lại cho Việt
Nam nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng buộc Việt Nam phải đối mặt với
65
nhiều thách thức mới, ẩn chứa nhiều rủi ro mới, nhất là trong lĩnh vực tài
chính. Chính phủ Việt Nam và BHTG Việt Nam cần tiếp tục phát huy những
ưu điểm của tổ chức BHTG Việt Nam và nhanh chóng khắc phục những
nhược điểm, hạn chế nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động BHTG để hoạt
động này tương xứng với vị thế của nó trong hệ thống ổn định tài chính quốc gia.
66
CHƢƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
I. Chiến lƣợc phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tới năm 2015
Được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 09/11/1999, sau 5 năm hoạt động, tổ chức BHTG Việt Nam
đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, quyền lợi của người dân
tham gia gửi tiền được đảm bảo, lòng tin của dân chúng vào hệ thống tài
chính - ngân hàng nước ta được nâng cao. Nhưng bên cạnh những thành công,
BHTG Việt Nam còn nhiều hạn chế khiến cho hoạt động BHTG chưa thực sự
đạt được hiệu quả cao như mong muốn. Một trong những nguyên nhân của
những hạn chế này là do BHTG Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các
chiến lược phát triển ngắn hạn, chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài
hạn nên chưa có được tầm nhìn vĩ mô, bao quát chung cho tình hình phát triển
của hệ thống tài chính. Vì vậy, việc tổ chức BHTG Việt Nam xây dựng Chiến
lược phát triển BHTG Việt Nam giai đoạn 2006-2015 là yêu cầu cần thiết và
cấp bách hiện nay để phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước.
Qua thời gian dài nghiên cứu cùng với sự tiếp thu ý kiến đóng góp từ
ban lãnh đạo, các chuyên gia thuộc Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đơn vị có liên quan, Hội
đồng Quản trị BHTG Việt Nam đã nhất trí thông qua Chiến lược phát triển
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Chiến lược nhằm củng cố
vị thế của BHTG Việt Nam trong hệ thống tài chính quốc gia với việc xây
dựng BHTG Việt Nam trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, phát triển
bền vững và hoạt động hiệu quả phù hợp với các thông lệ quốc tế, bảo vệ tốt
nhất quyền lợi ngưòi gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng và sự ổn định
của hệ thống tài chính quốc gia. Chiến lược phát triển dựa trên 5 trụ cột chính
là:
67
- Trụ cột 1: Xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý.
- Trụ cột 2: Củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính
minh bạch của hệ thống.
- Trụ cột 3: Phát triển đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch
vụ và hội nhập quốc tế.
- Trụ cột 4: Tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng
cao năng lực quản lý.
- Trụ cột 5: Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
Căn cứ trên 5 trụ cột cho sự phát triển bền vững, BHTG Việt Nam xây
dựng các chỉ tiêu hoạt động và các giải pháp theo nội dung của các trụ cột.
1. Xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý
Trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng pháp lý, BHTG Việt Nam đã
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2006 xây dựng Pháp lệnh về
BHTG, tiến tới thay thế Nghị định 89 vào năm 2007, đồng thời bổ sung
chương trình xây dựng Luật BHTG và mục tiêu Luật BHTG sẽ được Quốc
hội thông qua và ban hành vào năm 2008 - 2010.
Mục tiêu tới năm 2015, sẽ đưa các nội dung hoạt động BHTG vào Luật
bảo vệ người tiêu dùng và các Luật liên quan tới tổ chức tín dụng, hoạt động
bảo hiểm và thị trường chứng khoán.
2. Củng cố, tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh
bạch hệ thống
Chiến lược đã đưa ra chỉ tiêu tới năm 2015 là hoàn thiện cơ chế, chính
sách về BHTG, quản lý tốt hơn các rủi ro nhằm củng cố an toàn hệ thống,
giảm dần phí BHTG dựa trên năng lực tài chính của BHTG Việt Nam và sự
phát triển bền vững của các tổ chức nhận tiền gửi.
Để nâng cao năng lực tài chính, BHTG Việt Nam sẽ phải dự tính tăng
mức vốn điều lệ và đảm bảo vốn điều lệ tối thiểu là 5000 tỷ Đồng vào năm
2006, phấn đấu đến năm 2010 đạt 10000 tỷ Đồng và 30000 tỷ Đồng vào năm
68
2015. Để tăng vốn điều lệ, BHTG Việt Nam có thể huy động từ ngân sách
Nhà nước, nhưng để giảm gánh nặng cho Chính phủ, BHTG Việt Nam có thể
tự bổ sung nguồn vốn bằng phát hành Trái phiếu của BHTG Việt Nam, vay
ưu đãi từ các tổ chức quốc tế. Mục tiêu tới năm 2015, thay thế phương thức
thu phí đồng hạng bằng mức phí bảo hiểm trên cơ sở rủi ro, nâng dần hạn
mức BHTG từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng dựa trên chính sách bảo vệ đa
số người gửi tiền.
Để đảm bảo tính minh bạch hệ thống, từ năm 2005, BHTG Việt Nam
đã thực hiện chế độ kiểm toán Nhà nước, đổi mới hoạt động kiểm soát và
kiểm toán nội bộ theo mô hình Quản lý tập trung, xây dựng và hoàn thiện các
văn bản Quản trị, điều hành phục vụ công tác kiểm toán và kiểm soát các mặt
hoạt động của BHTG Việt Nam. Chiến lược cũng nhằm tiến tới xây dựng một
hệ thống báo cáo tài chính, quản trị thông tin trên nền tảng của công nghệ
thông tin hiện đại, ứng dụng các tiêu chuẩn quản lý rủi ro của Ủy ban Basel,
Hiệp ước Basel I và II.
3. Phát triển đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ
và hội nhập quốc tế
Với chiến lược đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, BHTG Việt Nam mở
rộng phạm vi và đối tượng bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm không chỉ giới hạn
ở các loại tiền gửi bằng Đồng Việt Nam mà sẽ tiến tới bảo hiểm thêm các loại
tiền gửi bằng vàng và ngoại tệ. Đối với phạm vi bảo hiểm sẽ mở rộng thêm
bảo hiểm tiền gửi của các khách hàng gửi tiền tại các tổ chức bảo hiểm nhân
thọ, công ty uỷ thác đầu tư chứng khoán, ngân hàng chính sách và các tổ chức
tài chính quy mô nhỏ.
Nhằm nâng cao chất lượng sản phảm dịch vụ, BHTG Việt Nam cùng
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan ban ngành
hữu quan xây dựng và triển khai mô hình kiểm soát hợp nhất hệ thống tài
chính ngân hàng, tiếp nhận hỗ trợ kĩ thuật, xây dựng hệ thống tổ chức giám
69
sát theo tiêu chuẩn quốc tế. BHTG Việt Nam cũng hướng tới chuyển dần một
số hoạt động có đủ điều kiện, đặc biệt là hoạt động đầu tư sang hạch toán kinh
tế, tiến tới thành lập một số công ty trực thuộc thực hiện nhiệm vụ mua bán
nợ, đầu tư, quản lý vốn, các trung tâm đào tạo, trung tâm công nghệ thông tin.
