Những nhiệm vụ cụ thể nêu trên và cả những vấn đề khác nữa, ngành ngoài giao có thể và có điều kiện làm được nhằm góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta, được thể hiện rất rõ trong văn kiện Đại hội Đảng làn thứ 9 vừa qua. Tuy nhiên, để thực hiện tốt những nhiệm vụ này đòi hỏi nhiều nhân tố, trong đó một số nhân tố đã có sẵn, một số nhân tố đã được hình thành và đang trong quá trình phát triển. Sau đây, xin nêu một số nhân tố:
Một là, Lãnh đạo cấp cao và Lãnh đạo Bộ Ngoại giao rất quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường công tác này ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như các đơn vị liên quan trong nước. Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, đặc biệt Đồng chí Bộ trưởng, đã giành nhiều thời gian, công sức chỉ đạo chặt chẽ công tác này, luôn nhắc nhở các đơn vị trong nước và cơ quan đại diện ở nước ngoài đầu tư nhiều hơn thời gian, trí lực, sức lực và kinh phí cho công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
Hai là, các đơn vị trong nước và các cơ quan đại diện đã có nhiều cố gắng trong công tác này. Tuy vậy, so với yêu cầu, các đơn vị trong và ngoài nước cần phải cố gắng nhiều hơn, liên tục hơn, đặc biệt trong công tác tổ chức, cán bộ, chương trình, kế hoạch công tác hàng ngày, hàng tháng, hàng quý và năm mới nâng cao được hiệu quả công tác này.
Ba là, phải tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp với các cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài và Bộ Ngoại giao. Quan hệ và thông tin hai chiều này cực kỳ quan trọng giúp ngành đối ngoại hoàn thành tốt nhiệm vụ phụ vụ phát triển kinh tế, có lợi cho sự nghiệp chung, đồng thời cũng có lợi trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế trong nước. Để phục vụ mục tiêu này, Bộ Ngoại giao đã thí điểm ký kết Thoả thuận hợp tác với 6 tỉnh/thành gồm Đà Nẵng, Thanh Hoá, Hà Nam, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Khánh Hoà nhằm hỗ trợ các địa phương này hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời Bộ Ngoại giao đã ký kết Thoả thuận hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với mục tiêu hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp cũng như các địa phương xúc tiến kinh tế đối ngoại.
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế thế giới - kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế
(27/04/2004)
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới gần đây, công tác ngoại giao phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế đang đứng trước những nhiệm vụ cụ thể không thể thoái thác.
Sau thời kỳ tăng trưởng nhanh trong thập kỷ 90 (tốc độ đạt 3 – 4,5% năm), nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn trì trệ và nhiều bất ổn do những tác động về an ninh, chính trị phức tạp như sự kiện 11/9, cuộc chiến tại Ap-gan-nistan, cuộc chiến Iraq, bệnh dịch SARS. Bên cạnh đó, sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán công nghệ cao, thất bại của vòng đàm phán Cancun, sự suy giảm của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng trong 3 năm trở lại đây giảm sút. Năm 2001 mức tăng trưởng thấp nhất (1,9%). Năm 2002 là 2,8%. Năm 2003 khoảng 3,2%.
1. Kinh tế thế giới trong thời gian gần đây
1.1. Tình hình phát triển kinh tế thế giới.
Kinh tế Mỹ chiếm 30,5% GDP của thế giới, 25% buôn bán quốc tế, 46% thị trường cổ phiếu và đóng góp 40% tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong suốt hơn 9 năm (1991-2000), kinh tế Mỹ tăng trưởng cao, liên tục và ổn định ở mức 2-4% và đạt mức kỷ lục 5,2% vào năm 2000. Lần đầu tiên kể từ năm 1969, Mỹ có thặng dư ngân sách và duy trì trong 3 năm liên tục (1998-2000), cao nhất đạt 237 tỷ USD vào năm 2000. Tỷ lệ lạm phát thấp, trung bình 2%/năm (10 năm trước là 3,7%). Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, trung bình là 5,3% trong 10 năm. Chỉ trong 10 năm, năng suất lao động tăng gấp đôi, từ 1,5%/năm lên 3%/năm. Nhưng từ khi Bush lên cầm quyền, kinh tế Mỹ bắt đầu trì trệ và khó khăn, đặc biệt từ sau sự kiện 11/9/2001. Tốc độ tăng trưởng năm 2002 đạt 2,2% (2001 là 1,1%), thất nghiệp cao (5,9%); thâm hụt thương mại ở mức cao kỷ lục (khoảng 420 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2001); ngân sách thâm hụt 159 tỷ USD do chương trình cắt giảm thuế lớn (1350 tỷ USD trong 11 năm từ 2002).
Các chính sách nới lỏng tài chính tiền tệ nhằm phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã được thực hiện : (i) duy trì lãi suất thấp nhất trong vòng 50 năm qua (1%); (ii) tăng đầu tư công cộng, nhất là chi tiêu quốc phòng; (iii) giảm giá đồng Đô La để thúc đẩy xuất khẩu ; (iv) tình trạng thâm hụt kép (cán cân thương mại và ngân sách).
Kinh tế các nước EU dần phục hồi những năm cuối thập kỷ 90. Nhưng trong mấy năm gần đây lại tiếp tục trì trệ; chỉ đạt 1,1% vào năm 2002, trong đó khu vực đồng euro tăng 0,75%. Kinh tế Đức, Pháp và Italia đều gặp khó khăn: tốc độ tăng trưởng giảm, thâm hụt ngân sách tăng vượt quá 3% GDP (Đức, Pháp), tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (hơn 10% ở Đức và 9,3% ở Pháp), sản lượng công nghiệp giảm và đang có xu hướng giảm phát. Nếu vượt qua khó khăn ngắn hạn, sức mạnh của cả khối được tăng cường (đồng EURO mạnh lên, kỳ luật tài chính được duy trì, việc mở rộng Liên minh…) sẽ tạo động lực phát triển mới.
