LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối Đổi mới của Đảng tại Đại hội IV (12- 1986) đã mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam - Thời kỳ hội nhập và phát triển. Sau 20 năm Đổi mới, hoà mình vào dòng chảy hội nhập, Việt Nam đã và đang dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của 63 tổ chức quốc tế (ASEM- 03/1996; APEC-11/1998; WTO- 01/2007 .) và có mối quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Những kết quả đáng khích lệ này đã củng cố hơn nữa hệ thống chính trị, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, đồng thời tạo thế và lực trong hoạt động thương mại Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu.
Với nguồn tài nguyên phong phú “rừng vàng biển bạc” và điều kiện tự nhiên thuận lợi , Việt Nam mang trong mình lợi thế về các mặt hàng nông sản (gạo, chè, cà phê .). Việc tận dụng lợi thế này để tiến hành hoạt động xuất khẩu đã mang lại một nguồn thu lớn cho kinh tế cả nước, trong đó cà phê là một trong số các nguồn hàng xuất khẩu chủ lực.Vậy tác động của nó đến nền kinh tế như thế nào? Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê (sau Brazil) và đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta, song, giá cà phê vẫn cao, tiêu chuẩn chất lượng cà phê vẫn thấp hơn so với tiêu chuẩn trên thế giới . Điều đó đòi hỏi chúng ta cần tìm ra những biện pháp để mở ra hướng đi mới cho hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Từ những ý tưởng trên , dựa trên nguồn kiến thức đã tích luỹ, học hỏi và đặc biệt là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp tôi hoàn thành đề án với tiêu đề:
“Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam”
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
Chương I : Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng hoá 2
I- Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá 2
1, Khái quát chung về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam. 2
2-Vai trò của xuất khẩu. 5
3- Nhiệm vụ - phương hướng phát triển xuất khẩu. 6
II- Một số lý thuyết bàn về lợi ích của ngoại thương đối với phát triển kinh tế 8
2- Lý thuyết “ Lợi thế so sánh” của David Ricacdo 9
3- Lý thuyết “ Tỷ lệ các yếu tố” của Hecksher - Ohlin 10
III- Chiến lược xuất khẩu hàng hóa 11
1- Tác động tích cực của chiến lược đối với phát triển kinh tế 11
2- Những hạn chế của nền kinh tế khi áp dụng chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 12
IV-Bài học kinh nghiệm đối với xuất khẩu cà phê Việt Nam 13
Chương II: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam 14
I- Thực trạng sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê 14
1, Thực trạng sản xuất cà phê 14
2- Thực trạng chế biến cà phê. 17
3- Thực trạng xuất khẩu cà phê 18
II- Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam 24
Chương III: Tác động của hoạt động xuất khẩu cà phê tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 28
I- Tác động kinh tế của hoạt động xuất khẩu cà phê 28
II- Tác động chính trị - xã hội của hoạt động xuất khẩu cà phê 31
Chương IV: Dự báo - định hướng - giải pháp thúc đẩy thị trường xuất 33
I- Dự báo về thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam 33
II- Định hướng nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu 33
III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam 35
1, Giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước, đầu tư, tài chính, tín dụng 35
2, Giải pháp về đất trồng 36
3, Giải pháp về thị trường 36
4, Giải pháp về nguồn nhân lực 37
5, Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh cà phê xuất khẩu 37
6, Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ 37
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ 39
I- Kết luận 39
II- Kiến nghị 39
Tài liệu tham khảo 41
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Bảng 1: Xuất khẩu và GDP giai đoạn 1986-2005 2
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo phân ngành kinh tế 4
Bảng 4: Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010 7
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta 15
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006 18
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam 19
Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005 20
Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001 21
Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam 22
Bảng 11: Xuất khẩu cà phê với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP 29
Bảng 12: Tỷ trọng thu nhập từ cà phê trong tổng thu nhập của các huyện ở Đăk Lăk theo loại hộ năm 2001 30
Hình 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 3
Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 19
Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002 25
Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002 26
Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002 26
Hình 6: Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu 28
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng suất không ngừng tăng.
+ Cây cà phê được phá triển ở 6 vùng (trừ Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) và trên 28 tỉnh trong cả nước trong đó các vùng cà phê chính: Tây Nguyên chiếm 86,31%, Đông Nam Bộ (10,28%)...
+ Vùng sản xuất cà phê vối tập trung có điều kiện sinh thái phù hợp cho năng suất cao. Năm 2003, với diện tích trồng cà phê lớn, Tây Nguyên có sản lượng cà phê chiếm tới 45,43% về diện tích và 53,62% sản lượng cà phê cả nước.
- Về năng suất: Đây là thời kỳ có năng suất cao nhất đạt từ 15 đến 20 tạ/ha, cao nhất là năm 1999, đạt 22,8 tạ/ha. So với các nước có ngành cà phê phát triển mạnh như Brazil, Colombia, Indonesia ... Những thành tựu trên có được là do:
+ Việc lựa chọn phát triển giống cà phê vối ở các vùng phía Nam là hoàn toàn đúng đắn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp, diện tích đất chưa sử dụng còn lớn.
+ Việc chọn và tạo giống cà phê tốt cho sản xuất đại trà như các dòng cà phê vối chọn lọc: 4/55; 1/20; 13/8 ... cho năng suất cao, cỡ hạt to. Ngoài ra chúng ta cũng chọn lọc ra được giống cà phê chè có năng suất cao và chống được bệnh gỉ sét như: cà phê Catimor, TN1, TN2...
+ Áp dụng phương pháp đốn tạo hình đơn thân trên cà phê vối, hãm ngọn nhiều lần, duy trì chiều cao vừa phải, sử dụng lượng phân bón thích hợp. Kết hợp dự trữ nước cho mùa khô, giảm lượng cây tán rộng nhằm tăng hấp thụ ánh sáng cho cây, góp phần nâng cao năng suất cà phê.
+ Áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phòng trừ sâu bệnh cho cây, thâm canh, xen canh...
- Về sản lượng: Sản lượng cà phê không ngừng tăng cao trong những năm 2000, 2001 (sản lượng năm 2001 gấp 4,76 lần so với năm 1994) chủ yếu do diện tích trồng cà phê tăng lên trong giai đoạn này. Phần lớn cà phê Việt Nam được sử dụng vào mục đích xuất khẩu.
Như vậy, cây cà phê trở thành cây công nghiệp dài ngày chủ lực có giá trị kinh tế cao. Nó đã khẳng định được chỗ đứng và lợi thế so sánh so với các loại cây trồng khác. Sở dĩ vậy là do ngành đã thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát triển cây cà phê : từ Chính phủ, từ vốn đầu tư hợp tác của 5 nước XHCN cũ, từ địa phương, từ dân...
2- Thực trạng chế biến cà phê.
Do cà phê là được thu hoạch ở dạng quả tươi, nên sau khi thu hoạch cần tiến hành quy trình chế biến tạo ra cà phê nhân khô là sản phẩm chủ lực trong giao dịch.
* Tổ chức chế biến
Hiện nay, nước ta vẫn sử dụng hai phương pháp chế biến cà phê là chế biến ướt và chế biến khô. Chế biến nước là phương pháp chế biến dùng đến nước qua 3 cấp: Cấp quy mô hộ gia đình, cấp quy mô xã, cấp xưởng chế biến tập trung công suất lớn do các công ty nhà nước quản lý. Chế biến khô là phương pháp đơn giản hơn, cà phê đem phơi khô sau đó, xát vỏ và đánh bóng.
Trên thực tế, do tích lũy vốn trong dân đặc biệt là nông dân rất thấp nên ít hộ có đủ điều kiện để đầu tư tự chế biến. Theo khảo sát tháng 6/2003 ở Đắc Lắc, khoảng 26,7% hộ trung bình và 35,3% hộ giàu tự chế biến, hầu hết đều đi thuê. Ở những vùng cà phê phát triển nhất thì 74,1% hộ trung bình và 84% hộ giàu tự chế biến.
