Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.
Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lư luận về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10104 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường tới đời sống xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thảo luận nhóm 14
Đề tài: Kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường đến đời sống xã hội.
Phần I: Cơ sở lý thuyết
Một số lý luận về kinh tế thị trường (KTTT)
Khái niệm
KTTT là mô hình kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường thông qua quá trình trao đổi mua bán.
KTTT là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tất nhiên chịu sự tác động của những quan hệ kinh tế.
Vì vậy có thể nói rằng: KTTT là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng hoá mà mọi yếu tố đầu vào và đầu ra đều được thực hiện qua thị trường.
Tính tất yếu, vai trò của KTTT
Vai trò của KTTT
Phát triển KTTT sẽ phá vỡ cơ cấu kinh tế tự nhiên, chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất.
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
Kích thích việc cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã cũng như tăng số lượng hàng hoá, dịch vụ.
Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
Thúc đẩy qua trình tích tụ tập trung sản xuất tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn.
Tính tất yếu của KTTT
Sự ra đời của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước XHCN và nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền KTTT định hướng XHCN là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH", thì đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, KTTT lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của CHXN ở Việt Nam. Phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước. Những khía cạnh đáng lưu ý, quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN:
Thứ nhất, mô hình CNXH cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm, đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản (CNTB) với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của KTTT để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ, phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh. CNTB đã sử dụng vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh để can thiệp – quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển, xã hội hoá các lực lượng sản xuất.
Thứ hai, mặc dù CNTB đã có những thành công nhất định trong phát triển KTTT, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát triển KTTT theo con đường TBCN không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro. Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển KTTT. Ngày nay, nhân loại đã nhận thức được rằng, mô hình phát triển KTTT theo kiểu phương Tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu. Những mô hình đó đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống, làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu - nghèo.
Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình KTTT chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình KTTT đặc thù của riêng mình. Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mong muốn tìm kiếm con đường riêng của mình, nhằm khắc phục hạn chế của KTTT TBCN đã chủ trương đi theo "con đường thứ ba" hay nhấn mạnh "Nhà nước phúc lợi": nhà nước TBCN ở đây được gắn thêm chức năng "sáng tạo" khi tham gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội, tạo ra cái gọi là "nền kinh tế cho mọi người" hay "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Nhưng trong phạm vi của quan hệ tư bản chủ nghĩa thì những nỗ lực trên rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn.
Thứ tư, nền KTTT hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Trong những điều kiện hiện đại, con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo, trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện: tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật.
Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì không có nghĩa là đồng nhất với CNTB. Chính sở hữu tư nhân TBCN đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất, các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giản đơn.
Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng CNXH và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển KTTT theo định hướng XHCN là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của CNXH kiểu cũ. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
Quan điểm của Đảng về KTTT
Thứ I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là KTTT
Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Thứ II: Coi KTTT không phải là cái riêng có của CNTB, không đối lập với CHXN.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, còn cơ chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và KTTT không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, KTTT đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước CNTB, trong CNTB và cả sau CNTB. Nếu trước CNTB nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội TBCN, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là CNTB. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, KTTT còn tồn tại là tất yếu. Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Thứ III: Coi KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ.
Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền KTTT định hướng XHCN. Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
KTTT định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN. Các thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ IV: Gắn KTTT của nước ta với nền KTTT toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn.
Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.
Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
Định hướng phát triển KTTT
KTTT định hướng CNXH ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của KTTT, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng XHCN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa KTTT ở nước ta với các nước khác.
Tính định hướng XHCN nền KTTT ở nước ta thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển KTTT và đặc trưng xã hội của nền KTTT. Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới".
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh".
Với những định hướng xây dựng CNXH ở nước ta, thì mục tiêu hàng đầu phát triển KTTT ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển KTTT ở nước ta là "đòn xeo"để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa XHCN nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH.
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội XHCN.
Quá trình đổi mới nhận thức về KTTT
Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp
Thứ nhất, Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu:
Nhà nước thông qua mệnh lệnh để chỉ đạo hoạt động của doanh nghiệp, Nhà nước trực tiếp làm và ra lệnh.