Kinh tế Nhật Bản suy thoái từ cuối những năm 1980. Riêng thập kỷ 90, Nhật Bản đã 3 lần suy thoái. Kinh tế tăng trưởng chỉ khoảng 0,5% - 1%/ năm, thất nghiệp gia tăng cao, giảm phát, tổng cầu nội địa thấp. Tổng số nợ khó đòi của 15 ngân hàng lớn nhất nước lên tới 395 tỷ USD (bằng 10% GDP), nợ của Chính phủ Nhật lên đến 140% GDP so với 62% của năm 1992. Các lĩnh vực được bảo hộ như tài chính, dịch vụ, nông nghiệp có sức cạnh tranh thấp; xếp hạng cạnh tranh chung của kinh tế Nhật ngày càng giảm. Năm 2003, kinh tế Nhật qua thời kỳ khó khăn nhất, tăng trưởng trên 1%. Xuất khẩu và dự trữ ngoại tệ tăng.
- Kinh tế các nước đang phát triển. Nhờ sự tăng trưởng cao và liên tục từ thập kỷ 60 đến giữa những năm 90, kinh tế Đông á đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới ( tăng trung bình 5-6%/năm). Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 1997 -1998 khiến khu vực này gặp nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị và an ninh. Song quyết tâm cải cách kinh tế của khu vực, đặc biệt cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng, giải quyết các khoản nợ khó đòi; giảm lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn ... kinh tế các nước này đã phục hồi và phát triển song vẫn chưa ổn định và còn nhiều bất ổn về kinh tế. Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á tăng trưởng 6,1% (IMF), trong đó, Trung Quốc tăng gần 8%, Hàn Quốc đạt khoảng 6%, các nền kinh tế Đông Nam á tăng trung bình 3,8%. Kinh tế Châu Mỹ Latinh gặp nhiều khó khăn trong hai năm qua, chỉ tăng 0,6% ( 2002), trong đó nhiều nước không tăng trưởng (Achentina: -13,5% do khủng hoảng kinh tế- tài chính).
- Kinh tế Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình gần 10%/năm suốt từ đầu thập kỷ 80 đến nay. Đến nay, Trung Quốc đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ (trên 270 tỷ USD); thu hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất khu vực; trở thành thị trường tiêu thụ hàng đồng thời là nơi cung cấp hàng hoá cho thế giới (kim ngạch xuất nhập khẩu đứng thứ 5 thế giới). Trong mấy năm gần đây, kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại, tuy vẫn rất cao.
Nguyên nhân của sự khó khăn và trì trên của kinh tế thế giới trong mấy năn qua có nhiều, trong đó phải kể đến khủng hoảng chu kỳ và cơ cấu, sự kiện 11/9, các cuộc chiến tranh tại Ap-gan-nistan, Iraq, bất ổn về chính trị, an ninh của một số nước, khủng hoảng kinh tế, tiền tệ khu vực và một số nước, dịch bệnh SARS....
Năm 2004 kinh tế thế giới có bước phục hồi mạnh mẽ hơn. Theo IMF, kinh tế thế giới có thể tăng trưởng 4,1%, mức cao nhất kề từ năm 2000 trở lại đây, trong đó có nước công nghiệp phát triển tăng trưởng 2,9%, các nước đang phát triển gần 6%. Một số nguyên nhân có thể kể đến: (i) Chu kỳ suy thoái của các nước đã qua thời kỳ yếu nhất vào bước vào quá trình phục hồi; (ii) Sự phục hồi của các ngành công nghệ cao (máy tính, phần mềm…); (iii) Thương mại thế giới tăng trưởng, là động lực thúc đẩy kinh tế thế giới (dự kiến năm 2004 thương mại thế giới tăng 6,1%); (iv) Sự nổi lên về kinh tế và mở cửa của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO đưa Trung Quốc thành thị trường hấp dẫn trong những năm tới, nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia.
1.2. Quan hệ kinh tế quốc tế.
1.2.1. Thương mại quốc tế.
Những năm 90, thương mại thế giới phát triển mạnh và đạt mức cao kỷ lục trong năm 2000 với thương mại hàng hoá đạt 6,2 nghìn tỷ USD (tăng 12,5% so với năm 1999) và thương mại dịch vụ đạt trên 1,4 nghìn tỷ USD (tăng 5%). Nếu tính chung tổng kim ngạch thương mại hàng hoá và dịch vụ thì thương mại thế giới năm 2000 tăng khoảng 70% so với thương mại thế giới năm 1990 (4,3 nghìn tỷ USD). Trong giai đoạn 1990-2000, thương mại thế giới tăng trung bình 7%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ đạt 2,7%/năm.
Tuy nhiên, từ 2001 đến nay, thương mại quốc tế giảm hẳn tốc độ phát triển. Năm 2002, thương mại thế giới chỉ tăng 1% so với năm 2001 với tổng kim ngạch thương mại hàng hoá và dịch vụ trên 7,7 nghìn tỷ USD. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng thương mại của các nước đang phát triển trong năm qua (nhập khẩu tăng 3,8%, xuất khẩu tăng 3,2%) đạt khá hơn các nước phát triển (nhập khẩu tăng 1,7% và xuất khẩu tăng 1,2%).
Với việc ra đời WTO (1995), xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu phát triển mạnh. Song trong thời gian gần đây, người ta thấy xu thế này có sự chững lại do kinh tế thế giới trì trệ, khủng hoảng kinh tế, tiền tệ ở nhiều nước, khu vực và làn sóng phản đối toàn cầu hoá.
Năm 2001, tại Quatar, vòng đàm phán phát triển Doha đã được phát động với thời hạn 5 năm, theo đó các nước phát triển đưa ra cam kết hỗ trợ các nước nghèo nâng cao năng lực để tăng cường hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, vòng đàm phán gặp nhiều khó khăn và bế tắc. Kể từ sau thất bại của Hội nghị Cancun (năm 2003), các nước không sẵn sàng đi vào đàm phán thực chất trên các lĩnh vực nhạy cảm như nông nghiệp, thuận lợi hoá thương mại, chính sách cạnh tranh, lao động và mua sắm chính phủ... Tổ chức thương mại thế giới bị đặt trước những thách thức lớn. Việc hoàn tất vòng đàm phán đúng hạn (tháng 12/2005) gần như không khả thi.
