Khóa luận tốt nghiệp đã đưa ra những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động M&A
và lịch sử hình thành hoạt động M&A trên thế giới. Dưới góc nhìn vĩ mô của một
nền kinh tế đang phát triển, hoạt động M&A là một trơng những phương thức quan
trọng thúc đẩy các nước đang phát triển nhanh chóng hòa nhập với nền kinh tế thế
giới. Dưới góc nhìn là một phương thức đầu tư, nhiều nhà kinh tế đã nhận định rằng,
đối v ới các doanh nghiệp, M&A còn hơn cà một hình thức đầu tư hiệu quả. Những lợi
ích thu mà hoạt động M&A mang lại chính là lý do quan trọng khiến M&A thu hút được
nhiều sự quan tâm của cả các nhà quản trị doanh nghiệp và chính phủ các nư ớc.
Hoạt động M&A tại Trung Quốc đã xuất hiện sớm từ những năm 1985 và
nhanh chóng phát triển. Chỉ trong vòng gần hơn 20, thị trường M&A của Trung
Quốc đã đứng thứ ba tại Châu Á Thái Bình Dương. Hoạt động M&A của Trung
Quốc phát triển nhanh như vậy chính là nhờ sự tác động của nhiều yếu tố trong nền
kinh tế như dòng vốn FDI, hành lang pháp lý, thị trường chứng khoán, quá trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp của Trung Quốc. Có thể nói M&A là một xu thế tất yếu
của mỗi quốc gia có nền kinh tế khi đã bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển và
đang dần hòa nhập với nền kinh tế thế giới.
115 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3486 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm của M&A của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại (đối với khỏan 1, Điều 19) và Thủ tướng Chính phủ (đối với
miễn trừ theo khoản 2, Điều 19).
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong mức hạn chế về thị phần 50% “thị trường
liên quan”, các văn bản dưới luật lại không có quy định rõ ràng về khái niệm thị
trường liên quan. Và trong trường hợp một doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt
hàng (có nhiều thị trường khác nhau) thì tuỳ theo các cách tính khác nhau có thể
83
dẫn tới kết quả là doanh nghiệp đó có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50%
hoặc có thể dưới.
Ví dụ dưới đây là trong lĩnh vực ngân hàng có thể minh hoạ.
Bảng 3.2. Cách tính thị phần thị trƣờng liên quan.
Ngân hàng A sáp nhập với Ngân hàng B. Các ngân hàng đều có 3 loại dịch vụ chính:
cho vay, mở thư tín dụng và bảo lãnh, và buôn bán ngoại hối. Ngân hàng A có thế
mạnh về việc cho vay, trong khi đó ngân hàng B là ngân hàng yếu về mọi dịch vụ.
Để xác định xem việc sáp nhập ngân hàng A với B có vi phạm quy định về cạnh
tranh hay không thì có thể có hai cách tính.
Cách tính 1:
Tính thị phần của ngân hàng A+B bằng cách tính gộp tất cả các dịch vụ của 2
ngân hàng này lại và so sánh với tổng thị trường của các dịch vụ đó. Trong trường
hợp như trên, mức tập trung kinh tế là 44% - không vi phạm quy định về cạnh tranh.
Cách tính 2:
Tính thị phần của ngân hàng A+B bằng cách tính riêng rẽ từng dịch vụ một
thì ta sẽ thấy là đối với dịch vụ cho vay ngân hàng A+B sẽ có mức tập trung kinh tế
là 56% thị phần của dịch vụ này – vi phạm quy định về cạnh tranh.
Nếu như chúng ta không quy định rõ cách tính thị thị trường liên quan thì
trong tương lai sẽ có những trường hợp áp dụng luật pháp không thống nhất xảy ra
như trường hợp hai cách tính như trên.
84
Như vậy, hoạt động mua lại và sáp nhập đã nhận được sự quan tâm chú ý
nhiều từ phía các cơ quan chuyên trách. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, hoạt động
M&A còn khá mới mẻ tại nền kinh tế Việt Nam, do đó các bộ luật điều chỉnh hoạt
động M&A dôi khi còn mang tính khái lược và có sự chồn chéo. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân gây khó khăn trở ngại cho các giao dịch M&A tại Việt
Nam.
Hạn chế thứ hai trong hệ thống pháp luật đó là những quy định về hoạt động
M&A có yếu tố nước ngoài chưa rõ ràng. Cụ thể, trong bộ Luật đầu tư 2005, công
ty nước ngoài chỉ được góp vốn tối đa là 49% trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với các công ty đã được niêm yết, công ty nước ngoài chỉ dược nắm giữ tối đa
49% trên tổng số cổ phiếu. Các lĩnh vực bị giới hạn bao gồm: Tài chính, ngân hàng,
viễn thông, y tế, giáo dục, dầu khí, năng lượng – là các ngành chiến lược quốc gia.
Tỷ lệ giới hạn trong những lĩnh vực này, trong một môi trường cạnh tranh gay gắt
như Việt Nam và do các doanh nghiệp nước ta còn nhỏ lẻ, sức cạnh tranh yếu, là
hợp lý. Nhưng nếu nhìn từ góc độ đầu tư thì đó lại là một trong những nguyên nhân
gây cản trở cho các giao dịch M&A có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra còn một số quy
định khác chưa rõ ràng được đề cập trong bộ luật đầu tư gây khó khăn cho các nhà
đầu tư nước ngoài. Ví dụ như quy định nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư
vào Việt Nam phải nộp dự án đầu tư trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu
tư đồng thời là Giấy đăng ký kinh doanh. Đây là một điều khoản gây tranh cãi, đặc
biệt đối với trường hợp nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường thông qua M&A.
Thực hiện M&A rõ ràng là một hành vi đầu tư, nhưng nếu đòi hỏi lập dự án đầu tư
cho một vụ M&A như vậy quả thật là điều rất khó. Như vậy, kế hoạch phát triển của
doanh nghiệp được đầu tư và dự án đầu tư mà luật đòi hỏi có trùng nhau? Trong
trường hợp nhà đầu tư nước ngoài mua lại bằng hoặc lớn hơn 49% cổ phần/phần
vốn góp của công ty mục tiêu, công ty đó phải điều chỉnh đăng ký lại như một công
ty có vốn đầu tư nước ngoài;trong trường hợp đó, liệu họ có nên nhận Giấy chứng
nhận đầu tư đồng thời là Giấy đăng ký kinh doanh? Trường hợp, nhà đầu tư nước
ngoài mua lại số cổ phần/phần vốn góp nhỏ hơn 49%, họ sẽ nhận được Giấy chứng
85
nhận đầu tư cho phần đầu tư của họ, nhưng không thể gọi là “đồng thời là Giấy
đăng ký kinh doanh” vì họ không tạo ra một doanh nghiệp mới.
Như vậy, việc kiểm soát hoạt động mua lại vàp sáp nhập tại Việt Nam đã
được chú trọng nhưng mới dừng ở mức giám sát thông qua các bộ luật. Các biện
pháp kiểm soát cũng mới chỉ dừng lại ở thị trường chính thức còn thị trường phi tập
trung thì vẫn còn bị bỏ ngỏ. Một trong những nguyên nhân trực tiếp gây tâm lý băn
khoăn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư thông qua M&A chính là
hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động này. Điều này gây ra nhiều cản trở trong các
giao dịch M&A và làm chậm tiến độ giao dịch. Có thể nói, vấn đề cấp thiết nhất đối
với thị trường M&A tại Việt Nam hiện nay chính là một hệ thống pháp lý vững
chắc, một hệ thống văn bản hướng dẫn chi tiết, tăng vốn đầu tư nước ngoài thông
qua M&A, tận dụng lợi thế từ nguồn vốn này để phát triển kinh tế.