Đối với hoạt động hội nhập quốc tế, BHTG Việt Nam xây dựng chiến
lược tới năm 2015 sẽ mở rộng các quan hệ hợp tác cả về chiều sâu và chiều
rộng, trong đó trước mắt tới năm 2010 sẽ xây dựng quan hệ hợp tác hỗ trợ
chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng thế giới, ngân hàng phát
triển châu Á, các quỹ hỗ trợ phát triển chính phủ và phi chính phủ, các Hiệp
hội nghề nghiệp trong và ngoài nước.
4. Tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao
năng lực quản lý
Nhằm tiến tới xây dựng bộ máy linh hoạt, có khả năng cung cấp sản
phẩm dịch vụ theo sự phát triển của thị trường, BHTG Việt Nam thực hiện
từng bước tái cấu trúc bộ máy theo hướng lấy khách hàng làm tâm điểm và
quản lý hoạt động theo các khối khách hàng. Đặc điểm của mô hình tổ chức
70
lấy khách hàng làm tâm điểm là: tách biệt chức năng quản lý hành chính với
chức năng kinh doanh, trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ các bộ phận
hoạt động sinh lời và các bộ phận hỗ trợ, hậu cần; xây dựng các phòng nghiệp
vụ khách hàng theo phân loại đối tượng khách hàng và có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ phận giao dịch và kiểm soát theo đối tượng khách hàng và
dòng sản phẩm.
BHTG Việt Nam cũng chú trọng công tác phát triển nguồn nhân lực
theo hướng chuyên nghiệp, đảm bảo năng lực chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp. Chiến lược hướng tới đưa ra các chương trình hợp tác với các tổ chức
tài chính quốc tế, xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo chuyên
nghiệp cho các cán bô nhân viên của BHTG Việt Nam.
5. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
Mô hình định hướng phát triển công nghệ thông tin
Trên cơ sở tầm nhìn chiến lược và kỳ vọng của BHTG Việt Nam, chiến
lược phát triển công nghê thông tin cần phải thỏa mãn được những yêu cầu
phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là lĩnh vực tài chính, ngân hàng. BHTG
Việt Nam ưu tiên xây dựng hệ thống công nghệ thông tin theo hưóng quản lý
tập trung, kết nối trực tuyến với các khách hàng lớn, với Cục Thống kê tin
71
học Bộ Tài chính, CIC phục vụ hệ thống thông tin khách hàng. Triển khai các
ứng dụng phần mềm quản lý và kiểm soát trên toàn hệ thống quỹ tín dụng
nhân dân trong năm 2006-2007.
Xây dựng và triển khai dự án hiện đại hóa BHTG Việt Nam từ năm
2006, phối hợp chặt chẽ với Cục công nghệ tin học ngân hàng và Cục tin học
thống kê, nghiên cứu đề án xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định
kiểm tra, kiểm toán hệ thống công nghệ thông tin đối với các tổ chức nhận
tiền gửi.
II. Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi đáp ứng nhu cầu hội
nhập
Hoạt động BHTG tại Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều
thành công, nhưng bên cạnh đó cũng còn có nhiều hạn chế nên chưa thực sự
tương xưng với vị thế trong hệ thống ổn định tài chính quốc quốc gia. Để
BHTG Việt Nam thực sự trở thành một định chế tài chính lớn mạnh phù hợp
với các thông lệ quốc tế, bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi tiền, nâng cao
niềm tin công chúng và sự ổn định tài chính quốc gia, Việt Nam cần đưa ra
những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hoạt động này.
Các giải pháp đưa ra cần đảm bảo yêu cầu là tích cực, đồng bộ, khả thi, có lộ
trình cụ thể, ràng buộc chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện. Bài
khóa luận xin được nêu một số nhóm giải pháp, bao gồm giải pháp vĩ mô
mang tính chất tạo cơ sở pháp lý, cơ chế cho hoạt động BHTG, kết hợp với
giải pháp vi mô đối với tổ chức BHTG Việt Nam nhằm cụ thể hóa hoạt động
nghệp vụ của BHTG Việt Nam.
1. Giải pháp vĩ mô
1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Hệ thống cơ sở pháp lý của hoạt động BHTG đóng vai trò quan trọng
và được xem là nền tảng, quyết định thành công của hoạt động này. Nhận
72
thức được vấn đề này, thời gian qua Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật có tính chất tạo cơ sở cho việc triển khai và điều chỉnh hoạt động
BHTG tại Việt Nam. Nhưng nếu xét về yêu cầu triển khai toàn diện thì cơ sở
pháp lý hiện tại của Việt Nam còn rất nhiều bất cập, cần được Chính phủ và
các cơ quan ban ngành hữu quan phối hợp quan tâm hơn nữa.
Trước mắt Chính phủ cần chỉ đạo và cho phép đưa vào kế hoạch xây
dựng Pháp lệnh BHTG và nhanh chóng soạn thảo, triển khai Luật BHTG.
Việc sớm ra đời Luật BHTG sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG tương
xứng với các Luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan. Bên cạnh tính pháp lý
này, Luật BHTG còn tăng cường tính chất xã hội hóa của hoạt động BHTG,
phổ cập hoạt động BHTG tới sâu rộng quần chúng nhân dân. Thực tế phát
triển hoạt động BHTG của các nước trên thế giới đã cho thấy các nước đều
xây dựng một cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động BHTG là Luật BHTG, ví
dụ như tại Mỹ quy tắc BHTG hiện hành của FDIC được quy định trong Luật
BHTG liên bang Mỹ (FDIC Federal Deposit Insurance Act) ban hành năm
1950 và sửa đổi năm 1993, tại Đức các quy tắc bảo toàn tiền gửi của Quỹ bảo
toàn tiền gửi thuộc Hiệp hội liên bang các ngân hàng Đức được quy định
trong Luật Bảo toàn tiền gửi và bồi thường cho các Nhà đầu tư ban hành năm
1998.
Cùng với công tác soạn thảo Luật BHTG và Pháp lệnh BHTG, một
trong những giải pháp để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG là
việc đồng bộ hóa các văn bản pháp lý quy định về BHTG. Hiện nay, trong các
văn bản pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan vẫn còn nhiều quy định
chồng chéo, không thống nhất. Ví dụ trong Điều 17 Luật các tổ chức tín dụng
số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 có quy định: “Các tổ chức tín dụng có
trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hay bảo hiểm tiền gửi, mức bảo toàn
hay bảo hiểm tiền gửi do Chính phủ quy định”, tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định
73
số 109/2005/NĐ-CP quy định: “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là
tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải
tham gia BHTG bắt buộc”. Như vậy, Nghị định 109 đã loại bỏ hình thức bảo
toàn tiền gửi, do đó, để thống nhất với Luật các tổ chức tín dụng cần bổ sung
Nghị định 109 như sau: “các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng được phép huy động tiền gửi bắt buộc phải tham gia ít nhất 01
tổ chức bảo toàn thay bảo hiểm tiền gửi”.