- Bế tắc trong tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu thúc đẩy các nước xúc tiến ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, xu hướng bảo hộ gia tăng tại một số nền kinh tế lớn, đây là biện pháp khá chủ động và mạnh mẽ của các nước nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Bên cạnh đó các thoả thuận cũng mang mục tiêu về địa chính trị, an ninh ngày càng nổi trội, tăng cường ảnh hưởng và vai trò (Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, Quan hệ hợp tác kinh tế gần gũi ASEAN – Nhật Bản). FTA tập trung nhiều tại khu vực Châu á nơi chưa có thể chế vững chắc cho hợp tác liên kết kinh tế khu vực. ASEAN đặt trước những cơ hội và thách thức mới. Vai trò và vị trí của ASEAN được đề cao, được nhiều nước lớn tranh thủ. Tuy nhiên FTA có thể làm yếu đi sức mạnh mặc cả của cả khối; đòi hỏi các nước ASEAN phải tăng cường nỗ lực và hiệu lực của tiến trình hội nhập AFTA.
1.2.2. Tài chính quốc tế.
- Nhờ sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng thông tin, hoạt động của thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế diễn ra sôi động. Thị trường tài chính - tiền tệ trong vài năm gần đây thường ít ổn định, phụ thuộc vào sự lên xuống của các nền kinh tế lớn, biến động của tỷ giá hối đoái các đồng tiền mạnh, chỉ số các thị trường chứng khoán lớn ....
- Từ 2002, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới lại đặc trưng bởi: sự sụt giảm giá cổ phiếu trên các thị trường chủ chốt do hàng loạt tập đoàn kinh tế lớn phá sản; đồng USD mất giá so với đồng Euro và Yên; nhiều nền kinh tế đứng trước nguy cơ giảm phát (lạm phát của các nước phát triển: 1,4%, các nước đang phát triển là 5,6%); nhiều nước áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích nền kinh tế và kiềm chế giảm phát. Bất ổn tài chính - tiền tệ ở nhiều nước Mỹ Latinh....
- Đồng Euro liên tục lên giá so với đồng USD, tới gần 30% trong vài năm gần đây do kinh tế Mỹ ảm đạm và các chính sách hạ lãi xuất kích thích đầu tư và giảm giá đồng đô la yếu để tăng xuất khẩu. Chính sách này của Mỹ đã có tác động xấu tới kinh tế Tây Âu. Theo một số tính toán nếu đồng Euro lên giá 10% so với đồng USD sẽ làm giảm 1,5% tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro trong 5 năm. Đến nay, đồng EURO đã đạt mức kỷ lục 1€ = 1,3$.
1.2.3. Đầu tư nước ngoài ( ĐTNN).
- Luồng vốn ĐTNN trên thế giới tăng nhanh trong hơn hai thập kỷ qua, đặc biệt trong thập kỷ 90, và đạt kỷ lục hơn 1 nghìn tỷ USD vào năm 2000, tăng hơn sáu lần so với 151 tỷ USD của năm 1990.
- Từ năm 2001, suy thoái, bất ổn về kinh tế, tiền tệ, tài chính đã tác động đến các luồng vốn ĐTNN. Năm 2002, ĐTNN trên thế giới chỉ đạt khoảng 534 tỷ USD vào năm 2002, giảm 27% so với năm 2001 và tới 64% so với năm 2000. Năm 2003, đầu tư trực tiếp nước ngoàămtng lên hơn 600 tỷ đô lam nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với thời kỳ cao điểm năm 2000.
- Trong số các nước đang phát triển, Châu á thu hút nhiều ĐTNN nhất, chiếm tới 14% FDI toàn thế giới vào năm 2001 (năm 2000: 9%) và 70-75% FDI vào các nước đang phát triển (số liệu năm 2000). Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á thu hút được 90 tỷ USD, trong đó Trung Quốc là nước thu hút được 50 tỷ đô la, chiếm già nửa tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển.
1.2.4 Viện trợ phát triển.
- ODA là nguồn viện trợ phát triển chính thức (hoàn lại hoặc không hoàn lại) của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ cho các nước đang phát triển để phát triển kinh tế, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực của nền kinh tế, phục vụ cho phát triển bền vững (bảo vệ môi trường và xoá đói giảm nghèo)... Theo nghị quyết của Liên hợp quốc, các nước phát triển phải dành 0,7% GDP hàng năm của họ cho ODA.
- Tuy nhiên, rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu của LHQ. Xu hướng chung trong mấy năm gần đây là ODA vừa giảm cả tỷ lệ so với GDP và khối lượng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1992 đến 1997, viện trợ của OECD cho các nước đang phát triển giảm từ tỷ lệ 0,33% GNP xuống 0,22%. Năm 2000, ODA toàn thế giới 53,1 tỷ USD, giảm 6% so với năm 1999.
1.3. Dự báo một số đặc điểm và xu thế lớn của kinh tế thế giới.
a. Cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu, tác động sâu rộng hơn nữa đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
Thế giới sẽ chứng kiến sự phát triển với tốc độ chóng mặt của ba cuộc cách mạng lớn mang tính đột phá, đó là cách mạng về lượng tử, cách mạng về máy tính và cách mạng về sinh học. Nếu ở thế kỷ XIX, thời gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử dụng trong công nghiệp phải mất 60-70 năm; vào đầu thế kỷ XX thời gian đó là 30 năm, và vào cuối thế kỷ XX thời gian đó chỉ còn ba năm, thì nhiều dự đoán cho rằng tới đây thời gian trung bình để đưa một phát minh khoa học vào sử dụng sẽ chỉ còn trên dưới một năm. Những thành quả KHCN mới, đặc biệt là về công nghệ gen, công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thông tin,... sẽ làm cho khoa học-công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội, tạo nên động lực chính của sự phát triển của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
b. Gắn liền với cuộc cách mạng KHCN mới, nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ sẽ là một đặc trưng nổi bật của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
Kinh tế thế giới sẽ chuyển dần từ giai đoạn quá độ từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế mới này, trí tuệ và tri thức đóng vai trò là nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ. Với sự phát triển như vũ bão của các công nghệ ICT và mạng Internet, các hoạt động của nền kinh tế sẽ được số hoá và vận hành trong những siêu xa lộ thông tin tạo nên “xã hội thông tin toàn cầu”. Thương mại điện tử sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế thế giới.