1.3.2. Hạn chế trong vấn đề định giá doanh nghiệp.
Có thể nói hạn chế lớn nhất từ phía các nhà đầu tư chính là vấn đề định giá
doanh nghiệp. Thông thường hai bên trong một thuơng vụ mua bán và sáp nhập sẽ
có cách đánh giá khác nhau về giá trị công ty bị mua: bên bán có khuynh hướng
định giá công ty của mình ở mức cao nhất trong khi đó bên mua sẽ cố gắng trả giá
thấp nhất trong khả năng có thể. Để đưa ra mức giá công bằng cho cả hai bên, người
ta đã đưa ra nhiều phương pháp phù hợp để định giá các công ty. Dưới đây, bảng
3.3 sẽ đưa ra một số phương pháp định giá cơ bản.
86
Bảng 3.3. Một số phƣơng pháp đinh giá cơ bản đƣợc sử dụng trong M&A
STT Tên phƣơng pháp Nội dung
1
Định giá theo phuơng
pháp khả năng tăng
chiết khấu dòng tiền
(DCF)
Đây là công cụ định giá quan trọng trong
M&A. Mục đích của DCF là xác định giá trị
hiện tại của công ty đó có khả năng tạo ra
trong tương lai.
2
Định giá dựa trên so
sánh chi phí thay thế
Giá trị công ty bao gồm toàn bộ tài sản cố
định hữu hình và vô hình, trang thiết bị và
đội ngũ nhân viên. Bên mua sẽ cân nhắc yếu
tố chi phí để thiết lập một công ty mới từ
đầu so với việc mua lại một công ty có sẵn.
3
Định giá dựa trên tỷ
suất giá trị doanh
nghiệp trên doanh thu
(EV/sales)
EV/Sales được sử dụng đẻ so sánh gia trị
doanh nghiệp với doanh thu của doanh
nghiệp đó. Bên mua so sánh chỉ số này với
doanh nghiệp khác trong ngành và sẽ chào
giá ở một mức nhất định.
4
Định giá dựa trên tỷ
suất P/E
P/E là tỷ lệ giữa giá thị trường và lợi nhuận
ròng trên mỗi cổ phần. Bên mua so sánh
mức P/E trung bình của cổ phiếu trong
ngành để xác định mức chào mua hợp lý.
Việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp định giá nào, do bên nào đánh giá cũng
chưa được pháp luật quy định cụ thể. Đặc biệt vấn đề đánh giá thương hiệu – một
loại tài sản vô hình gây ra nhiều tranh cãi cũng chưa được đề cập tới.
Bên cạnh đó, mỗi phương pháp đánh giá lại có những hạn chế riêng khi áp dụng cho
nền kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển. Ví dụ như, đối với phương
pháp chiết khấu theo dòng tiền thường không mang lại kết quả chính xác thực sự
như áp dụng với các doanh nghiệp tăng trưởng ổn định và dễ dự đoán trong các nền
kinh tế phát triển. Phương pháp này, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố giả định về
thị trường cũng như khả năng tăng trưởng trong tương lai. Một trong những yếu tố
87
ngăn cản việc này là các doanh nghiệp thường không thực hiện nghiên cứu thị
trường và xác định thị phần của doanh nghiệp một cách đứng đắn. Mặt khác, các số
liệu kế toán trong quá khứ của doanh nghiệp cũng không đủ tin cậy và chi tiết để có
thể thực hiện việc phân tích một cách chính xác. Các vấn đề tìm thấy khi thực hiện
công việc rà soát đặc biệt tài chính của các doanh nghiệp cũng là các yếu tố ảnh
hưởng đến các giả định dùng cho dự báo tài chính trong tương lai. Hay phương
pháp định giá dựa vào tỷ suất P/E, phương pháp này cũng có những hạn chế nhất
định khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển thì hệ số nhân này
thường được nhà đầu tư trên thị trường chấp nhận ở mức cao. Ngoài ra, phương
pháp này chỉ sử dụng các số liệu về lợi nhuận hiện tại cho các chỉ số P/E hiện tại,
còn với các chỉ số P/E tương lai cũng phải dùng phương pháp dự đoán tài chính như
phương pháp chiết khấu dòng tiền.
1.3.3. Hạn chế từ phía các doanh nghiệp Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam có một số điểm gây hạn chế cho hoạt động
M&A như sau:
Thứ nhất, người Việt Nam vẫn còn mang nặng tâm lý Á Đông, coi công ty là “đứa
con” của mình nên ít khi muốn bán. Chính vì vậy, mà nhiều doanh nghiệp trong
nước vẫn dè dặt với hoạt động M&A. Điều này, khiến cho các vụ M&A tại Việt
Nam còn hạn chế.
Thứ hai, nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được đầy đủ
nhu cầu của thị trường về hoạt động M&A, việc thiếu các quản trị viên cấp cao để
có thể làm giám đốc những cơ sở mới cũng là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng
các doanh nghiệp vẫn còn dè chừng trong ra quyết định M&A. Vấn đề đặt ra là
trong thời gian tới, cần đào tạo bài bản và chuyên sâu hơn từng vị trí nhân sự cụ thể.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề sau: Phần lớn các
công ty tư nhân ở Việt Nam hay ở một nước đang phát triển khác, kể cả Trung Quốc,
thường có hai hệ thống sổ sách kế toán. Một sổ được hạch toán dựa trên các hóa
đơn chứng từ hợp pháp và đầy đủ và là cơ sở để soạn lập báo cáo thuế và quyết toán
thuế cuối năm. Các số liệu này, cũng được dùng để đưa lên là các thông tin chính
thức khi công bố thông tin về doanh nghiệp ra bên ngoài. Một hệ thống sổ sách
88
khác được theo dõi nội bộ trong đó, có các khoản doanh thu và chi phí vì nhiều lý
do mà không có hóa đơn chứng từ hợp lệ. Mặc dù cách làm này là vi phạm pháp
luật, nhưng trên thực tế vẫn không thể tránh khỏi. Khi sử dụng các con số để thuyết
phục hay dùng làm số liệu quá khứ để dự đoán tăng trưởng của doanh nghiệp được
định giá cho các nhà đầu tư, thì các doanh nghiệp thường dùng hệ thống sổ sách nội
bộ do các số liệu này có thể làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, mặc
dù thông tin này không bao giờ được doanh nghiệp công bố ra bên ngoài. Cũng liên
quan đến vấn đề trên, nếu như doanh thu và lợi nhuận ghi ngoài được tính vào, thì
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải được tính thêm các khoản chi phí về
thuế giá trị gia tăng trên doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp tính cho lợi nhuận
tăng thêm và các chi phí không được khấu trừ khi tính thuế mà sẽ bị loại bỏ bởi các
cơ quan thuế khi cơ quan này thực hiện công việc quyết toán thuế hằng năm với
doanh nghiệp
Tài sản cố định của doanh nghiệp thường không chứng minh được nguồn
gốc chủ sở hữu. Có những tài sản được mua từ trước khi hình thành doanh nghiệp,
mang tên chủ sở hữu cá nhân của chủ doanh nghiệp, sau đó được đưa vào sử dụng
cho doanh nghiệp và ghi vào sổ sách kế toán là tài sản của doanh nghiệp. Những tài
sản này, về mặt pháp lý sẽ không thuộc sở hữu của doanh nghiệp và càng có giá trị
lớn nếu như tài sản đó là đất đai, nhà cửa hay quyền sử dụng đất.