Bên cạnh đó, để triển khai được hiệu quả các hoạt động nhằm bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền và duy trì sự an toàn ổn định kinh doanh ngân
hàng, BHTG Việt Nam cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về một số vấn đề cơ bản sau:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan tới chế độ báo cáo, chỉ tiêu
chủng loại thông tin và hệ thống tài khoản kế toán của các ngân hàng tham
gia BHTG. Cần triển khai kế hoạch hướng dẫn các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi áp dụng hệ thống kế toán theo các thông lệ kế toán quốc tế do hệ
thống kế toán ngân hàng hiện nay đang áp dụng có nhiều khác biệt so với hệ
thống kế toán quốc tế, gây khó khăn trở ngại cho BHTG Việt Nam trong công
tác giám sát từ xa, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức
tham gia BHTG Việt Nam. Ví dụ, bảng cân đối tài khoản bậc 3 hiện hành của
các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước quy định phải nộp cho BHTG
Việt Nam không tách được tiền gửi cá nhân thuộc đối tượng bảo hiểm nên đã
gây khó khăn trong việc kiểm tra, xác định một cách chính xác số phí tổ chức
tín dụng phải nộp theo quy định. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh
kết cấu bảng cân đối bậc 3 mà các tổ chức tín dụng phải báo cáo để có thể
tách riêng các loại tiền gửi được bảo hiểm.
Xác định rõ quyền và trách nhiệm của BHTG Việt Nam trong hỗ
trợ tài chính, cần quy định cụ thể thời điểm BHTG Việt Nam hỗ trợ các tổ
chức tham gia BHTG và tiến hành chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Thực tế
74
Ngân hàng Nhà nước đang can thiệp quá sâu nhưng không rõ ràng vào các
quyết định hỗ trợ của BHTG Việt Nam với các tổ chức tín dụng gặp khó
khăn. Với mục đích ổn định hệ thống tài chính, BHTG Việt Nam tiến hành
thực hiện hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn để phục hồi
hoạt động chứ không phải đợi đến lúc tổ chức tín dụng bị phá sản rồi mới chi
trả tiền bảo hiểm ít nhiều cho người gửi tiền. Khi xét phương án để phục hồi
một doanh nghiệp, người ta quan tâm đến việc doanh nghệp đó có thực sự có
khả năng phục hồi hay không chứ không phải là việc xem xét thái độ của Nhà
nước đồi với doanh nghiệp đó như thế nào. Theo đó, nếu thực sự tổ chức
tham gia BHTG có nguy cơ đổ vỡ thì điều trước tiên BHTG Việt Nam phải
đánh giá là khả năng phục hồi của tổ chức đó và dự tính mức độ tổn thất theo
nguyên tắc chi phí tháp nhất để quyết định chi trả tiền bảo hiểm hay hỗ trợ tài
chính. Trong khi đó, Nghị định 109 và Thông tư số 03 lại quy định: “BHTG
Việt Nam chỉ hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG sau khi Ngân hàng
Nhà nước có văn bản xác định việc giải thể phá sản của tổ chức tham gia
BHTG có thể gây ảnh hưởng nghiệm trọng đến sự ổn định chính trị, kinh tế
và xã hội”. Như vây, theo quy định này, việc BHTG Việt Nam hỗ trợ chỉ là
việc thực thi một mệnh lệnh hành chính. Bên cạnh đó, quy định cũng không
nêu rõ quyền ra văn bản thuộc cấp nào của Ngân hàng Nhà nước và để chờ đủ
các thủ tục mới cấp hỗ trợ thì có thể sẽ không ứng cứu kịp thời khi cho các tổ
chức khi các tổ chức này đang bị mất khả năng chi trả. Vì vậy, giữa Ngân
hàng Nhà nước và BHTG Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ, quy định rõ quyền
hạn và trách nhiệm của từng cơ quan để có các biện pháp xử lý kịp thời.
Để phù hợp với thông lệ chung của quốc tế và phù hợp với các quy
định của Luật phá sản doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước nên hướng dẫn cụ
thể thời điểm BHTG Việt Nam gửi hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG và tiến
hành chi trả tiền gửi cho ngừơi gửi tiền, có thể quy định “thời điểm BHTG
Việt Nam tiến hành hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG là khi BHTG Việt Nam
75
nhận được thông báo của Hội đồng quản trị của BHTG Việt Nam có quyết
định rằng tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng thanh toán đến
hạn”, và “thời điểm BHTG Việt Nam có trách nhiệm chi trả cho người gửi
tiền là khi có quyết định của tòa án hoặc cơ quan chủ quản tuyên bố tổ chức
tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán đến hạn”.
1.2. Nghiên cứu triển khai phí bảo hiểm tiền gửi không đồng hạng
Do mới trong giai đoạn đầu hoạt động nên việc BHTG Việt Nam tính
phí BHTG theo cơ chế tỷ lệ phí đồng hạng là cần thiết vì dễ dàng tính phí và
dễ dàng thực hiện, tuy nhiên BHTG Việt Nam cũng đã sớm nhận ra những
hạn chế của cơ chế tính phí BHTG này như cơ chế này tạo nên sự đối xử thiếu
bình đẳng giữa các ngân hàng tham gia BHTG Việt Nam do các ngân hàng
tốt, hoạt động hiệu quả cũng phải chịu một tỷ lệ phí BHTG như các ngân
hàng hoạt động yếu kém khác.
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường, hoạt
động BHTG Việt Nam cần được dịch chuyển theo hướng phục vụ ngày càng
tốt hơn các thành viên thông qua việc tạo nên cơ chế đối xử bình đẳng với các
tổ chức tham gia BHTG để góp phần kích thích các ngân hàng hoạt động hiệu
quả hơn với độ an toàn cao hơn mà trước mắt BHTG Việt Nam cần đưa ra
một tỷ lệ phí BHTG áp dụng có phân biệt theo mức độ rủi ro trong hoạt động
của các tổ chức tham gia BHTG. Theo đó, Ngân hàng hoạt động hiệu quả cao,
an toàn sẽ đóng góp theo tỷ lệ thấp, ngược lại ngân hàng hoạt động có hạn
chế, rủi ro cao sẽ đóng phí BHTG theo tỷ lệ cao, nhờ vậy có tác dụng tích cực
thúc đẩy ngân hàng hoạt động hướng tới an toàn và hiệu quả cao hơn. Thực tế
các tổ chức BHTG trên thế giới cũng chỉ áp dụng cơ chế tính phí BHTG theo
tỷ lệ phí đồng hạng trong giai đoạn đầu mới triển khai hoạt động và sau đó
đều áp dụng tỷ lệ phí BHTG theo rủi ro. Như vậy, áp dụng tính phí BHTG
theo cơ chế không đồng hạng là sự phát triển tất yếu của hoạt động BHTG và
cũng là yêu cầu khách quan từ tổ chức tham gia BHTG.