Thứ hai, cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp:
Thời kỳ này doanh nghiệp giống như gia công sản xuất cho Nhà nước. Nhà nước giao chỉ tiêu: sản phẩm, số lượng, chất lượng cho doanh nghiệp với điều kiện máy móc, nhân công…định mức tiêu hao về nguyên vật liệu, về nhân công, rồi nộp lại sản phẩm cho Nhà nước. Lúc này, Nhà nước đảm nhiệm hai vai trò: quản lý và quản trị, còn doanh nghiệp thì không có vai trò gì.
Thứ ba, quan hệ hàng hoá – tiền tệ bị hình thức hoá, thậm chí là thủ tiêu.
Mặc dù vẫn dùng tiền để mua hàng hoá, thế nhưng có tiền vẫn không mua được hàng vì lúc đó vẫn mua theo hình thức tem phiếu.
Thứ tư,b ộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng động và không hiệu quả:
Nhà nước đảm nhiệm luôn hai thứ việc đó là quản trị và quản lý, làm một lúc hai thứ việc như vậy rất cồng kềnh, chồng chéo. Hiện nay, một số nước vẫn còn bao cấp: Đức…và nền kinh tế tư bản: một số nước vẫn còn chiến tranh.
Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới
Tư duy của Đảng về KTTT từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Thứ nhất, khẳng định KTTT không phải riêng có của chủ nghĩa tư bản, là thành tựu chung của nhân loại. KTTT nói rộng ra là kinh tế hàng hoá.
Sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quant trọng cho sự ra đời và phát triển của KTTT.
Các yếu tố thị trường như: cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hoá, phân bổ nguồn lực kinh tế, và tài nguyên thiên nhiên: vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động…
Phân biệt giữa KTTT và kinh tế hàng hoá:
Đặc điểm
KTTT
Kinh tế hàng hoá
Giống nhau
Có cùng bản chất là đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hoá – tiền tệ.
Đều dựa trên co sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
Khác nhau
Phát triển ở trình độ cao
Sản xuất hàng hoá chủ yếu với quy mô lớn
Công nghệ, kỹ thuật hiện đại
Năng suất cao
Ra đời từ kinh tế tự nhiên, trình độ thấp
Sản xuất hàng hoá với quy mô nhỏ
Kỹ thuật thủ công
Năng suất thấp
Thứ hai, KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
Đại hội VII của Đảng (6/1991) xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH. KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
KTTT có những đặc điểm sau:
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập: có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
Giá cả do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo
Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật của KTTT: quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh.
Hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Vai trò của KTTT:
Trước đổi mới, xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.
Vào thời kỳ đổi mới, dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hoá, điều hoà quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Tư duy của Đảng về KTTT từ Đại hội IX đến Đại hội X.
Đại hội IX của Đảng (4/2007) xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CHXN.
Đại hội X của Đảng xác định, KTTT định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CHXN.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí sau:
Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo
Về phương hướng phát triển: đa dạng hoá hình thức sở hữu; phát triển kinh tế nhiều thành phần; phát huy vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước: với tiềm năng đó để Nhà nước điều tiết, định hướng các ngành khác nhau cùng phát triển.
Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện nhiều hình thức phân phối: chủ yếu phân phối theo lao động, theo hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; quản lý Nhà nước: Nhà nước XHCN hay Nhà nước thực hiện chức năng quản lý là XHCN; các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng.
Phân biệt KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) với kinh tế XHCN.
KTTT tư bản chủ nghĩa và thị trường XHCN:
Yếu tố chung là chúng đều sản xuất hàng hóa và cùng tuân theo quy luật giá trị, cùng lấy lợi ích và cạnh tranh làm động lực của sự phát triển...
Song, lại có những yếu tố không chung. Thị trường TBCN chịu tác động tất yếu của chính trị tư sản và gắn với nó là kiểu quản lý kinh doanh TBCN. Thị trường XHCN chịu tác động tất yếu của nền chính trị cộng sản và gắn với nó là kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm phát triển sản xuất hướng tới công bằng và tiến bộ xã hội, từng bước phát triển con người toàn diện. Từ đó, thị trường XHCN căn bản khác với thị trường tư bản về cả điểm xuất phát đến mục tiêu của nền sản xuất.
