Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến đầu tư nước ngoài và Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Gần 25 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức ấn tượng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Từ một nước có nền kinh tế kém phát triển, xuất phát điểm và tốc độ tăng trưởng rất thấp, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và luôn được nhìn nhận như là một trong những trụ cột đóng góp có hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong suốt thời kỳ tiến hành đổi mới kinh tế, FDI luôn chiếm khoảng 16%-20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam. Bên cạnh việc bổ sung nguồn vốn đầu tư, FDI là kênh quan trọng để thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực và đăc biệt, góp phần tích cực thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Điều đáng chú ý nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cùng với việc cải thiện mạnh mẽ khuôn khổ luật pháp về đầu tư và môi trường kinh doanh từ cuối năm 2006, Việt Nam đã có bước bứt phá ngoạn mục bằng làn sóng thứ hai về thu hút FDI với đỉnh cao của nó là năm 2008, lần đầu tiên đạt được con số thu hút FDI kỷ lục: hơn 64 tỷ USD vốn đăng ký và trên 11,4 tỷ USD vốn thực hiện. Tuy nhiên, chiều hướng này đã không thể tiếp tục khi thế giới từ nửa cuối năm 2008 đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu “trăm năm mới có một lần”. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã có tác động to lớn đến nhịp độ tăng trưởng, khả năng mở rộng xuất khẩu và đầu tư ở mọi nền kinh tế. Tình hình càng đặc biệt nghiêm trọng đối với các nền kinh tế có độ mở thị trường cao, tăng trưởng dựa trên đẩy mạnh xuất khẩu và FDI trở thành một bộ phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội như ở Trung Quốc và Việt Nam. MỤC LỤC I. Giới thiệu về cuộc khủng hoảng II. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng III. Đầu tư gián tiếp FII(FPI) 1. Khái niệm 2. Các loại hình FPI: 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FPI: 4. Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006-2008 5. Sự cần thiết và tiềm năng thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tại Việt Nam IV. Đầu tư trực tiếp FDI 1. Khái niệm 2. Vai trò của FDI trong 20 năm đổi mới nền kinh tế của Việt Nam vừa qua 3. Bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và vai trò của FDI 4. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 5. Nhân tố tác động đến thu hút FDI: 6. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2006 V. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam Chính sách khắc phục kinh tế của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008: Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá: Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu: Đảm bảo an sinh xã hội: Đối với vấn đề thu hút và sử dụng FDI Đối với thị trường chứng khoáng Kết quả đạt được của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng Đầu tư phát triển Lạm phát và giá cả: Thu chi ngân sách Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại An sinh xã hội: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam I GIỚI THIỆU CUỘC KHỦNG HOẢNG Như chúng ta đã thấy răng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt kỷ lục vào năm 2008 với trên 64 tỷ USD tăng 222% so với năm 2007, tình hình trên thế giới cùng thời điểm theo nhận định nhiều chuyên gia diễn biến của thị trường bất động sản năm 2008 là năm kỳ lạ nhất từ trước đến giờ, giá nhà đất liên tục xụt giảm, chứ không như trước đây giá nhà đất chỉ đứng yên và có chiều hướng đi lên chứ không bao giờ đi xuống và cũng chính năm này đây đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính có tầm ảnh hưởng đến hầu như tất cả các nước trên thế giới và nhất là các nước có nền kinh tế mạnh như Mỹ, EU và đặc biệt là hàng loạt các sự kiện sảy ra ở phố Wall nổi bật là lehman Brothers, American International Group đã xụp đổ trong năm nay tại sao chỉ trong năm 2008 này sảy ra hàng loạt các sự kiện tài chính kinh điển chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân tại sao, tác động của nó đến nền kinh tế như thế nào và cùng tìm ra các biện pháp tốt nhất cho các quốc gia II NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008  Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt giảm lãi suất. Chính sách tiền tệ mở rộng đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế. Đến giữa năm 2002, nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhưng mối lo ngại về việc suy thoái có thể quay trở lại đã khiến Chủ tịch FED, Alan Greenspan, và đồng nghiệp quyết định giữ nguyên lãi suất chỉ đạo ở mức 1% trong suốt 2 năm 2003 và 2004.  Hơn nữa giá nhà từ cuối năm 2002 lại liên tục tăng, khiến cho tất cả các chủ thể đầu muốn kiếm lợi từ hoạt động kinh doanh này đặc biệt là các dân ngèo muốn đổi đời, vay tiền ngân hàng với lãi suất thấp và đầu tư mua bất động sản.  Cơ chế cho vay và cổ phiếu hóa: o các ngân hàng cho vay tín dụng dưới chuẩn và thu giấy nợ, sau khi thu các giấy nợ ngân hàng thực hiện chứng khoán hóa, ở đây ta gọi là chứng khoán nợ, và sau đó ngân hàng bán chứng khoán nợ này dưới dạng trái phiếu, một điều đặc biệt ở đây là trái phiếu được phân chia ra thành nhiều gói được định mức tín nhiêm với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và có cuống lãi suất khác nhau o Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2651 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến đầu tư nước ngoài và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(khoảng 8% năm) trong nhiều năm, đã có dự trữ ngoại tệ đáng kể (khoảng 20 tỷ USD năm 2008), cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đã được cải thiện rõ rệt và vị thế của Việt Nam đã được nâng cao trong cộng đồng quốc tế. Dù vậy, gần đây nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức của lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh (dự kiến 6/5-6.7%). 