Việc đánh giá lại tài sản cố định cũng được thực hiện một cách không chính
thức, cơ sở đánh giá lại không tin cậy và không được các chuẩn mực kế toán của
Việt Nam công nhận. Ngoài ra, có trường hợp tài sản cố định được sử dụng làm tài
sản thế chấp ngân hàng mà không được khai báo với nhà đầu tư. Cách tính tỷ lệ
khấu hao của các doanh nghiệp tư nhân thường không tuân thủ theo chế độ kế toán.
Hơn nữa, một số tài sản theo chế độ kế toán là tài sản cố định nhưng lại được doanh
nghiệp hạch toán một lần là chi phí.
Cách phân loại chi phí giá vốn, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp cũng không được doanh nghiệp ghi một cách chính xác. Việc này, ảnh
hưởng rất nhiều đến việc phân tích và dự báo chi phí của doanh nghiệp trong tương
lai, cũng như xem xét vị thế của doanh nghiệp về tính cạnh tranh về giá vốn hàng
89
bán hay tiết kiệm chi phí quản lý của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng
ngành.
Việc tính toán giá thành hàng tồn kho cũng không được chính xác do lỗi của
phần mềm kế toán và hạn chế về quản lý hàng tồn kho và thành phẩm dở dang cũng
như ghi nhận các chi phí sản xuất đầu vào.
Các chi phí được ghi nhận trên cơ sở thu chi, chứ không trên cơ sở dồn tích
như quy định của các Chuẩn mực kế toán. Các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi
và hàng tồn kho không được lập. Việc hạch toán chi phí trả trước dài hạn không
nhất quán và chính xác, không có sự theo dõi.
Việc rút vốn của chủ sở hữu và tiếp vốn cho hoạt động kinh doanh: Khi rà
soát sổ tiền mặt của doanh nghiệp, một vấn đề cũng hay gặp phải đó là việc chủ sở
hữu có thể rút tiền của doanh nghiệp ra bất kỳ lúc nào cho mục đích chi tiêu hoặc
đầu tư cá nhân. Các khoản tiền này, sẽ được ghi là tạm ứng cho chủ sở hữu mà
không có quy định khi nào sẽ được hoàn lại, hoặc được ghi dưới bút toán là “rút
vốn”. Ngoài ra, có sự lẫn lộn giữa vay vốn các thành viên cá nhân của gia đình. Các
khoản vay này, có thể tính lãi mà không xem xẻt đến các quy định liên quan đến
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế nhà thầu.
Thuế thu nhập cá nhân và thuế nhà thầu: Các doanh nghiệp thường không
nộp thuế thu nhập cá nhân của nhân viên và của chính các thành viên chủ chốt của
công ty mà thông thường là các thành viên trong gia đình, bạn bè, bằng cách khai
không đúng chi phí lương của họ với cơ quan thuế. Cũng tương tự như vậy, các loại
thuế nhà thầu phải trả cho Nhà nước đối với các hợp đồng kinh tế với nhà thầu theo
quy định cũng thường được các doanh nghiệp “quên”.
Các khoản thu nhập khác thường do chủ doanh nghiệp tự đầu tư và kinh
doanh bên ngoài và thu được lợi nhuận. Các khoản thu nhập này thường được ghi
nhận vào báo cáo tài chính dùng làm cơ sở định giá. Những khoản thu nhập này là
không thường xuyên và cần phải được loại bỏ khi dự báo tài chính trong tương lai.
Ngoài ra, cần phải xem xét kỹ thêm rằng liệu các khoản thu nhập này có thuộc các
hoạt động sản xuất kinh doanh mà được cấp phép kinh doanh trong giấy phép kinh
doanh hay không.
90
Kết luận: Do thị trường M&A mới xuất hiện tai Việt Nam chưa lâu nên
không thể tránh khỏi một số hạn chế nhất định từ cà phía nhà nước và các bên tham
gia giao dịch mua lại và sáp nhập. Do đó, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tể về hoạt
động M&A là cần thiết. Trung Quốc – nước láng giềng của Việt Nam, một đất nước
trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đã từng đi lên từ một nước nông nghiệp
như Việt Nam và có một cơ cấu kinh tế tương đồng với nước ta - là một tấm gương
điển hình để Việt Nam học hỏi và rút ra được nhiều bài họckinh nghiệm trong hoạt
đông M&A.
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM M&A CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM.
Hoạt động M&A tại có mối quan hệ qua lại với nhiều yếu tố trong nền kinh
tế như dòng vốn đầu tư FDI, tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nước, sự hiểu biết về hoạt động M&A của nhà quản trị của các doanh nghiệp
trong nước, hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động M&A... Để thị trường M&A có
thể phát triển được, cần có sự phối hợp nhuần nhuyễn của các yếu tố trên.
Từ những năm 90 cho đến nay, Trung Quốc đã trở thành một trong những
môi trường đầu tư hàng đầu thế giới của Trung Quốc và có một thị trường M&A
phát triển mạnh mẽ. Tuy thực trạng của nền kinh tế Trung Quốc còn khá nhiều vấn
đề tồn tại ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động M&A nhưng các nhà kinh tế đã không
thể phủ nhận những thành quả về M&A mà đất nước Trung Quốc đã đạt được trong
suốt những năm qua. Để có một thị trường M&A phát triển như hiện nay, Trung
Quốc đã phải trải qua nhiều giai đoạn cải cách, xây dựng và họ đã thành công.
Những kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt động M&A là một bài học quý đối
với những nước cũng đang trên đà phát triển như Việt Nam. Sau đây, tác giả sẽ
phân tích kinh nghiệm M&A của Trung Quốc trên từng khía cạnh là các yếu tố
chính trong nền kinh tế thúc đẩy hoạt đông M&A phát triển.
91
2.1. Cải cách kinh tế tại Trung Quốc
Cải cách kinh tế tại Trung Quốc bắt đầu từ những năm 1970. Có thể khẳng
định rằng động lực đầu tiên và cơ bản cho thị trường M&A phát triển tại Trung
Quốc bắt đầu từ sự thay đổi môi trường kinh tế- chính trị từ những năm đó và buộc
chính phủ Trung Quốc phải cải cách. Cho đến hiện nay, hơn 30 năm cải cách của
Trung Quốc thực sự đã đem lại sự thay đổi lớn trong môi trường kinh tế- chính trị-
xã hội Trung Quốc. Đặc biệt là sau năm 1993 đã có một bước ngoặt lớn trong hệ tư
tưởng chính trị của Trung Quốc đó là: chính phủ Trung Quốc đề ra mục tiêu hướng
nền kinh tế Trung Quốc trở thành “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Kể từ đó, có sự thay đổi lớn trong những giá trị của những quy định bất
thành văn, những tiêu chuẩn, cách nhìn nhận, hệ thống pháp luật và những quy tắc.
Cho đến những năm gần đây, dưới những điều luật mới, nền kinh tế được
điều chỉnh và định hình lại. Ví dụ như hệ thống hợp tác xã nông nghiệp đã được
thay thế bằng hệ thống cho phép tư nhân tự quản lý và chịu trách nhiệm với phần
ruộng của mình. Trong lĩnh vực công nghiệp, thành công lớn nhất của chính phủ
Trung Quốc đó là: sự mạnh dạn trong việc đưa ra các cải cách tạo điều kiện cho sự
phát triển của các doanh nghiệp tư nhân cùng với những biện pháp giảm dần số
lượng các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn đưa ra các chính
sách nhằm tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng nền kinh tế với
tốc độ nhanh hơn dựa một phần vào nguồn vốn nước ngoài cùng với những nội lực
trong nước. Có thể nói, sau hàng chục năm cải cách, đất nước Trung Quốc đã thành
công, từ một nền kinh tế tập trung, Trung Quốc đang dần trở thành một nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của chính phủ và trở
thành một trong những nền kinh tế lớn của thế giới.