76
Tuy nhiên công tác triển khai phí BHTG không đồng hạng không đơn
giản, đòi hỏi phải có tổ chức BHTG phát triển đến một trình độ nhất định có
thể có khả năng đánh giá hoạt động của tổ chức tham gia BHTG với mức độ
chính xác cao. Bên cạnh đó, việc đánh giá hoạt động của một tổ chức tham
gia BHTG cũng không chỉ do một mình tổ chức BHTG tự thực hiện mà cần
phải có sự phối hợp, cộng tác của các tổ chức chuyên ngành. Ví dụ như ở Mỹ,
Moody là hệ thống đánh giá độc lập các ngân hàng và tổ chức tài chính đã
cung cấp kịp thời và công khai kết quả đánh giá định ký tình hình hoạt động
của các ngân hàng và tổ chức tài chính cho FDIC, và đây cũng là nguồn thông
tin quan trọng có giá trị giúp FDIC xác định tỷ lệ phí BHTG cho các tổ chức
tham gia FDIC. Tại Đức, việc cho điểm đánh giá xếp hạng các ngân hàng, tổ
chức tín dụng Đức được thông qua Hệ thống kiểm toán Đức và đây cũng là cơ
sở được dùng để xác định tỷ lệ phí BHTG của hệ thống bảo toàn tiền gửi của
Hiệp hội ngân hàng Đức.
Hiện nay, có thể thấy Việt Nam thực sự chưa hội tụ đầy đủ cơ sở cho
việc triển khai tính phí BHTG không đồng hạng, nhưng công tác này là tất
yếu và Việt Nam cần nhanh chóng chuẩn bị những tiền đề ban đầu cho việc
triển khai cách tính phí này. Việc áp dụng hình thức thu phí BHTG có phân
biệt đối với các tổ chức tham gia BHTG đòi hỏi một thời gian nghiên cứu và
chuẩn bị lâu dài, ngay cả với Mỹ - nước có hệ thống ngân hàng hiện đại bậc
nhất thế giới cũng đã mất 59 năm mới có thể chuyển từ cơ chế áp dụng tỷ lệ
phí đồng hạng sang tỷ lệ phí không đồng hạng. Với lợi thế của nước đi sau,
rút kinh nghiệm từ các nước đi trước, Việt Nam có thể rút ngắn thời gian thực
hiện quá trình chuẩn bị cho triển khai thực hiện cơ chế tỷ lệ phí không đồng
hạng. Trước mắt, Việt Nam cần phải có thời gian và sự phát triển các lĩnh vực
liên quan bao gồm xây dựng tổ chức kiểm tra và đánh giá độc lập các đon vị
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, tăng cường sự phát triển của hệ
thống kiểm toán, đồng thời BHTG Việt Nam cần có kế hoạch phát triển công
77
tác giám sát khách hàng vì công tác giám sát khách hàng có hiệu quả sẽ đưa
ra những kết quả đánh giá chính xác, làm cơ sở cho việc xác định tỷ lệ phí
BHTG đối với khách hàng.
Để triển khai công tác tính phí BHTG theo rủi ro, BHTG Việt Nam cần
xây dựng các phương pháp phân biệt rủi ro phù hợp, đó có thể là: phương
pháp định lượng, phương pháp định tính, hoặc sử dụng kết họp cả hai phương
pháp đinh tính và định lượng. Hiện nay, phương pháp thường được các nước
sử dụng là phương pháp CAMELS, đây là phương pháp bao gồm cả các nhân
tố định tính và nhân tố định lượng, dùng để đánh giá hoạt động của các tổ
chức tham gia BHTG đựa trên 5 nhân tố, đó là các nhân tố về vốn (Capital),
chất lượng Tài sản có (Asset Quality), quản lý (Management), thu nhập
(Earning), khả năng thanh khoản (Liquidity), và mức độ nhạy cảm đối với rủi
ro thị trường (Sensitivity to market risk). Trong các nhân tố trên, nhân tố định
tính có ảnh hưởng sâu sắc như chất lượng công tác quản lý (Management)
thường được nhấn mạnh. Việt Nam cần nghiên cứu phương pháp này để có
thể áp dụng cho tình hình cụ thể của Việt Nam.
Trước mắt, BHTG Việt Nam có thể thực hiện thí điểm việc xếp loại các
tổ chức tham gia BHTG để tính phí dựa vào quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu được quy định tại mục II, Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày
19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành
“Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn của tổ chức tín dụng”.
BHTG Việt Nam cũng cần xây dựng biều phí đảm bảo sự phân biệt có
ý nghĩa giữa các loại phí nhằm giúp các ngân hàng cải thiện rủi ro của họ.
Tính minh bạch của việc công bố thông tin và tính bảo mật cũng là một yêu
cầu đối với BHTG Việt Nam. Mức độ của sự minh bạch, phạm vi của việc
công bố thông tin ra công chúng và giữ bảo mật việc xếp loại cần được thực
hiện khi phát triển hệ thống tính phí phân biệt.
2. Giải pháp vĩ mô
78
2.1. Cải tiến công tác kiểm tra, giám sát
Mặc dù công tác kiểm tra, giám sát rất được BHTG Việt Nam quan tâm
và chú trọng tiến hành thường xuyên, nhưng thời gian qua công tác này chưa
thực sự đạt hiệu quả cao, chưa tương xứng với vai trò của BHTG Việt Nam.
Để nâng cao công tác kiểm tra, giám sát, trước hết cần quy định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của BHTG Việt Nam trong hoạt động kiểm tra,
giám sát đối với các tổ chức tham gia BHTG Việt Nam, khẳng định hoạt động
kiểm tra, của BHTG Việt Nam là độc lập với công tác kiểm tra của các đơn vị
thưc hiện thanh tra của Ngân hàng Nhà nước. Công tác kiểm tra cũng cần
được quy định thực hiện thường xuyên, liên tục đối với tất cả các tổ chức
tham gia BHTG chứ không chỉ áp dụng với một số tổ chức như hiện nay. Đối
với công tác giám sát, cần nhanh chóng nghiên cứu xây dựng một cơ chế
giám sát mới phù hợp với các chuẩn mực quốc tế của Ủy ban Basel về giám
sát ngân hàng, tiến tới thực hiện giám sát theo chuẩn mực Basel I và Basel II.
