LỜI MỞ ĐẦU
Trong 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những bước phát triển vượt bậc, xây dựng được một nền tảng cơ sở vật chất to lớn. Cùng với những bước phát triển đó, các công ty kinh doanh, sản xuất trong lĩnh vực xây lắp luôn đóng góp một phần quan trọng vào tiến trình này. Thời gian tới, Việt Nam hứa hẹn sẽ trở thành một quốc gia có nền kinh tế năng động hàng đầu Châu Á nên quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ ngày càng lớn và diễn ra nhanh hơn nữa.Những công trình được xây dựng có quy mô ngày càng lớn, độ phức tạp ngày càng cao hơn nhưng cũng sẽ có hiệu quả sữ dụng tốt hơn nữa. Các công ty xây lắp vì thế cũng sẽ có cơ hội mới, đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế thị trường luôn cạnh tranh khốc liệt nhất là những quốc gia có nền kinh tế năng động như Việt Nam nên công tác hạch toán kinh tế tại các doanh nghiệp nói chung, các công ty xây lắp nói riêng là hết sức quan trọng. Đặc biệt, công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, quyết định tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển lâu dài, ứng dụng của các công ty.trong điều kiện Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn về kinh tế khi lạm phát tăng nhanh kéo theo sự gia tăng chóng mặt của mức giá.
Tại CTCPCKLM Sông Đà (someco), công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành luôn được Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc Công ty quan tâm, vì đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng và rất khó khăn, ảnh hưởng nhiều tới hoạt động của công ty . Quy mô công ty ngày càng lớn, số lượng công trình tăng nhanh (cả về quy mô, thời gian thực hiện, độ phức tạp, ) là những vấn đề lớn đặt ra đối với nhiệm vụ của những người làm công tác kế toán tại đây. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại CTCPCKLM Sông Đà, em quyết định chọn đề tài:”” để hoàn thành luận văn, cũng như có một số đóng góp cho sự phát triển ngày càng lớn mạnh của công ty.
Luận văn có 3 phần cơ bản sau:
Phần 1: Lí luận cơ bản về tổ chức kế toán chi phi sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp.
Phần 2: Thực trạng công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Cổ phần Cơ khí lắp máy Sông Đà
Phần 3: Một số kiến nghị về công tác kế toán chi phí và tính giá tại Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VA TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 3
1.1. Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phi sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp. 3
1.1.1. Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 3
1.1.2.Yêu cầu quản lí chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 5
1.1.3.Vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 6
1.2. Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp. 9
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất: 9
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm: 10
1.3. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp 12
1.3.1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất: 12
1.3.2.Tổ chức chứng từ và hạch toán ban đầu: 14
1.4. Tổ chức kế toán giá thành sản phẩm: 18
1.4.1. Đối tượng, kỳ tính giá thành: 18
1.4.2. Công tác kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang trong doanh nghiệp xây lắp 19
1.4.3. Phương pháp kỹ thuật tính giá thành: 21
1.5. Tổ chức kế toán chi phí và tính giá thành trong điều kiện áp dụng vi tính 24
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CƠ KHÍ LẮP MÁY SÔNG ĐÀ 26
2.1 Giới thiệu tổng quan về Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà 26
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của CTCPCKLM Sông Đà 26
2.1.2 Những đặc điểm cơ bản của CTCPCKLM Sông Đà 27
2.1.2.1 Đặc điểm ngành nghề và sản phẩm kinh doanh 27
2.1.2.2 Những công trình trọng điểm có sự tham gia của CTCPCKLM Sông Đà 28
2.1.2.3 Trình độ công nghệ và năng lực quản lý 29
2.1.3 Bộ máy quản lý của CTCPCKLM Sông Đà 30
2.1.4 Những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ phận kế toán của công ty 32
2.1.4.1 Bộ máy kế toán của công ty 32
2.1.4.2 Quá trình vận dụng chế độ kế toán và thực hiện công tác kế toán 33
2.1.4.3 Hình thức sổ kế toán áp dụng 34
2.1.4.4 Quá trình ghi sổ kế toán và luân chuyển hóa đơn, chứng từ 35
2.1.4.5 Các phần hành kế toán cụ thể của công ty 35
2.1.4.6 Quá trình kiểm tra, kiểm soát công tác kế toán 39
2.2 Quy trình hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà 41
2.2.1 Tầm quan trọng của kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại CTCPCKLM Sông Đà (Someco) 41
2.2.1.1 Đặc điểm riêng hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành 41
2.2.1.2 Tầm quan trọng của công tác hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành 42
2.2.2 Quy trình hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành của công ty 43
2.2.2.1 Lập dự toán và xác định giá thành dự toán của các công trình xây lắp 43
2.2.2.2 Xác định giá thành kế hoạch 47
2.2.2.3 Quá trình tập hợp chi phí sản xuất 50
2.2.2.4 Tính giá thành thực tế công trình, hạng mục công trình 71
2.2.2.5 Hạch toán chi phí sửa chữa và bảo hành công trình sau bàn giao 75
2.2.3 Quy trình lập chứng từ, luân chuyển chứng từ, ghi sổ và lên báo cáo liên quan tới quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành 77
2.2.3.1 Quá trình lập và luân chuyển chứng từ 77
2.2.3.2 Quá trình ghi sổ và in báo cáo về chi phí-giá thành 80
PHẦN 3:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÊ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CTCPCKLM SÔNG ĐÀ 83
3.1 Đánh giá thực trạng công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà 83
3.1.1 Những ưu điểm của công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà 83
3.1.2 Một số vấn đề còn tồn tại trong công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành 85
3.1.3 Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty Cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà 90
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại CTCPCKLM Sông Đà 91
3.2.1 Một số kiến nghị với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 91
3.2.2 Những kiến nghị hoàn thiện công tác kế toán hạch toán chi phí và tính giá thành tại CTCPCKLM Sông Đà 96
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 104
DANH MỤC SƠ ĐỒ 105
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 106
112 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế toán chi phí và tính giá thành phẩm tại Công ty Cổ phần Cơ khí lắp máy Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều phần mềm kế toán máy nên có thể chuyển chứng từ qua máy fax, đảm bảo được độ chính xác cũng như an toàn, kịp thời.
- Kiểm tra lại các chứng từ đó đã đáp ứng những yêu cầu đề ra hay chưa, nếu sai phải sửa chữa hay làm lại chứng từ. Nếu đã chính xác, tổ chức lưu trữ chứng từ.
2.2.3.2 Quá trình ghi sổ và in báo cáo về chi phí-giá thành
Công ty sử dụng phần mềm kế toán Song Da Accounting và tổ chức ghi sổ theo hình thức nhật ký chung. Quá trình hạch toán chi tiết tổ chức tại các chi nhánh. Số liệu tổng hợp được liên tục hay từng kỳ chuyển về công ty. Vì vậy, các chi nhánh cũng sử dụng phần mềm kế toán Song Da Acounting để tổ chức ghi sổ và hạch toán như một doanh nghiệp độc lập.
Sơ đồ 3: Trình tự ghi sổ tổng hợp chi phí và giá thành tại công ty
Chứng từ kế toán
(Lập tại chi nhánh)
Báo cáo tài chính toàn công ty
Báo cáo tài chính
(Lập tại chi nhánh)
Sổ cái
(Lập tại chi nhánh)
Bảng tổng hợp chi phí-giá thành (chi nhánh)
Sổ nhật ký đặc biệt
(Lập tại chi nhánh)
Sổ nhật ký chung
(Lập tại chi nhánh)
Bảng tổng hợp chi phí-giá thành tòa công ty
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
(Lập tại chi nhánh)
(1) Một số thẻ liên quan như: - Phân bổ khấu hao TSCĐ
- Phân bổ nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ
- Thẻ tính giá thành công trình, hạng mục công trình
…………..