Với một môi trường thể chế kinh tê-chính trị-xã hội được cải cách và phát
triển nhanh chóng, hoạt động M&A tại Trung Quốc đã có một nền móng vững chắc
để phát triển từ những năm 1980, và cho đến nay, thị trường M&A càng có nhiều cơ
hội hơn để phát triển. Đây là một bài học quan trọng cho Việt Nam về thị trường
M&A nói riêng và cho cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.
92
2.2. Cổ phần hóa các doanh nghiệp SOE.
Có thể nói một trong những điểm mấu chốt của cuộc cách mạng kinh tế tại
Trung Quốc đó chính là chính sách cổ phần hóa các SOE. Vấn dề khó khăn nhất của
chính phủ Trung Quốc trong nhiều năm cải cách đó chính là làm thế nào để hướng
các SOE theo nền kinh tế định hướng thị trường, trở thành doanh nghiệp kinh doanh
theo đuổi lợi nhuân và góp phần vào tăng sản lượng đầu ra cho nền kinh tế. Với
định hướng như vậy về SOE, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp
để vực các SOE dậy như:
- Từ những năm 1980, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành sáp nhập nhiều
SOE đang trên bờ phá sản với các SOE đang làm ăn hiệu quả, chính sách này dã
phát huy hiệu quả, các SOE được sáp nhập lại với nhau đững vững được hơn trong
nền kinh tế. Đây chính là một trong những mầm mống đầu tiên của hoạt động M&A
tại Trung Quốc.
- Từ những năm 1985, chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu các SOE tiến hành
cổ phần hóa. Chính sách cổ phần hóa này là một bước đột phá trong quá trình cải tổ
SOE cũng như tạo điều kiện cho hoạt động M&A phát triển. Các SOE nhỏ và vừa,
chính phủ khuyến khích tiến hành tham gia họat động mua lại và sáp nhập, đối với
các SOE lớn trong các lĩnh vực trọng điểm, chính phủ Trung Quốc cho phép hoạt
động mua bán cổ phần nhưng nắm phần lớn cổ phần. Hiện nay, số cổ phần nhà
nước nắm giữ trong các doanh nghiệp SOE là 40%. Việc nắm giữ cồ phần như vậy
nhằm đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia và nhằm kiểm soát định hướng thị trường.
- Năm 1993, Chính phủ Trung Quốc yêu cầu các SOE phải thay đổi hệ thống
kế toán tài chính của mình sau cho phù hợp hơn với hệ thống kế toàn thế giới. Điều này
giúp cho việc kinh doanh làm ăn của các SOE trở nên minh bạch hơn. Với một hệ thống
kế toán minh bạch hơn, hoạt động M&A sẽ có thể diễn ra suôn sê hơn khi có một nhà
đầu tư nước ngoài hay trong nước có ý định mua một số cổ phần của các SOE.
Trên đây là một số biện pháp nổi bật nhất của chính phủ Trung Quốc nhằm
cải tổ các SOE, từ đó, tạo động lực cho hoạt động M&A phát triển. Tuy nhiên bài
học đáng chủ ý ở đây là: không giống như Nga, một đất nước cũng đã trải qua rất
nhiều cuộc cải cách kinh tế, Trung Quốc cũng tiến hành cải cách nhưng với chiến
93
lược khác. Chính phủ Nga chọn phương thức cải cách kinh tế nhanh, tức một bước
chuyển đổi sang một chế độ khác và xóa bỏ những thể chế cũ, điều này đã gây một
cú sốc lớn cho nền kinh tế nước Nga. Với Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đã
đưa ra chiến lược cải cách từ từ. Trong quá trình cải cách SOE, họ đã liên kết sự
phát triển của nền kinh tế với sự tái cơ cấu các SOE. Trong quá trình tái cớ cấu từ từ,
chính phủ Trung Quốc có thể xác định được mục tiêu rõ ràng hơn đó là: thiết lập
một nền kinh tế định hướng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thị
trường M&A. Nhưng vấn đề mấu chốt trong quá trình tái cơ cấu SOE chính là chính
phủ Trung Quốc khuyến khích và tạo điều kiện cho các SOE bị mua lại hoặc sáp
nhập với các tổ chức khác, các doanh nghiệp tư nhân và các FIE. Với hướng chiến
lược như vậy, chính phủ Trung Quốc đã tránh cho nền kinh tế Trung Quốc cú sốc
như nền kinh tế Nga, đồng thời có thời gian để đưa các SOE dần làm quen với nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, một điểm bất lợi của chiến lược này đó là quá trình
cải tổ các SOE của chính phủ Trung Quốc không bắt kịp được bằng tốc độ “xói
mòn” bên trong của các SOE. Tuy nhiên theo các nhà kinh tế, quá trình tái cơ cấu
các SOE nói riêng và cải cách nền kinh tế nói chung của Trung Quốc đã đạt một
bước tiến nhiều hơn so với các nước khác như Nga và nhiều nước phương tây Châu
Âu khác.
2.3. Thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
Trong những năm vừa qua, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều chính
sách nhằm thu hút nguồn vốn FDI. Có thể nói nguồn vốn FDI đóng vai trò rất quan
trọng đối với những nước đang có nền kinh tế phát triển. Nguồn vốn FDI là một
trong những động lực quan trọng giúp các nước nước đang phát triển có thể tiến bộ
và hòa nhập vào nền kinh tế thị trường nhanh hơn. Tại Trung Quốc, trong suốt
những năm vừa quan, do chính phủ Trung Quốc với mục đích thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, nên các doanh nghiệp FIE luôn đuợc hưởng ưu đãi hơn so với các
doanh nghiệp nội địa. Để thu hút được nhiều luồng vốn FDI, chính phủ Trung Quốc
đã tiến hành nhiều cuộc cách mạng trong chính sách, và đây cũng là một trong
những bài học quý báu cho Việt Nam.
94
- Tại Trung Quốc, các doanh nghiệp FIE tồn tại dưới bốn hình thức cơ bản:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh nước ngoài (Foreign
joint ventures), doanh nghiệp hợp tác nước ngoài (Foreign Cooperatives) và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE). Về hành lang pháp lý cho hoạt động FDI,
chính phủ Trung Quốc đưa ra bốn bộ luật điều chỉnh tương ứng với mỗi hình thức
đầu tư trên cùng với nhiều văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể cho các nhà đầu tư
nước ngoài (Bộ luật điều chỉnh doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Bộ luật điều
chỉnh doanh nghiệp liên doanh nước ngoài, Bộ luật điều chỉnh doanh nghiệp doanh
nghiệp Trung Quốc hợp tác với nước ngoài và Bộ luật điều chỉnh doanh nghiệp cổ
phần FIE). Đến năm 2002, khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc điều chỉnh
lại văn bản hướng dẫn về đầu tư nước ngoài - Guiding Directory on Industries open
to Foreign Investment, chia danh mục đầu tư thành bốn loại: khuyến khích, cho
phép, hạn chế và cấm. Trong những văn bản pháp luật điều chỉnh FDI của Trung
Quốc, các nhà đầu tư nước ngoài luôn được hưởng ưu đãi về nhiểu mặt hơn so với
các doanh nghiệp Trung Quốc. Hơn nữa, với một hành lang pháp lý đồng bộ cho
FDI như trên, các nhà đầu tư nước ngoài có thể yên tâm khi trút nguồn vốn của
mình vào một đất nước rộng lớn như Trung Quốc.