Theo đà phát triển nhanh chóng của KHCN, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhằm tạo độ thích nghi cao và tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Định hướng của việc tái cấu trúc này là nâng cao vai trò chủ đạo, dẫn đầu của các ngành kinh tế dựa trên các công nghệ có hàm lượng chất xám cao để làm động lực kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Bởi vậy, xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức đang và sẽ tiếp tục là ưu tiên chính sách của nhiều quốc gia trong những thập kỷ tới, trước hết là ở các nước công nghiệp phát triển Bắc Mỹ và Tây Âu, đi đầu là Mỹ. Còn trong cuộc chạy đua số hoá này, các nước ĐPT ở vào thế bất lợi do chưa đáp ứng được những yêu cầu về hạ tầng cơ sở, nguồn lực con người,... của nền kinh tế tri thức. Bởi vậy, tuy cơ cấu kinh tế ở một số nước ĐPT cũng đã chuyển đổi với sự góp mặt đáng kể vào tăng trưởng của ngành công nghệ thông tin, có thể nói sự chuyển đổi này sẽ chưa diễn ra một cách phổ biến và đồng đều ở tất cả các nước đang phát triển. Và trong vòng 20 năm tới, phần lớn các nước ĐPT vẫn chủ yếu tiến hành công nghiệp hoá để trở thành nước công nghiệp.
c. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá gắn liền với tự do hoá thương mại, đầu tư và các liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục gia tăng mạnh mẽ.
- Tự do hoá thương mại tiếp tục được đẩy mạnh và thương mại quốc tế vẫn là động lực thúc đẩy kinh tế thế giới tăng trưởng: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI là khoảng thời gian có tính chất “quyết định” đối với sự phát triển của thương mại thế giới trong nhiều thập niên tới. Trong thập niên đầu tiên sẽ diễn ra Vòng đàm phán Doha của WTO, và những thoả thuận đạt được trong đàm phán về hai lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ nhiều khả năng sẽ đưa lại một thời kỳ tăng trưởng sống động hơn cho thương mại thế giới. Mặt khác, năm 2010, 2015 và 2020 là những thời điểm bước ngoặt, đánh dấu sự hoàn tất việc dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản thuế quan và giảm thiểu các hàng rào phi quan thuế của các khối kinh tế-thương mại khu vực lớn như: AFTA, APEC, NAFTA, MERCOSUR, COMESA,... dẫn đến sự hình thành những thị trường tự do rộng lớn ở hầu hết các khu vực. Hàng loạt các thoả thuận thành lập các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương từ cấp độ khu vực đến liên khu vực, xuất hiện ngày càng nhiều từ thập kỷ 90 cũng sẽ tạo thêm động lực thúc đẩy tăng trưởng thương mại thế giới trong hai thập niên tới.
Song song với với quá trình đẩy mạnh tự do hoá thương mại, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đi kèm với các cuộc chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể cũng sẽ nổi lên, song cũng không thể kìm hãm được đà tiến của làn sóng tự do hoá thương mại.
- Đầu tư nước ngoài ngày càng mở rộng và luồng đầu tư có xu hướng dịch chuyển đến những địa điểm đầu tư an toàn và có lợi thế so sánh trong nền kinh tế tri thức: Đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới do trong nền kinh tế thế giới hiện tồn tại những lượng vốn dư thừa khổng lồ. Đặc điểm mới là các nguồn vốn sẽ chuyển hướng sang những địa bàn có cơ sở hạ tầng thông tin-viễn thông hiện đại, có nguồn nhân công với tri thức và tay nghề cao. Đồng thời, do tác động của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tiêu chí “an toàn” trở nên ngày càng quan trọng đối với các nhà đầu tư. Nhìn chung, Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước Đông á khác sẽ vẫn là những nơi thu hút được nhiều dòng vốn đầu tư nhất. Trung Quốc có thể sẽ dần thay thế vị trí của Mỹ trở thành nước thu hút FDI lớn nhất thế giới.
- Các công ty xuyên quốc gia sẽ ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của kinh tế thế giới: Cùng với làn sóng siêu sáp nhập, các tập đoàn kinh tế khổng lồ có doanh số lớn hơn cả GDP của các nước loại trung bình sẽ đẩy nhanh tốc độ toàn cầu hoá vốn FDI quốc tế. Đầu tư trực tiếp giữa các nước phát triển với nhau vẫn tiếp tục chiếm bộ phận chủ yếu của các công ty xuyên quốc gia, còn đầu tư FDI của các nước phát triển vào các nước ĐPT cũng sẽ tăng liên tục và ổn định.
- Trong điều kiện các luồng vốn quốc tế lưu chuyển với khối lượng ngày càng lớn và tốc độ ngày càng nhanh giữa các quốc gia, hệ thống tài chính-tiền tệ thế giới có thể sẽ có nhiều biến động. Trong hai thập kỷ tới, khủng hoảng chu kỳ TBCN mang tính chất toàn cầu có sức phá hoại nặng nề như thời kỳ 1929-1933 sẽ rất ít khả năng xảy ra, song khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng tài chính-tiền tệ có xu hướng phổ biến hơn do nhiều nước, đặc biệt là các nước ĐPT, sẽ phải trải qua quá trình điều chỉnh, cải cách cơ cấu kinh tế để thích ứng với nền kinh tế thế giới đã quốc tế hoá cao độ và kinh tế tri thức.
Mặc dầu vậy, nguy cơ khủng hoảng lan rộng và kéo dài sẽ không lớn do phối hợp hành động ngăn chặn và đối phó với khủng hoảng giữa các quốc gia và các tổ chức kinh tế-tài chính thế giới sẽ được tăng cường. Yêu cầu cải tổ các định chế tiền tệ-tài chính quốc tế như IMF, WB nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn vai trò của những “nhà nước quốc tế” vì thế cũng trở nên bức xúc hơn. Trong hệ thống tiền tệ quốc tế, đồng USD tuy vẫn giữ đại vị chủ đạo, nhưng địa vị của đồng Euro ngày càng nâng cao.
d. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các nước ngày càng có xu hướng lựa chọn chiến lược kinh tế phát triển bền vững.