* Trang thiết bị chế biến
Sau năm 1975, trang thiết bị chế biến cà phê còn cũ kĩ, lạc hậu, chắp vá. Ở miền Bắc chỉ có một số xưởng chế biến của nông trường Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị được lắp đặt từ những năm 1960-1962 của Đức. Ở miền Nam cũng có một số đồn điền cà phê cũ với công suất nhỏ. Khi quy mô sản xuất cà phê được mở rộng, sản lượng tăng lên thúc đẩy quá trình đổi mới quy trình chế biến. Ta tiến hành đầu tư vào cơ sở , trang thiết bị, máy móc, dây chuyến phục vụ cho hoạt động chế biến sông vẫn mang tính sao chép.
Trong những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã tiến hành xây dựng các cơ sở chế biến tiên tiến với công nghệ kỹ thuật hiện đại nhập từ bên ngoài (Đức , Brazil..). Tuy giá thành của chúng đắt nhưng lại mang lại hiệu quả sản xuất cao, nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam. Bên cạnh đó, việc xây dựng các cơ sở tái chế được quan tâm, chú ý bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực, cho năng suất cao, chất lượng cao hơn. Vấn đề chú trọng vào vấn đề giảm số lượng nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, đặc biệt trong điều kiện cung vượt quá cầu. Do vậy cần hết sức chú trọng vào khâu chế biến, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng của cà phê và loại bỏ cà phê có chất lượng thấp.
3- Thực trạng xuất khẩu cà phê
Cà phê là mặt hàng có giá trị giao dịch quốc tế lớn thứ hai sau dầu mỏ. Ở nước ta, cà phê là loại nông sản xuất khẩu có giá trị lớn thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm khoảng gần 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Niên vụ 2005-2006, cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 10 nước đứng đầu cụ thể theo bảng sau:
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006
STT
Nước nhập khẩu
Khối lượng
Trị giá
Giá bình quân
Thị phần
(kg)
(USD)
(USD/kg)
(%)
1
Đức
114,382,986
123,556,217.57
1.08
14.57
2
TBN
88,526,631
95,978,804.50
1.08
11.28
3
Hoa Kỳ
87,931,685
86,829,730.95
0.99
11.2
4
Italia
56,123,382
62,641,146.08
1.12
7.15
5
Ba lan
40,495,644
45,027,200.04
1.11
5.16
6
Hàn Quốc
38,491,394
41,282,412.76
1.07
4.9
7
Nhật
31,133,034
36,638,648.12
1.18
3.97
8
Anh
25,865,756
26,627,078.49
1.03
3.29
9
Bỉ
21,667,934
24,141,153.20
1.11
2.76
10
Pháp
18,720,491
20,249,119.82
1.08
2.38
Nguồn: Báo cáo “ Ngành cà phê Việt Nam- hiện trạng& triển vọng” (
Tình hình xuất khẩu cà phê nước ta trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Năm
Khối lượng xuất khẩu (tấn)
Kim ngạch xuất khẩu (1000 USD)
Giá xuất khẩu TB (USD/tấn)
1994
165,000
227,000
1376
1995
212,000
560,000
2642
1996
233,000
423,000
1815
1997
346,000
414,000
1197
1998
385,000
602,000
1564
1999
404,000
555,000
1374
2000
654,000
538,000
823
2001
875,000
382,000
437
2002
714,000
263,000
368
2003
691,000
428,000
619
2004
974,500
641,000
632
Nguồn: VIFACO, Bộ Công Thương
Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004
Nguồn:VIFACO, Bộ Công Thương
Xuất khẩu cà phê nước ta tăng nhanh từ 165.000 tấn năm 1994 đến 875.000 tấn năm 2001 và sau đó giảm xuống đến năm 2003 chỉ còn 691.000 tấn; đến năm 2004 lại tăng lên đến 974.500 tấn.Như vậy, khối lượng cà phê xuất khẩu so với năm 1994, gấp 5,3 lần, năm 2004 so với năm 1994 gấp 5,91 lần. Tốc độ tăng sản lượng cà phê xuất khẩu bình quân giai đoạn 1994 -2004 là 19,43%/năm. Cho đến năm 2006, khối lượng cà phê xuất khẩu là 981.000 tấn, tăng 9,9% về lượng và trị giá là 1,22 tỷ USD, tăng 65% so với cùng kỳ năm 2005, tăng 0,7% so với năm 2004.
Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005
1986-1990
1991-1995
1996-2000
2001-2005
Sản lượng(nghìn tấn)
230
757
2273
4270
Giá trị (triệu USD)
343
1207
2598
2594
Nguồn:Tổng cục thống kê
Qua số liệu cho thấy sản lượng cà phê xuất khẩu ngày một tăng lên qua các giai đoạn .Sản lượng giai đoạn 2001-2005 gấp 18,57 lần sản lựong giai đoạn 1986-2000. Về giá trị xuất khẩu, giá trị này không ngừng tăng lên qua các thời kỳ và có xu hướng ổn định ở hai thời kỳ cuối.Như vậy, trong tương lai, xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng lên do được đầu tư nhiều hơn vào quy trình sản xuất - chế biến cà phê
Kim ngạch xuất khẩu cà phê cũng tăng mạnh, nhưng không theo tốc độ tăng của sản lượng vì sự biến động của giá xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu cao nhất là 602 triệu USD năm 2004, gấp 2,65 lần năm 1994. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 là 10,94%/năm. Đến năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,1 tỷ USD, gấp 1,7 lần so với năm 2004. Điều đó cho thấy giá trị cà phê xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng mạnh, đồng thời, giá cà phê cũng nhích lên chút ít so với năm trước. Chính do sự biến động giảm mạnh giá xuất khẩu trong giai đoạn 1994-2004 là nguyên nhân khiến cho tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng của lượng cà phê xuất khẩu, bằng 56% tốc độ tăng sản lượng xuất khẩu. Cụ thể, giá cà phê giảm mạnh từ 1377 USD/tấn năm 1994 xuống còn 619 USD/tấn năm 2003 và 623 USD/tấn năm 2004; tức là tốc độ giảm giá bình quân giai đoạn 1994-2004 là 7,49%/năm. Đến năm 2006, giá cà phê xuất khẩu là 1183,7 USD/tấn, gấp 1,9 lần năm 2004. Điều đó cho phép chúng ta kỳ vọng vào giá cà phê của Việt Nam trong tương lai đặc biệt là trong điều kiên hội nhập kinh tế Việt Nam - thế giới hiện nay. Song, thực tế giá xuất khẩu cà phê Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của giá cà phê thế giới theo xu hướng ngày càng thu hẹp khoảng cách với giá thế giới. Đến niên vụ 2006/2007 bắt đầu từ tháng 10/2006 đến tháng 9/2007, sản lượng cà phê xuất khẩu đã tăng vượt bậc với 1,28 triệu tấn với trị giá xuất khẩu gần 1,9 tỷ USD đã đưa cà phê là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, sự tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu không phải do chất lượng cà phê xuất khẩu tăng lên mà chủ yếu là do sự tăng lên của giá cà phê thế giới.
Bên cạnh đó, giá cà phê xuất khẩu còn chịu tác động bởi:
+ Cơ cấu sản phẩm cà phê xuất khẩu của ta chủ yếu là cà phê Robusta. Đây là loại cà phê có giá trị thấp hơn cà phê Abirica rất nhiều nên làm cho giá thành xuất khẩu giảm
+ Chất lượng cà phê nhân của nước ta chưa đồng đều , không cao do khâu chăm sóc chưa thực sự hiệu quả. Nhiều người dân trồng cà phê không đủ vốn đầu tư chăm sóc, nên chất lượng quả không cao, khi thu hoạch lại hái lẫn nhiều quả xanh, sau khi thu hoạch, chủ yếu chế biến theo phương thức thủ công nên độ khô của cà phê chưa được đồng đều và chưa đạt tiêu chuẩn. Và cũng do hạn chế về trình độ và vốn nên vấn đề bảo quản, đóng gói, vận chuyển còn chưa được chú trọng nhiều dẫn đến chất lượng cà phê Việt Nam khi đến thị trường nhập khẩu sẽ giảm rất nhiều về chất lượng, do đó giá thành bị giảm nhiều.
