Đề tài Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết.

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2591 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên nhân của lạm phát Lạm phát có rất nhiều biểu hiện và trong bất kỳ thời kỳ nào, thời đại nào đều có lạm phát. Chính vì vậy mà nguyên nhân gây ra lạm phát cũng nhiều. Tuy vậy hiện nay các nhà kinh tế học cũng đang nghiêng dần về quan điểm có 3 nguyên nhân chính gây ra lạm phát đó là : cầu kéo, chi phí đẩy và lạm phát do bội chi ngân sách. Sở dĩ có 3 nguyên nhân trên cũng là do người ta đã chiêm nghiệm trên thực tế đã có những đợt lạm phát do chúng gây ra. Tuy vậy nguyên nhân sâu xa gây ra lạm phát thực sự ít nhiều liên quan đến vấn đề tiền tệ. 2.1-Lạm phát do cầu kéo. Cơ sở của lý thuyết này cho rằng khi mức cung tiền tăng lên sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên. Thu nhập của người lao động cũng vì thế mà tăng lên. Khi đó họ có nhu cầu mua sắm nhiều hơn, tiêu thụ nhiều hàng hóa hơn, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần hơn...tất cả những đIều đó làm cho tổng cầu tăng lên nhanh chóng. Và nếu như tổng cung cũng tăng lên với tốc độ như vậy thì không có vấn đề gì thì sẽ không cólạm phát. Nhưng chúng ta đã biết năng lực sản xuất của xã hội cũng có hạn, đến khi nào tất cả các yếu tố sản xuất đã được huy động vào sản xuất một cách tối đa, tốc độ tăng của tổng cung sẽ chậm lại. Khi đó tốc độ tăng của tổng cung sẽ nhỏ hơn tốc độ tăng của nhu cầu. Hàng hóa có hạn, nhu cầu tăng buộc giá cả phải tăng lên. Thực chất đây là vấn đề lạm phát giá cả. S S1 D1 D Q1 Q P1 P Q PL 2.2-Lạm phát do chi phí đẩy. Chi phí sản xuất là yếu tố rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, hãng nào có chi phí thấp thì sẽ tồn tại và phát triển và ngược lại. Khi chi phí sản xuất tăng lên các hãng buộc phải giảm bớt sản lượng của mình vì lợi nhuận giảm. Khi đó sẽ làm cho đường tổng cung bị suy giảm, hàng hóa bị thiếu hụt, giá cả tăng lên gây ra lạm phát. Ai cũng biết cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1972-1973 đã làm rất nhiều hãng bị phá sản, công nhân bị sa thải hàng loạt, lạm phát tăng lên với tốc độ chóng mặt, nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng nặng nề. Đó là điển hình của lạm phát do chi phí đầy, một cú sốc bất ngờ làm tổng cung suy giảm đột ngột sẽ gây ra lạm phát. Tuy vậy chúng ta hãy bình tĩnh xem xét lại vấn đề. Nếu như tổng cung suy giảm nhanh như vậy thì tổng cầu cũng suy giảm nhanh liệu lạm phát có thể tăng nhanh được không. Nếu như ngân hàng thay vì cung cấp thêm tiền vào lưu thông làm sức mua tăng lên trong lúc tổng cung suy giảm mà thực hiện thắt chặt tiền tệ, giảm mức cung tiền thì lạm phát có xẩy ra không. Câu trả lời là chưa chắc đã xẩy ra. Như vậy mặc dù đúng là có những nguyên nhân khách quan gây ra lạm phát như cú sốc dầu mỏ, tăng lương nhưng nếu như chính sach tiền tệ được sử dụng hợp lý thì sẽ kìm hãm được lạm phát. Như vậy chỉ có tiền tệ mới là nguyên nhân sâu xa của lạm phát. 2.3-Bội chi ngân sách và vấn đề lưu thông tiền tệ. Ngân sách Nhà nước có thu và có chi. Khoản thu chính của ngân sách Nhà nước là thuế được áp dụng đối với tất các các ngành kinh tế trong cả nước. Nhà nước sẽ sử dụng các khoản thu ngân sách này để thực hiện đầu tư, viện trợ, xây dựng cơ sở hạ tầng... gọi là chi ngân sách. Nếu như các khoản chi vượt quá thu thì ngân sách Nhà nước sẽ bị bội chi. Như vậy thì Nhà nước lấy đâu ra tiền để bù đắp vào số bội chi đó. Có rất nhiều cách để thực hiện như vay nợ nước ngoài, vay trong nước, tăng thuế, hoạt động thị trường mở và cả in thêm tiền. Vay nợ nước ngoài và vay trong nước rồi cũng phải trả, không thể bù đắp cho thâm hụt mãi được. Nếu tăng thuế sẽ dẫn tới tình trạng trốn thuế, lậu thuế, kìm hãm sản xuất, không những không tăng thu mà có thể còn có tác dụng ngược. Cách tốt nhất là hoạt