Về nội dung của công tác kiểm tra, giám sát, trước hết, không nên chỉ
dừng lại ở việc kiểm tra, giám sát tính tuân thủ mà cần tiến tới triển khai kiểm
tra, giám sát mức độ rủi ro để có thể đưa ra những kiến nghị, cảnh báo đối với
tổ chức tham gia BHTG, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Trong đó,
BHTG Việt Nam cần tập trung vào việc kiểm tra khả năng quản lý rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh toán, cũng như rủi ro hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, cũng cần quy định các lĩnh vực cần sự chú ý đặc biệt và công
việc sẽ được thực hiện trước, các quy định này sẽ tạo nên cơ chế kiểm tra trật
tự và có hiệu quả. Công tác kiểm tra cũng không chỉ chủ yếu tập trung vào
kiểm tra việc chấp hành các quy định về BHTG mà cần kiểm tra các quy định
về an toàn đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG, và cần có sự điều chỉnh
kịp thời với quy mô và phạm vi hoạt động của các tổ chức này chứ không chỉ
phụ thuộc vào các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng do Hệ thống ngân
hàng xây dựng như hiện nay.
Trong hoạt động giám sát, tính kịp thời, đầy đủ của thông tin và kỹ
năng xử lý thông tin là những yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động
79
này. Vì vậy, cần ban hành cơ chế về công bố thông tin trực tiếp của các tổ chức
tham gia BHTG, khẩn trương xây dựng một mạng nội bộ trong toàn hệ thống
BHTG để lưu dữ, cập nhật thông tin về khách hàng tham gia BHTG Việt Nam
và các khách hàng gửi tiền tại các tổ chức đó. Ngoài ra, BHTG Việt Nam
cũng cần có cơ chế cụ thể cho phép có thể truy cập thông tin về tổ chức tham
gia BHTG từ các đơn vị thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động
ngân hàng như Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Bên
cạnh mạng nội bộ và mạng truy cập thông tin từ các đơn vị liên quan, một
ngân hàng lưu trữ thông tin dự phòng cũng cần được BHTG xem xét và có kế
hoạch xây dựng.
Cùng với việc xây dựng một cơ sở vật chất có chất lượng, tương xứng
với tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, BHTG Việt Nam cần đặc
biệt chú trọng công tác đào tạo một nguồn nhân lực giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ để thực hiện công tác này. Biện pháp tối ưu nhất là kết hợp giữa
đào tạo chính quy có tổ chức với hình thức tự đào tạo. Bên cạnh việc tổ chức
các lớp tập huấn nghiệp vụ, cử cán bộ tham dự các lớp đào tạo trong và ngoài
nước, BHTG Việt Nam cần có phương pháp khuyến khích, động viên cán bộ
có kế hoạch tự đào tạo mình và đồng nghiệp. Trong đó, cần đặc biệt lưu tâm
tới đào tạo cho cán bộ phương thức độc lập nghiên cứu, tiếp cận những vấn đề
mới, có như vậy công tác kiểm tra, giám sát mới có thể kiểm soát được các rủi
ro phát sinh từ hoạt động tài chính vốn rất đa dạng và phức tạp.
2.2. Cải tiến công tác chi trả bảo hiểm tiền gửi
Chi trả BHTG là hoạt động quan trọng, đóng vai trò quyết định trong
việc đảm bảo và duy trì uy tín của ngân hàng đối với cộng đồng. Để đạt được
điều đó, yêu cầu của công tác chi trả BHTG là phải được thực hiện nhanh
chóng, kịp thời, thuận lợi và chính xác. Hiện nay, BHTG Việt Nam thực hiện
chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp bằng tiền mặt. Hình thức này còn có nhiều hạn
chế, chưa đảm bảo đáp ứng đúng vai trò của công tác chi trả BHTG như: việc
80
chi trả tiền bảo hiểm diễn ra chậm chạp, không thuận lợi cho người gửi tiền
được nhận tiền bảo hiểm do việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt đối với từng
khách hàng làm mất thời gian của khách hàng và của cả đơn vị thực hiện chi
trả. Tính an toàn trong chi trả, đặc biệt đối với người nhận tiền bảo hiểm chưa
cao bởi việc nhận một lúc toàn bộ tiền bảo hiểm từ tổ chức BHTG gây khó
khăn cho ngừoi gửi tiền trong bảo quản, đặc biệt là trong điều kiện cuộc sống
ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Để khắc phục hạn chế trên của công tác chi trả BHTG, BHTG Việt
Nam cần cải tiến công tác này theo hướng kễt hợp giữa chi trả trực tiếp bằng
tiền mặt với một tổ chức tín dụng để tổ chức này huy động kịp thời tiền chi
trả. BHTG Việt Nam có thể thông qua một tổ chức huy động tiền gửi có uy
tín và hoạt động tốt phối kết hợp nhận lại số tiền của người gửi tiền tại thời
điểm chi trả tiền BHTG cho khách hàng. Làm như vậy sẽ có tác đụng củng cố
cấp bách niềm tin của công chúng đối với các ngân hàng khác đang hoạt
động, đồng thời đảm bảo an toàn cho tiền bảo hiểm của người gửi tiền và giúp
các ngân hàng có thể nhanh chóng tái huy động tiền gửi từ dân chúng.
2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ tài chính
Công tác hỗ trợ tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và
duy trì hoạt động ngân hàng an toàn và ổn định. Đặc biệt đối với các tổ chức
có quy mô hoạt động hạn chế khi khó khăn về thanh khoản, việc khắc phục là
rất khó khăn, nếu hỗ trợ tài chính kịp thời thì có thể giúp các tổ chức này
thoát khỏi nguy cơ phải đóng cửa. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các
ngân hàng Việt Nam có vốn tự có thấp, khả năng huy động vón còn hạn chế
thì công tác này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn. Nhưng cho đến nay,
công tác hỗ trợ tài chính mới chỉ được thực hiện ở giai đoạn thí điểm, chưa
được phổ biến rộng rãi. Do những ưu điểm mà công tác hỗ trợ mang lại,
BHTG Việt Nam cần chú trọng đặc biệt thúc đẩy hoạt động này trong chiến
lược phát triển của mình.