(2) Bảng tổng hợp chi phí-giá thành
- Bảng tổng hợp chi phí xây lắp
- Bảng tính giá thành công trình
- Bảng tính giá thành toàn chi nhánh
Ghi theo thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế, tài chính
Ghi theo kỳ (thường là tháng hay quý)
Để đảm bảo chức năng thông tin của kế toán, các báo cáo tổng hợp cuối kỳ nói chung, báo cáo chi phí-giá thành theo hạng mục công trình, công trình, chi nhánh và toàn công ty nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì những chứng từ phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian nhưng số lượng các nghiệp vụ kinh tế ở chi nhánh cũng như toàn công ty trong kỳ là rất lớn. Bên cạnh đó, công trình kế toán và sổ cái, các nhật ký đặc biệt cũng không thể phản ánh tổng quan về quá trình thi công hạng mục công trình và công trình. Các bảng tổng hợp vì thể phát huy được những ưu điểm nhất định. Thứ nhất, nó phản ánh đầy đủ, chính xác những khoản chi phí khác nhau được sử dụng trong thi công, chi tiết chi từng công trình. Ta có thể sử dụng để đánh giá tiến độ thi công, mức độ hoàn thành công trình, hiệu quả thi công. Thứ hai, số lượng báo cáo tổng hợp chi phí-giá thành không nhiều, được lập vào cuối quý nên thông tin cung cấp khá tập trung, tổng quát nhất, dễ dàng sử dụng để hoạch định các chính sách, kế hoạch cho thời gian tiếp. Thứ ba, ta có thể được căn cứ để so sánh quá trình thi công so với dự toán và kế hoạch được lập ở đầu kỳ. Từ đó, ta có thể xác định ngay được kểt quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
PHẦN 3:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÊ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CTCPCKLM SÔNG ĐÀ
3.1 Đánh giá thực trạng công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
3.1.1 Những ưu điểm của công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà mới được thành lập từ năm 2004 và hoạt động tới ngày nay. Thời gian đó không dài nhưng những người làm công tác kế toán tại công ty đã nổ lực hết mình vượt qua những khó khăn để hoàn thành tốt những công việc đã được giao.Bộ máy kế toán đã thực hiện tốt công tác tập hợp chi phí và tính giá thành cho các công trình mà công ty dã thi công, đảm bảo số liệu kế toán hợp lý và cung cấp đầy đủ, kịp thời cho ban giám đốc công ty.Vì thế, công tác kế toán tại công ty có những ưư điểm rất rõ nét ở tất cả các khâu trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành
Thứ nhất,về bộ máy kế toán của công ty.Bộ máy kế toán của công ty tuy số lượng không nhiều,trình độ chuyên môn chưa đồng đều nhưng đã nổ lực hết mình để hoàn thành tốt công tác được giao dù phải vượt qua rất nhiều khó khăn cả chủ quan và khác quan.Những người làm công tác kế toán tại đây phải tới từng công trình đang thi công để tiến hành các công tác nghiệp vụ chi tiết,tổng hợp những sôd liệu phục vụ cho quá trình tổng hợp chi phí.Các công trình thủy điện thường ở địa bàn xa xôi, hiểm trở là những khó khăn cơ bản đối với quá trình đi tập hợp.Tuy nhiên, trong gần 4 năm từ ngày thành lập tới nay,phòng kế toán công ty và phòng kế toán của các chi nhánh vẫn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự thong suốat của hệ thống thong tin kế toán cho công tác lãnh đạo và quản lý của công ty
Thứ hai,về tổ chức công tác hạch toán tại công ty.Công ty đã có những phương pháp hạch toán phù hợp với tình hình hiện nay của công ty cả về nguồn lực con người, điều kiện về cơ sở vật chất.Hệ thống tài khoản kế toán được xác lập đầy đủ,phù hợp những quy định của Bộ tài chính cũng như tình hình thực tế của công ty.Hệ thống tài khoản kế toán đảm bảo tính khoa học như dễ phân biệt các tài khoản,dễ thay đổi mội số tài khoản hay thêm các tài khoản con cho phù hợp với điều kiện hạch toán của công ty.
Hệ thống sổ sách của công ty là hệ thống sổ theo hình thức nhật ký chung,rất thuận tiện cho công tác kế toán của công ty,dễ sữ dụng và đảm bảo được những yếu tố thong tin.Công ty đã áp dụng phần mềm kế toán trong quá trình hạch toán nên đã giảm tải được rất nhiều những phần việc kế toán thủ công,chính xác hơn và thuận tiện hơn trong khi thực hiện.
Do có phần mềm kế toán nên các báo cáo tài chính có thể được lập ở mọi thời điểm trong kỳ kế toán,cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin cho những đối tượng có liên quan.Các báo cáo chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,báo cáo luân chuyển tiền tê,thuyết minh báo cáo tài chính đã được lập vào cuối mỗi kỳ kế toán nên luôn được chuẩn bị rất chu đáo.Báo cáo tài chính cuối năm luôn được công bố kịp thời và được kiểm toán phù hợp những quy định hiện hành.Bên cạnh đó,bước đầu công ty cũng đang tiến hành lập những báo cáo kế toán quản trịn theo những quy định mới nhất của Bộ tài chính cũng như những quy định của Hội đồng quản trị của công ty
Thứ ba,công tác kế toán chi phí và tính giá thành cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay của công ty.Nhất là khi số lượng công trình thi công ngáy càng nhiều hơn, độ phức tạp tăng lên nhiều lần,khối lượng thi công và thời gian thi công vì thế cũng tăng lên.Cho nên,việc đáp ứng được nhu cầu thông tin kế toán đã là những nổ lực rất lớn của những người làm kế toán tại công ty
-Kế toán chi phí nguyên vật liều trực tiếp đã sữ dụng phương pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả và thời gian tiến hành hạch toán chi tiết.Công ty đã tách biệt rõ ràng 2 loại nguyên vật liệu cơ bản với nhau. Đó là nguyên vật liệu công ty mua về, được bảo quản trong kho rồi đem ra sữ dụng với nguyên vật liệu được nhà cung cấp chuyển trực tiếp tới chân công trình.Quy trình hạch toán có khác nhau về cơ bản. Đây cũng là nét đặc biệt của các công ty xây lắp
-Kế toán tiền lương công nhân viên cũng đã thực hiện tối quá trình hạch toán của mình phải luồng khắc phục những khó khăn của quá trình tập hợp chi phí tiền lương tại 1 công trình rất xa.Nhất là trong điều kiện công ty vừa có lao động hợp đồng dài hạn và những lao động thời vụ ngắn hạn
-Công ty cũng đã quản lý chặt chẽ các khoản chi phí sản xuất chung phát sinh trong quá trình tập hợp chi phí cho từng hạng mục cong trình. Điều này có thể thực hiện tốt vì công ty đã lên kế hoạch chi tiết các khoản chi phí sản xuất chung có thể phát sinh trong kỳ kế toán nên thường không có khoản chi phí bất ngờ ngoài dự kiến, đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch chi phí và giá thành được lập từ đầu kỳ
Tóm lại,những ưu điểm của công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành nói riêng thực sự đã được thể hiện trong quá trình hạch toán chi phí và giá thành của công ty. Điều này chính là cơ sở cho hoạt động cung cấp thông tin kế toán cho các bên lien quan tới doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.Tuy nhiên,bên cạnh những ưu điểm đã đạt được,công tác kế toán còn gapự phải những hạn chế nhất định do cả nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Điều này sẽ được trình bày cụ thể ở phần tiếp theo
3.1.2 Một số vấn đề còn tồn tại trong công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành
Trong quá trình hạch toán kế toán của công ty, hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành có vai trò quan trọng, quyết định rất lớn tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu được. Bộ máy kế toán công ty với vai trò chính trong công tác này đã khắc phục được rất nhiều khó khăn, vướng mắc cả chủ quan và khách quan để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thông tin kế toán cả chi tiết và tổng hợp bám sát hoạt động thi công của từng công trình, hạng mục công trình và đã cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác cho Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc của công ty. Tuy nhiên, hoạt động hạch toán tổng hợp và tính giá thành vẫn không tránh khỏi một số điểm bất cập, chưa hợp lý và cần liên tục điều chỉnh cho hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế.