Khái niệm phát triển bền vững xuất hiện khoảng mười năm gần đây, với nguyên tắc tổng quát là những thế hệ hiện tại cần đáp ứng các nhu cầu của mình mà không làm hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Cụ thể, phát triển bền vững bao hàm không chỉ sự phát triển về kinh tế, mà còn gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường,... Trong những thập kỷ tới, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế tiến triển ngày càng nhanh, mạnh, mang lại những cơ hội phát triển lớn lao nhưng đồng thời cũng đi kèm với những thách thức phát triển không kém phần gay gắt, nhất là các thách thức về môi trường-xã hội..., mô thức phát triển bền vững sẽ dần trở thành lựa chọn phổ biến của các quốc gia trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế bền vững đặt ra cho các nước yêu cầu sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả, và do đó gắn liền với yêu cầu các quốc gia phải tham gia rộng hơn và sâu sắc hơn vào phân công lao động quốc tế, vì khi đó các nguồn lực cho phát triển sẽ được sử dụng hợp lý và hiệu quả hơn theo nguyên tắc phát huy lợi thế so sánh.
e. Kinh tế thế giới vẫn phải đối mặt với nhiều nguy cơ kìm hãm sự phục hồi tăng trưởng:
- Thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế đã dẫn đến nhất thể hoá trên thị trường tài chính thế giới, dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế tài chính. Do đó, khủng hoảng ở một khu vực dù không lớn vẫn có thể làm điêu đứng thị trường tài chính toàn cầu. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng yếu kém hiện đang và sẽ tiếp tục là mối lo ngại lớn của nhiều nước, trong đó có cả những nền kinh tế phát triển như Nhật Bản và các nền kinh tế ĐPT như các nước Đông Nam á và Mỹ La tinh. Nếu các nước này không thực hiện tốt quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng-tài chính thì không loại trừ khả năng sẽ phải đối mặt với khủng hoảng tài chính trong hai thập kỷ tới.
- Thứ hai, sự thay đổi nhân khẩu học trong vòng hai thập kỷ tới có thể ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của các nước. Sự gia tăng nhanh chóng dân số ở các nước ĐPT nếu vẫn tiếp diễn với đà hiện nay sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như: đe doạ an ninh lương thực của thế giới (dự đoán nhu cầu của thế giới về lương thực đến năm 2020 tăng 64%, trong đó các nước ĐPT tăng gần 100%
[1]); làm khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng doãng ra (hiện nay thu nhập bình quân đầu người tại các nước công nghiệp hàng đầu thế giới gấp hơn 78 lần so với tại các nước nghèo nhất thế giới).
- Thứ ba, sự gia tăng của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, xung đột vũ trang và tội phạm xuyên quốc gia đặt ra nhiều rủi ro đối với sự ổn định của kinh tế thế giới. Nếu không có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa các quốc gia để ngăn chặn những nguy cơ này, lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, từ đó tác động đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế thế giới.
f. Vai trò, vị trí giữa các quốc gia thay đổi nhanh chóng. Chỉ tính riêng 3 trung tâm kinh tế là Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản, người ta cũng thấy có những sự thay đổi lớn. Sau chiến tranh thế giới lần 2 đến đầu những năm 60, Mỹ chiếm vị trí tuyệt đối. Từ cuối những năm 60 đến đầu những năm 80, Tây Âu và Nhật Bản mạnh dần lên và thách thức vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Mỹ. Cuối những năm 80 trở lại đây, kinh tế Mỹ phát triển mạnh, Mỹ lấy lại vai trò lãnh đạo của mình trong thế giới tư bản. Tương tự như vậy, ta có thể thấy vai trò, vị trí của ASEAN và Trung Quốc trước đây và hiện nay.
2. Kinh tế đối ngoại Việt Nam trong mấy năm qua
Vào những năm 80, Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế và xã hội: sản xuất đình trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,4%; lạm phát tăng cao, lên đến 774,7% vào năm 1986; tỷ lệ đói nghèo chiếm tới 70% dân số.
Từ năm 1986, Việt Nam từng bước chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nhiều thành phần; mở rộng và đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Qua hơn mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong kinh tế đối ngoại, thể hiện qua một số mặt sau:
2.1. Tạo lập môi trường thuận lợi, ổn định.
Trong quá trình đổi mới kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm thiết lập môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Sau đây xin nêu một số sự kiện lớn :
- Nối lại quan hệ tín dụng bình thường với IMF và WB, đàm phán thắng lợi tại Câu Lạc bộ Paris và London nhằm giảm, xoá, hoãn nợ chính phủ và công ty của ta, tạo điều kiện hình thành cơ chế Hội nghị tư vấn ( CG ) hàng năm cam kết ODA cho Việt Nam bắt đầu từ 1993. Đây có thể coi là một mốc quan trọng phá thế bao vây cấm vận chống ta của các thế lực đế quốc và thù địch.
- Ký Hiệp định Bali và trở thành thành viên ASEAN năm 1995, tiếp đó tham gia AFTA vào năm 1996.
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ năm 1995 và ký Hiệp định thương mại với Mỹ năm 2001 với điều khoản tối huệ quốc tạo thuận lợi cho hàng hoá ta thâm nhập thị trường Mỹ.
- Ký Hiệp định khung về hợp tác phát triển với EU (năm 1995), tạo điều kiện cho các hiệp định cụ thể về hàng dệt, nông thuỷ sản thâm nhập vào thị trường EU.
- Tham gia APEC ( 1998 ), ASEM tạo điều kiện cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và liên khu vực.
- Gửi đơn gia nhập WTO năm 1995 và đang quá trình đàm phán gia nhập tổ chức này vào năm 2005 ( đã qua 6 vòng và sắp bước vào vòng 7 thực chất).
2.2. Thương mại.
- Đến hết năm 2003, Việt Nam có quan hệ kinh tế thương mại với khoảng 200 nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký Hiệp định thương mại song phương với 82 nước. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 2,4 tỉ USD năm 1990 lên 14,3 tỷ USD năm 2000 và khoảng 19,9 tỷ USD năm 2003. Năm 2000, với mức xuất khẩu bình quân đầu người đạt trên 175 USD/người/năm, Việt Nam được xếp vào danh sách các nước có nền ngoại thương khá phát triển.
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hình thành và có tốc độ tăng trưởng khá. Những mặt hàng đạt kim ngạch bình quân trên 1 tỷ USD/năm là dầu mỏ, thuỷ sản, dệt may và giầy dép.
- Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô. Số lượng dầu thô xuất khẩu đã tăng từ 1,5 triệu tấn năm 1989 lên 16,85 triệu tấn năm 2002 (đạt kim ngạch 3,23 tỷ USD). Nông sản của ta như gạo, cà phê, hạt điều, cao su đang được khẳng định về chất lượng và giá cả trên thị trường thế giới. Việt Nam đã lấy lại vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo (năm 2003 xuất gần 4 triệu tấn gạo, riêng thị trường châu Phi là 800 nghìn tấn). Lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng lên, từ 6.000 tấn năm 1980 lên gần 1 triệu tấn năm 2003. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Braxil. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã vượt ngưỡng 2 tỷ USD. Xuất khẩu của hàng dệt may, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ đang tăng trưởng nhanh, đặc biệt từ khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực. Năm 2003, hàng dệt may xuất khẩu đạt 2,71 tỷ USD, tăng 37,2% so với năm 2001( chủ yếu do tăng xuất vào Mỹ).