- Bản thân chính phủ Trung Quốc đưa ra nhiều phương thức “marketing” cho
đất nước mình. Đất nước Trung Quốc có lợi thế hơn nước ta ở nhiều mặt như về
diện tích, dân số, nền kinh tế, tài nguyên thiên nhiên…tuy nhiên, với những chính
sách quảng bá hình ảnh Trung Quốc ra thế giới, đất nước Trung Quốc đã thu hút
được sự chú ý lớn từ các nhà đầu tư trên khắp thế giới. Đây là một bài học quý mà
chính phủ Việt Nam đã và đang vận dụng. Chính nhờ những đường lối chính sách
như trên, hiện nay Trung Quốc là một trong những tiêu điểm của các nhà đâu tư
nước ngoài.
Khi nền kinh tế phát triển với lượng FDI dồi dào, điều này sẽ là một trong
những động lực quan trọng để thúc đẩy thị trường M&A. Sự phát triển của hoạt
động M&A là do nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp nhằm thực hiện những
chiến lược kinh doanh mới. M&A giúp các doanh nghiệp Trung Quốc thu hút được
nhiều hơn nguồn vốn quốc tể để phát triển, đồng thời giúp cho các nhà đầu tư nước
95
ngoài nhanh chóng có một vị trí tại thị trường Trung Quốc. Chính vì thế mà trong
những năm gần đây tại Trung Quốc, M&A nổi lên như một hình thức đầu tư mới và
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lượng vốn FDI.
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT
ĐỘNG M&A TẠI VIỆT NAM.
3.1. Đối với Nhà nƣớc và các bộ ngành liên quan.
3.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế-chính trị-xã hội ổn định.
Một môi trường kinh tế- chính trị - xã hội ổn đinh sẽ là tiền đề cho sự phát
triển của các doanh nghiệp. Trong đó, môi trường chính trị có ảnh hưởng lớn dến
hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong môi trường chính trị
cũng sẽ gây những ảnh hưởng hoặc tích cực hoặc tiêu cực tợi sự phát triển của tất cả
các doanh nghiệp trong quốc gia đó. Một môi trường pháp lý đồng bộ, lành mạnh sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tạo
nên một môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo tính công bằng cho mọi
cá nhân trong xã hội. Một môi trường chính trị ổn đinh cũng sẽ là nền tảng cho một
xã hội phát triển vững mạnh. Như vậy, có thể khẳng định rằng, mức độ hoàn thiện,
sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch
định , thực hiện chiến lược kinh doanh của các công ty, từ đó ảnh hưởng đến sự
phảt triển của nền kinh tế quốc gia.
Trong thời gian vừa qua, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa thực
sự ổn định, nền kinh tế phát triển ở mức thấp, khung thể chế đảm bảo cho hoạt động
của các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Các chủ thể kinh tế còn manh mún, văn
hóa kinh doanh vẫn giữ những nét làm việc ở thế bị động, chưa thực sự hòa nhập
được vào một nền kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 2007, Việt Nam đã gia
nhập WTO và bắt đầu thực hiện những chính sách mở cửa dần nền kinh tế nước nhà,
quá trình hội nhập này đã và đang trở thành động lực lớn để đẩy mạnh quá trình
thay đổi môi trường kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
3.1.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tạo nhu cầu M&A.
Thị trường mua lại và sáp nhập tại Việt Nam đang trở thành một thị trường
tiềm năng, với mức phát triển không nhỏ, trên dưới 30-40%/năm. Hiện tại, ở Việt
96
Nam có khoảng 6000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 170 000 doanh
nghiệp trong nước, 5000 doanh nghiệp nhà nước, 15000 hợp tác xã , vì vậy Việt
Nam cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để nhu cầu M&A của các doanh
nghiệp ngày càng tăng. Ngoài ra, cần tạo ra nhu cầu nội tại của thị trường, trong
môi trường kinh doanh đó phải có sự cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp. Đó
chính là động lực để doanh nghiệp vươn lên, phát triển cả chiều sâu, chiều rộng, và
đương nhiên khi đó sẽ có doanh nghiệp tồn tại, phát triển, có doanh nghiệp bị phá
sản, thôn tính... Tất yếu, môi trường đó sẽ hình thành nhu cầu mua, bán, sáp nhập,
liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp để lớn mạnh hơn, phát triển hơn và hỗ
trợ cho nhau tốt hơn.
3.1.3. Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh
Hoạt động M&A có tác dộng hai chiều đối với môi trường kinh doanh. Tác
động thứ nhất, đối với các công ty đang lâm vào tình trạng kinh doanh khó khăn, nó
có thể tham gia các thương vụ M&A nhằm thu được các lợi thế trong kinh doanh
như tăng cường cơ sở vật chất, thay đổi hướng chiến lược kinh doanh, có được hỗ
trợ tài chính…từ đó có thể tránh được nguy cơ phá sản và dần nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Tác động thứ hai, thường được coi là tác động tiêu
cực của M&A, đó là trong nhiều trường hợp sự sáp nhập của nhiều công ty với nhau
sẽ làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường trong một lĩnh vực cụ thể. Điều này có
ảnh hưởng không chỉ tới các doanh nghiệp khác mà còn ảnh hưởng trực tiếp đén
vấn đề lao động của người dân, vấn đề an ninh kinh tế quốc gia và kéo theo nhiều
nguy cơ khác. Do đó, việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt
động M&A tại Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây khi thị trường M&A
ngày càng phát triển, là một việc làm hết sức cấp bách và cần thiết.
Một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động M&A cần phải được thiết kế để không
chỉ làm hạn chế các tác động xấu những cũng tạo điều kiện cho các tác động tốt của
M&A đem lại. Trong hoàn cảnh cụ thê rnhư hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung đang phải đối mặt với hai vấn đề lớn sau:
97
- Quá trình hội nhập WTO sẽ làm giảm đáng kể các yếu tố bảo hộ Nhà nước
đối với các doanh nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với
sự cạnh tranh trực tiếp của các đối thủ nước ngoài.
- Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mố vốn nhìn chung là nhỏ, do đó, tính
cạnh tranh thực sự là hạn chế so với các nhà đầu tu nước ngoài.
Vì vậy trong thời gian tới, nội dung chủ đạo của khung pháp lý cho hoạt
động M&A tại Việt Nam nền tạo điều kiện cho hoạt động M&A phát triển. Đối với
hoạt động M&A có liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài cần tạo môi trường phát
triển, tuy nhiên để đảm bảo các vấn đề an ninh kinh tế, Nhà nước cần có một số hạn
chế nhất định, đặc biệt là trong những ngành kinh tế trong điểm. Đối với hoạt động
M&A giữa các công nội địa trong nước, Nhà nước cần có những ưuy định hướng
dẫn cụ thế để các công ty nội địa mạnh dạn tham gia vào hoạt động mua lại và sáp
nhập, đẩy nhanh quá tình tích tụ tư bản và cơ sở vật chất, từ đó làm tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp
nhà nước vừa và nhỏ sau khi cổ phần hóa, để giúp các doanh nghiệp này làm ăn đạt
hiệu quả hơn, cần khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia hoạt động M&A
với các doanh nghiệp khác. Đối với những doanh nghiệp nhà nước lớn sau khi cổ
phần hóa, cần có những quy định chặt chẽ về mua lại và sáp nhập, định giá doanh
nghiệp, tránh thất thoát tài sản nhà nước.