động trên thị trường mở, bán trái phiếu cho công chúng, tăng mức cung tiền mà lại không gây ra lạm phát vì trái phiếu luôn được đảm bảo trả nợ bởi Nhà nước. Thực chất Nhà nước không phải trả nợ mà chỉ việc phát hành thêm trái phiếu với số lượng lần sau lớn hơn lần trước để trả nợ mà thôi. Đây là con đường tốt nhất để bù đắp bội chi. Hãy xem xét lại việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Chúng ta đã biết nguyên tắc phát hành tiền phải tương ứng với khối lượng hàng hóa được sản xuất ra. Như vậy giá trị đơn vị tiền tệ sẽ được bảo đảm vì nó được định lượng bởi một lượng hàng hóa nhất định. Nhưng khi có nhiều đồng tiền được phát hành vào lưu thông mà không căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra thì sẽ có vấn đề. Nhiều tiền hơn nhưng khối lượnghàng hóa không đổi thì giá trị đồng tiền sẽ bị giảm xuống, giá cả sẽ tăng lên gây ra lạm phát. Nếu tình hình này kéo dài trong nhiều năm thì lạm phát sẽ càng trầm trọng. Khi đồng tiền bị mất giá thì sẽ không ai muốn giữ tiền nữa, họ chỉ muốn đẩy thứ tài sản nguy hiểm đó đi nhật nhanh và mua hàng hóa trích trữ càng nhiều càng tốt làm cho giá cả càng tăng, tốc độ lưu thông tiền tệ càng cao. Quy luật lưu thông tiền tệ đã chỉ ra rằng tốc độ lưu thông tiền tệ tỉ lệ thuận với lạm phát. Tốc độ lưu thông tiền tệ càng cao, mức cung tiền càng lớn và lạm phát càng lớn hơn nữa. MV = PQ Mức cung tiền tăng, V tăng, Q không đổi như vậy Delta(P) = Delta(MV): lạm phát tăng tới cấp số nhân, cấp số mũ. Bội chi ngân sách mà được bù đắp bằng máy in sẽ là rất nguy hiểm. Mức cung tiền tăng vọt là con đường ngắn nhất gây ra lạm phát. Nguyên nhân sâu xa của lạm phát không phải là do bội chi ngân sách mà là do cách người ta bù đắp bội chi ngân sách, là do vấn đề tiền tệ, do mức cung tiền gây ra. Như vậy lạm phát qua ba nguyên nhân trên ít nhiều có dính dáng đến vấn đề tiền tệ, đến mức cung tiền dù trực tiếp hay gián tiếp. Vấn đề bội chi ngân sách và mức cung tiền sẽ được đề cập thường xuyên, xuyên suốt bài viết vì nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nội dung của bài. 3-/ Hậu quả của lạm phát. Phần trên chúng ta đã nghiên cứu một cách hết sức tổng quát về lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì lạm phát thực sự chỉ là vấn đề quá bình thường. Người ta nghiên cứu lạm phát ở đây không phải nó chỉ đơn thuần là vấn đề tăng giá mà là ở chỗ trên thực tế tại sao người ta phải nghiên cứu nó. Lạm phát đã gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội như thế nào. Không phải ngẫu nhiên mà cựu Thủ tướng Anh bà M.Thatcher đã từng tuyên bố lạm phát là kẻ thù chung của tất cả các nền kinh tế trên thế giới. Nghiên cứu lạm phát để chúng ta thấy được tác hại mà nó gây ra đối với xã hội là như thế nào để từ đó có biện pháp phòng chống. 3.1-Lạm phát kìm hãm phá hoại nền sản xuất xã hội. Giá trị sản lượng của một xã hội tạo ra được đo bằng tổng sản lượng của nền kinh tế nhân với giá cả chung. Như vậy có 2 yếu tố làm tăng tổng giá trị sản lượng là Q và P. Sẽ là rất tốt nếu như tổng sản lượng tăng làm tổng giá trị sản lượng của nền kinh tế. Điều này cho thấy nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển tốt. Tuy vậy chính lạm phát đã làm cho người ta đôi khi lầm tưởng về một sự gia tăng tích cực của tổng giá trị hàng hóa. Sản lượng không thay đổi mà chỉ có sự tăng lên trong giá cả chung. Chúng ta đã biết lạm phát có mối quan hệ trực tiếp với lãi suất theo công thức: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỉ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa do các Ngân hàng quản lý và điều chỉnh. Vấn đề mà người gửi tiền quan tâm là số tiền thực tế mà họ nhận được khi đêm gửi tiền vào Ngân hàng. Họ không thể chấp nhận và không thể gửi tiền và nếu như phần lợi nhuận của họ bị giảm đi. Vì vậy khi lạm phát tăng lên, để lãi suất thực không đổi buộc các Ngân hàng phải tăng lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa tăng lên sẽ đẩy lãi suất cho vay tăng lên vì nguyên tắc của Ngân hàng là bao giờ lãi suất cho vay cũng cao hơn lãi suất huy động vốn. Lãi suất cho vay có ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu đầu từ làm nhu cầu đầu tư giảm. Từ đó làm cho sản lượng của nền kinh tế giảm sút. Mặt khác đối với các doanh nghiệp trong đIều kiện nền kinh tế có lạm phát cao, đầu tư vào nền kinh tế là rất rủi ro bởi vì sau khi bán được sản phẩm, số tiền họ thu về trừ đi tỉ lệ lạm phát có thể còn ít hơn số vốn họ đã bỏ ra đầu tư ban đầu. Vì vậy các doanh nghiệp sẽ tự cắt giảm sản lượng làm cho sản lượng của nền kinh tế bị giảm sút. Thay vào đó các doanh nghiệp sẽ đầu cơ nguyên vật liệu, ít thay đổi giá trị, dễ kiếm lời hơn làm cho hàng hóa ngày càng trở nên khan hiếm, càng lên giá và đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao hơn. Như vậy lạm phát đã phá hoại nền sản xuất xã hội làm cho đầu tư giảm sút, sản lượng liên tục giảm. Đây là điều rất không mong muốn của bất cứ chính phủ nào. 3.2-Lạm phát và phân phối thu nhập. Hãy thử xem xét một ví dụ để xem lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập như thế nào. Giả sử bạn có một khoản thu nhập hàng tháng đều đặn là 1 triệu đồng. Với khoản thu nhập đó bạn phải chi tiêu để phục vụ cuộc sống. Giá của một kg gạo là 4000 đồng. Nếu chúng ta giả sử tất cả các nhu cầu hàng ngày đều được “qui ra thóc” thì một tháng bạn có thể mua được : 1.000.000 : 4.000 = 250 kg gạo Nhưng đến tháng sau giá trị của 1 kg gạo đột nhiên tăng lên 5000 đồng. Như vậy cũng với thu nhập 1 triệu đồng bạn chỉ có thể mua : 1.000.000 : 5.000 = 200 kg gạo Trong một khoảng thời gian ngắn hạn, thu nhập của bạn khó có thể thay đổi do hợp đồng lao động đã được kí với một mức lương nhất định. Như vậy mức sống của bạn đã bị giảm sút do lạm phát gây ra. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, những người làm công ăn lương sẽ bị thiệt do thu nhật doanh nghĩa là cố định. Họ vừa phải chịu thuế thu nhập, vừa phải chịu thêm một thứ thuế vô hình nữa đó là lạm phát - một thứ thuế dã man nhất trong các loại thuế. Tình trạng cũng tương tự như đối với người gửi tiền và người vay tiền. Nếu bạn gửi tiền vào ngân hàng với một số tiền là 3 triệu đồng. Ngân hàng thỏa thuận với bạn sau 1 năm hoàn trả cả vốn lẫn lãi với lãi suất danh nghĩa là 20%. Sau một năm số tiền bạn nhận được là : 3.000.000 (1+20%) = 3.600.000 Bạn dự tính mức lạm phát cuối năm chỉ là 10% thì giá hàng hóa chỉ tăng từ 3 triệu lên 3,3 triệu. Như vậy bạn để ra được 300.000 đồng. Nhưng lạm phát cuối năm lại là 30% tức là giá của hàng hóa lúc này là 3,3 triệu nữa mà là : 3.000.000 (1+30%) = 3.900.000 Như vậy bạn thiệt 300.000 đồng. Còn về phía Ngân hàng thì sao. Nếu như họ đem 3 triệu đồng của bạn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó để cuối năm thu được 3,9 triệu. Họ trả lại bạn 3,6 triệu và để ra 300.000. Như vậy khoản 300.000 đáng lẽ ra là của bạn thì lại chảy vào túi ngân hàng. Lạm phát tăng gây thiệt hạI cho những người giữ tiền và đem lại thuận lợi cho những người đi vay tiền. Đó là một sự bất công. Có thể nói lạm phát đã phân phối và phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế một cách bất hợp lý giữa các nhóm và các tầng lớp dân cư. 3.3-Lạm phát làm phát sinh nhiều tiêu cực xã hội. Lạm phát làm nảy sinh nhiều tiêu cực của xã hội đặc biệt làm nạn đầu cơ tích trữ .Sự thừa tiền trong lưu thông đã đẩy giá hàng hóa lên cao. Lúc này giá trị của đồng tiền giảm sút rất nhiều, hàng hóa trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết. Đây là thời điểm thuận lợi để bọn đầu cơ tích trữ mua vào thật nhiều hàng hóa để tạo ra sự khan hiếm hơn nữa, đẩy giá lên cao. Đến thời điểm thuận lợi chúng tung ra bán với giá chênh lệch để kiếm lời. Mặc dù lượng tiền mặt trong lưu thông là rất