+ Công tác xúc tiến thương mại , quảng bá thương hiệu, khai thác bạn hàng ... còn hạn chế. Tuy hai năm gần đây, chúng ta đã có những chuyển biến trong giao dịch thương mại nhất là thương mại điện tử theo các hợp đồng kỳ hạn. Nhờ vậy, cà phê Việt Nam càng có nhiều cơ hội vươn xa hơn nữa .
Theo các nhà phân tích, giá xuất khẩu cà phê ở Việt Nam luôn thấp hơn giá thế giới và bám sát với biến động giá thế giới .Điều đó cho thấy rằng ngành cà phê Việt Nam luôn gắn chặt với thương mại cà phê quốc tế .
Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001
Quốc gia
Cent/lb
Loại cà phê
Hệ số giá so với VN
Inđonêxia
41,94
Vối
1,01
Việt Nam
41,39
Vối
1,00
Ấn Độ
53,01
Vối
1,28
Thái Lan
38,2
Vối
0,92
Uganda
60,38
Vối
1,46
Braxin
96,71
Chè
2,34
Mêxico
91,97
Chè
2,22
Ethiôpia
83,62
Chè
2,02
Columbia
96,73
Chè
2,34
Nguồn: Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO)
Quy trình chọn giống- trồng trọt - chăm sóc - thu hoạch - chế biến - xuất khẩu là một quy trình dài đòi hỏi tính hiệu quả, nhất quán với nhau. Song thực tế Việt Nam, quy trình này còn rất nhiều bất cập nên giá cà phê xuất khẩu thường thấp và chất lượng cà phê xuất khẩu cũng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Một nguyên nhân nữa làm cho chất lượng cà phê Việt Nam thấp hơn thế giới là do tiêu chuẩn cà phê Việt Nam còn thấp hơn tiêu chuẩn của thế giới
Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
STT
Tiêu chuẩn
Nội dung
1-
TCVN 6929:2001
(ISO 9116-1992)
Cà phê nhân - Hướng dẫn phương pháp mô tả các
quy định
2-
TCVN 6928:2001
(ISO 6673-1983)
Cà phê nhân - Xác định sự hao hụt khối lượng ở
105oC
3-
TCVN 4807:2001
(ISO 4150-1991)
Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng
sàng tay (Soát xét lần 2- Thay thế TCVN 4807-89)
4-
TCVN 4334-2001
(ISO 3509-1989)
Cà phê & các sản phẩm của cà phê - Thuật ngữ và
định nghĩa (Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86)
5-
TCVN 4193:2001
Cà phê nhân - Yêu cầu kỹ thuật
(Soát xét lần 3 - Thay thế TCVN 4193:1993)
Nguồn: VIFACO
Người dân trồng cà phê thường có thói quen thu hái tổng hợp hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và cất giữ thủ công khiến chất lượng giảm. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng tiêu chuẩn cho cà phê xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Là thành viên của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) gồm 25 nước, chiếm 73,1% lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu phải tuân thủ những tiêu chuẩn về cà phê XK, nhưng Việt Nam hiện lại nằm trong số 26,9% lượng cà phê không tuân thủ tiêu chuẩn nào của Tổ chức Cà phê thế giới. Điều này khiến cho “Việt Nam trở thành nước chuyên xuất khẩu “xô” cà phê” ( Theo Bộ Tài Chính). Bởi hàng xấu, hàng tốt trộn lẫn rồi bán với giá thấp. Do vậy, cà phê Việt Nam bị thải loại ở các cảng châu Âu là trên 1 triệu bao, chiếm 73,32% lượng cà phê bị thải loại của thế giới. Niên vụ 2006/2007 vừa qua tuy kim ngạch đạt tới con số kỷ lục 1,9 tỷ USD, song, chúng ta không thể không nhắc đến hàng trăm triệu USD mất đi do hàng kém chất lượng. Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam phân tích, nguyên nhân chủ yếu là cũng do việc thu hoạch cà phê không đúng tiêu chuẩn. Do chúng ta thu hoạch theo kiểu hái sạch , hái hết quả trên cây, nên rất nhiều quả cà phê xanh chưa đủ độ chín đã được thu hoạch, làm giảm chất lượng chung của cà phê. Khi cà phê được giá, các nơi trồng cà phê vội vàng bán tống, bán tháo mà không cần quan tâm đến chất lượng hàng bán ra. Không chỉ hạn chế chất lượng do thu hoạch không chọn lọc, việc chế biến cà phê cũng gặp rất nhiều khó khăn. Do diện tích phơi không đủ nên cà phê sau khi thu hoạch thường chất đống, mặt khác cà phê được phơi tiếp xúc với mặt đất nên độ khô của hạt cà phê không đều. Với cà phê thu hoạch sớm, sau khi phơi khô sẽ bị teo nhỏ, nhăn nheo. Hơn nữa, cà phê Việt Nam thường chế biến theo phương pháp gia công nên màu sắc hạt cà phê không bóng, không đều , dễ bị vỡ vụn. Chính vì vậy, chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam rất thấp , mỗi năm việc thu hoạch cà phê non đã làm giảm tới gần 30% sản lượng cà phê xuất khẩu, tức đã giảm mất hàng trăm triệu USD từ giá trị cà phê xuất khẩu thu về.
Tuy nhiên, cà phê Việt Nam vẫn giữ vững được mức sản lượng xuất khẩu cao thứ hai trên thê giới. Điều đó cho thấy tiềm năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với các nước khác trên thế giới là cao. Những thuận lợi tạo nên khả năng cạnh tranh cho hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam là:
+ Với nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là người lao động ở nông thôn, nên giá lao động của Việt Nam rẻ hơn nhiều so với các nước khác trên thế giới. Điều này đã góp phần làm giảm chi phí sản xuất cà phê, giảm giá thành sản phẩm đồng thời đem lại năng suất lao động cao.
+ Năng suất cà phê cao nhờ được thiên nhiên ban tặng một vùng đất đai rộng lớn, khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây cà phê phát triển. Kết hợp với việc sử dụng nhiều phân bón và nước tưới đã càng thúc đẩy năng suất sản lượng tăng lên với năng suất bình quân là 1,3 tấn/ha, thậm chí, nhiều hộ còn đạt 4-5 tấn/ha. Trong khi ở một số nước ở Châu Phi và Indonesia chỉ đạt 0,3- 0,35 tấn/ha; Brazil và Ấn Độ đạt 0,8 tấn/ha.
+ Chi phí vận chuyển cà phê tới các cảng xuất khẩu ở nước ta là thấp. Do lợi thế về địa lý, chiều rộng hẹp, lại tiếp giáp với biển Đông nên khoảng cách vận chuyển từ nơi sản xuất cà phê tới các cảng đều ngắn, giảm thiểu chi phí đầu vào sản phẩm, giảm bớt được những rủi ro về chất lượng trong quá trình vận chuyển.