3.1.2.1 Mối quan hệ giữa dự toán, giá thành thực tế, giá thành kế hoạch
Khác với các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, CTCPCKLM Sông Đà là một doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực xây lắp. Quá trình hạch toán chi phí giá thành vì vậy cũng có những điểm đặc thù nhất định. Thứ nhất, mỗi hạng mục công trình được hạch toán chi tiết riêng và từ đó xác định trực tiếp giá thành của công trình đó. Cuối kỳ, công ty mới tổng hợp số liệu chi phí -giá thành của toàn bộ công ty.Thứ hai, mỗi hạng mục công trình phải được lập dự toán chi tiết riêng, để có thể so sánh kiểm tra chi phí xây lắp phát sinh với dự toán chi phí sản xuất được phân loại theo chi phí nguyên vậy liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. Thứ ba, dựa vào dự toán đó, công ty phải lên một bảng giá thành kế hoạch chi tiết cho từng hàgj mục công trình theo những định mức kinh tế- kỹ thuật của Bộ Xây dựng, Hội đồng Quản trị quy định. Thứ tư, trong hệ thống các loại chi phí, có cả chi phí sử dụng máy thi công. Đây là một khoản mục chi phí khá đặc biệt, chỉ có tại các công ty xây lắp. Khoản mục này phản ánh tất cả các loại chi phí (chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung) phục vụ cho đội máy thi công.
Qua quá trình phân tích trên, ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của việc lập dự toán, giá thành kế hoạch. Tập hợp chi phí và tính giá thành thực tế. Nó có một mối quan hệ rất logic, đảm bảo sự ổn định của toàn bộ quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành . Vì vậy, việc liên tục đối chiếu, so sánh, điều chỉnh dự toán, giá thành kế hoạch, chi phí và giá thành thực tế là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, tại công ty, vẫn còn một số vướng mắc trong khâu này, làm giảm hiệu quả của quá trình hạch toán chi phí-giá thành.
Thứ nhất, dự toán được lập theo quy định của Bộ Xây dựng. Vì vậy, những quy định đó có thể nhiều chỗ chưa thể phù hợp với tình hình thực tế các công trình tại công ty. Điều này là một trở ngại nếu quá trình lập dự toán mà số liệu không hợp lý cũng như thiếu chính xác so với thực tế. Việc lập giá thành kế hoạch tuy chi tiết hơn dự toán nhưng phải tuân thủ những định mức kinh tế - kỹ thuật nhất định. Đây chưa hẳn là một quy định phù hợp. Bởi lẽ, mỗi công trình, hạng mục vr có quy mô, thời gian xây lắp, độ khó về kỹ thuật,… khác nhau. Những vấn đề thực tế phát sinh cũng khác nhau. Vì vậy, phòng Kinh tế - Kế hoạch là đơn vị tổ chức lập dự toán và tính giá thành kế hoạch luôn gặp những khó khăn nhất định.
Thứ hai, quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành do các đội kế toán tại các chi nhánh thực hiện. Cuối kỳ, số liệu được chuyển về và được phòng Kế toán tập hợp số liệu cho toàn công ty. Xét một cách tổng thế, mối quan hệ đối chiếu, so sánh, điều chỉnh giữa dự toán, giá thành kế hoạch và giá thành thực tế là chưa chặt chẽ. Bởi vì, đây phải trở thành một quá trình liên tục. Nhưng tại công ty, cũng như tại các đơn vị xây lắp khác, khoảng thời gian lập drm giá thành kế hoạch và giá thành thực tế là khác nhau, đôi khi rất xa về thời gian.
Thông thường, dự toán được lập khi công trình chưa đưa vào thi công. Giá thành kế hoạch lập khi công trình chuẩn bị tiến hành thi công và giá thành thực tế tiến hành thực hiện khi công trình đã hoàn thành. Khoảng cách thời gian đói với các công trình, hạng mục công trình lớn ở đây có thể là vài năm (thậm chí là từ 5 đến 10 năm). Vì vậy, khi tổ chức so sánh các khoản mục chỉ tiêu giữa các bảng, có sự chênh lệch rất lớn, nhất là khi số liệu do hai phòng ban khác nhau của công ty thiết lập. Vì vậy, đôi khi, quá trình lập dự toán và giá thành kế hoạch chỉ thực hiện cho đủ theo quy định của Bộ Xây dựng chứ chưa hẳn là một quá trình tất yếu phải thực hiện do đòi hỏi của nhiệm vụ kế toán.
3.1.2.2 Những khó khăn trong quá trình tập hợp chi phí cho từng công trình
Tại các công ty xây lắp nói chung, tại CTCPCKLM Sông Đà, quá trình tập hợp chi phí công trình, hạng mục công trình là hết sức khó khăn và phức tạp. Điều này xuất phát từ những điều kiện chủ quan và khách quan.
Thứ nhất, quy mô của công ty hiện nay rất lớn và đang ngày càng mở rộng. Công ty đang tổ chức thi công gần 30 công trình lớn trên ba miền đất nước và tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, những nơi có điều kiện thi công rất khó khăn. Vì vậy, tổ chức công tác hạch toán là rất khó khăn. Các chi nhánh phục trách các công trình cụ thể phải tổ chức cán bộ tới tận công trình, thu thập chứng từ, ghi sổ và chuyển thông tin.
Thứ hai, thời gian thi công một công trình thường rất dài, chịu ảnh hưởng của những yếu tố điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, rất nhiều khoản mục chi phí biến động tăng và phát sinh nhiều khoản chi phí khác. Điều này gây khá nhiều khó khăn cho những người làm công tác kế toán, ảnh hưởng tới quá trình theo dõi, kiểm soát chi phí xây lắp.
Thứ ba¸hiện nay, ngành nghề kinh doanh của công ty là khá đa dạng và ngày càng đa dạng hơn (lắp máy, gia công máy, sản xuất một số mặt hàng dùng cho xây lắp,…). Vì vậy, tính chất hoạt động của bộ máy kế toán công ty cũng ngày càng phức tạp và đa dạng hơn. Quá trìn hạch toán sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc điểm tình hình kinh doanh. Ví dụ: sản phẩm lắp ráp, chế tạo hạch toán như tại doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, các công trình hạch toán theo mô hình các doanh nghiệp xây lắp,…Đây là một trở ngại lớn nếu bộ máy kế toán tổ chức tập hợp chi phí cuối kỳ.
Đánh giá một cách tổng quát, công tác kế toán tập hợp chi phí tại công ty là nhiệm vụ quan trọng nhất của phòng Kế toán. Nhiệm vụ của công tác này là hết sức nặng nề, ảnh hưởng quyết định tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Tuy vậy, công tác kế toán tập hợp chi phí luôn là khâu rất khó khăn, phức tạp, nhất là đối với các công ty xây lắp lớn như CTCPCKLM Sông Đà. Những người làm công tác kế toán của công ty phải tỏa đi khắp miền đất nước, khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên, điều kiện cơ sở vật chất khó khăn để hoàn thành công tác kế toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Quá trình tập hợp chi phí cho từng công trình, hạng mục công trình rất khó khăn nhưng quá trình tổng hợp chi phí toàn công ty cuỗi mỗi kỳ kế toán thực sự còn khó khăn và phức tạp hơn nữa. Nguyên nhân là do quá trình cân đối,bù trừ các khoản chi phí giữa các chi nhánh để lên được một báo cáo chi phí, giá thành phù hợp với tình hình, phản ánh đúng nhất với những biến động, phát sinh trong qua trình thi công các công trình. Mặt khác, đây là nguồn thông tin rất quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc công ty.
3.1.2.3 Ảnh hưởng của sự thay đổi biến động các loại chi phí trong quá trình hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành
Công trình xây lắp chịu ảnh hưởng biến động của giá các loại nguyên vật liệu đầu vào, của việc tăng lương, tăng giá xăng dầu,…Vì vậy, trong điều kiện kinh tế Việt Nam như hiện nay, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tốc độ lạm phát là rất cao, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chi phí, giá thành các công trình đang thi công. Nhất là đối với các công trình thi công trong thời gian dài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu, nhân công, vấn đề này vàng trở lên quan trọng hơn. Năm 2007, lạm phát tăng tới 12,63%. Giá các loại xi măng, sắt thép, gạch xây dựng, xăng dầu,..tăng nhanh. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với quá trình hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành . Bởi vì, công ty phải liên tục điều chỉnh dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành thực tế cho phù hợp với những quy định của Bộ Xây dựng và tình hình thực tế. Bên cạnh đó, công ty phải áp dụng một loạt các biện pháp cắt giảm chi phí, thực hành tiết kiệm trong quá trình thi công.