lớn nhưng Nhà nước lại luôn luôn thiếu tiền mặt để bù đắp bội chi ngân sách và tín dụng. Mặt khác phải chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên, do đó lại phải in thêm tiền. Do đó đã làm cho lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên. Bên cạnh đó sự mất giá của đồng nội tệ làm tình trạng dùng vàng và đô la làm phương tiện lưu thông có xu hướng ngày càng mở rộng. Ngoài buôn bán hàng hóa chênh lệch giá, người ta còn buôn bán cả séc và tiền ngoại tệ, đẩy tỉ giá trên thị trường chợ đen lên cao, không có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể nói lạm phát đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến mọi mặt của xã hội. Vấn đề này nó liên quan đến tiền, đến kinh tế, đến mức sống nên nó là sự quan tân rất lớn của các chính phủ của các nước. Không thể có một nền kinh tế phát triển ổn định nếu như không kiểm soát được lạm phát. II-/ TÍN DỤNG 1-/ Bản chất và chức năng của tín dụng. Ngày nay thuật ngữ tín dụng được sử dụng ngày càng nhiều trong kinh tế và trong cả sinh hoạt hàng ngày như quỹ tín dụng, vốn tín dụng...Một câu hỏi đặt ra là tín dụng là gì ? Tín dụng thực chất đó là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vối của lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả và tin tưởng. Tín dụng có thể nói ra đời từ rất lâu vì quan hệ vay mượn được phát sinh từ rất sớm do nhu cầu của cuộc sống. Trong cuộc sống đời thường ở xã hội Việt Nam, sự vay mượn là rất thường gặp nhưng có một điều lạ là những người bạn bè quen biết vay mượn tiền của nhau nhưng không có lãi suất. Tự dưng đem tiền của mình cho người khác dùng và lại “mua” thêm một nỗi lo sợ không đòi được tiền, đến khi đòi được tiền thì rất mừng mặc dù rõ ràng đó là tiền của mình bỏ ra. Đó là điều khó hiểu. Cho vay mượn là phải có lãi suất, tất nhiên nó khác với vay nặng lãi là lãi suất thấp và có thể thay đổi tùy thuộc vào mối quan hệ giữa hai bên. Mặt khác trong quan hệ tín dụng, có vay phải có trả, phải trả đúng hạn. Có như vậy mới duy trì được quan hệ tín dụng và tình cảm giữa hai bên. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và phục vụ nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu bản chất của tín dụng cần phải xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp đều có một chu kỳ sản xuất kinh doanh của mình. Đầu tiên là mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công, tài sản cố định...đầu tư để sản xuất ra hàng hóa, sau đó đem hàng hóa ra bán và thu lãi. Các doanh nghiệp sản xuất ra các loạI hàng hóa khác nhau, thời gian tiêu thụ khác nhau nên quá trình luân chuyến vốn cũng khác nhau. Do sự không trùng khớp về thời gian nên không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đủ vốn để đầu tư sản xuất, trả lương...Tất yếu có những doanh nghiệp do chưa tiêu thụ được hàng hóa nên chưa thu được tiền nhưng đã đến kỳ trả lương, nộp thuế và các khoản chi phí khác...Các khoản chi này lớn hơn số vốn hiện có tại doanh nghiệp và doanh nghiệp phải đi vay vốn để chi trả các nhu cầu này. Như vậy đã có nhu cầu về vốn. Mặt khác cũng có những doanh nghiệp tiêu thụ hàng rất nhanh, thu được nhiều tiền sớm trước khi kết thúc chu kì sản xuất kinh doanh, chưa phải trả tiền nhân công, chưa pảhi nộp thuế, họ có một số tiền tạm thời nhàn rỗi. Vì vậy có nhu cầu cho vay vốn để kiếm lời. Như vậy đã có cung về vốn. Cung và cầu về vốn đã có và khi gặp nhau thì tất yếu sẽ diễn ra hoạt động vay và cho vay. Chất xúc tác của quan hệ tín dụng là lãi suất. Lãi suất phải đủ cao để thỏa mãn nhu cầu của người cho vay nhưng cũng không quá cao để bảo đảm cho người đi vay có khả năng trả nợ và thu được lãi nhờ sử dụng đồng vốn đi vay đó. Từ sự phân tích trên ta thấy thực chất tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn thiếu hụt của các doanh nghiệp. Đó là quan hệ kinh tế nhằm giải quyết hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ bình đẳng, cùng có lợi. Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó xuất phát từ nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy quy mô của tái sản xuất, tăng vòng quay của tư bản. Với chất xúc tác là lãi suất, tín dụng kích thích các tổ chức kinh tế và dân cư trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi hiện đang phân tán ở khắp mọi nơi. Trong lịch sử phát triển của tín dụng do đặc điểm cũng như nhu cầu về vốn, về thời gian, cách thức vay vốn...đã hình thành rất nhiều loại tín dụng trong đó có 3 loại chính phổ biến nhất là tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng loại tín dụng trên. 2-/ Các loại tín dụng phổ biến-lịch sử hình thành và phát triển. 2.1-Tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại ra đời từ rất sớm, nó được hình thành từ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Những doanh nhân trong quan hệ làm ăn với nhau không phải lúc nào cũng có sẵn tiền để thanh toán ngay vì vậy họ ký giấy nợ và hẹn ngày trả. Thực chất của tín dụng thương mại chính là hoạt động mua bán chịu. Tín dụng thương mại xuất hiện làm đẩy nhanh vòng quay của hàng hóa và lưu thông tiền tệ, giúp cho sản xuất kinh doanh được thông suốt. Tuy vậy trong quan hệ tín dụng thương mại không phải không bộc lộ những hạn chế nhất định. Do mỗi doanh nghiệp sản xuất ra những loại hàng hóa khác nhau, chu kì sản xuất kinh doanh là khác nhau nên nhu cầu đi vay và cho vay cũng như thời hạn cho vay và thời hạn trả thường xuyên không trùng khớp với nhau. Không phải lúc nào một doanh nghiệp cần cho vay cũng tìm được người muốn vay đúng thời điểm, số vốn và số lãi như mong muốn và ngược lại đối với người đi vay cũng vậy. Vì vậy việc quy định tạm thời hạn nợ đối với cả hai bên trong quan hệ tín dụng thương mại tương ddối khó khăn, thường xuyên không trùng khớp với nhau dẫn đến nhu cầu thực hiện giá trị của kỳ phiếu thương mại trước thời hạn. 2.2-Tín dụng Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại lúc đầu với tư cách là những người giữ hộ tiền và chịu trách nhiệm thanh toán hộ thân chủ. Như vậy trong tay họ lúc nào cũng có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi, họ muốn đem cho vay để kiếm lợi nhuận từ khoản vốn nhàn rỗi đó. Trong khi đó các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất hoạt động kinh doanh có lúc rất cần tiền nhưng trong tay họ lại chỉ có một mớ kì phiếu thương mại chưa đến hạn thanh toán. Vì vậy họ có nhu cầu cầm cố, vay tiền từ số kì phiếu đó. Sự gặp gỡ giữa hai loại nhu cầu giữa Ngân hàng và các chủ doanh nghiệp dẫn đến một loại hình quan hệ tín dụng mới. Đó là quan hệ tín dụng Ngân hàng: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền dưới hình thức chiết khấu các kì phiếu thương mại. Tín dụng ngân hàng có nguồn gốc từ tín dụng thương mại. Trải qua thời gian dài, phạm vi lưu thông cũng như khối lượng lưu thông ngày càng tăng, kì phiếu thương mại đã được chuyển thành tiền tín dụng. Ngân hàng chủ động phát hành ra tiền tung vào lưu thông, số tiền đó được bảo đảm bằng một khối lượng vàng nhất định hoặc một tỉ lệ tăng trưởng nhất định của nền kinh tế. Nếu như trong tín dụng thương mại, các doanh gnhiệp muốn vay tiền đều phải trực tiếp gặp nhau thoả thuận đôi khi rất khó khăn và rất mất thời gian do sự thiếu ăn khớp về nhu cầu. Nhưng trong quan hệ tín dụng ngân hàng đã khắc phục được nhược điểm đó của tín dụng thương mại doanh nghiệp muốn vay bất cứ số tiền nào, bất cứ thời đIểm nào miễn là thoả mãn được các quy định của Ngân hàng. Quy mô tín dụng ngày càng tăng thông qua hoạt động tạo tiền và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Ngân hàng càng cho vay được nhiều tiền thì càng có lãi. Tuy vậy đIều này cũng rất nguy hiểm vì quy mô tín dụng quá lớn sẽ gây ra lạm phát, đó chính là điều mà chúng ta không mong muốn. 2.3-Tín dụng Nhà nước