+ Hệ thống chính sách của Chính Phủ Việt Nam đối với ngành cà phê thông thoáng tạo môi trường bình đẳng cho các đơn vị tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê. Theo một số nghiên cứu khác, so với các nước trồng cà phê khác, nông dân trồng cà phê ở Việt Nam là những người được nhận tỷ lệ mức giá cao nhất so với mức giá xuất khẩu. Mức giá bán cà phê tại hộ năm 2002 bằng 94% so với mức giá xuất khẩu ở Việt Nam
Về chủng loại cà phê xuất khẩu; chủ yếu chúng ta vẫn xuất khẩu cà phê nhân khô, cà phê nguyên liệu. Những loại cà phê đã qua chế biến như cà phê rang xay, cà phê hòa tan chưa được chú trọng tới trong hoạt động xuất khẩu. Do vậy, cà phê Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng vẫn chưa được ưa chuộng. Năm 2003, xuất khẩu cà phê rang xay và cà phê hòa tan của nước ta chỉ chiếm 0,43% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam sản xuất chủ yếu để xuất khẩu. Trên thị trường cà phê nước ta có rất nhiều loại cà phê: cà phê vỏ tươi, cà phê khô, cà phê nhân xô, cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay, cà phê hòa tan. Vậy nên, hầu hết chúng ta chỉ tập trung vào sản xuất những loại cà phê có giá trị xuất khẩu cao, vì thế, thị trường cà phê trong nước chưa được chú trọng đến nhiều, còn rất nhỏ lẻ. Do đó, sự phát triển của ngành cà phê phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu cà phê có thuận lợi hay không.
II- Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, phần lớn cà phê của Việt Nam được sản xuất với mục đích xuất khẩu nên thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam phần lớn là ở bên ngoài. Do quá chú trọng vào việc xuất khẩu cà phê nên cầu của ngành hàng này dường như chỉ dựa vào thị trường tiêu thụ nước ngoài mà quên đi mất tầm quan trọng của thị trường tiêu thụ trong nước. Bình quân năm 2002, mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 1,25kg cà phê; giá trị tiêu thụ cà phê trung bình là 9130 đ/người/năm.Theo Vicofa, lượng cà phê tiêu thụ nội địa năm 2003 chiếm khoảng 4,4% tổng sản lượng. Theo điều tra của WB lại cho biết, tiêu thụ cà phê trong nước chiếm khoảng 10% tổng sản lượng. Còn theo VLSS 2004, lượng tiêu thụ trong gia đình các loại cà phê đã chế biến chiếm khoảng 2% tổng sản lượng xuất khẩu. Sở dĩ, có các kết quả nghiên cứu khác biệt như vậy là do chưa có nguồn số liệu thống kê thống nhất về sản lượng cà phê tiêu thụ trong nước. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đễn những khó khăn trong phân tích thị trường tiêu thụ ngành hàng này.Cho đến năm 2006, nước ta đã xuất khẩu gần 900.000 tấn cà phê nhân, đạt kim ngạch xuất khẩu là 1,5 tỷ USD, song thị trường tiêu thụ cà phê trong nước vẫn chưa có chút tiến triển đáng kể nào thể hiện rõ được tầm quan trọng của thị trường này, chỉ chiếm 5% tổng sản lượng. Dù không thống nhất về số liệu thống kê song chúng ta vẫn có thể khẳng định thị trường tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với thế giới. Bình quân mỗi năm, các nước thuộc tổ chức cà phê thê giới (ICO) tiêu thụ nội địa được khoảng 25,16% sản lượng. Vậy nguyên nhân mất cân bằng giữa các thị trường tiêu thụ là do đâu? Thiết nghĩ, đó là do chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mực, chưa có sự đấu tư thích đáng vào thị trường trong nước để mở rộng quy mô tiêu thụ cà phê. Thứ hai, đó là do tâm lý người dân Việt Nam , chủ yếu là ở nông thôn, ít có cơ hội để tiếp cận sự phổ biến của cà phê trong văn hóa Phương Đông, họ chưa quen với việc coi uống cà phê là một thức uống hàng ngày. Mặt khác, nhiều người không đủ điều kiện để thưởng thức cà phê hàng ngày, và thậm chí nhiều người không dùng cà phê vì họ thấy uống cà phê không tốt cho sức khỏe... Thứ ba là do chúng ta chưa có một chiến lược maketing sản phẩm đến người tiêu dùng trong nước một cách đồng bộ, hiệu quả, đầy đủ. Do vậy, ngoài vấn đề tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê, chúng ta cần chú trọng nhiều hơn nữa tới việc tăng cầu tiêu thụ cà phê trong nước. Đó mới là nguồn tiêu thụ bền vững của mỗi quốc gia, nhất là thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam luôn có “nhạy cảm” với các cuộc khủng hoảng.
Như đã phân tích, tiêu thụ cà phê trong nước giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn. Lượng tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị năm 2002 là 2,4kg cao gấp 2,72 lần tiêu thụ của nông thôn là 0,89 kg. Trong khi đó, giá trị tiêu thụ bình quân đầu người của thành thị đạt 20.280 đồng, cao gấp 3,5 lần mức của nông thôn
Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mưc sống dân cư năm 2002
Sở dĩ, có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn là do giá cà phê ở thành thị cao hơn ở nông thôn không chỉ do mức sống thành thị cao hơn mà còn do chất lượng cà phê thành thị tốt hơn. Hơn nữa, thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn nên tiêu dùng cũng cao hơn.
Không chỉ có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn trong tiêu dùng cà phê mà giữa các nhóm người có thu nhập khác nhau thì tiêu dùng cà phê cũng khác nhau.Tiêu thụ cà phê bình quân đầu người tăng dần từ nhóm có thu nhập thấp nhất đến nhóm có thu nhập cao nhất. Trong đó, lượng tiêu thụ cà phê của nhóm 5 cao hơn nhóm 1 đến gần 18 lần, tuy nhiên, giá trị tiêu thụ chỉ chênh lệch khoảng gần 9 lần. Như vậy, tiêu thụ cà phê có xu hướng thay đổi theo thu nhập thể hiện ở hình dưới đây:
Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002
Tiêu thụ cà phê trong nước còn không đồng đều giữa các vũng lãnh thổ. Cụ thể:
Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002
Nguồn: Theo Điều tra mức sống dân cư 2002
Theo biểu đồ cho thấy, hầu hết các vùng trong cả nước đều tiêu thụ cà phê nhưng sản lượng và giá trị tiêu thụ rất khác biệt. Duyên hải Nam Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là 3 vùng có lượng tiêu thụ lớn nhất cả nước. Vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng Bằng sông Hồng tiêu thụ rất ít cà phê, thậm chí khu vực Tây Bắc hầu như không tiêu thụ với mức tiêu thụ bình quân đầu người chỉ có 0,03 kg/năm. Lượng tiêu thụ cà phê ở khu vực Tây Nguyên nhiều thứ 4 trên cả nước nhưng vẫn ở mức thấp so với 3 khu vực đứng đầu.
Giá trị tiêu thụ của các khu vực diễn biến không hoàn toàn giống như lượng tiêu thụ. Đặc biệt là ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, mặc dù lượng tiêu thụ đầu người rất cao (1,5kg/người/năm) nhưng giá trị tiêu thụ chỉ đạt 6.230 đ/người/năm. Trong khi ở Tây Nguyên, các con số này lần lượt là 0,28 kg và 4.150đ. Một trong những nguyên nhân giải thích hiện tượng này là ở Tây Nguyên chủ yếu tiêu thụ các loại cà phê bột, có chất lượng cao, với lượng cà phê bột tiêu thụ ở khu vực này cao thứ 3 cả nước (0,12 kg/người/năm) so với mức 0,08kg của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.
Như vậy, cho thấy sản lượng và giá trị tiêu thụ cà phê trong nước còn quá ít và không đồng đều, trong khi theo WB phân tích với thực trạng sản xuất cà phê của Việt Nam với sản lượng khoảng từ 700 - 800 nghìn tấn thì lượng cà phê tiêu thụ trong nước có thể chiếm 10% tổng sản lượng. Vậy mà cho đến nay, khi trong khi sản lượng cà phê sản xuất ra đã trên 1 tỷ tấn nhưng tỷ trọng tiêu thụ nội địa mới chỉ đạt tới khoảng 5% tổng sản lượng. Điều đó đặt ra cho chúng ta vấn đề làm thế nào để đẩy mạnh tiêu thụ cà phê trong thị trường nội địa...