Về thị trường: 10 thị trường đang dẫn đầu tốc độ tăng trưởng là Bồ Đào Nha (105%); Hoa kỳ (96,7%), Mianma (78,7%), Campuchia (52,8%), Thuỵ Điển (45%), Malayxia (44%), Inđônêxia (43%), Thái Lan (41%), Thổ NHĩ kỳ (35%). 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore,
2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Năm 1987, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành. Đến nay, khoảng 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2003, tổng số 4193 dự án nước ngoài tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký trên 40,2 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện khoảng 22,9 tỷ USD. Khu vực có vốn ĐTNN đóng góp hơn 10% GDP của Việt Nam, chiếm khoảng 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (giảm so với mức 25% trong thời kỳ 1990-2000), 27% kim ngạch xuất khẩu cả nước và tạo việc làm cho khoảng 472 nghìn người.
Đầu tư nước ngoài trực tiếp không chỉ tăng thêm nguồn vốn mà quan trọng hơn là giúp chúng ta nâng cao kỹ thuật quản lý, trình độ công nghệ, đào tạo nghề, thị trường và giải quyết một phần vấn đề việc làm.
Đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây suy giảm mạnh và trong tương lai vẫn còn khó khăn do cạnh tranh trong khu vực, cơ cấu FDI ở nước ta cũng thay đổi, phải chuyển mạnh sang sản xuất và giá cả đầu vào ở nước ta tăng nhanh và cao trong khi đó hạ tầng kinh tế, xã hội chậm được cải thiện.
Xu hướng đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi. Theo vốn đăng ký năm 1999 đạt 1,6 tỷ USD; năm 2000: hơn 2 tỷ USD; năm 2001 2,5 tỷ USD; Năm 2003: 3,1 tỷ USD. Dự kiến năm 2004 thu hút khoảng 4,1 tỷ USD vốn FDI mới.
2.4. Viện trợ phát triển chính thức (ODA).
- Từ năm 1990, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, EC, các nước thuộc OECD và các nước Châu á đã nối lại viện trợ cho Việt Nam. Nguồn vốn ODA song phương đã tăng từ 75 triệu USD/năm trong giai đoạn 1985-1990 lên khoảng 350 triệu USD năm 1992. Tuy nhiên, quan hệ với các tổ chức tín dụng quốc tế chỉ được chính thức nối lại từ năm 1993 với Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tại Paris (sau này là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam - Hội nghị CG).
- Sau 10 Hội nghị CG (từ 1993 đến 2003, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam tổng cộng là 25,39 tỷ USD (năm 2003 các nhà tài trợ đã cam kếy hỗ trợ Việt Nam 2,84 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng giá trị vốn ODA đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết đạt khoảng 16,6 tỷ USD ( trong đó đã giải ngân khoảng 11 tỷ), bằng 83% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết, tập trung vào giao thông vận tải và điện.
Trong khi ODA trên thế giới ngày càng giảm, nhiều nhà tài trợ cắt giảm ODA do yêu cầu trong nước, ODA cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng. Các nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm khoảng 70% tổng giá trị các hiệp định đã ký kết.
Thách thức về ODA đối với ta có nhiều, trong có có những thách thức hiện nay gồm giải ngân, đấu thầu, giá cả cạnh tranh .... Và thách thức về lâu dài là hiệu quả các công trình ODA, việc trả nợ và tín nhiệm về kinh tế của ta đối với cộng đồng quốc tế. Ta đã có bài học sử dụng không hiệu quả ODA trước đây và đã một lần ra Câu lạc bộ Paris.
3. Công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
3.1. Sự cần thiết tăng cường hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
3.1.1. Hoạt động ngoại giao của bất kỳ nước nào từ xưa đến nay bao giờ cũng nhằm ba mục tiêu cơ bản là (i) góp phần bảo vệ độc lập , chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; (ii) tranh thủ và tạo những điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước; (iii) nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế. Ba mục tiêu này liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại, tạo ra một thể thống nhất để phát triển đất nước, trong đó vai trò sức mạnh kinh tế có thể nói đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Ba mục tiêu trên có thể nói là không thay đổi, song nội dung cụ thể và phương pháp tiến hành thay đổi theo thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20 đã mở ra thời kỳ mới để các nước trên thế giới tập trung sức người, sức của cho cho phát triển kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Việc tham gia mở rộng kinh tế đối ngoại không chỉ dừng lại ở mức độ tham gia kiến tạo chính sách kinh tế đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi, tham gia giải quyết những khúc mắc, khó khăn ... mà còn đi vào những vấn đề rất cụ thể như xúc tiến thương mại, du lịch, đầu tư, thu hút viện trợ nước ngoài và môi giới những hợp đồng kinh tế lớn. Nhiều nước như Anh, Canđa, úc, Thuỵ Điển, Hà Lan, Hàn Quốc kết hợp chặt chẽ về tổ chức giữa ngoại giao và thương mại. Nhiều nước phần viện trợ nước ngoài (ODA) đặt trong Bộ Ngoại giao. Philippines coi ngoại giao kinh tế là một trong 3 trụ cột của chính sách đối ngoại. Hội đồng kinh tế đối ngoại của Philippines do Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Công thương làm đồng Chủ tịch. Brunei đặt yêu cầu ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế, đa dạng hoá cơ cấu nền kinh tế, giảm phụ thuộc vào xuất dầu. Bộ trưởng ngoại giao Brunei làm Chủ tịch Hội đồng kinh tế. Tại ấn Độ, Bộ Ngoại giao là cơ quan thường trực của Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế với các nước....