81
Để hoạt động hỗ trợ thực sự có hiệu quả, khi tiến hành hỗ trợ, BHTG
Việt Nam cần ưu tiên hỗ trợ các tổ chức có khó khăn nhưng có khả năng phát
triển hơn là các ngân hàng hoạt động yếu kém. Kèm theo những quyết định về
hỗ trợ tài chính, BHTG Việt Nam cũng cần đánh giá năng lực của Ban lãnh
đạo tổ chức tham gia BHTG, và có thể yêu cầu đổi mới hoặc thay đổi ban
lãnh đạo nếu thấy cần thiết để cải thiện tình hình kinh doanh của tổ chức được
cho vay. BHTG Việt Nam cũng nên mở rộng triển khai hỗ trợ tài chính đến
các tổ chức tín dụng tham gia BHTG được Ngân hàng Nhà nước xếp loại B
trở lên chứ không chỉ dừng lại ở xếp loại A như quy định hiện tại, và việc cho
vay phải có yêu cầu bắt buộc tổ chức được hỗ trợ tài chính có tài sản thế chấp
để đảm bảo thu hồi nợ sau này và tăng vốn hoạt động cho tổ chức. Vì đây là
khoản cho vay mang tính chất hỗ trợ nên yếu tố có tính chất hỗ trợ căn bản
nhất đối với các tổ chức là mức lãi suất thấp (chỉ nên bằng từ 10-50% lãi suất
tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước) và thời hạn cho vay dài. Điều đặc biệt
cần nhấn mạnh nữa là phải có các tiêu chí rõ ràng trong việc cấp hỗ trợ tài
chính như quy định rõ về quy trình, thủ tục và phạm vi trách nhiệm của từng
cấp cán bộ.
2.4. Phát triển nguồn nhân lực
Con người luôn là yếu tố then chốt đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển. Thực tế đã chứng minh sự yếu kém trong năng lực điều hành và
năng lực chuyên môn của các nhà quản trị cũng như của đội ngũ nhân viên là
nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động của tổ chức. Vì vậy, phát triển
nguồn nhân lực là chiến lược dài hạn của BHTG Việt Nam nhằm đáp ứng
nguồn lực cho sự phát triển hoạt động BHTG. Trong phát triển nguồn nhân
lực, BHTG Việt Nam cần quan tâm đến các khía cạnh tuyển dụng, đào tạo và
chế độ đãi ngộ.
Về chính sách tuyển dụng, cần xây dựng hệ thống chuẩn mực nhất
định, tránh tình trạng tùy tiện, dễ dãi dẫn đến việc tuyển dụng đội ngũ cán bộ
82
thiếu năng lực chuyên môn. Vì hoạt động BHTG Việt Nam là nhằm thức đẩy
sự phát triển của hoạt động ngân hàng nên chất lượng tuyển dụng cần tương
xứng với mặt bằng chất lượng của cán bộ, viên chức của các tổ chức tham gia
BHTG. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng cũng cần thực hiện dựa trên cơ sở nhu
cầu công việc. Ví dụ, tuyển dụng cán bộ ở cấp chi nhánh, triển khai nghiệp vụ
tác nghiệp cụ thể như kiểm tra, giám sát, nhận phí BHTG và chi trả tiền bảo
hiểm thì cần dựa trên cơ sở các tiêu chí đảm bảo đảm đương công tác nghiệp
vụ đó. Đối với cán bộ cấp Trung ương của Hội sở chính, việc tuyển dụng cán
bộ cần được quan tâm tới chức năng và nhiệm vụ của cấp trung ương của một
hệ thống là làm công tác hoạch định chính sách và kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện chính sách tại cấp chi nhánh.
Về chính sách đào tạo cán bộ, viên chức, BHTG Việt Nam cần có kế
hoạch đào tạo cán bộ viên chức thích hợp với sự phát triển không ngừng của
hoạt động ngân hàng quốc gia. Cán bộ của BHTG Việt Nam cần được trang
bị kiến thức vê kinh tế vi mô, vĩ mô, ngân hàng, khả năng đánh giá rủi ro để
thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, đặc biệt là hỗ trợ nâng cao
năng lực thể chế của tổ chức tham gia BHTG trong tương lai. Trong công tác
đào tạo cán bộ, cần đào tạo cho cán bộ có khả năng độc lập nghiên cứu và
tiếp cận các vấn đề mới, chú trọng đúng mức đến vấn đề nâng cao năng lực
quản trị điều hành bởi chỉ có đội ngũ có năng lực cao về trình độ quản lý, điều
hành hoạt động ngân hàng và hoạt động BHTG mới đảm bảo sự phát triển
bền vững của tổ chức BHTG Việt Nam. Trong công tác đào tạo, BHTG Việt
Nam cần tiến hành các việc làm cụ thể sau:
- Thường xuyên cử nhân viên đi đào tạo chuyên môn trong và ngoài
nước, tiến hành đưa các cán bộ có năng lực đi khảo sát thực tế ở các nước
phát triển hệ thống BHTG để học hỏi kinh nghiệm và các kỹ thuật chuyên
83
môn. Các nhà quản lý phải tham gia thường xuyên các cuộc hội thảo về
BHTG để trao đổi và học hỏi những kinh nghiệm.
- Tổ chức các khóa đào tạo tại chỗ nhằm trang bị kiến thức chuyên
môn và kiến thức pháp luật cho đội ngũ nhân viên dưới hình thức mời các
chuyên gia giàu kinh nghiệm giảng dạy.
- Tổ chức các lớp tập huấn nội bộ. BHTG Việt Nam nên định kỳ mở
các lớp đào tạo nghiệp vụ mới và công nghệ mới cán bộ của BHTG Việt Nam.
Bên cạnh đó, BHTG Việt Nam cần chú trọng tới việc xây dựng đội ngũ
cán bộ quản trị có tài và có tâm thực sự. Một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có năng
lực điều hành, giỏi về chuyên môn, trong sáng về đạo đức một mặt có khả
năng điều hành tốt mọi hoạt động của tổ chức, mặt khác có tác dụng khuyến
khích những cán bộ cấp đưới làm việc hiệu quả hơn, từ đó phát triển mọi hoạt
động của tổ chức.
Về chính sách động viên cán bộ, viên chức, cần có chính sách động
viên cán bộ, viên chức thi đua lao động sáng tạo, thường xuyên quan tâm
chăm lo cho đời sống gia đình của cán bộ, viên chức để họ yên tâm công tác,
phục vụ và cống hiến lâu dài cho sự nghiệp phát triển của BHTG Việt Nam.
III. Kiến nghị
1. Kiến nghị đối với Chính phủ
- Thứ nhất: Mở rộng phạm vi và đối tượng được bảo hiểm. Hiện nay,
đối tượng được bảo hiểm chỉ là tiền gửi được tính bằng Đồng Việt Nam. Để
phù hợp với thông lệ chung của quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa, Chính phủ
cần xem xét và cho phép BHTG Việt Nam được bảo hiểm mở rộng thêm các
loại tiền gửi bằng vàng và ngoại tệ của cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức
phi lợi nhuận gửi tại tổ chức tham gia BHTG. Phạm vi BHTG cũng không
nên chỉ dừng lại ở các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi vì sẽ không tạo sự bình
đẳng giữa các tổ chức cùng cung cấp một loại hình dịch vụ, phạm vi BHTG
84
cần mở rộng tới cả các ngân hàng chính sách, tổ chức bảo hiểm nhân thọ, quỹ
tiết kiệm bưu điện, các tổ chức tài chính quy mô nhỏ.