Chương III: Tác động của hoạt động xuất khẩu cà phê tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
I- Tác động kinh tế của hoạt động xuất khẩu cà phê
Như đã phân tích, cây cà phê là một giống cây phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam, cho năng suất cao và có giá trị kinh tế lớn. Nó đem lại nguồn thu lớn cho quốc gia từ hoạt động xuất khẩu. Hầu hết sản lượng cà phê thu hoạch đều được sử dụng vào mục đích xuất khẩu (chiếm khoảng 95% tổng sản lượng). Chính vì thế, cà phê Việt Nam đứng thứ hai thế giới về sản lượng xuất khẩu cũng là mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước sau gạo.
Hình 6: Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu
Nguồn: Tổng cục thống kê
Với lượng xuất khẩu lớn như vậy, cà phê đã đem lại một nguồn thu lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Lượng cà phê xuất khẩu càng nhiều thì nguồn thu từ xuất khẩu càng lớn, xuất khẩu tăng đẩy cán cân thương mại lên làm tăng tổng thu nhập quốc dân và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động đó được thể hiện rõ bảng sau:
Bảng 11: Xuất khẩu cà phê với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP
Các giai đoạn
Giá trị XKCPBQ
( triệu USD)
Tỷ trọng trong tổng
kim ngạch XK (%)
Tỷ trọng trong GDP
(%)
1986-1990
343
24.4
5.0
1991-1995
1,207
35.2
8.9
1996-2000
2,598
25.1
9.4
2001-2005
2,594
11.7
6.3
Nguồn: XNK hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới- Tổng cục thống kê
Ta thấy rằng trong tổng số khoảng 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cà phê chiếm tỷ trọng tương đối cao, trung bình chiếm 24,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tức là gần ¼ giá trị xuất khẩu của cả nước và trung bình chiếm 7,4% trong GDP. Điều đó phản ánh phần nào tác động của xuất khẩu cà phê với tăng trưởng kinh tế.
Tác động của xuất khẩu cà phê đối với kinh tế cả nước được xem xét dưới nhiều góc độ sau:
- Dưới góc độ thương mại quốc tế, xuất khẩu cà phê tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế, làm tăng cường nguồn vốn phục vụ nhu cẩu nhập khẩu những hàng hóa cần thiết: công nghệ máy móc, linh kiện điện tử..; giảm bớt gánh nặng cho các khoản vay nợ của quốc gia. Đồng thời với lợi thế đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê, thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê vối, hoạt động xuất khẩu cà phê tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ, tăng cường mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, nước ta đã xuất khẩu hàng hóa tới hơn 160 quốc gia trên thế giới (trong đó 71 quốc gia nhập khẩu cà phê Việt Nam) cho thấy triển vọng lớn về ngoại thương Việt Nam.
- Dưới góc độ ngành kinh tế, xuất khẩu cà phê đã hỗ trợ rất lớn trong vấn đề phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH- HĐH. Nó làm không chỉ làm tăng sản lượng nông nghiệp của cả nước mà còn giúp cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp được nâng cấp, hiện đại hóa công cụ kỹ thuật, phương pháp sản xuất được cải tiến rất nhiều do phải đáp ứng nhu cầu về sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu của các đối tác. Không những thế, đẩy mạnh xuất khẩu cà phê còn thúc đẩy các ngành khác phát triển theo như: công nghiệp hóa chất, công nghiệp cơ khí, dịch vụ đóng gói, công nghiệp chế biến... Điều này hỗ trợ rất nhiều cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đất nước theo đúng xu hướng chung của thế giới : Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp. Theo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010, trong giai đoạn 2001-2005, cơ cấu ngành kinh tế được phân bổ theo tỷ trọng các ngành như sau: ngành nông-lâm-thủy sản chiếm 20,89%; ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 40,04%; ngành dịch vụ chiếm 38,07%.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với sự nghiệp phát triển. Là cơ hội vì cầu sản phẩm cao, họ có dịp để quảng bá sản phẩm ra thị trường bên ngoài, tạo thương hiệu mạnh trên thị trường cà phê và đem về nguồn lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp. Là thách thức vì để sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư kĩ thuât cho tất cả các công đoạn sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm cà phê giữa các doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi có rất nhiều các doanh nghiệp tham gia kinh doanh mặt hàng cà phê này.
- Dưới góc độ người nông dân, thúc đẩy xuất khẩu cà phê có tác động làm tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện đời sống sinh hoạt cho họ, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng tỷ lệ hộ khá và giàu.
Bảng 12: Tỷ trọng thu nhập từ cà phê trong tổng thu nhập của các huyện ở Đăk Lăk theo loại hộ năm 2001
Loại hộ
Cư Mgar
Buôn Đôn
Lăk
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
D.thu
(tr.đ)
Tỷ trọng (%)
Khá
19,456
83,1
15,663
40,5
1,434
9,2
Trung bình
11,7
64,5
7,223
35,9
1,634
31,2
Nghèo
7,764
45,2
4,314
28,9
0,694
18,1
Đói
2,324
71,4
2,677
29,0
0,534
13,4
Nguồn:Điều tra định lượng diện hẹp ở Đăk Lăk -2002
Số liệu thống kê cho thấy nguồn thu từ cà phê chiếm tỷ trọng lớn đối với các hộ trồng cà phê, đặc biệt các hộ ở huyện Cư Mgar - Đăk Lăk. Ở huyện Cư Mgar, doanh thu bình quân mỗi hộ là 10,311 triệu đồng/năm, chiếm 66% tổng thu nhập. Ở huyện Buôn Đôn, doanh thu bình quân là 7,47triệu đồng/năm/hộ, chiếm 33,6% tổng thu nhập; còn ở huyện Lăk, doanh thu bình quân là 1,074 triệu đồng/năm/hộ, chiếm 18% tổng thu nhập. Điều đó cho thấy doanh thu của các hộ ở huyện Cư Mgar phụ thuộc nhiều nhất vào hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê; doanh thu từ cà phê của mỗi hộ ở huyện này gấp 1,38 lần ở huyện Buôn Đôn, gấp 9,6 lần ở huyện Lăk.
Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu cà phê có ý nghĩa rất lớn tới mọi mặt của nền kinh tế. Nó tạo ra một tác động tổng hợp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định, bền vững và tạo ra tiền đề vững chắc cho Việt Nam chủ động tham gia vào hội nhập quốc tế.
II- Tác động chính trị - xã hội của hoạt động xuất khẩu cà phê
* Tác động đến thể chế chính trị
Xuất khẩu cà phê không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, nó còn có tác động rất lớn tới các lĩnh vực chính trị xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa - dịch vụ nói chung cũng như xuất khẩu cà phê nói riêng đều có tác động tăng cường mối giao hảo - hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị hợp tác quốc tế nhằm thực hiện cam kết “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”. Hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam được coi là một thế mạnh của nước ta trên trường quốc tế. Điều đó không chỉ mang lại nguồn thu lớn về mặt kinh tế mà còn có tác động lớn về mặt chính trị. Nó như một minh chứng cho tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, vững vàng của Việt Nam trước bạn bè thế giới; chính sự vững mạnh về kinh tế là cơ sở cho sự ổn định về chính trị. Chúng ta càng khẳng định rõ hơn với thế giới rằng Việt Nam nhỏ bé nhưng không “nhỏ bé” chút nào. Bằng chứng là đến nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của 63 tổ chức quốc tế và hơn 650 tổ chức phi chính phủ; gần đây nhất; vào tháng 1/2007,Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng đối với sự nghiệp kinh tế - chính trị của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực ngoại thương Việt Nam. Và với xuất khẩu cà phê, sự kiện này đã tác động mãnh mẽ. Cụ thể, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cà phê đã vượt lên con số kỷ lục từ trước đến nay với trị giá trên 1,5 tỷ USD vượt kim ngạch xuất khẩu gạo vươn lên dẫn đầu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy, không chỉ hoạt động xuất khẩu phát triển làm cho vị thế chính trị của Việt Nam được củng cố và nâng cao, mà khi vị thế chính trị vững chắc sẽ tạo đà thúc đẩy kinh tế nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu cà phê nói riêng phát triển mạnh hơn nữa. Điều đó khẳng định rằng, kinh tế - chính trị là hai lĩnh vực song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau tạo nên một Việt Nam vững về chính trị, mạnh về kinh tế.