Thứ nhất, chi phí nguyên vật liệu tăng quá nhanh. Từ năm w2007 tới nay, giá sắt thép, xi măng tăng từ 20 - 30%, giá gạch xây dựng tăng gấp 3 lần. Trong thi công, chi phí nguyên vật liệu lại chiếm tới hơn 60% chi phí thi công. Vì vậy, biến động giá nguyên vật liệu đầu vào làm cho tổng chi phí tăng lên rất nhanh. Giá thành thực tế cũng vì thế mà phải điều chỉnh liên tục cho phù hợp với tình hình thực tế.
Thứ hai, tiền lương liên tục được Chính phủ điều chỉnh qua các namw. Mới đây nhất, cuối năm 2007, lương cơ bản tăng từ 450.000 đồng lên tới 540.000 đồng. Vì vậy, tổng mức chi phí lương (lương, các khoản trích lập theo lương, thưởng, phụ cấp,…) đồng loạt tăng lên, trunh bình tăng 15 – 20%.
Thứ ba, các khoản chi phí máy thi công cũng tăng nhanh do giá xăng dầu liên tục tăng và hiện tại đang ở mức cao. Giá lương thực, thực phẩm cũng tăng liên tục, trunh bình 20 – 30% nên ảnh hưởng lớn tới bữa ăn ca của công nhân viên, cán bộ kỹ sư đang thi công trên công trường.
Do biến động giá liên tục trong năm 2007 và quý I/2008, Bộ Xây dựng vừa ban hành Thông tư số 05/2008/TT - BXD ngày 22 tháng 2 năm 2008 hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình xây dựng khi có biến động giá nguyên vật liệu. Tuy nhiên, bên cạnh những tác dụng của công việc này, công ty vẫn phải chịu những thiệt hại lớn, ảnh hưởng tới quá trình thi công.
Dự toán các công trình xây lắp của công ty đều được điều chỉnh. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh không thể đủ bù đắp những thiệt hại của công ty, nhất là những công trình đã lập dự toán trong thời gian dài và thi công có những phát sinh không nằm trong dự toán. Bên cạnh đó, giá thành kế hoạch liên tục phải thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, quá tình tập hợp chi phí và tính giá thành của công ty phải đối mặt với những khó khăn tương đối lớn. Điều này là không thể lường trước được. Bởi vì giá cả trong nước và thế giới của cá mặt hàng trên vẫn biến động rất mạnh trong năm 2008 và trong thời gian kế tiếp. Cho nên, nững người làm công tác kế toán phải đối mặt với những thách thức lớn đặt ra hiện nay như: thứ nhất, lên được kế hoạch chi phí – giá thành cho các công trình, nhất là những công trình có khối lượng thi công lớn, thời gian dài và phức tạp. Thứ hai, dự báo được phần nào xu hướng biến động giá, giúp Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốccos những quết định phù hợp. Thứ ba, bằng những biện pháp kịp thời, phải rà soát kiểm tra nhằm cắt giảm những khoản chi phí không hợp lý, tránh độn giá công trình.
3.1.3 Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty Cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
Công ty CPCKLM Sông Đà trong thời gian qua đã có những bước tiến vượt bậc trong nhiều lĩnh vực xây lắp. Những yếu tố như doanh thu, thị phần, khối lượng xây lắp,…đều tăng nhanh. Tiềm lực và uy tín của công ty vì vậy cũng có những phát triển. Dự kiến trong thời gian tới của công công ty với những kế hoạch táo bạo sẽ trở thành một đơn vị xây lắp hàng đầu Việt Nam. Vì vậy, công tác tập hợp chi phí và tính giá thành đang đứng trước rất nhiều khó khăn, phức tạp mới trong tương lai, phải nhanh chóng nâng cao chất lượng thông tin trước đòi hỏi ngày càng cao của công ty cũng như môi trường cạnh tranh bên ngoài ngày càng quyết liệt.
Sản phẩm xây lắp của công ty ngày càng đa dạng hơn. Trước đây, công ty chủ yếu thực hiện lắp máy cho các công trình thủy điện nhỏ và vừa thì tới nay ngày càng tham gia vào nhiều lĩnh vực như gia công chế tạo, lắp máy thủy điện, lắp máy xi măng, xây dựng chung cư, nhà cao tầng và nhiều lĩnh vực khác. Quy mô của các công trình ngày càng lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài,…Vì vậy, việc quản lý các yếu tố chi phí thực sự ngày càng trở thành một vấn đề lớn hết sức phức tạp, khó khăn. Quá trình lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công) và trong quá trình xây lắp phải liên tục so sánh với dự toán là một đặc điểm riêng mà những người làm kế toán tại công ty xây lắp phải chú ý. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, dự toán phải liên tục điều chỉnh, gây ảnh hưởng tới việc theo dõi, đối chiếu các khoản chi phí phát sinh, nhất là khi rủi ro thi công lớn, có nhiều khoản chi phí ngoài dự toán để khắc phục hậu quả.
Trong các công trình công ty đang thi công, có rất nhiều các xác định giá thành tiêu thụ nên cũng phát sinh nhiều phương pháp thanh toán công trình. Bởi vì, tính chất hàng hóa của công trình xây lắp không thể hiện rõ (giá cả, người mua, người bán có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao thầu). Đây ngày càng trở thành vấn đề lớn khi hạch toán tính giá thành tiêu thụ công trình, hạng mục công trình đang thi công. Những người làm công tác kế toán phải xác định được phương pháp tính giá thành hợp lý cho từng công trình, phản ánh được đầy đủ những chi phí hợp lý phát sinh trong quá trình thi công.
Ngoài các lĩnh vực truyền thống như hiện nay, công ty đang tiến hành thi công nhiều công trình đa dạng khác nữa như công trình nhà máy xi măng Hạ Long, trạm nghiền Hiệp Phước. Các công trình không chỉ thi công ở Việt Nam mà còn vươn tới các quốc gia khác trong khu vực. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí giá thành công trình xây lắp đang là đòi hỏi hết sức quan trọng hiện nay.
Tình hình kinh tế hiện nay của đất nước ta là không thực sự khả quan nên nó cũng gây nên rất nhiều áp lực đối với quá trình thi công các công trình. Việc cắt giảm chi phí ngày càng trở thành vấn đề cấp bách hơn.Nhấ là khi các yếu tố chi phí ngày càng tăng nhanh không thể lường trước được
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại CTCPCKLM Sông Đà
3.2.1 Một số kiến nghị với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
Muốn quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành công trình của các doanh nghiệp xây lắp ngày càng hoàn thiện, ngoài sự nỗ lực của bộ máy kế toán của doanh nghiệp, rất cần một hành lang pháp lý phù hợp, thông thoáng của cơ quan quản lý nhà nước có chức năng. Đó sẽ trở thành cơ sở đầu tiên, giúp các doanh nghiệp quản lý thật tốt các yếu tố chi phí, giá thành trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ về chính sách, pháp luật từ phía Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng nhằm tạo dựng một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, chi tiết, dễ vận dụng cũng như một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
3.2.1.1 Kiến nghị với Bộ Tài chính
Bộ Tài chính là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cao nhất trong việc quản lý công tác kế toán của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các công ty xây lắp nói riêng đang tổ chức hạch toán theo chế độ kế toán được ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ – BTC ngày 20 tháng 3 năm 2006. Chế độ kế toán này nhìn chung là hợp lý, đảm bảo quá trình hạch toán tại doanh nghiệp vì nó phù hợp với Luật Kế toán 2003, Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2003, Luật Thuế GTGT,…Tuy nhiên, khi áp dụng tại các doanh nghiệp xây lắp nói chung tại CTCPCKLM Sông Đà nói riêng vẫn xuất hiện một số bất cập nhất định. Việc này xảy ra do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì các doanh nghiệp xây lắp có đặc thù sản xuất kinh doanh, khác hẳn những loại hình kinh doanh khác.