- Thứ hai: Tăng vốn điều lệ cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phù hợp
với thông lệ quốc tế. Vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng hiện nay của BHTG Việt
Nam, là con số hạn chế, do đó gây khó khăn cho BHTG Việt Nam trong việc
hỗ trợ các tổ chức tham gia khi gặp khó khăn. Để nâng cao vai trò và tăng
cường hoạt động cho BHTG Việt Nam, Chính phủ nên xem xét và phê duyệt
cho BHTG Việt Nam được tăng vốn điều lệ theo như Chiến lược phát triển
BHTG giai đoạn 2006-2015 (5000 tỷ đồng năm 2006, 10 000 tỷ đồng năm
2010 và 30 000 tỷ đồng năm 2015).
- Thứ ba: Phê duyệt Chiến lược phát triển bảo hiểm tiền gửi giai đoạn
2006-2015. Để BHTG Việt Nam có thể hoạt động theo một chiến lược dài
hạn, có định hướng, nâng cao hoạt động tương xứng với chức năng, nhiệm vụ
của BHTG Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển đất nước, Chính phủ nên
nhanh chóng xem xét và phê duyệt Chiến lược phát triển BHTG giai đoạn
2006-2015 của BHTG Việt Nam.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
- Thứ nhất:. Ban hành cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin giữa bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam với Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay, phần lớn các tổ chức
tham gia BHTG Việt Nam không chấp hành ngiêm chỉnh các quy định về lập
và gửi báo cáo về BHTG Việt Nam. Kết quả giám sát chỉ thấy hàng quý chỉ
có khoảng 67% số tổ chức tín dụng gửi bảng tính toán phí bảo hiểm và
khoảng 7% số tổ chức tín dụng gửi bảng cân đối tài khoản cho BHTG Việt
Nam. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ BHTG Việt Nam bằng
cách xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giữa Ngân hàng Nhà nước và BHTG
Việt Nam.
- Thứ hai: Phối hợp với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, ban hành văn bản
hướng dẫn việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi cho các khoản tiền gửi bằng vàng,
85
ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với BHTG Việt Nam
trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn việc tính và nộp phí BHTG một
cách cụ thể, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế tại Việt Nam và phải
nhằm mục tiêu bảo vệ tốt nhất cho người gửi tiền.
Đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, để tránh tình trạng rủi ro về tỷ
giá cho BHTG Việt Nam, nên quy định tổ chức tham gia BHTG phải đóng
phí bằng ngoại tệ. Biện pháp BHTG bằng ngoại tệ thích hợp trong giai đoạn
hiện nay, do nhu cầu huy động vốn trong và ngoài nước để tạo đà cho phát
triển kinh tế, hơn nữa, ngoại tệ vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số dư
tiền gửi của các tổ chức huy động tiền gửi. Việc chi trả bảo hiểm cũng cần
được quy định rõ được thực hiện bằng nội tệ hay ngoại tệ trong trường hợp
ngân hàng phá sản và ngày được chọn để quy đổi tỷ giá nếu chi trả tiền bảo
hiểm bằng nội tệ. Đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm bằng vàng, để
tiện cho công tác tính phí và chi trả tiền bảo hiểm, BHTG Việt Nam nên quy
định việc thu phí và chi trả có thể được thực hiện bằng Đồng Việt Nam và có
quy định rõ ràng về cách xác định gía vàng khi nộp phí BHTG và khi chi trả
tiền bảo hiểm.
- Thứ ba: Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại ngày càng được hoạt động theo cơ chế thị trường, tăng cường tính
độc lập tự chủ trơng kinh doanh kết hợp xây dựng hoàn thiện chỉ tiêu đánh giá
mức độ an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Có như vậy mới giảm gánh nặng cho tổ chức
hoạt động BHTG Việt Nam trong việc củng cố phát triển vững mạnh hoạt
động ngân hàng.
3. Kiến nghị đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
- Thứ nhất: Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của BHTG Việt
Nam, tương lai BHTG Việt Nam có thể mở rộng dịch vụ tới các lĩnh vực như
tư vấn về nghiệp vụ ngân hàng để nâng cao tính an toàn cho tổ chức huy động
tiền gửi, tham gia vào các chương trình nghiên cứu phát triển hoạt động ngân
86
hàng và BHTG của tổ chức tài chính và bảo hiểm quốc tế. BHTG Việt Nam
cũng cần nhanh chóng cung cấp các thông tin về xếp loại và đánh giá tổ chức
huy động tiền gửi.
- Thứ hai: Mở rộng các chi nhánh BHTG Việt Nam tại các tỉnh thành
trong cả nước nhằm có thể cung cấp được dịch vụ BHTG tới toàn thể dân chúng.
- Thư ba: Tận dụng sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
và các tổ chức liên quan để cải tiến trình độ khoa học công nghệ, nâng trình
độ công nghệ lên ngang tầm với mặt bằng công nghệ chung của thế giới, đáp
ứng nhu cầu hội nhập.
- Thứ tư: Nhanh chóng xác lập và triển khai chiến lược đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có khả năng ứng dụng công
nghệ tiên tiến trong lĩnh vực BHTG.
- Thứ năm: nâng cao công tác tuyên truyền về BHTG vì hiện nay còn
không ít người chưa biết đến hoạt động BHTG. BHTG Việt Nam cần đưa trên
thông tin đại chúng các kiến thức cơ bản về hoạt động BHTG, về vai trò, tác
dụng của hoạt động này và xây dựng đường dây nóng tư vấn nhằm giải đáp
thắc mắc của tổ chức thành viên cũng như công chúng.
4. Kiến nghị đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam
Một hệ thống BHTG không thể hoạt động có hiệu quả nếu không được
sự ủng hộ của các tổ chức tham gia BHTG. Trong thời gian qua, BHTG Việt
Nam đã gặp không ít khó khăn do các tổ chức tham gia BHTG không tuân thủ
các quy định về thông tin, báo cáo cho BHTG Việt Nam. Do vậy, để nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam, xin kiến nghị các tổ chức
tham gia BHTG cần tự giác tuân thủ các quy định sau về BHTG như:
- Nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của BHTG.
- Thực hiện đúng các quy định về lập và nộp báo cáo cho tổ chức
BHTG Việt Nam.
87
- Nộp phí BHTG đầy đủ và đúng hạn.
- Tạo điều kiện cho các nhân viên của tổ chức BHTG Việt Nam tiến
hành kiểm tra và giám sát chất lượng hoạt động của tổ chức huy động tiền
gửi.
- Phối hợp với tổ chức BHTG Việt Nam tuyên truyền, thông tin cơ chế
BHTG Việt Nam cho những người gửi tiền tại tổ chức huy động tiền gửi.
- Cung cấp cho tổ chức BHTG Việt Nam những ý kiến phản hồi từ phía
những người gửi tiền về cơ chế BHTG hiện hành.