* Tác động đến điều kiện xã hội
Bên cạnh lợi ích đem lại cho lĩnh vực chính trị, xuất khẩu cà phê còn là một hoạt động mang đầy tính xã hội. Tác động quan trọng nhất, to lớn nhất về mặt xã hội từ hoạt động chính là vấn đề giảm nghèo . Do mặt hàng xuất khẩu là nông sản nên nó có lợi thế rất lớn vì có thể thu hút được nhiều lao động tham gia ở nhiều trình độ khác nhau do tính phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm sản xuất vốn có của người lao động đặc biệt là lao động nông thôn, lao động miền núi. Tăng cường xuất khẩu làm cho thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt, nhiều hộ dân đã thoát khỏi ngưỡng nghèo . Khi thu nhập ổn định thì đời sống sinh hoạt của người dân cũng ổn định, điều này tác động làm giảm hiện tượng du canh du cư, di dân.
Ngoài ra, xuất khẩu cà phê tăng lên thúc đẩy tăng sản lượng. Cho đến nay, tăng sản lượng không chưa đủ mà còn phải tăng chất lượng cà phê, chú trọng nhiều hơn nữa vào công đoạn chế biến và bảo quản, nhằm tăng tỷ trọng xuất khẩu cà phê đã chế biến, nghiên cứu tăng diện tích trồng giống cà phê chè nhăm tăng trị giá xuất khấu. Để làm được điều này đòi hỏi người nông dân phải có nhiều kinh nghiệm và có trình độ am hiểu về cà phê cao. Muốn vậy, trước hết họ phải chuyên tâm với nghề và có niềm tin vào sự phát triển của mặt hàng này. Từ đó , họ sẽ ý thức hơn nữa trong việc trồng và chăm sóc cây cà phê, giảm thiểu việc chặt phá cây trồng bừa bãi , chuyển đổi giống cây trồng không hiệu quả và tốn kém đồng thời tăng độ phủ xanh đồi trọc , giúp bảo vệ môi trường.
Chính từ sự kỳ vọng của người nông dân vào hoạt động xuất khẩu cà phê và được hưởng một mức thu nhập không thấp, họ sẽ yêu nghề hơn, chuyên tâm với nghề hơn. Hiện tượng chuyển đổi nghề nghiệp giảm bớt làm giảm bớt lượng lao động thất nghiệp tạm thời. Đồng thời, xuất khẩu tăng, thị trường tiêu thụ cà phê mở rộng đòi hỏi vốn nhân lực cho hoạt động tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, những người có khả năng lao động sẽ được tham gia vào sản xuất, giảm bớt số người ăn theo và các tệ nạn trong xã hội cũng giảm thiểu đáng kể. Đây là điều kiện thuận lợi đưa xã hội Việt Nam tiến đến một xã hội giàu mạnh hơn, văn minh hơn, trong sạch hơn.
Chương IV: Dự báo - định hướng - giải pháp thúc đẩy thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
I- Dự báo về thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam
Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VIFACO), trong niên vụ 2006/2007 lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam là 1,28 triệu tấn; thu được 1,899 tỷ USD. Nhưng sang niên vụ 2007/2008 bắt đầu từ tháng 10/2007, theo dự báo sản lượng xuất khẩu sẽ giảm từ 10-15% , thời gian thu hoạch sẽ chậm hơn nửa tháng do tác động của yếu tố thời tiết. Trong tháng đầu tiên của niên vụ mới, cả nước đã xuất khẩu được 972.165 tấn cà phê thu kim ngạch 1,467 tỷ USD. Đăk Lăk là nơi cho sản lượng xuất khẩu nhiều nhất với 14.000 tấn đóng góp thêm vào kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh 510 triệu USD; dự kiến cả niên vụ có 400.000 tấn đạt tiêu chuẩn chất lượng mới.
Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, trong niên vụ sắp tới, Việt Nam - nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu sẽ sản xuất được khoảng 17,4 triệu bao cà phê loại 60 kg, dao động từ 15,5 triệu bao đến 18,5 triệu bao. Tính đến đầu tháng 11/2007, sản lượng cà phê xuất khẩu đã ở ngưỡng 1 triệu tấn với kim ngạch xuất khẩu là 1,55 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2006, sản lượng đã tăng 43%; kim ngạch xuất khẩu tăng 84%. Giá cà phê xuất khẩu đã có nhích lên từ đầu năm đến nay do giá cà phê thế giới tăng, song vẫn thấp so với các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50 - 70 USD/tấn. Sở dĩ , giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam thấp là do chất lượng cà phê Việt Nam chưa cao, chưa đạt được tiêu chuẩn thế giới. Thị trường nhập khẩu cà phê Việt Nam nhìn chung vẫn ổn định , thị trường tiêu thụ lớn nhất vẫn là Đức. Trước tình hình như vậy, theo các nhà dự báo, kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2007 là 1,8 tỷ USD.
II- Định hướng nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu
Từ những dự báo về tình hình sản xuất- xuất khẩu cà phê Việt Nam, để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê, chúng ta cần phải xây dựng các chính sách, giải pháp hướng vào các vấn đề như sau:
* Hướng vào việc xây dựng chiến lược phát triển cà phê bền vững.
Để xây dựng phát triển một ngành cà phê bền vững, trước hết chúng ta cần xem xét từ vấn đề giống và diện tích gieo trồng một cách hợp lý. Theo VIFACO, ngành Cà phê Việt Nam chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hai hướng: Thứ nhất, giảm diện tích đất trồng cà phê Robusta, phá bỏ những nơi cho năng suất thấp, đầu tư cải tạo đất để trồng những mặt hàng nông sản khác là những cây lâu năm, có giá trị kinh tế cao như: cao su, điều, hồ tiêu...Thứ hai, mở rộng diện tích trồng cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp do cà phê Arabica là chủng loại cà phê chè có thể trồng và phát triển ở Việt Nam và nó có giá trị xuất khẩu cao hơn cà phê Robusta. Cụ thể, ổn định diện tích trồng cà phê ở mức từ 450.000 ha đến 500.000 ha.Trong đó: Diện tích trồng cà phê Robusta chỉ còn 350.000 ha đến 400.000 ha, tức đã giảm đi từ 100.000 - 150.000 ha. Diện tích cà phê Arabica là 100.000 ha ,tăng 60.000 ha. Bên cạnh đó, chúng ta cần đẩy mạnh thâm canh cà phê trên những diện tích có hiệu quả trong quy hoạch, hướng tới sản xuất cà phê sạch, cà phê hữu cơ. Đồng thời, chúng ta cần tiến hành chọn lọc, cải tiến giống cây trồng, hướng dẫn cho người nông dân cách chăm sóc cây, thay thế phân hóa học bằng phân hữu cơ, giảm thiểu đâu tư nhằm giảm giá thành sản phẩm mà vẫn cho năng suất cao, lợi nhuận lớn.