Một điểm đang lưư ý đó là theo nguyên tắc Đối xử quốc gia, sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ được hưởng các ưu đãi
giống các doanh nghiệp trong nước. Do đó, yếu tố bảo vệ duy nhất cho doanh
nghiệp Việt Nam là lộ trình “mở cửa” dần mà chính phủ Việt Nam cam kết. Vì thế,
các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích tụ được càng nhiều vốn và kinh nghiệm
càng nhanh càng tốt. Việc quy định đơn giản thủ tục sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp sẽ góp phần vào việc nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
3.2. Đối với doanh nghiệp
3.2.1. Nâng cao kiến thức về hoạt động M&A cho doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, hoạt động mua lại và sáp nhập tại Việt Nam mới thực sự phát triển
trong vòng chưa đầy 10 năm, chính điều này đã khiến nhiều nhà quản trị của các
98
doanh nghiệp trong nước chưa có cái nhìn đứng đắn về hoạt động M&A. Như đã
nêu trong phần hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn giữ những suy nghĩ tư
tưởng coi công ty là “đứa con” đẻ của mình, do đó rất ngần ngại và không muốn
tham gia hoạt động mua lại và sáp nhập. Khi nói về M&A người ta thường nghĩ
ngay đến việc bán toàn bộ doanh nghiệp hay những vụ sáp nhập đình đám của
những công ty hàng đầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới như hiện nay, môi trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp Việt Nam
cần có một cái nhìn đứng đắn về vị thế của mình trên thương trường, từ đó, tiếp thu
những tư tưởng mới về hoạt động mua lại và sáp nhập. M&A khác với việc gọi vốn
qua thị trường chứng khoán ở chỗ, nó không chỉ đơn thuần gọi vốn mà còn là thiết
lập một quan hệ đối tác chiến lược, trong đó người mua - đối tác chiến lược - không
chỉ góp thêm vốn, mà còn tăng thêm giá trị cho doanh nghiệp được mua, bằng năng
lực quản lý, các bí quyết công nghệ kết hợp với hệ thống phân phối sẵn có của
người mua…Như kinh nghiệm của các doanh nghiệp Trung Quốc, một trong những
phương thức tăng hiệu quả hoạt động và đạt được lợi nhuận nhanh nhất đó là tham
gia vào hoạt động mua lại và sáp nhập, bản thân doanh nghiệp mua lại và doanh
nghiệp mục tiêu đêu đạt được những lợi thế nhất định, điều này sẽ thuc đẩy hoạt
động kinh doanh của cả hai bên.
Mặt khác, bản thân nhiều doanh nghiệp Việt Nam trước và sau khi tham gia
một thương vụ M&A tỏ ra khá bối rối bởi họ chưa có đồng bộ kiến thức về hoạt
động này. Điều này là một bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi các
đối tác nước ngoài đã thấu hiểu những quy định, chuẩn mực, phương thức của một
thương vụ M&A thì đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, những quy định,
phương thức trong một thương vụ M&A cón khá mới mẻ. Cho đến thời điểm hiện
nay, tuy các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào thị trường M&A,
nhưng phần lớn các doanh nghiệp nước ta đều ở thế bị động, tức đóng vai trò là các
công ty mục tiêu, bị các công ty nước ngoài sáp nhập và mua lại. Do đó, việc trang
bị một hệ thống kiến thức đầy đủ về hoạt động M&A là hết sức cần thiết nhằm tránh
khỏi những bất lợi mà một doanh nghiệp bị mua lại gặp phải. Hiên nay, về phía nhà
nước, chính phủ đang cố gắng đưa ra hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động
99
M&A, thì về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp trong nước nên tự chủ động nâng
cao kiến thức M&A và tìm hướng đi cho mình.
3.2.2. Đa dạng hóa hoạt động M&A
Hoạt động M&A mới phát triển tại Việt Nam chưa lâu nên hình thức, thị
trường M&A vẫn còn hạn chế. Đặc thù thị trường M&A tại nước ta mang đậm chất
mua lại một phần doanh nghiệp và quy mô các đợt sáp nhập phần lớn ở mức trung
bình (từ 5 triệu USD đến 250 triệu USD).Các giao dịch M&A diễn ra chủ yếu thông
qua giao dịch cổ phần, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Các vụ mua lại phần
lớn đều liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài, giữa các doanh nghiệp FIE hoặc giữa
FIE với một công ty nội địa. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam nên
mở rộng hưỡng chiến lược của mình như tham gia liên kết với các doanh nghiệp nội
địa khác thay vì bị mua lại hoặc sáp nhập với các công ty FIE trở thành một chi
nhánh của công ty đó, hoặc nhiều hình thức liên kết khác.
Bên cạnh việc chủ động tìm đối tác tại thị trường truyền thống trong nước,
các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng phát triển tốt nền hướng sang những thị
trường kinh doanh mới, nhiều tiềm năng phát triển ở nước ngoài. Có thể lấy ví dụ
thị trường nước ngoài là nước láng giềng Lào. Đây được coi là một thị trường khá
tiềm năng mà các doanh nghiệo lớn ở nước ta hoàn toàn có khả năng thâm nhập.
Làn sóng M&A là cơ hội để các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam tính toán kỹ, nắm
bắt thời cơ để đưa ra quyết định đúng, đưa hoạt động kinh doanh lên tầm cao mới.
3.2.3. Tiến hành động bộ các bước giao dịch trong mô hình M&A nhằm
đạt hiệu quả của hoạt động M&A.
Hoạt động M&A chỉ mang lại hiệu quả nếu được thực hiện dựa trên các kế
hoạch cụ thể và có trình tự rõ ràng. Xét tinh hình hoạt động M&A tại Việt Nam,
hình thức M&A phổ biến vẫn là lựa chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Lúc này, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với vấn
đề sống còn của doanh nghiệp. Một thương vụ M&A thành công đòi hỏi quá trình
lập kế hoạch phải được kiểm soát và quản lý hiệu quả, bao gồm: phát triển chiến
lược, phân tích tài chính chặt chẽ, kết hợp văn hóa tinh tế, tầm nhìn lãnh đạo bao
quát, và chương trình quản lý toàn diện sau khi sáp nhập (xử lý các vấn đề về quan
100
hệ, độ tin cậy của đội ngũ quản lý, tích hợp cơ cấu tổ chức, và tốc độ chuyển động).
Bởi vậy, phát triển tối đa ý đồ về thương vụ, xác định chính xác đối tác chiến lược,
đặt ra tiêu chuẩn cao hơn cho giá trị tạo ra, hạ thấp tỷ lệ mất lòng tin của người lao
động, sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn và thời gian, và kết hợp quá trình và cơ cấu
hoạt động tối ưu là các điểm được đặt biệt chú ý. Để thực hiện được những thương
vụ M&A thành công, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện tốt các bước cơ bản
trong trình tự M&A.
Thứ nhất, nhận biết rõ nhu cầu của bản thân doanh nghiệp trong mối liên hệ
với chiến lựợc kinh doanh.
Trước khi quyết định thực hiện hợp nhất hay sáp nhập với một doanh nghiệp
khác, doanh nghiệp cần cân nhắc và trả lời những câu hỏi sau: có nên sáp nhập với
một doanh nghiệp khác không, sau khi tiến hành sáp nhập doanh nghiệp sẽ có được
lợi gì, phát triển thêm ở khia cạnh nào, giải quyết được vấn đề khó khăn gì.