Trong xã hội tư bản, kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất khoa học - công nghệ phát triển, nhưng đi liền đó là bất công xã hội cũng phát triển. Sự giàu có tăng lên nhưng bất công không thu hẹp, giảm đi mà trái lại bất công càng tăng lên, mở rộng. KTTT TBCN giải phóng được năng lực làm giàu nhưng lại tạo ra hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.. Quá trình phát triển của KTTT tư bản là quá trình "cá lớn nuốt cá bé", người với người có lúc đã trở thành lang sói.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
Mục tiêu và quan điểm cơ bản
Mục tiêu
Tại Đại hội X của Đảng đã chia làm hai nhóm:
Xây dựng KTTT định hướng XHCN nhằm thúc đẩy KTTT định hướng XHCN phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN, xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN – mục tiêu cơ bản đến năm 2020.
Mục tiêu cụ thể: Năm 2010
Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước đi đối với phát triển các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.
Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức công: chủ yếu là các đơn vị hành chính sự nghiệp (tổ chức công, đơn vị quản lý công)
Phát triển đồng bộ và đa dạng hoá thị trường: bao gồm (đầu vào: tài nguyên thiên nhiên, bất động sản, vốn, lao động; đầu ra: thị trường hàng hoá, dịch vụ) và hội nhập khu vực và thế giới.
Giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội
Nâng cao hiệu quả điều tiết vi mô của Nhà nước, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm
Tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT: quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ trong đó quy luật giá trị là cơ bản nhất.
Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành thể chế kinh tế (yếu tố mang tính khách quan: chủ yếu là các quan hệ kinh tế; yếu tố mang tính chủ quan: chủ yếu là sự vận dụng của con người); đảm bảo tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị - xã hội; đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; đồng bộ giữa phát triển xã hội với bảo vệ môi trường.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại, lịch sử phát triển của KTTT được bắt đầu từ thế kỷ XV và phát triển rực rỡ trong tư bản chủ nghĩa.
Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc: những vấn đề liên quan đến thị trường, liên quan rất nhiều trong đời sống xã hôi: trong chính trị, trong các vấn đề xã hội, vấn đề tự nhiên.
Ví dụ: trong chính trị: Đảng chủ trương chính sách làm giàu…Trong các vấn đề xã hội: với sự phát triển của KTTT tất yếu sẽ phân hoá giai cấp: người giàu – người nghèo, người có thu nhập cao – người có thu nhập thấp… Chấp nhận KTTT thì phải chấp nhận sự phân hoá. Trong tự nhiên: ô nhiễm môi trường sinh thái…
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Xét khách quan, KTTT không phụ thuộc vào điều tiết của Nhà nước, nhưng ở nước ta thì sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và mang tính đặc thù, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hoàn toàn thống nhất với nhau.
Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
Thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN
Nhận thức về tính tất yếu của KTTT.
Nhận thức về vai trò, tác dụng của KTTT.
Nhận thức về những đặc điểm chung đến những quy luật kinh tế chung của KTTT, đồng thời cũng khẳng định tính đặc thù của KTTT định hướng XHCN – mục tiêu: phản ánh bản chất XHCN, phản ánh tính chất vận động cũng như đặc trưng của nền KTTT.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu
Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau
Có nhiều thành phần kinh tế: tồn tại trong một môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước có vai trò chiếm lĩnh, tài chỉ huy kinh tế, kinh tế Nhà nước không phát huy vai trò chủ đạo của mình bằng cách kìm hãm, triệt tiêu các thành phần kinh tế khác nhau mà hợp tác cùng phát triển.
Thừa nhận phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước) và đa dạng hoá các hình thức tổ chức, sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng các tập đoàn kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh.
Hoàn thiện thể chế về phân phối
Để đảm bảo sự đồng bộ, đòi hỏi phải thống nhất giữa ba mặt: Nhà nước, người lao động, doanh nghiệp:
Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế. Thu hẹp các lĩnh vực độc quyền nhà nước.
Đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng.
Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường:
Thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sở hữu, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh
Đẩy mạnh sự phân công hợp tác giữa các vùng, các ngành, các thành phần kinh tế cũng như là hợp tác quốc tế hoặc hợp tác kinh tế quốc tế: ngành kinh tế, vùng kinh tế, thành phần kinh tế, kinh tế quốc tế dẫn đến hình thành hợp tác liên kết giữa các ngành, các vùng kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, tự do cạnh tranh và kiểm soát độc quyền: hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế, cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia, vấn đề độc quyền: chống độc quyền và chống hình thức cạnh tranh thiếu lành mạnh.
Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Thị trường hàng hoá – dịch vụ
Thị trường tài chính tiền tệ
Thị trường lao động
Thị trường bất động sản
Các loại thị trường khác
Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.
Làm giàu đi đôi với giảm nghèo, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường, phải có chế tài đủ mạnh và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm
Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với sự lãnh đạo của Đảng
Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình KTTT định hướng XHCN
Đổi mới, nâng cao hiệu lực điều tiết, quản lý của Nhà nước
Phát huy mặt tích cực và hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để nền KTTT phát triển có hiệu quả.
Các tổ chức chính trị - xã hội
Để phát huy vai trò của của các tổ chức đó, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kịên để các tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi, giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
Phần II. Thực tiễn
Sự tác động của KTTT đến đời sống xã hội ở nước ta hiện nay:
KTTT ở Việt Nam là KTTT theo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN một mặt giải phóng năng lực làm giàu, mặt khác lo xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa. Mỗi bước phát triển kinh tế, lại chăm lo phát triển văn hóa tinh thần, phát triển quan hệ người - người, giữ đạo lý làm người, bảo vệ môi trườngsinh thái. Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN sẽ tạo ra mỗi bước phát triển kinh tế, con người sẽ sống xứng đáng với con người hơn.
Tác động tích cực:
KTTT thu hút được nhiều nguồn vốn cho sự phát triển. Để phát triển sản xuất, cần phải có vốn không chỉ từ nhà nước mà còn từ các cá nhân. Xoá bỏ KTTT có nghĩa là không cho phép cá nhân bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh và thu lợi nhuận từ sự góp vốn. Lúc đó, ai làm nhiều thì hưởng nhiều; ai làm ít thì hưởng ít; ai không làm thì không hưởng; không có chuyện không làm mà vẫn được hưởng thu nhập từ sự góp vốn.
KTTT xoá bỏ bệnh lười biếng, bệnh cha chung không ai khóc. Kinh tế có tăng trưởng nhanh hay không, điều đó phụ thuộc vào tính tích cực của người lao động (đặc biệt là người lao động quản lý, lao động trí óc) có được phát huy hay không. Có một hiện tượng phổ biến trên thế giới mà chúng ta không khó nhận thấy, đó là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế phi thị trường và các doanh nghiệp nhà nước trong nền KTTT nhìn chung đều không phát huy được tính tích cực của người lao động (đặc biệt là người lao động quản lý, lao động trí óc) tốt hơn so với các doanh nghiệp của tư nhân. Nhiều người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước mắc bệnh lười biếng, bệnh cha chung không ai khóc. Trong khi đó, những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân hầu như không mắc bệnh này. Vì thế, các doanh nghiệp của tư nhân kinh doanh thường có hiệu quả cao hơn so với so với các doanh nghiệp của nhà nước.
Trong nền KTTT, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng, khuyến khích người sản suất tắng lượng cung, tư đó thúc đẩy nền sản suất phát triển, thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới vào sản suất để nâng cao năng suất lao động.
Trong nền KTTT thì các doanh nghiệp tự do cạnh tranh, do đó để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo, tìm tòi ra cái mới để thỏa mãn nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của người tiêu dùng, KTTT tạo cơ hội cho những người sáng tạo, luôn tìm cách để đổi mới cách làm việc và rút ra những bài học về thành công hay thất bại để phát triển không ngừng
KTTT tạo cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả
Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.
KTTT tạo môi trường kinh doanh tự do, dân chủ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn những gì tốt nhất cho họ, về giá cả và chất lượng do đó các doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì sẽ phải đảm bảo cả về giá cả của sản phẩm và chất lượng vì vậy người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi.
KTTT đã tác động tích cực đến khuynh hướng phát triển đa dạng, phong phú trong hoạt động của văn hóa. Các chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội mới cho các hoạt động văn hóa. Nhờ những chính sách mới, phù hợp mà những năng lực văn hóa vốn tiềm ẩn sẽ được bộc lộ phát triển với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Nhiều thành phần xã hội sẽ cùng tham gia vào quá trình phát triển văn hóa.