Đối tượng hạch toán chi phí tại các công ty xây lắp là công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn công việc đã hoàn thành, khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng đã hoàn thành…Tức là đối tượng hạch toán chi phí ở đây không phải là những sản phẩm đã hoàn thành và đem ra tiêu thụ. Bởi vì, sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, phức tạp về kỹ thuật, thời gian thi công dài,…nên phải tiến hành chia nhỏ thành các khối lượng công việc riêng biệt.
Quá trình tập hợp chi phí cũng rất khác các loại hình doanh nghiệp khác. Các công trình thi công ở nhiều vùng khác nhau. Máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân viên,…phải di chuyển tới nơi đang thi công công trình. Quy trình thi công chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn chia thành nhiều công việc khác nhau. Thời gian thi công dài nên dễ bị ảnh hưởng bởi các điều kiệnt tự nhiên như nắng, mưa,…Điều này gây khó khăn và sự khác biệt rất lớn khi tập hợp chi phí tại công trình, hạng mục công trình. Vì vậy, công tác tính giá thành cuối kỳ cũng rất phức tạp. Công ty phải áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc điểm từng công trình, hạng mục công trình.
Bộ Tài chính có thể ban hành một chế độ kế toán riêng cho doanh nghiệp xây lắp, đáp ứng những đặc điểm riêng trong quá trình hạch toán. Điều này sẽ giúp công ty gặp nhiều thuận lợi. Nhất là công tác tập hợp chi phí và tính giá thành. Bởi vì, ngay cả trong hệ thống tài khoản kế toán tập hợp chi phí cũng khác những loại hình doanh nghiệp còn lại.
Bêm cạnh đó,quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành công trình xây lắp tại các doanh nghiệp xây lắp còn tuân thủ theo những quy định của Bộ Xây dựng,nhất là những quy định về lập dự toán công trình.Tuy nhiên những văn bản của Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng vẫn chưa có chung tiếng nói trong một số vấn đề.Khi Bộ Xây dựng có thông tư hướng dẫn về quy trình điều chỉnh lập dự toán thì chắc chắn quá trình tập hợp chi phí công trình cũng có những biến động nhất định.Tuy nhiên,khi đó ,Bộ Tài chính lại không có văn bản nào hướng dẫn cho kịp với tình hình thực tế.
3.2.1.2 Kiến nghị với Bộ Xây dựng
Bộ Xây dựng là đơn vị quản lý chi phí, giá thành hợp lý các công trình xây dựng cơ bản thông qua các văn bản quy phạm pháp luật như các Thông tư hướng dẫn lập dự toán, điều chỉnh dự toán, các định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực xây lắp. Vì vậy, quá trình ban hành văn bản của Bộ Xây dựng ảnh hưởng lớn tới việc tập hợp chi phí và tính giá thành tại các công trình, hạng mục công trình.
Trước khi thực hiện thi công, doanh nghiệp phải lên dự toán chi phí (dự toán thiết kế, dự toán thi công) chi tiết cho khối lượng công việc xây lắp. Đât là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền làm căn cứ quản lý chặt chẽ quá trình thi công, nhất là công trình có sử dụng Ngân sách Nhà nước, tránh trường hợp tham ô, lãng phí. Tuy nhiên, hiện nay doanh nghiệp xây lắp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khi giá cả tất cả các yếu tố đầu vào tăng mạnh như giá xi măng, sắt thép, xăng dầu, chi phí nhân công,…Cho nên dự toán công trình lập từ trước khi thi công sẽ không phản ánh được giá trị của công trình xây lắp đó. Bộ Xây dựng thường ban hành Thông tư hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình khi có những yếu tố đầu vào tăng giá. Tuy nhiên, việc điều chỉnh này thường rất chậm, ảnh hưởng nhiều tới tiến độ thi công, gây thiệt hại lớn cho cả chủ đầu tư và doanh nghiệp thi công.
Vì vậy, nên chăng Bộ Xây dựng cần có những quy định linh động hơn trong quá trình quản lý chi phí xây dựng, giá thành xây dựng thông qua dự toán công trình. Đặc biệt là những Thông tư hướng dẫn điều chỉnh dự toán khi có biến động giá các yếu tổ đầu vào, vì nó ảnh hưởng rất lớn tới doanh nghiệp thi công. Các Thông tư này phải được ban hành kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn. Nếu yếu tố đầu vào là chi phí nhân công tăng, do tiền lương tối thiểu được Chính phủ quy định tăng thì Bộ Xây dựng phải kịp thời hướng dẫn các doanh nghiệp điều chỉnh. Tuy nhiên, mối lo ngại nhất hiện nay là sự tăng giá nhanh, liên tục và khó lường trước của chi phí nguyên vật liệu. Ví dụ như năm 2007 và quý I/2008, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng nhanh. Bộ Xây dựng phản ứng chậm chạp do không lường trước những khó khăn có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Tới khi tình thế cấp bách, rất nhiều doanh nghiệp xây lắp phá sản, bỏ công trình đang thi công dở,…thì mới thông qua Thông tư số 05/2008/TT – BXD ngày 22 tháng 02 năm 2008 hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình.
Doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thi công cũng như khi tập hợp chi phí và tính giá thành nếu Bộ Xây dựng không có những dự báo vĩ mô chính xác, kịp thời tình hình. Vì vậy, thiết nghĩ, bên cạnh sự điều chỉnh dự toán, đối phó với tình hình mới, Bộ Xây dựng cần có những dự báo đi trước, kế toán xây dựng trong thời gian dài hạn để làm cơ sở cho các doanh nghiệp xây lắp thực hiện. Đó là những biện pháp cấp thiết trong tình hình hiện nay.
3.2.1.3 Những biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Doanh nghiệp xây lắp rất cần những biện pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ, nhất là trong thời điểm hiện nay. Trong năm 2006, 2007, tiến tới là năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số lạm phát liên tục tăng cao. Kéo theo đó, tất cả các yếu tố đầu vào phục vụ trong xây lắp cũng đồng loạt tăng giá. Các khoản chi phí xây lắp vì thế cũng tăng chóng mặt. Vì vậy, giá thành công trình vượt xa giá thành dự toán, giá thành kế hoạch cũng như giá thầu. Doanh nghiệp xây lắp gặp vô vàn khó khăn trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành cũng như ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh. Nhiều công ty đã phá sản hay bỏ dở công trình, chấp nhận chịu phạt vi phạm hợp đồng.
Thêm vào đó, từ cuối năm 2007, lãi suất vay vốn bằng tiền đồng tăng chóng mặt, có lúc lên tới trung bình 18%/năm. Tuy nhiên, việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn do lượng tiền của Ngân hàng dải ngân thấp. Chi phí tài chính của các công ty đột ngột tăng cao. Nguồn vốn bị ảnh hưởng nặng nề. Doanh nghiệp như bị “trói tay” trong quá trình huy động vốn phục vụ thi công.
Chính phủ nên là người chủ động có những biện pháp phù hợp ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định hệ thống pháp luật có liên quan. Vì đây là cơ sở tạo dựng một môi trường ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp. Ảnh hưởng của những biến động kinh tế tới quá trình thi công, tập hợp chi phí và tính giá thành các công trình, hạng mục công trình là rất lớn. Môi trường vĩ mô ổn định mới giúp các doanh nghiệp xây lắp làm ăn có hiệu quả, đóng góp nhiều hơn cho Ngân sách cũng như nhanh chóng đưa các công trình đang thi công vào hoạt động đúng tiến độ.