Ngoài ra chúng ta cần chú trọng tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê cũng như đẩy mạnh việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa. Hiện nay, sản lượng và giá trị tiêu dùng cà phê ở thị trường trong nước đang có xu hướng tăng lên do đời sống người dân được cải thiện đáng kể.
* Hướng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê xuất khẩu, tăng tỷ trọng xuất các mặt hàng cà phê có giá trị kinh tế cao.
Cà phê có chất lượng cao, cà phê đã qua chế biến thường có giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều so với cà phê nhân xô, nhưng sản lượng cà phê đã chế biến đem xuất khẩu ở nước ta vẫn còn hạn chế. Năm 2002, chúng ta chỉ xuất khẩu được 235 tấn, năm 2003 ( 594 tấn ). Vì vậy, chúng ta một mặt cần phải thức hiện việc thu hoạch cà phê theo đúng tiêu chuẩn về độ chín , độ bóng... của quả,tránh thu hoạch quá nhiều trong khi quả thu hoạch không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Mặt khác, chúng ta cần áp dụng những công nghệ tiên tiến sau thu hoạch, đổi mới thiết bị, máy móc, hướng dẫn cụ thể cho từng người nông dân cách chế biến, bảo quản đúng tiêu chuẩn. Cải tiến phương pháp chế biến, không theo phương pháp thủ công mà chế biến theo một dây chuyển công nghệ đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Song, do nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, trình độ kỹ thuật của người sản xuất còn hạn chế, nên việc sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn mới là hết sức khó khăn, mà sản xuất theo tiêu chuẩn cũ thì quá thấp so với tiêu chuẩn thế giới hiện nay. Chính vì thế, cà phê Việt Nam chủ yếu sản xuất cà phê nhân hữu cơ, cà phê sạch , có chất lượng cao.
*Hướng vào việc thúc đẩy xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm... để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê
Để nâng cao giá trị xuất khẩu của cà phê, chúng ta cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại trên phương diện từng doanh nghiệp cũng như Nhà nước. Mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê bằng cách đổi mới, nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp thị, tìm kiếm thị trường, từng bước tiến tới bán cà phê trực tiếp cho các nhà rang xay quốc tế, không qua trung gian, rút ngắn được thời gian chi phí vận chuyển, giao dịch , chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên, giá thành giảm xuống, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, xây dựng mạng lưới chợ và sàn giao dịch cà phê, tạo điều kiện cho người mua nắm bắt được những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác về thị trường cà phê Việt Nam.
III- Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam
1, Giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước, đầu tư, tài chính, tín dụng
- Do điều kiện tự nhiên, địa lý, khí hậu của nước ta cho phép trồng được cả hai loại cà phê chè và cà phê vối trên các vùng riêng biệt: trồng cà phê vối ở vùng khí hậu nóng ẩm phía Nam và trồng cà phê chè ở vùng khí hậu ôn hòa ở miền núi phía Bắc, rải rác ở một số vùng có độ cao từ 800 - 900m so với mặt nước biển. Vì vậy, cần tập trung xây dựng và củng cố vùng cà phê vối ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đồng thời, hỗ trợ và phát triển vùng cà phê chè ở Sơn La, Điện Biên, Lâm Đồng , Gia Lai, Đăk Nông, Trị Thiên, Nghệ An...
- Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong quản lý ngành cà phê. Hoàn thiện chiến lược phát triển ngành, quy hoạch ngành trong thời kỳ chiến lược, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Từ đó đề ra các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn đối với ngành cà phê.
- Chính phủ, các Bộ, ban , ngành phải chỉ đạo chặt chẽ, hỗ trợ, tăng cường công tác quản lý, giám sát kiểm tra chất lượng thực hiện các chiến lược, quy hoạch.
- Có chính sách, giải pháp gắn kết sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến cà phê, hỗ trợ quy hoạch lại hệ thống các cơ sở chế biến cà phê xuất khẩu, nhằm kiểm soát được sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu
- Tạo ra cơ chế chính sách thông thoáng để thu hút vốn đầu tư cho ngành cà phê.
2, Giải pháp về đất trồng
Quán triệt phương châm “quy hoạch mềm” trên diện tích đất trồng cà phê, tức là bố trí giống cây cà phê vào từng loại đất thích hợp, có thể điều chính theo biến động cà phê hoặc do chất lượng đất thay đổi.
Hoàn thiện, đổi mới chính sách đất đai; bổ sung quy định về điều kiện chuyển đổi với đất trồng cà phê nói riêng và đất nông nghiệp nói chung. Điều này, giúp người dân yên tâm hơn trong việc đầu tư sản xuất cà phê trong dài hạn.
3, Giải pháp về thị trường
* Về thị trường trong nước
- Xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức thị trường cà phê trong nước. Tạo lập các mối liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại , các nhà sản xuất và người tiêu dùng
- Xây dựng khung pháp lý và cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu cà phê.
- Xây dựng hệ thống thông tin thị trường cà phê ổn định, đồng bộ, có tính liên kết cao. Thiết lập và kết nối các kênh thông tin về thị trường cà phê quốc tế với thị trường cà phê nội địa.
- Triển khai mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa. Tăng cường hoạt động tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về sản phẩm cà phê. Đồng thời, tiến hành quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, thiết lập mạng lưới phân phối và tiêu thụ.
- Thực hiện các chính sách về giá cà phê một cách linh hoạt dựa trên nguyên tắc thị trường, thống nhất đảm bảo tính cạnh tranh ngành và cạnh tranh của quốc gia .
- Thực hiện chính sách kích cầu đối với việc tiêu dùng cà phê nội địa nhằm đẩy mạnh cầu thị trường nội địa.
* Về thị trường ngoài nước
- Cần có những chính sách đẩy mạnh xúc tiến thương mại với mặt hàng cà phê kể cả trực tiếp (biện pháp kích thích vào nhu cầu) hoặc gián tiếp ( biện pháp nhấn mạnh đến việc cung cấp sản phẩm)
- Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp
- Xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng , đăng ký thương hiệu cà phê.
4, Giải pháp về nguồn nhân lực
- Khuyến khích tập trung nguồn nhân lực có trình độ thích hợp để xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh cà phê, các vùng sản xuất cà phê tập trung quy mô lớn.
- Khuyến khích các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực, tay nghề, tri thức, kinh nghiệm sản xuất, chế biến quản lý mặt hàng cà phê.
- Cần có cơ chế nâng cao năng lực tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới cho người lao động
- Tạo cơ chế thông thoáng thu hút những cán bộ, người lao động có trình độ, tay nghề cao tham gia quá trình sản xuất cà phê xuất khẩu nhằm tăng năng suất, cải tiến chất lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao.
5, Giải pháp về phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh cà phê xuất khẩu
- Đổi mới hoạt động, nâng cao vai trò, chức năng của Hiệp hội cà phê Việt Nam
- Hoàn thiện và bổ sung các chính sách đối với kinh tế trang trại:
+ Hướng dẫn cụ thể các chế độ khuyến khích phát triển sản xuất cà phê
+ Cụ thể hóa chính sách ưu đãi vốn đầu tư cho kinh tế trang trại
+ Khuyến khích các trang trại cà phê đăng ký theo Luật Doanh nghiệp
6, Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ
*Về giống:
- Cần chọn lọc và phát triển những giống cà phê mới có chất lượng cao. Đối với cà phê vối, chọn bộ giống do Viện KHKT nông lâm nghiệp Tây Nguyên cấp phép với 5 tinh dòng: 13/8; 14/8; 2/3; 17/12; 11/3A4. Mới đây, bổ sung thêm 6 dòng vô tính nữa là V4/55; NG13/8; NG14/8; N17/12; A1/20; TH 2/3. Đối với cà phê chè, bên cạnh việc sử dụng giống Catimor thuần chủng còn sử dụng thêm các giống mới như TN1; TN2; TN3; TN4; TN5; TN6. Những giống này cho năng suất cao , kích thước hạt lớn, khắc phục được bệnh gỉ sắt, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
* Về canh tác
Tăng cường đầu tư vào kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê nhất là công tác thâm canh, nâng cao năng suất. Đồng thời tăng cường khuyến cáo và có các giải pháp kinh tế hợp lý để hạn chế tình trạng thu hái cà phê không đúng quý trình kỹ thuật. Đẩy mạnh sản xuẩt cà phê xuất khẩu có chất lượng cao theo hướng sản xuất cà phê hữu cơ. Ngoài ra, đẩy mạnh thâm canh cà phê trên những diện tích có hiệu quả . Chúng ta cũng cần trồng xen cây cà phê với các loại cây trồng khác như cây ăn quả, những cây tán rộng để giảm độ bay hơi nước của cây cà phê.