KTTT chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền kinh tế của mình. Trong văn hóa có sự chấp nhận, khơi nguồn cho sự phát triển đa dạng, đáp ứng nhiều loại nhu cầu văn hóa chính đáng, hợp lý của xã hội. Ở đây đã có sự phát triển cùng chiều giữa KTTT và văn hóa.KTTT thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội hóa. Ý thức dân chủ, vai trò cá nhân, sự tự ý thức về bản thân sẽ có điều kiện và cơ hội để phát triển. Quá trình sáng tạo, phổ biến các giá trị văn hóa sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
KTTT đã đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả như là một chuẩn mực giá trị trong hoạt động của con người, trong nhân cách mỗi người. Nó buộc người ta phải khắc phục lối tư duy cảm tính, phương thức tư duy kiểu “ngoại suy", chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính, lành mạnh. Mục đích, động cơ phải trên cơ sở hiện thực và phải đi đôi với những biện pháp, những phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa trong thực tế.
KTTT là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân luôn được khuyến khích. Chính điều này đòi hỏi mỗi người phải học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản thân. KTTT cũng rất nghiêm khắc đào thải những trì trệ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và các sản phẩm yếu kém về nội dung cũng như hình thức.Về phương diện đạo đức, lối sống, sự ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường là từng bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo. Đây là những phẩm chất đạo đức về ý chí, lòng dũng cảm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc và tự trọng ở mỗi con người cũng như cả cộng đồng.
Tác động tiêu cực:
Trong KTTT phải đề phòng khuynh hướng, lối sống chạy theo đồng tiền. KTTT có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho người ta coi giá trị thị trường là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Họ định giá trị của con người căn cứ vào của cải của người đó, từ đó tìm các quan hệ trong sự đem lại lợi ích gì cho mình, cho cá nhân mình. Từ đây mà các quan hệ tình cảm cao đẹp, ấm áp tình người có nguy cơ bị băng giá trong sự tính toán vị kỷ.Trong nền KTTT có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hộiKTTT cũng cần đề phòng khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, dẫn đến nguy cơ "thương mại hóa" (cái gì có tiền mới làm, cái gì không có tiền, dù cần cũng không làm). Hơn thế nữa, khi chạy theo đồng tiền có thể sẽ bất chấp đạo lý, những hủ tục mê tín có thể tăng nhanh, các sản phẩm phản văn hóa, làm băng hoại con người có thể tràn lan, các bậc giá trị có thể bị nhận thức sai lệch...KTTT chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.KTTT cũng đã kéo theo lối sống "tiền trao cháo múc", lạnh lùng, tàn nhẫn làm băng hoại đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục, tấn công vào từng gia đình, từng người. Đã có không ít hiện tượng: từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị, xã hội sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh tế. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực (hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng) là đạo đức cao nhất, sang tuyệt đối hóa con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo đức, phẩm giá; tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người.Tiền xâm nhập vào nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền bằng tiền...chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay nhưng hiện vẫn đang diễn ra phức tạp và là nỗi lo lắng của xã hội.Những quan niệm và hành vi của đạo đức truyền thống như tinh thần giúp đỡ nhau, kính già, yêu trẻ, tôn sư trọng đạo, vợ chồng thủy chung... sẽ bị biến động và suy giảm do toan tính của đồng tiền.
Hạn chế và nguyên nhân:
Hạn chế
Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN còn chậm, chưa theo kịp của công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và thống nhất.
Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp Nhà nước chưa giải quyết tốt, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt.
Nguyên nhân
Nhận thức về KTTT định hướng XHCN còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn.
Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn chậm, nhất là giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ chức, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
Giải pháp
Từ thực tiễn phát triển KTTT định hướng XHCN trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam như sau:
– Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
– Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
– Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng XHCN, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
– Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng XHCN của KTTT, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào KTTT, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang KTTT – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế. Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển KTTT nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng XHCN và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng XHCN, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Tóm lại, sự hình thành tư duy KTTT định hướng XHCN không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển KTTT định hướng XHCN là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v..
Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường tới đời sống xã hội.docx