3.1.2. Năm 1985, được sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước (các Đồng chí Lê Duẩn, Tố Hữu, Đỗ Mười...), công tác ngoại giao phục vụ kinh tế được chính thức xác định là nhiệm vụ chính của Ngành ngoại giao và được thảo luận sâu sắc và rộng rãi. Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới và mục tiêu ''dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh'' được coi là lợi ích cao nhất. Từ đó đến nay, công tác ngoại giao phục vụ kinh tế luôn được thảo luận tại các Hội nghị ngành và tập trung hướng vào việc đa phương, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, phá thế bao vây, cấm vận của phương Tây, mở rộng thị trường, tranh thủ viện trợ, đầu tư, công nghệ và từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương IV, khoá VIII (12/1997) nêu nhiệm vụ '' tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại''. Qua những hoạt động thực tế, những năm gần đây nhận thức của ngành về ngoại giao phục vụ kinh tế đã được nâng cao thêm một bước, đặc biệt là tính cấp bách của công tác này cũng như nội dung phương hướng của hoạt động ngoại giao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 23 tháng 12/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh "Trong thời gian rất dài, xây dựng kinh tế luôn luôn là nhiệm vụ trung tâm, do đó phục vụ kinh tế phải thực sự là trọng tâm công tác của Ngành Ngoại giao ".
3.2. Nội dung chính của hoạt động ngoại giao phát triển kinh tế.
3.2.1. Định hướng cụ thể ngoại giao phát triển kinh tế.
Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 23 tháng 12/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải đã giao những nhiệm vụ của ngành ngoại giao:
+ Góp phần mở rộng thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường, sản phẩm, tránh phụ thuộc vào một vài thị trường, nhóm sản phẩm.
+ Tăng cường công tác thông tin về thị trường, đối tác, những thay đổi về môi trường chính sách của các nước.
+ Tích cực vận động FDI, ODA.
+ Tích cực xúc tiến du lịch, xuất khẩu lao động (phấn đấu đưa hàng triệu lao động ra nước ngoài).
+ Tăng cường công tác thông tin, tình báo kinh tế, khoa học công nghệ.
+ Bên cạnh việc cần làm tốt hơn những lĩnh vực mà xưa nay Ngành đã làm, cần trú trọng hỗ trợ doanh nghiệp, liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp.
3.2.2. Những biện pháp thúc đẩy công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế trong thời gian tới.
Nhằm thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 về phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại và những nhiệm vụ kinh tế mà lãnh đạo cấp cao đã giao cho ngành ngoại giao, nhiều biện pháp cụ thể đã được đưa ra nhằm làm tốt hơn, có hiệu quả hơn công tác ngoại giao phát triển kinh tế. Sau đây là một số biện pháp lớn thúc đẩy công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
3.2.2.1. Thông tin, tuyên truyền, tình báo kinh tế - kỹ thuật- công nghệ.
Đây là lĩnh vực mà ngoại giao có ưu thế, cần thúc đẩy để làm tốt hơn nữa. Công tác này bao gồm các cơ quan đại diện thực hiện tuyên truyền phục vụ kinh tế đối ngoại về các chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, tiếp xúc với các đối tác, tham gia các hoạt động hội thảo, hội nghị, toạ đàm, gặp gỡ doanh nghiệp để quảng bá, tuyên truyền về Việt Nam, thu hút giới đầu tư, thương mại và khách du lịch. Các cơ quan đại diện ở nước ngoài có điều kiện thu thập, nắm bắt và thẩm định thông tin tại chỗ để cung cấp cho trong nước, nhất là về chính sách, luật lệ, thủ tục, thuế quan của các nước, nhu cầu về các loại mặt hàng của thị trường sở tại mà ta có khả năng xuất khẩu, khả năng của các đối tác....
Một điều kiện quan trọng để có thể làm tốt công tác này là sự hợp tác chặt chẽ giữa ngành ngoại giao và các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Thông tin hai chiều giữa ngành ngoại giao, đặc biệt là các cơ quan đại diện với các cơ quan, tổ chức kinh tế và doanh nghiệp trong nước là cơ sở và điều kiện tiên quyết để các cơ quan đại diện làm tốt công tác này.
3.2.2.2. Tham mưu, tư vấn cho các cơ quan và doanh nghiệp.
Với kinh nghiệm quốc tế của mình, ngành Ngoại giao có thể tư vấn cho các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong một số lĩnh vực cụ thể:
+ Nghiên cứu và kiến nghị về kinh nghiệm, chính sách, chiến lược, luật lệ kinh tế của nước sở tại và kiêm nhiệm để phục vụ việc hoạch định chính sách trong nước.
+ Phối hợp với các cơ quan trong nước đàm phán với nước sở tại về các vấn đề kinh tế; xây dựng, đàm phán và ký kết các hiệp định, hợp đồng, dự án với các đối tác nước ngoài.
+ Theo dõi tình hình và kiến nghị cho trong nước về các chủ trương, chính sách, tình hình viện trợ của các nước (nhất là các nước cấp viện trợ và các nước nhận viện trợ lớn, thông tin về sự phản hồi của Chính phủ, các TCQT và các NGO về môi trường đầu tư, tình hình triển khai ODA của Việt Nam).
3.2.2.3 Vận động (lobby) ở nước ngoài.
Đây là lĩnh vực mà ngành Ngoại giao có thế mạnh. Các đồng chí Đại sứ, Trưởng cơ quan đại diện là người thích hợp nhất trực tiếp vận động chính giới sở tại, các tổ chức kinh tế, chính trị, doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề lớn trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ta. Các vấn đề lớn này còn bao gồm cả những tranh chấp kinh tế, thương mại lớn, việc xoá bỏ các hàng rào thuế và phi thuế đối với xuất khẩu của ta, đấu tranh nhằm thực hiện tốt các hiệp định kinh tế, thương mại với nước sở tại.
3.2.2.4. Góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc.
Ngành Ngoại giao hỗ trợ kinh tế trong nước qua các công tác khác như: theo dõi, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện các thoả thuận và cam kết quốc tế về hợp tác kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất nhập cảnh và giải quyết các thủ tục lãnh sự; làm tốt công tác cộng đồng, huy động tối đa các nguồn lực từ người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư và kinh doanh trong nước.
3.2.2.5. Giúp mở rộng thị trường và giới thiệu đối tác,
Đối với những thị trường mà ta chưa có mặt, Ngoại giao cần nghiên cứu khả năng tiếp cận, đi bước trước và hỗ trợ doanh nghiệp, hàng hoá Việt Nam thâm nhập. Các CQĐD cần làm cầu nối giữa các doanh nghiệp của ta với các đối tác nước ngoài, giúp tìm thị trường, móc nối, khơi thông và thẩm tra đối tác, nhất là các đối tác đầu tư, nhập khẩu lao động, du lịch, cũng như các nguồn tín dụng, công nghệ để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Hỗ trợ các doanh nghiệp thẩm tra đối tác về uy tín, khả năng tài chính, công nghệ sẽ giảm bớt và đi tới lừa đảo kinh tế thương mại, giúp xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, giảm bớt sự mất mát đáng kể đối với các doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.2.6. Hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp tại nước sở tại.