88
KẾT LUẬN
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi đang ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng và
xu hưóng phát triển mạnh mẽ mang tính chất toàn cầu trong thời gian tới. Với
mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về hoạt động này, bài
khóa luận đã nghiên cứu và phân tích rõ những nội dung cơ bản nhất về bảo
hiểm tiền gửi như khái niệm bảo hiểm tiền gửi, bản chất bảo hiểm tiền gửi là
loại hàng hóa công không loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối và vai trò của
bảo hiểm tiền gửi đối với nền kinh tế quốc dân. Đồng thời bài khóa luận đưa ra
ba mô hình hệ thống bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên thế giới, phân tích những
yếu tố tạo nên sự thành công của ba hệ thống này để rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng hiệu quả hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
Khóa luận cũng đã phân tích sự cần thiết xây dựng hệ thống bảo hiểm
tiền gửi tại Việt Nam và đi phân tích thực trạng hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam thời gian qua, từ đó đánh giá hoạt động của tổ chức
này dựa trên cơ sở tham chiếu mục tiêu, chức năng, định hướng với thực tiễn
hoạt động của tổ chức. Thành tựu của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được đánh
giá trên hai mặt: bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và duy trì củng cố sự ổn định
hoạt động ngân hàng Việt Nam, khẳng định vai trò quan trọng của bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam trong hệ thống tài chính quốc gia. Khóa luận cũng tổng kết
những hạn chế trong hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, chủ
yếu là hạn chế về cơ sở pháp lý, cơ sở vật chất và hiệu quả của hoạt động
nghiệp vụ.
Từ việc đánh giá những thành tựu đạt được cần phát huy, những tồn tại
cần khắc phục và nội dung Chiến lược phát bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giai
đoạn 2006-2015, bài khóa luận đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị về lộ
trình thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam tương xứng với vị thế của tổ chức trong hệ thống ổn định tài chính quốc
gia, phù hợp với chiến lược phát triển và đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
Để hoạt động bảo hiểm tiền gửi thực sự đạt hiệu quả cao không chỉ cần sự nỗ
lực của cán bộ nhân viên của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam mà còn cần
89
sự thông cảm, chia sẻ và đồng tình ủng hộ của các cấp ngành và công chúng
toàn xã hội.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2005), Chiến lược phát triển Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam giai đoạn 2006-2015.
2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2006), Báo cáo kết quả hoạt động 2005-
Phương hướng nhiệm vụ năm 2006.
3. Thanh Bích (2006), Từng bước khẳng định vai trò và vị thế Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam, tr.2-3 - tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 1+2.
4. Thanh Bích (2006), Tiếp tục triển khai nghiệp vụ hỗ trợ tài chính, tr.15-
34 - tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 7.
5. GS - TS. Hoàng Văn Châu (2002), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh
doanh, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật – 2002.
6. Ths. Nguyễn Thị Hiền Chi (2002), Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tại một
số nước có nền kinh tế thị trường và bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam, Luận án thạc sĩ kinh tế - 2002.
7. Nguyễn Mạnh Dũng (2006), Kinh nghiệm hỗ trợ tài chính của Bảo
hiểm tiền gửi Ba Lan đối với các Ngân hàng có vấn đề, tr.35-37 - tạp
chí Thị trường tài chính tiền tệ số 11.
8. Lê Thị Khánh Hoà (2006), Một số giải pháp nâng cao nghiệp vụ giám
sát tại các tổ chức tham gia BHTG, tr.47-48 - tạp chí Thị trường tài
chính tiền tệ số 1+2.
9. Đặng Thị Hoài (2006), Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi đối với hoạt động
của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, tr.14 - tạp chí Thị trường tài chính
tiền tệ số 7.
10. Ths. Phạm Thị Lan (2006), Một vài suy nghĩ về chính sách hỗ trợ tài
chính đối với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi hiện nay, tr.39-41 -
tạp chí Ngân hàng số 14 tháng 7/2006.
91
11. Ts. Nguyễn Như Minh (2006), Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
đối với nền kinh tế, tr.95-98 - tạp chí Ngân hàng số 1+2
12. PGS-TS. Lê Hoàng Nga (2006), Bancassurance-hoạt động tất yếu của
ngân hàng và bảo hiểm ở Việt Nam, tr.43-46 - tạp chi Ngân hàng số 13
13. Ths. Lê Việt Nga (2006), Động lực mới, thúc đẩy triển khai chính sách
Bảo hiểm tiền gửi, tr.25-26 - tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 12
14. Ts. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Các giải pháp phát triển Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế.
15. Ts. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Bảo hiểm tiền gửi nguyên lý, thực
tiễn và định hướng, Nhà xuật bản lao dộng – xã hội 2004.
16. Ts. Nguyễn Thị Thị Kim Oanh (2006), Kinh nghiệm hoạt động Bảo
hiểm tiền gửi ở Đài Loan, tr.53-58 - tạp chí Ngân hàng số 13.
17. Đoàn Ngọc Phúc (2006), Những hạn chế và thách thức của hệ thống
Ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tê, tr.9-15-
báo Nghiên cứu kinh tế số 337 tháng 6/2006.
18. Ths. Nguyễn Thị Kim Thanh (2006), Chính sách tiền tệ 2006-Mục tiêu
và giải pháp , tr.29,59. tạp chí Thị trường tài chính và tiền tệ số 1+2.
19. Đỗ Quốc Tình (2006), Cần sớm tiến tới thu phí Bảo hiểm tiền gửi theo
mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng, tr.50,64. tạp chí Ngân háng số 13
20. Ray.Labrosse(2004), Báo cáo thường niên lần thứ hai của Hiệp hội
Bảo hiểm tiền gửi quốc tế.
Văn bản pháp luật
21. Luật phá sản doanh nghiệp 01/07/1994.
22. Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số
20/2004/QH11 ngày 15/6/2004.
23. Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Thủ tướng chính
phủ về Bảo hiểm tiền gửi.
92
24. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 14/8/2005 về sửa đổi bổ sung
một số điều Nghị định số 89/1999/NĐ-CP.
25. Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 về thành lập Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam.
26. Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/06/2000 của Thủ tướng chính
phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam.
27. Thông tư số 03/2006/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà Nước hướng dẫn
thi hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-
CP.
Tài liệu tiếng Anh:
28. Clifford F.Thies and Daniel A.Gerlowski(1989), Deposit Insurance:
A history of failure.
29. Kunt A.D and Kane E.J (2001), Deposit insurance around the globle:
whete dose it work – World Bank and Boston college.
Website:
30. Website của Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: www.div.gov.vn
32. Website của Công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ: www.fdic.gov
33. Website Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế: www.iadi.org
34. Website Tổng công ty bảo hiểm Trung ương Đài Loan: www.cdic.gov
35. Webdite Quỹ tiền tệ thế giới - IMF: www.imf.org
36. Website Ngân hàng thế giới World Bank: www.worldbank.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3438_7414.pdf