3.2. Sau 5 năm thực hiện BTA, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và đã trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2006. Việc gia nhập WTO đã tạo ra sự “đột phá” trong hội nhập quốc tế của Việt Nam và đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo cộng đồng kinh doanh quốc tế, trong đó đặc biệt là giới đầu tư nước ngoài. Bối cảnh phát triển mới này đã giúp Việt Nam có nhiều cơ hội được “lựa chọn” các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải mở cửa hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ việc thực hiện các qui định của WTO. 3.3. Thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi hơn so với thập kỷ của thời kỳ đầu thực hiện chính sách đổi mới. Các lợi thế “có tính tự nhiên” trong thu hút FDI đã mất dần hấp dẫn. Giá lao động đã tăng cao và xuất hiện nhiều vụ đình công, thiếu hụt lao động có tay nghề, nhiều lĩnh vực đầu tư thu hồi vốn nhanh, hấp dẫn đã bão hoà. Cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ kỹ thuật, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Khả năng hấp thụ vốn FDI do vậy đã đến mức ‘bão hòa’. Mặt khác, trong những năm gần đây, thị trường tài chính ở Việt Nam đã phát triển khá mạnh và đầu tư nước ngoài gián tiếp (FPI) cũng gia tăng nhanh, dòng vốn FPI ròng ước đạt khoảng 6 tỷ USD năm 2007, chiếm 50% tổng lượng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam1. Thêm vào đó, nguồn vốn kiều hối chuyển về nước hàng năm cũng rất lớn, năm 2006 là 6,82 tỷ USD, đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Philippines (14,8 tỷ USD)2. Con số này tương đương với 11,21% GDP và tính bình quân mỗi người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước trong năm 2006 là 3.398,42 USD. Tính chung ở châu Á, Việt Nam đứng hàng thứ tư về số tiền gửi về, sau Ấn Độ (24,5 tỷ USD), Trung Quốc (21,07 tỷ USD) và Philippines. Số tiền người Việt Nam gửi về nước trong năm 2007 là trên 7,5 tỷ USD. Vụ quản lý ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết lượng kiều hối chuyển về Việt Nam vẫn trong xu hướng tăng và dự kiến năm 2008 có thể đạt tới 8 tỷ USD. Do đó, vai trò của FDI đối với bổ sung vốn đầu tư mặc dù vẫn còn quan trọng nhưng không còn bức thiết như những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Trái lại, nếu nguồn vốn vào quá nhiều so với năng lực hấp thụ hạn chế trong nước thì có nguy cơ làm phá vỡ nhiều kết cấu kinh tế trong nước, trong đó đặc biệt là sự quá tải của cơ sở hạ tầng, thiếu hụt năng lượng, v.v. 3.4. Mặt khác, gần đây tình hình lạm phát cao, vượt qua 9% trong 3 tháng đầu năm và tăng tới 15% vào tháng 5/ 2008, suy giảm kinh tế toàn cầu đã làm cho nền kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chính sách thắt chặt tiền tệ và hàng loạt giải pháp chống lạm phát đang làm tụt giảm mạnh tốc độ tăng trưởng (có nhiều khả năng sẽ thấp hơn năm 2008) và nền kinh tế đang có nguy cơ lâm vào tình trạng giảm phát. Khu vực quốc doanh vốn được coi là “xương sống” của nền kinh tế, chiếm tới xấp xỉ 50% vốn đầu tư xã hội nhưng chỉ đóng góp được 37-39% GDP, tạo khoảng 9,7 % tổng số việc làm trong nền kinh tế và ít liên kết được với khu vực FDI. Năm 2000 đến 2005 đều có mức tăng trưởng > 7,1%, năm 2005 tăng trưởng 7,36%, nhưng phần đóng góp vào mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế đã giảm tương đối (năm 2004: 3,19 điểm trong 7,79 điểm, năm 2005: 3,02 điểm trong 8,43 điểm). Trong khi đó, khu vực dân doanh (khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài) chỉ chiếm 14,8% vốn đầu tư xã hội nhưng lại đóng góp được 50% GDP và thu hút được khoảng 90,4% việc làm của cả nước. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ngày càng chiếm vị thế quan trọng hơn, góp phần cho mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế là 3,88 điểm trong mức tăng trưởng toàn nền kinh tế là 8,43%. Điều đáng ghi nhận ở đây là mức tăng trưởng GDP do thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tăng liên tục, năm 2003 (6,36%), 2004 (6,95%), 2005 (8,19%)- nhanh hơn thành phần Nhà nước và toàn nền kinh tế, đặc biệt thành phần kinh tế tư nhân có mức độ tăng trưởng nhanh nhất trong tất cả các thành phần kinh tế, từ 2001-2005 đều tăng trên 10% mỗi năm; riêng năm 2005 tăng 14,1%, đóng góp vào mức tăng trưởng chung toàn nền kinh tế 1,295 điểm. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng liên tục tăng, mức tăng trung bình một năm thời kỳ 2001-2005 là 9,95; riêng năm 2005 tăng 13,2%, góp phần tăng trưởng chung toàn nền kinh tế là 1,526 điểm. Hiện nay và dự báo trong năm 2009, khu vực dân doanh, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp rất nhiều khó khăn và có nguy cơ bị phá sản hàng loạt. 3.5. Trong bối cảnh phát triển có nhiều thay đổi như đã nêu, rõ ràng vai trò của FDI đối với nhu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới cũng cần phải được nhìn nhận lại. Có nhiều khía cạnh để xem xét, song trước hết, phải từ nhận thức, quan điểm, sau đó đến các chính sách, biện pháp điều tiết các hoạt động thu hút và sử dụng FDI 3.6. Cho đến nay, không còn nghi ngờ gì về vai trò quan trọng của FDI đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, lý thuyết và thực tiễn cho thấy mục tiêu của FDI là lợi nhuận nên có nhiều khác biệt với các mục tiêu phát triển của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào những dự án sử dụng được lợi thế của họ, khai thác những hấp dẫn của nước chủ nhà để đầu tư vào những dự án có khả năng sinh lợi cao, trong khi nước chủ nhà lại muốn sử dụng FDI để giải quyết nhiều vấn đề của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Biểu hiện rất rõ là trong khi Chính phủ Việt Nam luôn mong muốn, khuyến khích mạnh FDI đầu tư vào các ngành nông, lâm thuỷ sản, công nghiệp nhẹ, đồ điện, điện tử gia dụng, công nghệ phần mềm và các ngành công nghiệp phụ trợ thì các nhà đầu tư nước ngoài lại muốn đầu tư vào ngành bất động sản, sân golf, vui chơi giải trí, khai thác khoáng sản, công nghiệp nặng,…( xem bảng 1). Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2008 (tính tới ngày 22/10/2008 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)- Trang 20-21. 3.7. Việt Nam cần thu hút và sử dụng “có lựa chọn” FDI hơn là đơn thuần chỉ “chiều theo ý các nhà đầu tư nước ngoài” như thời gian vừa qua. FDI sẽ có hiệu quả cao hơn, đạt được sự bền vững tốt hơn đối với nền kinh tế Việt Nam nếu các dự án FDI tạo ra được nhiều liên kết với các ngành sản xuất nội địa, nâng cao phần giá trị gia tăng, đẩy mạnh tác động lan tỏa, ít tiêu tốn năng lượng, không làm cạn kiệt các nguồn nguyên liệu tự nhiên, hạn chế được ô nhiễm môi trường, chuyển giao công nghệ hiện đại và thúc đẩy xuất khẩu. Nếu FDI được sử dụng một cách “khôn khéo” theo định hướng đã nêu thì vai trò của FDI sẽ rất lớn. Kinh nghiệm thành công gần đây của Trung Quốc trong điều chỉnh chính sách FDI là những minh chứng rất rõ về vai trò quan trọng của FDI đối với phát triển của Trung Quốc sau khi là thành viên của WTO. 3.8. Liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng hàng hoá với các doanh nghiệp FDI sẽ giúp nhiều doanh nghiệp nội địa hoà nhập được mạng lưới sản xuất quốc tế, nâng cao được phần giá trị gia tăng của FDI ở Việt Nam và cũng tạo được nhiều tác động lan tỏa tích cực trong nền kinh tế. Thực tế hiện nay, liên kết này còn hạn chế nên vai trò của FDI còn thấp, tác động lan toả tích cực chưa rõ rệt. Bảng 1 cho thấy, FDI chuyển hướng đầu tư nhiều vào các ngành “phi thương mại” như thời gian gần đây, đặc biệt là từ năm 2007 không tạo được nhiều các liên kết sản xuất nội địa. Trái lại, nếu đầu tư quá vào bất động sản và Chính phủ không kiểm soát được chặt chẽ sẽ có nguy cơ tiềm ẩn dẫn tới những bất ổn cho kinh tế vĩ mô, thậm chí có thể gây ra khủng hoảng. Thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 và ở Mỹ gần đây đã cho thấy rất rõ hậu quả này. Mặt khác, FDI đầu tư nhiều vào các dự án khai thác tài nguyên, công nghiệp nặng sẽ làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn nguyên liệu tự nhiên và đặc biệt là tăng ô nhiễm môi trường. Do vậy, vai trò của FDI phụ thuộc rất quan trọng vào chính sách khuyến khích thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam. 3.9. Với tiềm lực công nghệ của Việt Nam như hiện nay sẽ rất khó có thể tự phát triển mạnh được nếu không dựa vào bên ngoài. Trong những thập kỷ đổi mới vừa qua, FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong phát triển năng lực công nghệ của Việt Nam. Trong thời gian tới, vai trò này lại càng đặc biệt quan trọng, vì nó góp phần chủ yếu trong nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều dự án FDI sử dụng công nghệ cao đang gặp khó khăn về thiếu trầm trọng nguồn lao động kỹ thuật và hạ tầng kỹ thuật còn nhiều hạn chế; điển hình là Tập đoàn IBM với việc mở Trung tâm Dịch vụ Toàn cầu tại Việt Nam. Hãng cho biết sẽ tuyển dụng bước đầu khoảng 250 chuyên gia CNTT vào làm việc và tùy thuộc vào tốc độ phát triển, Trung tâm này có thể tiếp nhận từ 3.000 – 5.000 lao động trẻ Việt Nam có trình độ cao về CNTT vào làm việc, nếu Việt Nam có đủ 20.000 lao động đáp ứng được yêu cầu của IBM, tập đoàn này cũng sẽ tiếp nhận1. Kinh nghiệm của Malayxia đã cho thấy vai trò chuyển giao công nghệ hiện đại của các dự án FDI rất hạn chế trong những năm đầu 1990 vì thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật, trong đó đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin (IT). Nhận thức được hạn chế này, Chính phủ Malayxia đã nhanh chóng đầu tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực công nghệ bằng con đường mở cửa khuyến khích các đại học tiên tiến ở nước ngoài vào Malayxia. Sau một thời gian ngắn, Malayxia đã có được đội ngũ lao động có kỹ thuật, công nghệ cao, nhờ đó đã khuyến khích rất hiệu quả các dự án FDI chuyển giao công nghệ hiện đại. Bài học thành công của Malayxia rất đáng để Việt Nam tham khảo. 3.10. Đối với Việt Nam, xuất khẩu đã, đang và vẫn sẽ là một trong những trụ cột chủ yếu của tăng trưởng. Trong bối cảnh các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn do lạm phát cao, năng lực cạnh tranh thấp thì vai trò của FDI duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước sẽ càng đặc biệt quan trọng. Dù vậy, một mặt, các doanh nghiệp FDI cũng đang gặp khó khăn do nền kinh tế toàn cầu suy thoái, mặt khác, do xu hướng FDI ngày càng tăng vào các ngành “phi thương mại” như đã nêu thì vai trò của FDI đối với xuất khẩu sẽ bị hạn chế. Do đó, Chính phủ nên khuyến khích mạnh các dự án FDI đầu tư tạo hàng xuất khẩu trong các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh, trong đó đặc biệt là những sản phẩm có “lợi thế so sánh động” như trong các lĩnh vực đồ điện, điện tử gia dụng, máy tính, phần mền, công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài: Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tùy theo luật đầu tư của các nước và thường có các hình thức sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-operation) là văn bản được kí kết giữa hai bên (các bên tham gia) trong đó quy định trách nhiệm và phần chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà. Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise) là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên kết của các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo luật pháp của nước chủ nhà; các bên tham gia liên doanh sẽ chịu trách nhiệm lẫn nhau trong phạm vi phần vốn góp của mình vào liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (Enterprise with 100% foreign owned capital) là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Dưới hình thức này cũng có các dạng công ty: công ty TNHH, công ty tư nhân,… Hợp đồng “xây dựng – kinh doanh – chuyển giao” (Building – Operate – Transfer – BOT) là văn bản mà chính phủ nước chủ nhà ký với các nhà đầu tư bên ngoài để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn lãi. Khi hết hạn công trình sẽ được nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà mà không đòi bồi hoàn. Có nhiều loại hình tương tự như BOT: xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), xây dựng – chuyển giao (BT),… Nhân tố tác động đến thu hút FDI: - Lợi nhuận: đây là động lực mạnh mẽ và bao quát nhất tạo ra và chi phối những dòng FDI - Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư: Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế chính trị của vốn FDI vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Những bất ổn định kinh tế chính trị không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi "trú ẩn" mới an toàn và hấp dẫn hơn. - Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích ĐTNN: Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa để bảo đảm khả năng xuất - nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN. - Sự phát triển của cơ sở hạ tầng: đây là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ ĐTNN sự an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt sử dụng mua bán đất đai, bất động sản mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì họ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn vào các dự án trên lãnh thổ nước và địa phương tiếp nhận đầu tư. - Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học và công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn: Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để một nước và địa phương vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp dẫn các nhà ĐTNN. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư , làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước và địa phương. - Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai: Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2006: Năm 2006 - Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 10.2 tỷ USD, tăng 57% so với năm 2005 và đạt mức cao nhất về vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến hết năm 2006. - Vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua (tính đến năm 2006). Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong cả năm khoảng 4.1 tỷ USD, tăng 24.2% so với năm 2005. - Chất lượng các dự án ngày càng được nâng cao, có nhiều dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia. Trong đó phải kể đến dự án đầu tư của tập đoàn Intel tại thành phố Hồ Chí Minh có tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD; dự án sản xuất thép tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của tập đoàn Posco Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư khoảng 1.1 tỷ USD; dự án xây dựng nhà mày cán thép tại Khu Kinh Tế Dung Quất của Công Ty Tycoons Worldwide Steel với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD…. - Cơ cầu đầu tư có sự chuyến biến tích cự theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, lĩnh vực y tế.. bên cạnh đó cũng có nhiều ngành công nghiệp nặng như sản xuất máy fax, máy in laze, sản xuất thép… - Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế về vốn đầu tư nước ngoài đạt được nhiều kết quả ngoài mong đợi. Trong năm 2006 đã có thêm 250 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động làm tăng năng lực sản xuất của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29.4 tỷ USD, tăng 31.3% so với năm 2005. Doanh thu xuất khẩu đạt 14.5 tỷ USD ( không kể dẩu thô), tăng 30.1% và đạt 22.6 tỷ USD ( chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước) nếu tính cả dầu thô. Năm 2007 - Trong năm 2007, công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tăng cả về lượng và chất. Về lượng, thu hút FDI đạt mức kỷ lục 20.3 tỷ USD. Về chất, thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng , thu hút được công nghệ nguồn và công nghệ cao. - Điểm đáng chú ý trong năm 2007 là đã xuất hiện sự gia tăng đầu tư của các tập đoàn, công ty Nhật Bản và Hoa kỳ cùng một số đối tác truyền thống khác như Hàn Quốc, Hông Kông, Singapone, Đài Loan…Nhiều dự án quy mô lớn được triển khai như: dự án nhà máy lắp ráp và kiểm tra các bản mạch in của Công Ty TNHH Jabil Circuit (Mỹ) tại TP Hố Chí Minh với tổng vốn 100 triệu USD; hai nhà máy công nghệ cao của tập đoàn Foxconn (Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD. Hà Nội có dự án khách sạn căn hộ cao cấp Keangnam của Hàn Quốc trị giá 500 triệu USD. - Quy mô bình quân cho mỗi dữ án cao hơn mức bình quân năm 2006 (8.5 triệu USD) đạt trên 10 triệu USD. Có 400 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn đầu tư đăng ký thêm trên 1.8 tỷ USD. - Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong cả năm đạt 4.5 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007. - Năm 2007, FDI không chỉ đầu tư vào các lĩnh vực như công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch vụ, y tế mà còn đầu tư cả vào bất động sản. Tuy nhiên tỷ trong đẩu tư vào các lĩnh vực quá chênh lệch nhau: FDI được tập trung vào lĩnh vực sản xuất, công nghiệp nặng xếp hàng đầu với khoảng 21%, tiếp đó là các ngành xây dựng và khách sạn, nhà ở…Còn các ngành Nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp chỉ chiểm khoảng 6% tổng vốn FDI cam kết (mặc dù Chính phủ có nhiều biện pháp ưu đãi để khuyến kích FDI trong các lĩnh vực này). Một số lĩnh vực vướng mắc nhiều rào cản lớn nên FDI chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ như ngân hàng, viễn thông, quảng cảo, văn hóa, y tế, giáo dục. Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam tính hết năm 2008 Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ) Tổng số 10981 163607,2 57045,5 1988 37 341,7 1989 67 525,5 1990 107 735,0 1991 152 1291,5 328,8 1992 196 2208,5 574,9 1993 274 3037,4 1017,5 1994 372 4188,4 2040,6 1995 415 6937,2 2556,0 1996 372 10164,1 2714,0 1997 349 5590,7 3115,0 1998 285 5099,9 2367,4 1999 327 2565,4 2334,9 2000 391 2838,9 2413,5 2001 555 3142,8 2450,5 2002 808 2998,8 2591,0 2003 791 3191,2 2650,0 2004 811 4547,6 2852,5 2005 970 6839,8 3308,8 2006 987 12004,0 4100,1 2007 1544 21347,8 8030,0 2008 1171 64011,0 11600,0 (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. Nguồn: Tổng Cục thống kê Nguồn: amchamvietnam.com Quá trình giải ngân vốn FDI trong những năm vừa qua. V. TÁC ĐỘNG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2008 ĐẾN VIỆT NAM. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế đã làm chậm tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam. Kể từ quý ba năm 2008, giá hàng hóa thế giới có xu hướng giảm, trong quý bốn năm 2008, các đơn hàng xuất khẩu đối với các sản phẩm dệt may và các sản phẩm công nghiệp khác đã sụt giảm và sự trì trệ trong sản xuất ngày càng hiện rõ. Trong quý một năm 2009, tác động của khủng hoảng đã trở nên rõ ràng khi GDP chỉ tăng 3,1% so với năm trước, và thấp hơn 4 phần trăm so với mức tăng trưởng bình quân của quí một của một vài năm trước. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực của chính phủ nhằm hỗ trợ các hoạt động kinh tế, những dấu hiệu tích cực của sự phục hồi cũng đang xuất hiện. Chính phủ đã công bố gói kích thích bao gồm nhiều biện pháp khác nhau, từ việc trợ cấp lãi suất, hoãn thuế đến việc giải ngân thêm vốn. Kết quả là GDP đã tăng 4,5% vào quý hai và 5,8% vào quý ba, làm cho tốc độ tăng GDP thực sự đạt 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái tính từ tháng Một đến tháng Chín. Trong khi khu vực sản xuất vẫn còn phải đối mặt với những thách thức lớn do nhu cầu giảm sút thì ngành xây dựng lại đang dẫn đầu về tốc độ phục hồi, với giá trị thặng dư trong ngành ước đạt tới tỷ lệ tăng trưởng hai con số trong cả năm. Một yếu tố quan trọng khác góp phần làm nên quá trình phục hồi, đó là sức mua nội địa với mức tăng doanh thu bán lẻ thực tế lên 9,3% so với cùng kỳ từ tháng Một đến tháng Tám năm ngoái. Mặc dù Ngân hàng Thế giới dự đoán mức tăng trưởng cả năm 2009 của Việt Nam sẽ là 5,5%, hoặc thấp hơn 2 phần trăm so với trung bình các năm trước, chúng ta tin tưởng rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tự tìm đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một cách tốt đẹp. Cuộc suy thoái kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng rõ rệt đến khu vực xuất nhập khẩu của Việt Nam mà trong đó mối lo ngại chính là hoạt động xuất khẩu, vốn chiếm 70% GDP. Trong tám tháng đầu năm 2009, xuất khẩu tính theo đôla đã giảm 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu từ xuất khẩu đều giảm ở hầu khắp các mặt hàng và các thị trường truyền thống của Việt Nam. Mặc dù sự giảm sút này còn ít hơn ở các nước đang phát triển khác, nhưng nó cũng làm cho năm 2009 trở thành năm đầu tiên Việt Nam phải gánh chịu sự sụt giảm về xuất khẩu kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế. Về nhập khẩu, tám tháng đầu năm 2009 đã chứng kiến sự suy giảm còn mạnh mẽ hơn, thấp hơn 28,2% so với cùng kỳ năm trước. Sự xuống dốc tương đối của xuất khẩu và nhập khẩu lại giúp thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, trong đó thâm hụt tài khoản vãng lai được ước đoán ở mức 5 phần trăm của GDP năm 2009, giảm xuống từ 11,9% năm 2008. Mức thâm hụt thực tế có thể còn cao hơn thế nếu nền kinh tế tiếp tục đẩy mạnh đà phục hồi hiện nay. Mặc dù có thể quản lý được mức thâm hụt tài khoản vãng lai theo dự đoán nhưng dự trữ ngoại tệ lại sụt giảm từ mức 23 tỷ đôla vào cuối năm 2008 xuống còn khoảng 16,5 tỷ vào tháng Tám năm 2009. Phần lớn sự sụt giảm diễn ra vào giữa tháng Năm và tháng Bảy khi ngân hàng trung ương tác động vào thị trường hối đoái nhằm bình ổn tiền tệ. Sự thâm hụt tài chính có khả năng tăng lên đến 9,4% GDP trong năm 2009, phản ánh mức sụt giảm doanh thu và chi phí tiêu dùng tăng lên đáng kể. Doanh thu thường có xu hướng suy giảm cùng với sự suy thoái của các hoạt động kinh tế, giá dầu giảm và các biện pháp giãn thuế khác nhau trong các gói kích thích. Mức chi tiêu đã tăng đáng kể do có các biện pháp kích thích tiêu dùng và cam kết của chính phủ nhằm đảm bảo mang lại an sinh xã hội. Trong khi Việt Nam có thể kêu gọi thêm các nguồn tài chính từ bên ngoài thì vẫn còn tồn tại một khoảng trống tài chính đáng kể và chính phủ cần phải xem xét lại gói kích thích của mình để đảm bảo duy trì cân bằng tài chính ở mức có thể kiểm soát được. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng nguyên nhân kìm hãm việc hỗ trợ năng lực tài chính của chính phủ bắt nguồn từ những nguồn tài chính ngắn hạn chứ không phải từ khả năng duy trì nợ trung hạn. Sau một giai đoạn thắt chặt trong năm 2008 để giải quyết tình trạng quá nóng, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể nhằm hỗ trợ nhu cầu nội địa. Ngân hàng trung ương đã cắt giảm một nửa lãi suất với các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng Hai năm 2009. Cắt giảm lãi suất đối với vay chính sách và hỗ trợ lãi suất đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số định lượng về chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng (dựa trên thời gian thiếu nợ và nợ lũy tiến) đã cho thấy nợ xấu (NPLs) đang tăng. Do lãi suất cho vay không được phép cao hơn lãi suất đối với vay chính sách quá 50%, nên mức chênh lệch lãi suất của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp đáng kể. Lãi suất thấp có thể gây khó khăn cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu và gây ra tâm lý lưỡng lự của các nhà suất khẩu khi bán ngoại hối. Nhận ra các nguy cơ đang nổi lên từ chính sách nới lỏng tiền tệ, ngân hàng trung ương gần đây đã yêu cầu các ngân hàng thương mại lớn phải giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% trong năm nay. Tỉ lệ nghèo đói ở Việt Nam tiếp tục giảm, mặc dù giá lương thực và nguyên liệu tăng cao trong suốt nửa đầu năm 2008 và tiếp đó là thời kỳ phát triển trì trệ từ cuối năm 2008 đến 2009. Trong khi nghèo đói nhìn chung đã giảm, sự bất ổn của nền kinh tế trong hai năm qua đã cho thấy những điểm dễ bị tổn thương và những thách thức còn ở phía trước. Đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân (PPA) tiến hành từ đầu năm 2008 ở các cộng đồng nông thôn ở Việt Nam đã cho thấy những tiến bộ đáng kể gần đây của Việt Nam trong quá trình phát triển nông thôn. Các đối tượng của PPA đã chỉ ra tăng trưởng bền vững đối với hạ tầng cơ sở ở nông thôn, cơ hội tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ, năng xuất nông nghiệp tăng cao ở nhiều vùng và nhiều cơ hội để đa dạng hóa các nguồn thu nhập ở nông thôn hơn. PPA và các nghiên cứu liên quan cũng chỉ ra một số tiến bộ còn chậm ở các vùng nghèo, tập trung nhiều dân tộc thiểu số. Ngoài ra những đánh giá nhanh về tác động xã hội của cuộc khủng hoảng tài chính thực hiện vào tháng Hai và tháng Tư năm 2009 đã chỉ ra những đối tượng dễ bị tổn thương trong những khu vực dân cư nhất định, trong đó phần đông là những người lao động di cư, người lao động không đúng chuyên môn và các doanh nghiệp hộ gia đình. Việc đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực tương lai của Việt Nam sẽ giúp giảm bớt số lượng những đối tượng dễ bị tổn thương do sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ và có nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế hơn. Tuy nhiên, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam còn kém phát triển so với nhiều nước khác; đó là một khoảng cách cần phải giải quyết khi đất nước đang trên đà phát triển hơn nữa. VI. CHÍNH SÁCH KHẮC PHỤC KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC CUỘC KHỦNG HOẢNG. Thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển đi sau, với quy mô nền kinh tế còn nhỏ, xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới trên tất cả các cấp độ, nền kinh tế Việt Nam đã chịu sự tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Do đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam có độ mở thị trường cao (xuất, nhập khẩu trên 150% GDP) và khu vực FDI tuy chỉ chiếm trên 27% tổng đầu tư xã hội nhưng luôn đạt từ 55 đến 70% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nên sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% năm 2008 xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Từ cuối năm 2007, kinh tế và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao và suy giảm kinh tế; trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cường độ và mức độ lớn hơn những năm trước. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", kích động bạo loạn, lật đổ sự lãnh đạo của Ðảng và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra và gây tác động, tình hình đã trở nên khó khăn hơn cho Việt Nam. Xuất phát từ các đặc điểm này và trên cơ sở nhận định đúng diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới và khu vực, Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã ngay lập tức chuyển đổi mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm từ ưu tiên tập trung chống lạm phát sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế, đồng thời coi trọng bảo đảm an sinh xã hội và quan tâm chăm lo cuộc sống của người dân, nhất là cho người nghèo, các đối tượng chính sách và những vùng khó khăn. Hướng khắc phục: Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá: Chính phủ đã áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, kích thích đầu tư. Để góp phần tháo gỡ khó khăn hiện nay cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp như khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất cho vay. Cùng với đó, chính sách tài khoá cũng được xem xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Chọn thời điểm để nới rộng biên độ tỷ giá, hiện nay là 3%, trường hợp cần thiết nới lên 5%. Quản lý chặt chẽ thị trường giao dịch ngoại tệ tự do để tránh hiện tượng đầu cơ dẫn đến xu hướng nhà đầu tư trong nước rút tiền chuyển thành ngoại tệ, gây sức ép lên vấn đề tỷ giá và dự trữ ngoại tệ. Thường xuyên rà soát đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước ngoài của Chính phủ, ngân hàng, doanh nghiệp (kể cả khoản LC trả chậm) và danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng để giữ chân luồng vốn nước ngoài. Chính phủ cần nghiên cứu xem xét về cấp hạn ngạch cho việc mua trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài để đảm bảo tỷ lệ kiểm soát, phòng khi nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn bằng bán trái phiếu. Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu: Cần tìm mọi cách để hỗ trợ xuất khẩu bao gồm: vốn, lãi suất, thuế, thủ tục mở rộng thị trường. Bây giờ là thời điểm để thực hiện việc kích cầu đầu tư, đặc biệt đối với đầu tư vào hạ tầng, kích thích đầu tư vào các dự án có hiệu quả không những bằng nguồn vốn ngân sách, trái phiếu Chính phủ mà bằng cả sự tham gia của doanh nghiệp, của tư nhân, của các thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước. Cùng với kích cầu đầu tư cần phải tính ngay đến giải pháp kích cầu tiêu dùng bằng biện pháp hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, giảm thuế, miễn thuế… Điều này sẽ giải quyết được bài toán tồn đọng vốn tại ngân hàng và giảm áp lực về chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu và thị trường nội địa sẽ được kích cầu. Đảm bảo an sinh xã hội: Thực hiện bằng nhiều biện pháp: Bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu và hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng dễ bị tổn thương qua cơn bão tài chính. Thường xuyên nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước, DNNVV, công ty cổ phần, công ty niêm yết, doanh nghiệp tư nhân… để có những giải pháp xử lý phù hợp. Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định. Việt Nam đang có lợi thế này và vì vậy cần tận dụng tốt cơ hội này. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu: Tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế. Chuyển việc xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang các thị trường khác có lợi thế (Đông Nam Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh) Chọn lọc nhập khẩu: Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tranh thủ nhập khẩu các mặt hàng, công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do kinh tế của họ khó khăn. Nâng cao năng lực công tác dự báo, đảm bảo theo dõi kịp thời diễn biến khủng hoảng tài chính ở Mỹ và toàn cầu để đánh giá đúng và đưa ra những giải pháp phù hợp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đặc biệt là giám sát hoạt động của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng. Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế bằng nhiều giải pháp như kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng, thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa… Đối với vấn đề thu hút và sử dụng FDI: Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu nổ ra, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển hướng từ mục tiêu chống lạm phát sang mục tiêu chống suy giảm kinh tế. Áp dụng chính sách mở rộng tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm mở rộng cầu nội địa, khôi phục sản xuất kinh doanh, ngăn chặn nguy cơ phá sản của một số doanh nghiệp, tạo dựng lại niềm tin cho các nhà đầu tư và người tiêu dùng. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh ngay cả khi nền kinh tế vẫn chưa ra khỏi “đáy khủng hoảng”. Đó là việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực, tiếp tục hoàn thiện chính sách phân cấp việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động FDI cho các địa phương, để tạo thế chủ động và tích cực cho các cơ quan quản lý đầu tư các cấp trong thu hút và quản lý FDI. Hướng FDI vào các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao, ít tiêu tốn năng lượng, không làm cạn kiệt tài nguyên và ít lệ thuộc vào nhu cầu xuất/nhập khẩu với bên ngoài. Cụ thể là, Việt Nam đã chú trọng tạo ra sự liên kết giữa khu vực FDI với các ngành sản xuất nội địa để tạo ra chuỗi liên kết sản xuất, thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển cũng như tạo ra các ngành phụ trợ để hạn chế nhập khẩu các thiết bị và linh kiện mà Việt Nam có thể tự sản xuất được. Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, quy hoạch hợp lý các khu công nghiệp và khu kinh tế tại các địa phương, đặc biệt chú trọng xây dựng các khu công nghệ cao, để tăng cường thu hút các dự án đầu tư, dựa trên công nghệ hiện đại và tri thức, nhằm tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Đa dạng hoá các thị trường xuất khẩu, giảm cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hỏang tài chính tăng cường phát triển thị trường nội địa thay thế hàng nhập khẩu áp dụng các biện pháp kích thích xk và giảm bớt nhập siêu thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xk và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sx hàng xuất khẩu. Tăng cường công tác thông tin cảnh báo kinh tế và quan hệ công chúng bám sát thường xuyên cập nhật thông tin trong và ngòai nước để có đánh giá đúng tình hình tác động và đưa ra những chính sách ứng phó kịp thời và thích hợp nhất. Đối với thị trường chứng khoáng: Thực hiện tái cấu trúc thị trường chứng khoáng theo hướng phân định tổ chức thị trường chứng khoáng niêm yết, thị trường OTC và thị trường công cụ nợ, thị trường công cụ phái sinh. Từng bước hoàn thiện thị trường UPCOM theo hướng thị trường OTC để từng bước thu hẹp thị trường tự do. Hoàn thiện khung pháp lý, thể chế chính sách thông qua việc sửa đổi Nghị định 141/2007NĐ-CP; sửa đổi, bổ sung Nghị định 36/2007ND-CP và xây dựng các thông tư hướng dẫn về giao dịch, thông tư hướng dẫn về các chỉ tiêu an toàn tài chính đối với CTCK, công ty quản lý quỹ. Đồng thời xem xét sửa đổi Luật Chứng khoán để trình Quốc hội vào năm 2010; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 nhằm cụ thể hóa Quyết định 128/2007/QĐ-TTg về Đề án phát triển thị trường vốn đến 2010 và tầm nhìn 2010 đến 2020. Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá để đảm bảo chương trình cải cách, đổi mới DN, tạo hàng chất lượng cao cho TTCK và thu hút vốn đầu tư. Cần chuyển sang áp dụng theo phương thức thoả thuận cho đối tác chiến lược, hoặc đấu giá giữa các đối tác chiến lược, đồng thời giảm bớt tỷ lệ bán ra bên ngoài. Một mặt, chuyển đổi được hình thức sở hữu, từ đó góp phần cải thiện quản trị công ty, mặt khác không gây thiệt hại cho Nhà nước, đồng thời thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các định chế trung gian (vốn, giấy phép hành nghề, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bô...). Xây dựng các phương án xử lý đối với công ty khi mất khả năng thanh toán, phá sản, xử lý vấn đề thiếu hụt vốn pháp định. Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trên thị trường về các hành vi vi phạm công bố thông tin, chào bán chứng khoán ra công chúng không xin phép, thao túng giá chứng khoán, các vi phạm của CTCK... Nâng cao khả năng tài chính cho ngân hàng và tăng thêm luồng vốn ngoại tệ thông qua việc cho phép ngân hàng bán cổ phần cho ngân hàng nước ngoài với tỷ lệ dưới 5% không phải xin phép Ngân hàng Nhà nước, đồng thời nới tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong ngân hàng lên trên mức 30% hiện nay để tăng tính hấp dẫn khi luồng vốn đầu tư đang giảm sút. Tăng cường quản trị công ty và công bố thông tin theo các chuẩn mực chung của thông lệ quốc tế. đặc biệt là vấn đề kế toán, kiểm toán (vấn đề hạch toán đầu tư tài chính theo giá thị trường – mark to  market; trích lập quỹ khen thưởng và hạch toán vào chi phí; trích lập dự phòng đầu tư cổ phiếuOTC). Cách đối phó tốt nhất của Việt Nam là thực hiện thành công các giải pháp chống lạm phát đã có trong những tháng còn lại của năm 2008 và cả năm 2009 để nhanh chóng trở lại với tốc độ lạm phát một con số vào năm 2010. Đây là cách đối phó khủng hoảng có hiệu quả nhất. Kết quả đạt được của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng Dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quá trình suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Hình 1 cho thấy nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ đạt 6,8%. Tăng trưởng GDP theo quý Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Giá trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên 7,6% và quý III là 8,5%. So với khu vực công nghiệp, thì khu vực dịch vụ chịu tác động ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới ở mức độ thấp hơn. Nhìn chung, khu vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng trưởng trong quý I là 5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III. Căn cứ kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo,  tốc độ tăng trưởng giá trị khu vực dịch vụ ước thực hiện cả năm 2009 có thể đạt 6,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2008 đã đạt mức kỷ lục so với trước, nên ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong năm 2009. Uớc thực hiện giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản tăng khoảng 1,9%. Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng trưởng như vậy dự báo GDP cả năm 2009 sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức tăng trưởng đáy trong 20 năm qua ở mức 4,77% của năm 1999. Đây là một thành tựu kinh tế nổi bật trong năm 2009 nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam là một trong số ít nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Đầu tư phát triển: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội Quý I năm 2010 đạt 146,82 nghìn tỷ đồng, tăng 26,23% so với cùng kỳ năm 2009. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Quý I/2010 ước đạt 21,8 nghìn tỷ đồng, bằng 17,4% kế hoạch năm. Giải ngân vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: vốn trong nước cho vay đầu tư ước đạt 3.300 tỷ đồng, bằng 12,5% kế hoạch năm, vốn ODA cho vay lại ước đạt 2.046 tỷ đồng, bằng 20,46% kế hoạch năm. Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong Quý I/2010, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009 (nếu tính bằng VNĐ thì đạt 47,7 nghìn tỷ đồng, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2009). Đối với dự án đăng ký mới, trong 3 tháng đầu năm 2010, đã có 139 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 1,92 tỷ USD, bằng 59,1% về số dự án và 59,5% về tổng vốn đầu tư so với cùng kỳ năm 2009. Vốn tăng thêm trong Quý I/2010 là 215 triệu USD. Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm trong Quý I/2010 đạt 2,14 tỷ USD, bằng 29% so với cùng kỳ năm 2009. Về vốn ODA, trong Quý I/2010, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định đạt khoảng 320,2 triệu USD, trong đó: vốn vay đạt 277,2 triệu USD và viện trợ không hoàn lại đạt 43 triệu USD. Ước tổng giá trị giải ngân đạt khoảng 209 triệu USD, bằng 8,5% so với kế hoạch giải ngân của cả năm, trong đó: vốn vay khoảng 164 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 45 triệu USD Lạm phát và giá cả: Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng hơn một thập kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới hai con số. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với tháng 12/2008. Đây là mức tăng chỉ số giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây và là mức tăng hợp lý, không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân. Nhiều loại hàng hoá có ảnh hưởng mạnh trong rổ hàng hoá để tính CPI tăng thấp. Chỉ số CPI lương thực tăng nhẹ trong 6 tháng đầu năm (0,59%) nhưng lại có xu hướng giảm trong những tháng cuối năm. Như vậy, nếu như lương thực, thực phẩm luôn là đầu tàu kéo lạm phát đi lên trong những năm 2007 và 2008 thì ở năm 2009 nhân tố này không còn đóng vai trò chính nữa. Hình 2: Diễn biến lạm phát hàng tháng năm 2009 Duy trì tốc độ tăng lạm phát và giá cả của năm 2009 ở mức một con số là một điểm sáng nữa trên bức tranh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa thoát khỏi suy thoái kinh tế. Thành tựu kiềm chế lạm phát trong năm 2009 có tác động tích cực đến ổn định kinh tế - xã hội cũng như tạo thuận lợi cho việc triển khai các chính sách kích thích kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù xu hướng tăng của giá tiêu dùng chưa có biểu hiện rõ rệt, nhưng một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ tác động làm tăng nguy cơ tái lạm phát cao trở lại. Đó là tăng trưởng tín dụng đang ở mức cao do thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế; giá của các mặt hàng nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới bắt đầu có xu hướng tăng cao do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt giá xăng dầu. Thu chi ngân sách: Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/6/2010 ước tính bằng 47,8% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 47,4%; thu từ dầu thô bằng 41,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 53,6%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/6/2010 ước tính bằng 42,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 45,5%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính bằng 42,8%; chi trả nợ và viện trợ bằng 46,9%. Bội chi ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước tính bằng 11,2% tổng số chi và bằng 25,6% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội quyết định và được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước theo quy định. Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại: Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong 10 tháng năm 2010 đạt 125,07 tỷ USD, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 57,83 tỷ USD, tăng 23,4% và nhập khẩu là 67,24 tỷ USD, tăng 20,7%. Mức nhập siêu 10 tháng qua là 9,41 tỷ USD, bằng 16,3% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu: Quy mô và tốc độ: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 6,23 tỷ USD, tăng 2,1% so với tháng trước; trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) xuất khẩu 3,2 tỷ USD, tăng 8,2%. Tính đến hết tháng 10/2010, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 57,83 tỷ USD, tăng 23,4% so với cùng kỳ của một năm trước đó. Trong đó, trị giá xuất khẩu hàng hoá của khu vực các doanh nhiệp FDI là 27,1 tỷ USD, tăng mạnh tới 40,5% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 46,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số mặt hàng xuất khẩu chính: Cao su: lượng xuất khẩu trong tháng đạt 79 nghìn tấn với trị giá gần 250 triệu USD, giảm 3,1% về lượng và tăng 3,6% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2010, lượng cao su xuất khẩu đạt 592 nghìn tấn, tăng 5,7% và kim ngạch là 1,67 tỷ USD, tăng 92,4% so với cùng kỳ năm 2009. Dầu thô: lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là 525 nghìn tấn, giảm 4,8%, kim ngạch xuất khẩu đạt 342 triệu USD, tăng 1% so với tháng 9/2010. Tính đến hết tháng 10/2010, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 6,55 triệu tấn, giảm 45,4% và kim ngạch đạt gần 4 tỷ USD, giảm 25,6% so với cùng kỳ năm 2009. Gạo: xuất khẩu gạo trong tháng đạt 506 nghìn tấn với trị giá là 234 triệu USD, tăng 42,9% về lượng và 55,6% về trị giá. Tính đến hết tháng 10/2010, lượng gạo xuất khẩu của nước ta đạt 5,8 triệu tấn, tăng 7,8% và kim ngạch đạt 2,7 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2009 Thuỷ sản: tháng 10, xuất khẩu thuỷ sản đạt 534 triệu USD, tăng 7% so với tháng trước. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường EU đạt 130 triệu USD, tăng 20,9%; sang Hoa Kỳ đạt 109 triệu USD, giảm 6,3%; sang Nhật Bản đạt 91,6 triệu USD, tăng 3,2% và xuất sang thị trường Hàn Quốc đạt 45,3 triệu USD, tăng 36,1% so với tháng 9. Hàng dệt may: Tháng 10, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 1,02 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng năm 2010 lên 9,04 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước và xấp xỉ bằng mức kim ngạch của cả năm 2009. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 5,5 tỷ USD, tăng 23,8% và chiếm 60,9% trị giá hàng dệt may xuất khẩu của cả nước. Giày dép các loại: kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 417 triệu USD, tăng 4% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2010, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, thị trường EU đạt gần 1,77 tỷ USD, tăng 13,3% và chiếm 43,7% xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,13 tỷ USD, tăng 33,2%;  sang Mêxicô đạt 155 triệu USD, tăng 38%; sang Nhật Bản đạt 141 triệu USD, tăng 44%... Nhập khẩu: Quy mô và tốc độ: Kim ngạch nhập khẩu trong tháng là 7,3 tỷ USD, tăng 4,8% so với tháng trước; trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) nhập khẩu 3,28 tỷ USD, tăng 1,8%. Tổng kim ngạch nhập khẩu của nước ta trong 10 tháng/2010 là 67,24 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trị giá nhập khẩu từ khu vực FDI trong 10 tháng năm 2010 là 29,1 tỷ USD, tăng 41% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 43% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Một số mặt hàng nhập khẩu chính: Lúa mỳ: Tháng 10, lượng nhập khẩu lúa mì là 354 nghìn tấn, tăng 190,4% so với tháng trước, và kim ngạch đạt 91,7 triệu USD, tăng 192,3%. Cả lượng và trị giá nhập khẩu lúa mì của nước ta trong tháng 10 đều lập ngưỡng kỷ lục mới, cao hơn 6,0% về lượng và 14,8 % về trị giá so với mức kỷ lục của tháng 4/2010. Tính đến hết tháng 10/2010, lượng lúa mì nhập khẩu đạt gần 1,89 nghìn tấn, tăng 60,6% và kim ngạch đạt 466 triệu USD, tăng 58,0% so với cùng kỳ năm 2009. Chất dẻo nguyên liệu:  trong tháng nhập khẩu 201 nghìn tấn, giảm 8,7% so với tháng trước và đạt trị giá là 320 triệu USD, giảm 3,1%. Hết 10 tháng/2010, tổng lượng chất dẻo nguyên liệu nhập khẩu của cả nước là 1,95 triệu tấn, kim ngạch là hơn 3 tỷ USD, tăng 7,7% về lượng và 33,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Xăng dầu các loại: lượng nhập khẩu xăng dầu các loại trong tháng là 499 nghìn tấn, trị giá là 339 triệu USD, giảm 16% về lượng và giảm 4,9% về trị giá so với tháng 9/2010. Hết 10 tháng/2010, tổng lượng nhập khẩu xăng dầu của cả nước là 8,18 triệu tấn với kim ngạch 5,1 tỷ USD, giảm 26% về lượng và 3,5% về trị giá. Thức ăn gia súc và nguyên liệu: kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu trong tháng là 134 triệu USD, giảm 22,5% so với tháng 9, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu đến hết tháng 10 là 1,8 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2009. Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: trong tháng nhập khẩu đạt 836 triệu USD, tăng nhẹ 0,6% so với tháng trước. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 458 triệu USD, tăng 0,4%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 229 triệu USD, tăng 5,9%; xơ sợi dệt là 100 triệu USD, tăng 0,8% và bông 50 triệu USD, giảm 15,9%. Hết tháng 10/2010, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày đạt kim ngạch 7,86 tỷ USD, trong đó nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 4,47 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2009 An sinh xã hội: Về lao động - việc làm: Trong tháng 3/2010, ước tạo việc làm cho khoảng 123.500 người, cao hơn 2 tháng đầu năm. Trong đó, xuất khẩu lao động ước đạt 4.876 người. Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 3/2010, ước tạo việc làm cho khoảng 323.500 người; trong đó, xuất khẩu lao động là 16.850 người. Về an sinh, bảo trợ xã hội: Chính phủ đã ban hành chính sách tăng mức hỗ trợ 1,5 lần so với trước cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Nhân dịp Tết Canh Dần, Chính phủ đã có chính sách chăm lo và tổ chức tết cho các gia đình chính sách, người có công, các hộ nghèo, các hộ khó khăn thiếu lương thực, các đối tượng xã hội, đồng bào vùng sâu vùng xa, vùng bị thiên tai... Về chăm sóc sức khỏe nhân dân: Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống các dịch bệnh được tăng cường. Đã có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và các địa phương trong công tác giám sát, phát hiện, cách ly điều trị các trường hợp nhiễm cúm A H1N1 và cúm A H5N1; chỉ đạo và tiến hành kiểm tra các địa phương trong công tác theo dõi, giám sát và phòng chống dịch bệnh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 63 nghìn tỷ đồng, bằng 50,4% kế hoạch năm, gồm có:  Vốn trung ương quản lý đạt 20,5 nghìn tỷ đồng, bằng 54,6% kế hoạch năm; Vốn địa phương quản lý đạt 42,5 nghìn tỷ đồng, bằng 48,6% kế hoạch năm. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20/6/2010 đạt 8,4 tỷ USD, bằng 80,9% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 438 dự án được cấp phép mới đạt 7,9 tỷ USD, tuy giảm 19,9% về số dự án nhưng tăng 43% về số vốn so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bổ sung của 121 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 525 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2009. Trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Bà Rịa-Vũng Tàu có số vốn đăng ký lớn nhất với gần 2,2 tỷ USD, chiếm 27,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Quảng Ninh 2,1 tỷ USD, chiếm 27,2%; thành phố Hồ Chí Minh 1,1 tỷ USD, chiếm 13,6%; Nghệ An 1 tỷ USD, chiếm 12,7%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 4,3%; Hà Tĩnh 206,1 triệu USD, chiếm 2,6%. Trong số 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 6 tháng đầu năm, Hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với 2,2 tỷ USD, chiếm 28% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 1,6 tỷ USD, chiếm 19,8%; Nhật Bản 1,2 tỷ USD, chiếm 15%; Hoa Kỳ 991,5 triệu USD, chiếm 12,5%; Đài Loan 795,9 triệu USD, chiếm 10,1%; Đảo Cay-men 363 triệu USD, chiếm 4,6%; quần đảo Virgin thuộc Anh 204,9 triệu USD, chiếm 2,6%; Xin-ga-po 184,1 triệu USD, chiếm 2,3%. Vốn ODA giải ngân 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1410 triệu USD, bằng 57% kế hoạch năm và tăng 11% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: vốn vay đạt 1310 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 100 triệu USD. THE END.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhủng hoảng tài chính toàn cầu đến đầu tư nước ngoài và việt nam.doc
Luận văn liên quan