Khái quát lại, phát triển cây cà phê theo công thức “ Ba giảm, ba tăng,một chống” :
- Giảm: Phân hóa học, thuốc trừ sâu và nước tưới
- Tăng: Cây che mát. phân hữu cơ, tỉa cành tạo hình
- Chống : hái quả xanh, hoặc để nẫu, khô rụng
* Về chế biến
- Cần ứng dụng những công nghệ tiên tiến , thiết bị hiện đại, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng làm tăng uy tín của cà phê Việt Nam trên thị trường xuất khẩu; phấn đấu cà phê loại I đạt 35%; loại II đạt 45%
- Tập trung hỗ trợ công nghệ chế biến ướt kết hợp đầu tư xây dựng sân phơi xi măng, máy sấy cà phê
- Đa dạng hóa các sản phẩm chế biến như cà phê rang xay, cà phê hòa tan, cà phê dạng lỏng , cà phê khử cafein, cà phê hữu cơ... Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ cà phê chế biến sâu đạt 10-15%.
Tóm lại, sản lượng, chất lượng và giá thành sản phẩm cà phê xuất khẩu phụ thuộc vào việc thực hiện các giải pháp có đồng bộ và hiệu quả hay không? Song, tương lai, cà phê xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn tiến xa hơn nữa trên thị trường cà phê thê giới.
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
I- Kết luận
Từ những nghiên cứu và phân tích trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đối với hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam:
- Hoạt động xuất khẩu cà phê là một hoạt động thương mại đưa nông sản Việt Nam ra tiêu thụ ở thị trường thế giới nhằm thu được nguồn lợi nhuận cao hơn so với việc tiêu thụ mặt hàng này ở thị trường nội địa.
- Hoạt động xuất khẩu cà phê của có hiệu quả - đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê và đứng đầu về xuất khẩu cà phê Robusta thể hiện tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam là lớn. Thành tựu kinh tế này làm tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới, từ đó mở ra các mối quan hệ hợp tác lâu dài về chính trị - xã hội, nâng tầm Việt Nam lên cao hơn, tạo cơ sở cho Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu
- Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang ở “ thời kỳ hoàng kim” nhưng đằng sau nó còn rất nhiều bất cập bởi lẽ thị trường cà phê Việt Nam chịu tác động mạnh của giá cà phê thế giới. Tuy sản lượng có tăng nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu vẫn còn thấp do quá trinh thu hoạch- chế biến còn chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật
- Song, trong điều kiện chính trị - kinh tế Việt Nam hiện nay cho phép chúng ta lạc quan và tin vào sự tăng lên mạnh mẽ của hoạt động thương mại Việt Nam trong đó có xuất khẩu cà phê, tạo thặng dư lớn cho cán cân thương mại , thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế biến Việt Nam trở thành một cường quốc kinh tế trong tương lai gần nhất.
II- Kiến nghị
Để thúc đẩy xuất khẩu cà phê trong thời gian tới , tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
* Đối với Nhà nước:
- Chú trọng tới các chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành cà phê, gắn sản phẩm sản xuất với nhu cầu của thị trường thế giới
- Ban hành chính sách hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, tạo điều kiện, hỗ trợ vốn, khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm cà phê đã qua chế biến
- Hoàn thiện và bổ sung các chính sách nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu, tăng cường sản xuất cà phê sạch.
- Hoàn thiện chính sách tài chính khuyến khích sản xuất- xuất khẩu cà phê
- Thực hiện hệ thống chính sách khuyến khích thương mại : đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thúc đẩy xúc tiến thương mại...
- Hạn chế chính sách đầu tư của Nhà nước vào thị trường cà phê xuất khẩu
- Nghiên cứu chiến lược xuất khẩu cà phê một cách toàn diện nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
* Đối với Bộ, ngành:
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ , ngành trong việc chỉ đạo sản xuất, xuất khẩu cà phê.
- Chính sách và giải pháp đưa ra phải phù hợp với điều kiện ngành cà phê hiện nay, đảm bảo cho ngành có thể phát triển tốt nhất
* Đối với Hiệp hội cà phê:
- Cần phát huy hơn nữa chức năng, vai trò của Hiệp hội trong các lĩnh vực:
+ Phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất cà phê trên thị trường trong và ngoài nước
+ Thống nhất nhận thức và hành động , tránh gây tổn hại đến lợi ích toàn ngành
+ Chống hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường của các doanh nghiệp kinh doanh cà phê xuất khẩu.
- Củng cố, hoàn thiện để Hiệp hội thực sự trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp, hội viên và Nhà nước, tạo ra một hệ thống quản lý thống nhất từ trên xuống tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu cà phê
- Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cà phê xuất khẩu, tổ chức thăm dò, khảo sát, tìm kiếm thị trường nhập khẩu cà phê của Việt Nam , nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho cà phê Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh Tế Phát Triển - Nhà xuất bản Lao Động - Xã Hội
Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Giáo trình Kinh Tế Ngoại Thương - Nhà xuất bản Hà Nội
Sở Giáo Dục và Đào Tạo Hà Nội
Kinh Tế Đối Ngoại Việt Nam - Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh (2006)
Tổng Cục Thống kê
Giá trị gia tăng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam (Thực trạng và giải pháp nâng cao) - Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân (2006)
Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới (1986-2005) Nhà xuất bản Thống Kê (2006)
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 - Bộ Kế Hoạch Đầu Tư
Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VIFACO)
Báo cáo nghiên cứu ngành Cà phê -2004 - Ngân hàng thế giới (WB)
Kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 1999 và dự báo những năm tiếp theo - Ngân hàng thế giới (WB)
Các trang web tham khảo
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9,
10,
11,
12,
13,
14,
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Bảng 1: Xuất khẩu và GDP giai đoạn 1986-2005 2
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo phân ngành kinh tế 4
Bảng 4: Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010 7
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta 15
Bảng 6: 10 nước nhập khẩu cà phê VN hàng đầu niên vụ 2005-2006 18
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam 19
Bảng 8: Sản lượng cà phê xuất khẩu trong thời kỳ 1986-2005 20
Bảng 9: Giá xuất khẩu cà phê của một số nước trên thê giới năm 2001 21
Bảng 10: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam 22
Bảng 11: Xuất khẩu cà phê với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP 29
Bảng 12: Tỷ trọng thu nhập từ cà phê trong tổng thu nhập của các huyện ở Đăk Lăk theo loại hộ năm 2001 30
Hình 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 3
Hình 2: Biến động kim ngạch và giá xuất khẩu cà phê giai đoạn 1994-2004 19
Hình 3: Lượng (kg/người) và giá trị (nghìn đồng/người) tiêu thụ cà phê bình quân đầu người nông thôn và thành thị năm 2002 25
Hình 4: Tiêu thụ cà phê đầu người theo nhóm thu nhập năm 2002 26
Hình 5: Tiêu thụ cà phê đầu người theo vùng của Việt Nam năm 2002 26
Hình 6: Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam.docx