Cho tới quý I năm 2008 thì tình hình kinh tế Việt Nam đã có những biến động rất lớn ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của công ty nói chung và quá trình hạch toán chi phí giá thành tại các công trình nói riêng
-Lạm phát 4 tháng đầu năm là 14% và ước tính cả năm 2008 là trên 22% làm cho tất cả các yếu tố đầu vào đều tăng chóng mặt. Điểm hình là các mặt hang như xi măng,sắt thép,xăng dầu,tiền lương công nhân viên,tiền ăn ca (do giá các mặt hang lương thực và thực phẩm đều tăng nhanh)
-Lãi xuất ngân hang tăng lên chóng mặt,trung bình khoảng từ 18-20%.Đây là mức lãi xuất rất cao ảnh hưởng lớn tới chi phí đi vay của doanh nghiệp.Bên cạnh đó,do Nhà nước thắt chặt tiềm tệ làm cho việc vay vốn cũng rất khó khăn-Tỷ giá đồng USD so với VNĐ có biến động rất lớn và có xu hướng tăng lên. Điều này sẽ gây nên bất lợi rất lớn đối với các công ty phải nhập nhiều máy móc thiết bị của nước ngoài
Đây là một số khó khăn cơ bản mà các doanh nghiệp xây lắp nói chung và CTCPCKLM Sông Đà nói riêng đang gặp phải.Chính phủ cần có những chính sách đồng bộ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện nay khi tiến hành thi công các công trình.
3.2.2 Những kiến nghị hoàn thiện công tác kế toán hạch toán chi phí và tính giá thành tại CTCPCKLM Sông Đà
3.2.2.1 Kiến nghị đối với công tác lập, luân chuyển chứng từ, ghi sổ và lên bảng báo cáo
Trong công ty, vị trí của hệ thống chứng từ là hết sức quan trọng. Đây là cơ sở để ghi nhận những nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh trong kỳ kế toán. Chứng từ sau khi luân chuyển sẽ được lưu trữ, trở thành tài liệu quan trọng hàng đầu phục vụ cho hạch toán cuối kỳ và công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động kế toán. Do đặc điểm kinh doanh của công ty, công tác kế toán gặp rất nhiều khó khăn cần khắc phục, trong đó có quá trình lập và luân chuyển chứng từ. Chứng từ được lập tại các chi nhánh nếu là chứng từ liên quan tới những chi phí trực tiếp phát sinh tại công trường. Ví dụ như chứng từ nhập, xuất nguyên vật liệu, mua các yếu tố đầu vào, bảng chấm công, chấm lương,…Những chứng từ này do cán bộ kế toán chi nhánh lập, ghi sổ rồi đưa vào lưu trữ. Cuối mỗi kỳ kế toán, toàn bộ lượng chứng từ này sẽ được chuyển về phòng kế toán của công ty. Như vậy, quá trình này chưa hợp lý. Vì cuối mỗi kỳ kế toán, toàn bộ lượng chứng từ được chuyển đồng loạt từ hơn 30 công trình, 4 chi nhánh sẽ rất nhiều. Quá trình luân chuyển chứng từ không thể tránh khỏi sai sót, dẫn đến lẫn lộn, mất mát. Khi chuyển về phòng Kế toán, nhân viên kế toán không thể theo dõi, phân loại, kiểm tra được hết những chứng từ này. Nguy cơ sai phạm rủi ro, gian lận là khó tránh khỏi.
Thiết nghĩ, công ty có thể liên tục cử các đoàn kiểm tra định kỳ và đột xuất tới các chi nhánh, các công trình đang thi công để kiểm tra quá trình lập, ghi sổ và luân chuyển chứng từ so với thực tế nhằm đánh giá đúng những khoản chi phí phát sinh, tránh trường hợp công trình bị rút ruột hay khai khống chi phí, giá thành.
Quá trình ghi sổ ở công ty cũng chia thành hai giai đoạn khá rõ ràng. Giai đoạn 1, những chứng từ phát sinh sẽ được tổ chức ghi sổ kế toán tại các chi nhánh. Cuối kỳ kế toán, thường là quý, số liệu kế toán được chuyển về phòng Kế toán. Tại đây sẽ lập các bảng báo cáo, trong đó có báo cáo về chi phí, giá thành cho từng công trình, hạng mục công trình. Việc phân chia rõ ràng nhiệm vụ như vậy sẽ tạo điều kiện cho công tác tập hợp chi phí và tính giá thành. Tuy nhiên, việc kiểm tra, kiểm soát sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhiệm vụ ghi sổ và lên báo cáo về bản chất là có quan hệ rất logic với nhau. Nếu tách ra làm hai nhiệm vụ cụ thể, khả năng so sánh, đối chiều không còn nữa. Điều này là không tốt, nếu xét trong điều kiện công ty có quy mô lớn, tính chất ngành nghề đặc thù và nhiều yếu tố khác.
Công tác kế toán máy của công ty hiện nay vẫn đang còn một số vướng mắc nhất định. Quá trình vận dụng phần mềm kế toán vào trong việc ghi sổ còn một số bất cập do chưa khai thác hết tính năng của phần mềm kế toán. Một số bảng báo cáo tổng hợp, nhất là các bảng báo cáo tổng hợp lớn vẫn phải làm thủ công trên phần mềm Excel và chưa có sự liên kết chặt chẽ thông tin đối với phần mềm kế toán của toàn bộ công ty.
3.2.2.2 Kiến nghị với quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành
Khác với những loại hình doanh nghiệp khác, tại CTCPCKLM Sông Đà, quá trình hạch toán tập hợp chi phí và tính giá thành chia thành 4 khâu: lập dự toán, lập giá thành kế hoạch, tập hợp chi phí, tính giá thành thực tế. Quá trình lập dự toán và giá thành kế hoạch do phòng Kinh tế - Kế hoạch thực hiện vào đầu kỳ hay trước khi thi công một hạng mục công trình nào đó. Tập hợp chi phí và tính giá thành được phòng Kế toán phân về các chi nhánh hạch toán trực tiếp. Điều này là hợp lý, phản ánh đúng khả năng chuyên môn phù hợp của từng phòng chức năng tại công ty. Tuy nhiên, sự phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ giữa phòng Kế toán và phòng Kinh tế - Kế hoạch cần tốt hơn nữa, đảm bảo thực hiện có chất lượng nhiệm vụ được giao.
Bởi vì, giá thành dự toán và giá thành kế hoạch là cơ sở so sánh, đối chiếu những khoản chi phí phát sinh trong quá trình thi công cũng như khối lượng công tác xây lắp đã hoàn thành để tính giá thành thực hiện thực tế công trình. Mặt khác, giá thành thực tế trong kỳ lại là cơ sở điều chỉnh dự toán và giá thành kế hoạch cho kỳ sau. Như vậy, quan hệ giữa bốn khâu này là hết sức chặt chẽ, đảm bảo cho quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành. Vì vậy, nếu các phòng chức năng này không có khả năng phối kết hợp với nhau sẽ ảnh hưởng rất lớn tới công tác kế toán chung toàn đơn vị.
Trong khi hạch toán chi tiết tại các công trình, hạng mục công trình, hệ thống tài khoản kế toán được mở riêng cho công trình, hạng mục công trình đó. Vì vậy, hệ thống các tài khoản con được mở theo yêu cầu hạch toán chi tiết tại đó. Đây là điều kiện thuận lợi cho công tác hạch toán chi phí, tính giá thành. Bởi vì mỗi phần việc có đặc thù riêng, cần một hệ thống tài khoản riêng. Tuy nhiên, điều này sẽ gây ra bất hợp lý khi chúng ta tập hợp thông tin, số liệu toàn bộ công ty. Bởi vì, hệ thống tài khoản con được lập theo ý chí chủ quan của những người làm công tác kế toán tại bộ phận cụ thể, khi tập hợp lại, sẽ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế khác nhau (dù có thể cùng tên tài khoản), gây lên rất nhiều khó khăn. Cho nên, phòng Kế toán nên có một hệ thống tài khoản con thường sử dụng, dùng chung cho tất cả các chi nhánh và toàn bộ công ty. Điều này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công tác quản lý chung của công ty, hỗ trợ cho chi nhánh hoàn thành tốt công tác của mình, cũng như phù hợp với quy định của chế độ kế toán và các chuẩn mực kế toán.
Trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành cho từng hạng mục công trình,công ty cần có một số điều chỉ sau nhằm hợp lý hơn nữa công tác kế toán này
- Nguyên vật liệu luôn là yếu tố đầu vào quan trọng trong quá trình xây lắp vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để hoàn thành công trình.Vì vậy, công tác quản lý nguyên vật liệu và đảm bảo quá trình hạch toán chính xác chi phí nguyên vật liệu là rất cần thiết.Bởi vì nguyên vật liệu được nhà cung cấp vận chuyển tới chân công trình theo yêu cầu của công ty nên việc quản lý chất lượng hay giá cả nguyên vật liệu là khó khăn.Vì vậy,công ty nên quản lý thật chặt việc ký các kợp đồng mua hàng thông qua các bảng báo giá thật chính xác với giá cả của thị trường
- Quản lý các yếu tố chi phí nhân công cũng khá phức tạp, nhất là khi công ty tổ chức thuê cả lao động thời vụ.Công ty nên chia tách các bảng chấm công riêng tùy thuộc vào đó là công nhân lao động trực tiếp, lao động thuê ngoài hay công nhân vận hành máy thi công.Dù gộp chung 1 bảng chấm công để theo dõi thì sẽ thuận tiện hơn nhưng lại dễ gây phức tạp nhát là khi có công tác kiểm tra hay hoạt động của công ty kiểm toán tại công ty.
Phòng kế toán cũng nên có những kế hoạch chi tiết về tiêng lương nhát là khi xu hướng tiền lương luôn tăng cao nhằm xác định tốt được xu hướng biến động của khoản mục chi phí này.Mặt khác,chúng ta cũng phải rà soát lại những yếu tố ảnh hưởng tới chi phí nhân công và có những biện pháp cắt giảm phù hợp khi tất cả các yếu tố chi phí đều đồng loạt tăng ảnh hưởng tới giá thành của công trình là rất nhiều
- Chi phí sữ dụng máy thi công là một khoản mục đặc biệt của chi phí trong các công trình xây lắp, bởi tính phức tạp và tổng hợp trong khoản mục chi phí này. Vì vậy, quá trình tập hợp chi phí sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với việc tập hợp chi phí các khoản mục khác. Công ty nên tổ chức hạch toán chi phí nhân công trực tiếp thành các khoản mục chi phí nhỏ hơn, độc lập với nhau. Như vậy, quá trình theo dõi các khoản mục chi phí này sẽ trở lên dễ dàng hơn và thuận lợi cho việc tập hợp chi phí. Ví dụ như chi phí khấu hao máy thi công nên để cho phòng kế toán của công ty tập hợp từ trước, đến cuối kỳ chỉ kết chuyển và phân bổ cho hạng mục chi phí đó.
- Chi phí sản xuất chung là một khoản mục chi phí hay có những biến động bất thường và thường phát sinh nhiều so với thực tế và giá thành kế hoạch. Nguyên nhân cũng do chúng ta không thể lường hết được những vấn đề phát sinh khi tổ chức thi công tại những địa bàn rất khác nhau. Trong tình hình hiện nay, khi mà các doanh nghiệp xây lắp đang gặp rất nhiếu khó khăn thì việc quản lý thật chặt chi phí sản xuất chung nhằm cắt giảm tối đa các yếu tố chi phí, hạ giá thành công trình là một đòi hỏi tiên quyết. Chi phí sản xuất chung thường là chi phí điện,nước, chi phí tiền lương, quản lý doanh nghiệp, chi phí công cụ dụng cụ nên rất dễ phát sinh và cũng dễ cắt giảm, tùy thuộc vào khả năng quản lý các yếu tố chi phí của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên rà soát lại các yếu tố chi phí và tiết kiệm tới mức tối đa.
3.2.2.3 Kiến nghị với công tác kế toán quản trị và phân tích kinh doanh
Trong xu hướng phát triển hiện nay, vai trò của công tác kế toán quản trị và phân tích kinh doanh tại các doanh nghiệp là hết sức quan trọng, nhất là khi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Công tác kế toán tài chính nói chung, phần hành kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành nói riêng sẽ ngày càng bộc lộ những điểm yếu của mình ảnh hưởng tới chất lượng thông tin kế toán cung cấp cho Ban Giám đốc và Hội đồng Quản trị. Thông tin kế toán tài chính tập hợp số liệu về những nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong quá khứ. Vì vậy, chỉ có thể phản ánh một cách khá trung thực những gì đã xảy ra chứ không thể dự toán được xu thế phát triển cho tương lai. Trong khi đó, nhu cầu dự báo sớm thông tin tại các doanh nghiệp ngày càng quan trọng, quyết định tới chiến lược phát triển trong tương lai.
Kế toán quản trị có khả năng làm được điều này. Đó là một điểm mạnh mà kế toán tài chính không thể có được. Dựa vào những thông tin kế toán, kế toán quản trị có thể phân tích, đánh giá được hiệu quả, mức độ tiết kiệm chi phí của từng công trình, hạng mục công trình cũng như các chi nhánh của công ty với nhau. Bên cạnh đó, kế toán quản trị có thể đưa ra những thông tin kế toán trong tương lai, tạo cơ sở cho những quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc. Điều này thực sự cần thiết và quan trọng. Bên cạnh đó, xu hướng sử dụng kế toán quản trị trong quản lý chi phí hiện nay là rất lớn, thường được gọi là “Kế toán chi phí”. Bởi vì, tại các doanh nghiệp nói chung, tại CTCPCKLM Sông Đà nói riêng, quản lý chi phí là nhiệm vụ hàng đầu của bộ máy kế toán, quyết định tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, có một phương pháp kế toán chi phí mới, thường được gọi là “kế toán chi phí mục tiêu”. Tức là công ty phải lên kế hoạch cho công trình một cách chi tiết trước khi thực hiện công trình đó. Đây sẽ là cơ sở để quyết định có thực hiện công trình đó không, thực hiện với giá thầu là bao nhiêu.
Tuy nhiên, để có thông tin kế toán quản trị và chi phí, giá thành một cách chính xác, công ty phải tổ chức tốt hơn nữa công tác phân tích hoạt động kinh doanh. Qua quá trình phân tích chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình, ta có được thông tin chính xác về tình hình thi công, khả năng thực hiện những khối lượng xây lắp theo dự toán và kế hoạch đã đề ra. Đây là cơ sở điều chỉnh tăng hay giảm khối lượng thi công trong kỳ kế tiếp, cũng như đánh giá được khả năng xây lắp từng đội sản xuất, từng chi nhánh. Từ đó, chúng ta sẽ có điều kiện phân công nhiệm vụ, điều chuyển lực lượng thi công cho phù hợp với tình hình thực tế, độ phức tạp, quy mô,…của từng công trình nhận thầu.
Bên cạnh sự phát triển của kế toán quản trị và phân tích kinh doanh cùng với kế toán tài chính, chúng ta phải lưu ý tới sự kết hợp có hiệu quả của ca 3 hình thức này. Điều đó mới đảm bảo cho sự thành công chung của quá trình cung cấp thông tin cho những đối tượng khác nhau có nhu cầu.Bởi vì hiện nay CTCPCKLM Sông Đà đã niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán Hà Nội từ cuối năm 2006 sau khi cổ phần hóa năm 2006.Vì vây, tất yếu công ty phải minh bạch hóa thông tin cho công chúng.Thông tin chi phí giá thành trở thành một luồng thông tin rất quan trọng và được nhiều đối tượng quan tâm.Cho nên việc kết hợp cho uyển chuyển các nguồn thông tin với nhau là hết sức quan trọng
3.2.2.4 Kiến nghị đối với công tác tổ chức hạch toán, kiểm tra, kiểm soát quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Kế toán trưởng công ty có toàn quyền quyết định tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành công trình xây lắp của công ty. Những người có nhiệm vụ trực tiếp hạch toán phân theo chi nhánh, từ chi nhánh được điều về tận công trình đang thi công để thực hiện nhiệm vụ hạch toán, kế toán. Số liệu, thông tin kế toán sẽ được chuyển về đội kế toán tại chi nhánh và phòng Kế toán công ty. Như vậy, số liệu tổng hợp chỉ phải thực hiện ở cuối kỳ kế toán. Nhiệm vụ hạch toán như vậy thực sự chưa phù hợp. Bởi vì, tại phòng Kế toán cuối kỳ, thường có lượng số liệu rất nhiều. Công tác kế toán thường căng thẳng. Công ty nên tổ chức tiếp nhận chứng từ liên tục, giảm tải công tác kế toán cuối kỳ, cũng như tránh những sai sót cuối kỳ. Như vậy, công tác kế toán được thực hiện liên tục, hiệu quả chắc chắn sẽ cao hơn.