Doanh nghiệp phải xác định được phương thức, chiến lược sáp nhập , hợp
nhất như thế nào là phù hợp nhất và có lợi nhất đối với doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp muốn tăng vốn, mở rộng phạm vi kinh doanh thì có thể tiến hành sáp nhập
với một doanh nghiệp nhỏ hơn. Nếu danh nghiệp muốn giảm đối thủ cạnh tranh thì
tiến hành sáp nhập trong cùng ngành. Nếu doanh nghiệp muốn niêm yết cổ phiếu
của mình trên thị trường chứng khoán thì có thiể tiến hành sáp nhập với doanh
nghiệp lớn hơn đã niêm yết trên sàn...thực hiện hình thức M&A nào là tùy thuộc và
mục đich của doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp đó là phải xác định xem
giao dịch M&A định tiến hành sẽ là loại giao dịch nào. Đó là hợp nhất, sáp nhập
hay là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hay là một giao dịch với hình thức
thôn tính hoặc phát triển thương hiệu, hay là mua góp cổ phần, mua bằng vay vốn
(leveraged buyouts), mua nội bộ (management buyout), hay là mua lại từ chính các
thành viên nội bộ công ty (But-in and Management Buy-out)...Việc xác định được
cụ thể loại hình giao dịch M&A sẽ giúp cho các bên nhận thức được một cách cụ
thể hơn về giao dịch đó cũng như những áp dụng được chính xác những điều luật
điều chỉnh tương ứng.
101
Thứ hai, chủ động tìm kiếm đối tác.
Đây là một trong những bước cần sự linh hoạt nhạy bén của doanh nghiệp
trong một thương vụ M&A bởi xác định đối tác đứng đắn, phù hợp với nhu cầu,
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình là rất quan trọng.
Để xác định được một đối tác phù hợp, doanh nghiệp phải xác định yêu cầu
của mình đối với đối tác tiềm năng, Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các tiêu
chí như loại hình kinh doanh, thị trường hoạt động, nguồn nhân lực, cơ sở vật , tình
trạng kinh doanh của doanh nghiệp, trình dộ quản lý, trình độ công nghệ thông
tin…Sau đó, doanh nghiệp có thể khoanh vùng những doanh nghiệp tiềm năng mà
mình có thể hợp tác dựa vào những tiêu chí đưa ra. Để chọn ra được đối tác duy
nhất cho thương vụ M&A, doanh nghiệp sẽ cần tiến hành bước tiếp theo, đó là thảm
định thông tin đối tác.
Thứ ba, chủ động thẩm định thông tin đối tác.
Để thực hiện được một thương vụ M&A thành công, điều quan trọng nhất là
doanh nghiệp thẩm định thông tin các mặt của doanh nghiệp đối tác một cách xác
thực và đáng tin cậy. Thẩm định thông tin đối tác bao gồm hai loại thẩm đinh: thẩm
định thông tin kinh tế (Finance due diligence) và thẩm định thông tin pháp lý (legal
due diligence).
Loại hình thẩm định đầu tiên doanh nghiệp phải thực hiện đó là thẩm định
pháp lý. Thẩm định pháp lý của doanh nghiệp giúp cho bên mua hiểu rõ tư cách
pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý, chế độ pháp lý đối với các loại tài sản, hợp
đồng đối với người lao động, hồ sơ đất đai, xây dựng, đầu tư… để trên cơ sở xác
định tình trạng và các rủi ro pháp lý đưa ra quyết định mua doanh nghiệp. Thẩm
định pháp lý thường do các luật sư thực hiện thay mặt cho bên mua. Vì vậy, luật sư
tư vấn M&A đóng vai trò rất quan trọng và kết luận về hồ sơ pháp lý của doanh
nghiệp bị mua, bị sáp nhập là cơ sở để các bên đưa ra quyết định mua bán, sáp nhập
hay từ chối mua bán, sáp nhập. Sau thẩm định pháp lý, doanh nghiệp bị mua, bị sáp
nhập cũng có thể tiến hành các thủ tục nhằm tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm đáp
ứng các yêu cầu của bên mua.
102
Loại hình thẩm định thứ hai là thẩm định thông tin kinh tế. Thông thường
theo thông lệ quốc tế, các thông tin kinh tế sẽ tự do doanh nghiệp đưa ra. Tuy nhiên,
để đảm bảo sự công bằng, khách quan và đáng tin cậy, các bên trong giao dịch
M&A thường nhờ tới một bên thức ba, đó là các công ty kiểm toán. Thông tin kinh
tế cần được kiểm toàn bao gồm các thông tin về tài sản, nguồn vốn, các khoản nợ
của doanh nghiệp, doanh thu, lợi nhuận, các loại báo cáo ngân lưu, báo cáo quyết
toán thuế. Ngoài ra , việc kiểm dịnh thông tin có thể xem xét đến cả những mặt như
chi phí vận hành của doanh nghiệp , đội ngũ quản trị. Một thông itn kinh tế cần lưu
ý đó là giá trị thương hiệu trong một thương vụ mua lại và sáp nhập. Do doanh
nghiệp là tài sản vô hình nên việc định giá càng trở nên khó khăn và gây nhiều tranh
cãi. Về vấn đề này, doanh nghiệp có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia thuộc
Cục sở hữu trí tuệ.
Quá trình thẩm định thông tin kinh tế và trách nhiệm với quá trình thẩm định
không chỉ thuộc về phía đối tác mà bản thân doanh nghiệp cũng phải tham gia tích
cực và quá trình đó. Nếu cả hai bên đều tham gia với không khí hợp tác, qua trình
thẩm định thông tin sẽ diễn ra suôn sẽ, từ đó các nhân viên của công ty kỉểm toán có
thể đưa ra những số liệu chính xác. Nhờ đó, cả hai bên mua và bên bán có thể tiến
lại gần nhau hơn trong thương vụ M&A và có thể đưa ra những cái nhìn, những
quyết định chính xác đối với tình hình thực tế của doanh nghiệp đối tác. Hơn nữa,
một kết quả chính xác của một quá trình kiểm tóan nghiêm ngặt có thể giúp cả hai
bên doanh nghiệp tránh được sự sai lệch thông tin dẫn đến những vụ tranh chấp,
kiện tụng sau này.
Quá trình thẩm định bao gồm nhiều bước phức tạp. đòi hỏi sự tham gia
thường xuyên của một bộ phận phụ trách M&A. Doanh nghiệp có thể tự thành lập
bộ phận này với sự tham gia của các chuyên gia từ bên ngoài hoặc doanh nghiệp
cũng có thể thuê dịch vụ tư vấn giao dịch M&A của các công ty tư vấn chuyên
nghiệp. Hiện nay tại Việt Nam có rất nhiều công ty nổi tiếng trong lĩnh vực này như
các công ty kiểm toán quốc tế như E&Y, KPMG, PwC, Deloitte, TCK Group…Với
một ngũ chuyên nghiệp từ các công ty trên, doanh nghiệp có thể yên tâm hơn, tránh
được các hành vi gian lận, thiếu tính minh bạch khi tham gia vào hoạt động M&A.
103
Thứ tư, theo dõi và đánh giá hoạt động của doanh nghiệp sau sáp nhập.
Sau khi thương vụ M&A thành công, điều dó không có nghĩa là quá trình
hợp nhất dừng lại ở đó. Giai đoạn sau sáp nhập mới là yếu tố cơ bản, quyết định sự
thành công, sức mạnh cộng hưởng mà một thương vụ sáp nhập có thể đem lại cho
cả hai bên tham gia. Do đó, quá trình theo dõi, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
sau sáp nhập là rất quan trọng, từ đó, đưa hai doanh nghiệp tới sự hòa hợp để có thể
thống nhất thành một tổ chức. Để đạt được sự hòa hợp này, cả hai bên cần chủ động
tiến hành các phương pháp như trao đổi thông tin thường xuyên, lập các kế hoạch
cụ thể để cùng chung phát triển thương hiệu, tiếp tục tiến hành nhiều công việc,
biện pháp để tiến tới hòa nhập (integration) về tài sản, chiến lược kinh doanh, nguồn
nhân lực, văn hóa…Một thương vụ M&A được coi là thành công và đạt hiệu quả
nếu như sau thương vụ đó, hai bên doanh nghiệp đểu đạt được mục đích của mình
và tồn tại sự hòa hợp giữa hai doanh nghiệp.