Các cơ quan đại diện phối hợp tổ chức và hỗ trợ các đoàn thương nhân trong nước ra hoạt động ở nước ngoài; hỗ trợ các hoạt động tiếp thị của doanh nghiệp; tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp đàm phán ký kết hợp đồng; bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và công dân Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các cơ quan đại diện thực hiện phương châm " ở đâu khó, có chúng tôi". Tuy vậy, các cơ quan và doanh nghiệp trong nước cần giúp các cơ quan đại diện làm tốt việc này bằng cách thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về công tác thông tin, báo cáo khi ở nước ngoài.
3.2.2.7. Giúp vận động trong đấu thầu.
Đấu thầu quốc tế hiện còn là vấn đề tương đối mới đối với các doanh nghiệp của ta vì nhiều lẽ như tiềm lực của các công ty ta còn khiêm tốn, ta chưa có nhiều kinh nghiệm và nhất là công ty ta chưa hiểu luật lệ, tập quán kinh doanh, đối tác của nước sở tại. Các cơ quan đại diện là người thích hợp nhất giúp các công ty trong nước về thông tin các mặt, kể cả việc vận động để thắng trong các gói thầu lớn, các đơn đặt hàng lớn của các tổ chức quốc tế và các nước viện trợ.
3.2.2.8. Có thể giúp làm đại diện cho địa phương, hiệp hội ngành nghề trong tham gia hoạt động ở nước ngoài, nhất là đối với các hiệp hội ngành nghề còn hạn chế về kinh phí hoạt động.
3.3. Những nhân tố cần có để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.
Những nhiệm vụ cụ thể nêu trên và cả những vấn đề khác nữa, ngành ngoài giao có thể và có điều kiện làm được nhằm góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước theo quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta, được thể hiện rất rõ trong văn kiện Đại hội Đảng làn thứ 9 vừa qua. Tuy nhiên, để thực hiện tốt những nhiệm vụ này đòi hỏi nhiều nhân tố, trong đó một số nhân tố đã có sẵn, một số nhân tố đã được hình thành và đang trong quá trình phát triển. Sau đây, xin nêu một số nhân tố:
Một là, Lãnh đạo cấp cao và Lãnh đạo Bộ Ngoại giao rất quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường công tác này ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như các đơn vị liên quan trong nước. Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, đặc biệt Đồng chí Bộ trưởng, đã giành nhiều thời gian, công sức chỉ đạo chặt chẽ công tác này, luôn nhắc nhở các đơn vị trong nước và cơ quan đại diện ở nước ngoài đầu tư nhiều hơn thời gian, trí lực, sức lực và kinh phí cho công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
Hai là, các đơn vị trong nước và các cơ quan đại diện đã có nhiều cố gắng trong công tác này. Tuy vậy, so với yêu cầu, các đơn vị trong và ngoài nước cần phải cố gắng nhiều hơn, liên tục hơn, đặc biệt trong công tác tổ chức, cán bộ, chương trình, kế hoạch công tác hàng ngày, hàng tháng, hàng quý và năm mới nâng cao được hiệu quả công tác này.
Ba là, phải tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp với các cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài và Bộ Ngoại giao. Quan hệ và thông tin hai chiều này cực kỳ quan trọng giúp ngành đối ngoại hoàn thành tốt nhiệm vụ phụ vụ phát triển kinh tế, có lợi cho sự nghiệp chung, đồng thời cũng có lợi trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế trong nước. Để phục vụ mục tiêu này, Bộ Ngoại giao đã thí điểm ký kết Thoả thuận hợp tác với 6 tỉnh/thành gồm Đà Nẵng, Thanh Hoá, Hà Nam, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Khánh Hoà nhằm hỗ trợ các địa phương này hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời Bộ Ngoại giao đã ký kết Thoả thuận hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với mục tiêu hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp cũng như các địa phương xúc tiến kinh tế đối ngoại.
Bốn là, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài là chủ thể rất quan trọng trong việc thúc đẩy công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Gần 70 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài ta cần có hành lang pháp lý để đẩy mạnh công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngày 10 / 2 / 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định về hoạt động phục vụ kinh tế của cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài. Nghị định đã hệ thống hoá và chi tiết hoá các nội dung hoạt động phục vụ kinh tế của các CQĐD. Nghị định cũng quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của các bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh trong quản lý hoạt động phục vụ kinh tế của các CQĐD; tăng cường cơ chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các cơ quan quản lý kinh tế đối ngoại nhằm nâng cao hiệu quả và sự chủ động của các CQĐD trong hoạt động phục vụ kinh tế. Thêm vào đó, Nghị định quy định những biện pháp cụ thể về kinh phí, tổ chức và cơ chế kiểm tra, giám sát nhằm khuyến khích và hỗ trợ CQĐD trong hoạt động phục vụ kinh tế.
Năm là, nguồn kinh phí nhất định cho một số hoạt động đột xuất hoặc tính đặc thù trong công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế là rất cần thiết. Chính vì lẽ đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết đinh 195/QĐ - TTg ngày 18/9/2003 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ hoạt ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế do Ngân sách Nhà nước cấp ban đầu là 16 tỷ đồng (khoảng 1 triệu USD). Quỹ này sẽ tập trung chi vào các hoạt động như:
- Tìm hiểu, xúc tiến và tìm kiếm thị trường mới, cơ hội mới trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại;
- Hoạt động của cơ quan đại diện hỗ trợ giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại;
- Thu thập thông tin về kinh tế, công nghệ, khoa học – kỹ thuật có giá trị;
- Trợ giúp các tổ chức kinh tế, khoa học kỹ thuật trong nước nhận được những công nghệ tiên tiến trong việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ;
- Hoạt động đối ngoại cần thiết nhằm xây dựng mối quan hệ với chính giới và tài giới của nước sở tại;
- Các hoạt động khác theo chỉ đạo của Chính phủ;
- Các hoạt động trực tiếp hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế của cơ quan đại diện do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao quyết định.(Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương - Bộ Ngoại giao).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh tế đối ngoại của Việt Nam và ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.doc