Vai trò theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình hạch toán và tập hợp chi phí và tính giá thành là nhiệm vụ của Kế toán trưởng, đại diện cao nhất cho công tác kế toán của công ty. Bên cạnh đó là vai trò của Ban kiểm soát, đại diện cho Đại Hội đồng Cổ đông. Ban Kiểm soát cũng có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát công tác kế toán của đơn vị, nhất là những số liệu liên quan tới chi phí giá thành. Tuy nhiên, Ban Kiểm soát thường kiểm tra, giám sát thông qua số liệu kế toán cuối kỳ. Điều này chưa hợp lý, ảnh hưởng tới chất lượng thông tin kế toán cung cấp cho cổ đông. Những ông chủ thực sự của công ty.
Hiện nay tại công ty, thành viên Ban Kiểm soát lại có cả Kế toán trưởng, sẽ ảnh hưởng tới tính độc lập của thông tin kế toán cung cấp. Vì vậy, công ty nên tổ chức Ban Kiểm soát là những thành viên có kinh nghiệm, không tham gia vào công tác quản lý công ty. Như vậy, tính độc lập sẽ được nâng cao, mức độ tin cậy của thông tin kế toán do Ban Kiểm soát cung cấp cũng vì vậy mà tăng lên.
KẾT LUẬN
Tuy là một doanh nghiệp còn khá non trẻ (thành lập năm 2004 và chuyển đổi thành công ty cổ phần năm 2006) nhưng tới nay, CTCPCKLM Sông Đà đã có những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những công ty cơ khí, lắp máy hàng đầu ở Việt Nam. Để đạt được những thành quả to lớn ấy, có sự đóng góp hết mình từ công sức, trí tuệ của những cán bộ, kỹ sư toàn công ty cũng như những người làm công tác kế toán nói riêng. Hiện nay, các công trình của công ty đang trải dài trên khắp mọi miền đất nước, sang cả nước bạn CHDCND Lào, tất cả vì mục tiêu phát triển vững mạnh của Tổng Công ty Sông Đà, đem đến dòng điện ngày mai cho đất nước.
Trước tình hình hiện nay, công tác tập hợp chi phí và tính giá thành các công ty tuy đã hoàn thành nhiệm vụ được giao nhưng do những khó khăn chủ quan và khách quan, vẫn bộc lộ những thiết sót cần khắc phục liên tục. Chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Hoàn thiện công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà” đã cố gắng phản ánh một cách trung thực nhất quy trình hạch toán chi tiết chi phí, giá thành tại công ty, đưa ra một số nhận định và kiến nghị nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu thông tin ngày càng cao của thực tiễn. Đặc biệt trong tình hình sản xuất kinh doanh đang có nhiều khó khăn như hiện nay tại các công ty xây lắp khi mà tất cả các yếu tố chi phí đều tăng lên chóng mặt.
Một số giải pháp đưa ra có thể là cơ sở cho việc đổi mới quy trình hạch toán tại công ty, nâng cao hiệu quả hạch toán. Bởi vì, trong tình hình hiện nay, yếu tố quản lý chi phí và tính giá thành ngày càng giữ một vị trí chiến lược trong quá trình sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng to lớn tới kết quả kinh doanh. Nếu công ty quản lý tốt chi phí, nó sẽ trở thành chìa khóa mở ra những cánh cửa mới, cơ hội mới cho sự phát triển lớn mạnh của công ty trong tương lai.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2004, 2005 và năm 2006
Bảng 2: Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của Công ty năm 2004, 2005 và 9 tháng đầu năm 2006
Bảng 3: Dự toán chi phí lắp đặt các máy thi công tại công trình thủy điện Sêsan 3A
Bảng 4: Dự toán chi phí lắp đặt máy phát tại công trình Thủy điện Sêsan 3A
Bảng 5: Gía thành kế hoạch hạng mục công trình lắp đặt máy phát điện
Bảng 6: Phiếu xuất kho
Bảng 7: Bảng kê mua hàng
Bảng 8: Bảng chấm công
Bảng 9: Bảng thanh toán tiền lương
Bảng 10: Bảng thanh toán tiền lương thuê ngoài
Bảng 11: Bảng thanh toán tiền lương
Bảng 12: Bảng kê mua hàng
Bảng 13: Bảng thanh toán lương
Bảng 14: Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội
Bảng 15: Bảng kê mua hàng
Bảng 16: Sổ nhật ký chung
Bảng 17: Sổ cái TK 621
Bảng 18: Sổ cái TK 622
Bảng 19: Sổ cái TK 623
Bảng 20: Sổ cái TK 624
Bảng 21: Bảng tổng hợp chi phí các hạng mục công trình thủy điện Sêsan 3A (quý I/2007)
Bảng 22: Bảng tổng hợp chi phí các công trình đang thi công của công ty CPCKLMSĐ (quý I/2007)
Bảng 23: Giá thành hạng mục công trình “lắp đặt máy phát nhà máy thủy điện Sêsan 3A”
Bảng 24: Bảng tổng hợp giá thành các hạng mục công trình thủy điện Sêsan 3A (quý I/2007)
Bảng 25: Bảng tổng hợp chi phí và giá thành toàn bộ các công trình (quý I/2007)
Bảng 26: Bảng so sánh dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành thực tế hạng mục “lắp đặt máy phát tại công trình thủy điện Sêsan 3A” (quý I/2007)
Bảng 27: Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ xuất dùng cho hạng mục công trình “lắp đặt máy phát nhà máy thủy điện Sêsan 3A”(qúy I năm 20
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức của công ty
Sơ đồ 2: Bộ máy kế toán của công ty
Sơ đồ 3: Trình tự ghi sổ tổng hợp chi phí và giá thành tại công ty
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTCPCKLM Sông Đà: Công ty Cổ phần Cơ khí Lắp máy Sông Đà
TT: thông tư
QĐ: quyết định
BTC: Bộ Tài chính
BXD: Bộ Xây dựng
SOMECO: viết tắt tiếng Anh của tên công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
CP: chi phí
GT: giá thành
NVL: nguyên vật liệu
NC: nhân công
SXKD: sản xuất kinh doanh
TSCĐ: tài sản cố định
HASTC: sàn giao dich chứng khoán Hà Nội
SXC: sản xuất chung
KH: khấu hao
TK: tài khoản
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khoa Kế toán – ĐH Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Kế toán tài chính, NXB ĐH KTQD, 2007
Khoa Tài chính – Ngân hàng, ĐH Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Lao động, 2004
Khoa Kế toán – ĐH Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán, NXB Tài chính, 2003
Bộ Tài chính – Chế độ Kế toán doanh nghiệp, NXB Tài chính, 2006
Thông tư số 05/2008/TT – BXD ngày 22 tháng 02 năm 2008
Thông tư số 01/1999/TT – BXD ngày 16 tháng 01 năm 1999
Thông tư số 13/2006/TT – BTC ngày 27 tháng 02 năm 2006
Bảng quyết toán tài chính của CTCPCKLM Sông Đà năm 2007
Các trang thông tin điện tử
www.moc.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.tapchiketoan.com.vn
www.vneconomy.vn
MỤC LỤC
NhËn xÐt cña gi¸o viªn híng dÉn
NhËn xÐt cña gi¸o viªn ph¶n biÖn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kế toán chi phí và tính giá thành phẩm tại Công ty Cổ phần Cơ khí lắp máy Sông Đà.docx