3.3. Các kiến nghị khác.
3.3.1. Tăng cường kiểm soát thông tin và tính minh bạch của thông tin
Việt Nam cần xây dựng được kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch trong
hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động M&A nói riêng. Bởi vì trong hoạt động
M&A, thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị phần, quản trị... là rất cần
thiết cho cả bên mua, bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát, minh bạch thì
có thể gây nhiều thiệt hại cho cả bên mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến
các thị trường khác như hàng hóa, chứng khoán, ngân hàng. Bởi vì, cũng như các
thị trường khác, thị trường M&A hoạt động có tính dây chuyền, nếu một vụ M&A
lớn diễn ra không thành công hoặc có yếu tố lừa dối thì hậu quả cho nền kinh tế là
rất lớn vì có thể cổ phiếu, trái phiếu, hoạt động kinh doanh, đầu tư... của doanh
nghiệp đó nói riêng và các doanh nghiệp liên quan bị ảnh hưởng theo.
3.3.2. Phát triển các dịch vụ tư vấn M&A.
Hiện nay tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều công ty tư vấn giao dịch M&A
hoạt động trên thị trường. Có thể kể tên các công ty nổi bật như IDJ, Tigerinvest,
First Asia Limited...Các dịch vụ tư vấn bao gồm việc lập hồ sơ, định giá, marketing
doanh nghiệp cần bán, lựa chọn người bán, người mua thích hợp, hỗ trợ đàm phán
104
ký kết hợp đồng…Khi các doanh nghiệp có nhu cầu về M&A, họ có thể thuê các
chuyên gia thuộc các công ty trên. Quá trình M&A là một quá trình phức tạp và kéo
dài, các vấn đề một thương vụ M&A thường phải đối mặt là thuế, kế toán, chuyển
đổi tài sản, phân chia lợi nhuận, trách nhiệm giải quyết các khoản nợ chưa thanh
toán, giải quyết lao động dôi dư, môi trường văn hóa doanh nghiệp và các vấn đề
hậu M&A. Do đó, khi thuê các công ty tư vấn M&A, đội ngũ chuyên gia có thể
giúp cho doanh nghiệp giải quyết các khó khăn trên, từ những vấn đề tài chính đến
việc liên hệ những cơ quan chức năng quản lý có liên quan. Bên cạnh các công ty
cung cáp dịch vụ M&A như trên, các công ty chứng khoán và ngân hàng Việt Nam
cũng đang cung cấp triển khai dịch vụ này. Với sự phát triển của một hệ cung cấp
dịch vụ M&A chuyên nghiệp, hoạt động M&A tại Việt Nam sẽ nhiều cơ hội phát
triển hơn nữa trong những năm tới.
105
Kết luận
Khóa luận tốt nghiệp đã đưa ra những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động M&A
và lịch sử hình thành hoạt động M&A trên thế giới. Dưới góc nhìn vĩ mô của một
nền kinh tế đang phát triển, hoạt động M&A là một trơng những phương thức quan
trọng thúc đẩy các nước đang phát triển nhanh chóng hòa nhập với nền kinh tế thế
giới. Dưới góc nhìn là một phương thức đầu tư, nhiều nhà kinh tế đã nhận định rằng,
đối với các doanh nghiệp, M&A còn hơn cà một hình thức đầu tư hiệu quả. Những lợi
ích thu mà hoạt động M&A mang lại chính là lý do quan trọng khiến M&A thu hút được
nhiều sự quan tâm của cả các nhà quản trị doanh nghiệp và chính phủ các nước.
Hoạt động M&A tại Trung Quốc đã xuất hiện sớm từ những năm 1985 và
nhanh chóng phát triển. Chỉ trong vòng gần hơn 20, thị trường M&A của Trung
Quốc đã đứng thứ ba tại Châu Á Thái Bình Dương. Hoạt động M&A của Trung
Quốc phát triển nhanh như vậy chính là nhờ sự tác động của nhiều yếu tố trong nền
kinh tế như dòng vốn FDI, hành lang pháp lý, thị trường chứng khoán, quá trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp của Trung Quốc. Có thể nói M&A là một xu thế tất yếu
của mỗi quốc gia có nền kinh tế khi đã bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển và
đang dần hòa nhập với nền kinh tế thế giới.
Thực tế tại Việt Nam trong gần 10 năm qua, hoạt động M&A, hoạt động
M&A chưa thực sự thu hút được nhiều sự chú ý của bản thân các doanh nghiệp
cũng như sự quan tâm của nhà nước. Tuy nhiên đã đến lúc các doanh nghiệp Việt
Nam cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng về kiến thức M&A trong thời kỳ cạnh tranh khốc liệt
sắp tới. Bên cạnh đó, khung pháp lý cho hoạt động M&A tại Việt Nam cần được
hoàn thiện hơn về nhiều mặt, tránh gây xung đột giữa các bộ luật, tạo điều kiện cho
hoạt động M&A được phát triển.
Do hoạt động M&A liên quan đến nhiều vấn đề trong nền kinh tế, khóa luận
mới chỉ tập trung phân tích hoạt động M&A tại Trung Quốc và Việt Nam dưới góc
độ vĩ mô. Tác giả chỉ hy vọng đưa ra được một bức tranh tổng quát của thị trường
M&A tại Trung Quốc và Việt Nam cũng như nêu lên những phân tích tổng hợp
nhằm mở đường cho các nghiên cứu trong tương lai.
106
Tài liệu tham khảo :
1. T.S Ngô Công Thành, 2008, “Hoạt động M&A có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam : Hệ thống pháp luật và vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước”.
2. Thái Bảo Anh, 2006, “Tham luận về khung pháp lý liên quan đến vấn đề
mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam”.
3. Luật sư Trần Anh Đức, 2007, “Mua bán doanh nghiệp”.
4. Th.s Nguyễn Đình Cung, 2007, “Thâu tóm và hợp nhất từ khía cạnh quản trị
công ty”.
5. Boston McGraw-Hill, (2005), “Corporate Finance”.
6. Alexandra M.Post, 1994, “Atonomy of a merger,the causes and effects of
merger & acquisition”.
7. Andrew J.Sherman, 2006, “Merger and Acquisition from A to Z”.
8. Oliver M.Rui, 2007, “M&A activities in a heavily regulated environment :
Evidence from China”.
9. Thomson Financial, 2008, “World merger and acquisition review”.
10. Guoqiang Long, 2003, “China Policies on FDI : review and evaluation”.
11. Bo xu&Haiyan Yan, 2006, “System archetype analysis on some problems of
Chinese enterprises Cross-border M&A”.
12. Erik Bethel, 2008, “China goes Outbound”.
13. McKinsey, 2008, “China’s track record in M&A”.
14. Charles Comey, 2005, “M&A in China”.
15. Decai Fu, 2001, “MBA project : Merger & Acquisition in China”.
16. Michael Hickman, 2006, “M&A and FDI in China”.
17. Ruggero Jenna, 2007, “M&A in China : Trend and key success factors”.
18. Pwc, KPMG, UNTACD’s reports.
19. Ho-Mou Wu, 2007, “Merger activities and Stock market valuation in China”.
20. Liu&Xiaolei, 2006, “China’s equity market overview”.
21. Song Hong, 2007, “FDI and China’s economic development”.
107
Các website :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4799_176.pdf