Bên cạnh hai loại hình tín dụng trên còn có một loạI hình tín dụng nữa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế đó là tín dụng Nhà nước. Đó cũng là tín dụng nhưng là quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, với các tổ chức, đơn vị kinh tế. Sở dĩ có tín dụng Nhà nước vì nó có liên quan đến ngân sách Nhà nước. Nhà nước thu thuế từ các đơn vị kinh tế để thực hiện chi tiêu và phân phối lại thu nhập. Tuy vậy nếu như Nhà nước có nhu cầu chi tiêu quá lớn thì sẽ làm cho ngân sách Nhà nước bị bội chi. Nhà nước lấy đâu ra tiền để thực hiện các khoản chi tăng thêm đó. Có rất nhiều cách đặc biệt là tăng thuế.Tuy nhiên tăng thuế chỉ có thể thực hiện đến một giới hạn nào đó nếu không doanh thu thuế sẽ giảm. Còn một cách nữa đó là đi vay. Nhà nước có thể thực hiện rất nhiều cách vay trong đó có phát hành ra trái phiếu bán cho công chúng, vay nước ngoài và vay nợ Ngân hàng bằng cách đem cầm cố trái phiếu tại Ngân hàng. Quan hệ vay mượn này đều được thực hiện trên nguyên tắc có lãi và hoàn trả sòng phẳng đúng thời hạn. Tín dụng Nhà nước phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước hiện đại và ngày càng trở thành nguồn bù đắp cho ngân sách Nhà nước . Tuy vậy cách thức trả nợ của tín dụng Nhà nước mới là điều đáng quan tâm, điều này sẽ được trình bầy dưới đây, chúng ta sẽ hiểu được lạm phát được hình thành qua con đường tín dụng như thế nào. III-/ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT QUA TÍN DỤNG. Lạm phát là sự tăng giá cả, là sự giảm sức mua của đồng tiền. Tín dụng là quan hệ vay mượn trong nền kinh tế. Hai vấn đề này thoạt nghe có vẻ như không hề có mối liên hệ với nhau. Nhưng chúng lại có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ vì chúng đều có liên hệ với tiền tệ, với lưu thông tiền tệ và mức cung tiền. Lạm phát qua con đường tín dụng Nhà nước. Như ở trên chúng ta đã trình bầy, có nhiều con đường để Nhà nước trả nợ tín dụng. Tăng thuế là một biện pháp nhưng chúng ta thử xem xét liệu tăng thuế có đem lại kết quả mong muốn hay không. 0 TR t* Tỷ lệ thuế - thuế suất TR: Doanh thu thuế Nếu t tăng lên > t* thì TR sẽ giảm. Mặt khác T = f(Y) Yd = Y - T Yd = S + C suy ra S + C = Y - T Mà một phần tiết kiệm sẽ được chuyển thành đàu tư I. T tăng lên làm cho S giảm do vậy I cũng giảm. I giảm làm cho Y giảm, từ đó làm cho T giảm. Do vậy đối với một ngân sách bị thâm hụt lớn thì tăng thuế không phải là biện pháp tốt. Thực ra nuếu như trong đIều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng khoán phát triển Nhà nước không phảI trả nợ thực sự mà chỉ việc in ra thêm trái phiếu với quy mô lần sau lớn hơn lần trước. Đây là con đường tốt nhất nhưng chúng ta không bàn đến ở đây. Bước đường cùng chính là Nhà nước trả nợ bằng cách in thêm tiền vào lưu thông. Chúng ta đã biết, việc phát hành tiền được kiểm soát rất chặt chẽ, khối lượng tiền phát hành ra phải căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra trong cung thời kì để đảm bảo sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả. Nhưng Nhà nước không căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra mà cứ in tiền vào lưu thông sẽ đẩy mức cung tiền lên nhanh chóng. Theo quy luật lưu thông tiền tệ, mức cung tiền tăng tỉ lệ thuận với tốc độ tăng giá và lượng hàng hóa. Nếu như khối lượng hàng hóa không tăng hoặc có tốc độ tăng chậm thì buộc giá cả hàng hóa phải tăng lên tức là gây ra lạm phát. Khối lượng tiền tệ tăng lên làm sức mua của đồng tiền giảm sút. Không ai có thể lưu giữ một thứ tài sản ngày càng hao hụt đi về giá trị nên họ chỉ muốn đẩy nó đi càng nhanh càng tốt và mua hàng hóa và ngoại tệ về dự trữ. Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng lên. Quy luật lưu thông tiền tệ cũng chỉ ra rằng lạm phát tỉ lệ thuận với tốc độ lưu thông tiền tệ. Mức cung tiền tăng, tốc độ lưu thông tiền tệ cũng tăng làm lạm phát tăng lên gấp bội. Như một con bạc say máu, càng thua thiệt, càng thâm hụt thì Chính phủ càng tiếp tục in tiền vào lưu thông với quy mô lớn hơn trước đẩy lạm phát tăng lên và triền miên trong nhiều năm như một căn bệnh xã hội . Trong kinh tế học người ta có câu “không có cái gì là không có giá của nó”.Lạm phát tăng cao kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, thất nghiệp tăng, đời sống nhân dân giảm sút..Đây không phải là điều mà một Chính phủ mong muốn nhưng họ đã gián tiếp thực hiện điều đó do năng lực quản lý yếu kém của mình. Rõ ràng ở đây người ta đã lạm dụng chức năng phát hành tiền của Ngân hàng trung ương để tùy tiện phát hành ra những tờ giấy bạc thừa phục vụ cho nhu cầu chi tiêu không giới hạn của mình. Người gánh chịu những hậu quả do lạm phát trầm trọng gây ra lại là người dân, là toàn xã hội. Đến đây, kết thúc phần lý thuyết cơ bản về lạm phát và tín dụng, chuyển sang phần “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn và chúng ta đã chống lạm phát như thế nào” Phần 2 THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN VÀ CHÚNG TA ĐÃ CHỐNG LẠM PHÁT NHƯ TH NÀO Phần trên đã trình bầy khá cụ thể về lạm phát và tín dụng và mối quan hệ giữa chúng. Qua đó chúng ta đã có những hiểu biết cơ bản tại sao lạm phát lại xảy ra khi ngân sách bị bội chi. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là lý thuyết. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu những biểu hiện, thực trạng của lạm phát ở Việt Nam để có thể hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này. Phần này được chia làm 3 giai đoạn : - Giai đoạn lạm phát 1981-1988 - Giai đoạn chống lạm phát 1989-1992 - Giai đoạn tái lạm phát 1994-1995. a-Giai đoạn lạm phát 1981-1988. Giai đoạn 1976-1980 lạm phát ở Việt Nam là lạm phát ngầm. Chính phủ cố gắng đè nén lạm phát, không công khai hóa. CHỈ SỐ GIÁ BÁN LẺ THỜI KỲ 1976-1980 (NĂM TRƯỚC = 100%) Năm Giá do Nhà nước quy định Giá thị trường tự do 1976 1977 1978 1979 1980 99,1 101,1 104,3 103,3 109,8 150,3 138,0 139,0 140,0 143,8 (Nguồn : Ủy ban Vật giá Nhà nước) Trong khi giá cả do Nhà nước ấn định khá thấp, thậm chí có năm còn thấp hơn năm trước (1976), mức độ lạm phát ở mức độ 1 con số, có thể coi là lý tưởng thì ở thị trường tự do lạm phát ở mức phi mã (2 con số). Giá cả ở thị trường tự do không ngừng tăng cao. Đây là biểu hiện của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sản xuất kém phát triển, hàng hóa khan hiếm. Sang thập kỉ 80 Nhà nước bắt đầu công khai hóa lạm phát. Do đó lạm phát do Nhà nước quy định và trên thị trường tự do tăng nhanh. LẠM PHÁT THỜI KÌ 1981-1988 (%) (NĂM SAU SO VỚI NĂM TRƯỚC) Năm Lạm phát do Nhà nước quy định Lạm phát trên thị trường tự do 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 102 141,8 42,8 55,8 110,9 47,4 65 57,5 76,3 54,7 774,7 223,1 393,8 (Nguồn : Tổng cục thống kê) Tuy nhiên, nhữung năm đầu của thập kỉ 80, lạm phát ở Việt Nam vẫn chưa bộc lộ hoàn toàn mà còn là lạm phát bị đè nén bởi vì Nhà nước vẫn cố gắng giữ mức giá rất thấp cho khối lượng hàng hóa cung cấp theo định lượng cho công nhân viên chức, coi như trả lương một phần bằng hiện vật, đồng thời số hàng hóa do các doanh nghiệp Nhà nước (kể cả các tổ chức thương nghiệp quốc doanh) vẫn bán ra theo giá Nhà nước quy định thấp hơn nhiều mức giá thị trường tự do. Tỷ trọng hàng hóa do Nhà nước quy định giá là rất lớn so với hàng hóa trên thị trường tự do, cho nên mức độ đè nén của lạm phát thời kì 1981-1985 không phải là nhỏ. Năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải các tiền tệ đồng thời với việc tăng giá và lương. Sau đó, hàng năm đã điều chỉnh mặt bằng của Nhà nước, kể cả các mặt hàng cung cấp định lượng, lên gần sát với mặt bằng giá của thị trường tự do, trong khi đó, về mặt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa có chuyển biến đáng kể. Kết quả là lạm phát trở thành “phi mã”, mặt bằng giá cả tăng gấp mấy lần trong vòng một năm, kể cả trên thị trường quốc doanh cũng như trên thị trường tự do. Có nhiều ý kiến khác nhau về đặc điểm lạm phát ở Việt Nam trong những năm 80. Nhiều người cho rằng lạm phát ở Việt Nam đó là lạm phát “chi phí đẩy”. Trong quá trình từng bước tự do hóa giá cả, Nhà nước đã chủ động điều chỉnh giá lên để giá Nhà nước xích lại gần mức giá thị trường tự do, làm cho mặt bằng giá chung tăng lên, có những thời kì (như 1986-1988) tăng lên gấp nhiều lần trong vòng 1 năm. Tuy nhiên đấy mới chỉ là hiện tượng mà chưa phải là bản chất của vấn đề. Thực chất lạm phát ở Việt Nam trong những nhăm 1980 có bản chất sâu xa là do chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế hạch toán tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này chỉ thích hợp trong thời kì chiến tranh khi chúng ta cần tập trung một nguồn lực cho kháng chiến. Nhưng khi hòa bình lập lại, chúng ta đã phát triển một cách dập khuôn hình mẫu chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô, chúng ta muốn cái gì cũng phải to, cái gì cũng phải lớn. Các doanh nghiệp Nhà nước chỉ quan tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, sản xuất ra thật nhiều sản phẩm mà không hề quan tâm đến chất lượng mẫu mã, tiêu thụ sản phẩm như thế nào. Nhà nước vạch kế họach, đề ra định mức và cung cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước để sản xuất, không hề có sự sáng tạo, không hề có sự chọn lọc ở đây. Các doanh nghiệp Nhà nước là con đẻ của Nhà nước, là “lực lượng chính”của nên kinh tế quốc dân, làm sao có thể “đem con bỏ chợ” được. Chính vì vậy số vốn mà Nhà nước cung cấp cho doanh nghiệp Nhà nước ngày càng lớn. Vào đầu những năm 1980 đặc biệt là vào những năm 1982-1984, gần một phần ba tổng số chi ngân sách Nhà nước đã dành để tài trợ cho các khoản bao cấp, đặc biệt là để bù giá cho các mặt hàng cung cấp địnhlượng. Với số vốn ưu đãi như vậy, chắc hẳn các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn thuận lợi. Ngược lại, chúng ta làm ăn ngày càng thua lỗ, lúc nào cũng hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, sản phẩm đầy đủ nhưng kì thực đó là “lỗ thật, lãi giả” sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, tiêu thụ kém, khối lượng cũng ít, không ít doanh nghiệp Nhà nước đã bị thua lỗ nặng nề. Các doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng chính nộp thuế vào ngân sách Nhà nước, lực lượng này mà làm ăn thua lỗ thì ngân sách Nhà nước không thể dồi dào được. BẢNG ĐỘNG VIÊN THU NHẬP QUỐC DÂN SẢN XUẤT VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Giai đoạn TNQD sản xuất Thu NSNN so với TNQD sản xuất So với giai đoạn Tăng giảm Nhịp độ 76-80 81-85 86-90 100 100 100 25,2 29,0 20,2 -2,07 +3,87 -8,81 0,92 1,15 0,70 (Nguồn : Số liệu thống kê tài chính 1955-1986, Tổng cục thống kê, Hà Nội, 1988) Tiềm năng của khu vực kinh tế quốc doanh là rất lớn, thể hiện ở tất cả các mặt. Về lĩnh vực kinh doanh, kinh tế quốc doanh được độc quyền năm giữ những vị trí then chốt nhất, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất, về tài chính được cấp phát toàn bộ số vốn để hoạt động. Hơn thế nữa, khu vực kinh tế quốc doanh còn luôn luôn được sự quan tâm giúp đỡ thậm chí chiều chuộng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Với tiềm năng như vậy, lẽ ra khu vực này phải có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. Song, thực tế hoàn toàn ngược lại. Khu vực kinh tế quốc doanh quản lí và sử dụng tới 80% tài sản của nền kinh tế nhưng chỉ tạo ra khoảng 30% thu nhập quốc dân, sản xuất luôn ở trong tình trạng trì trệ kém hiệu quả. Bên cạnh đó, một hiện tượng hết sức phi lí đã xảy ra là các khoản nộp ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế quốc doanh hoàn toàn mang tính chất hình thức. Tính chất hình thức này được thể hiện bởi 2 lí do : Thứ nhất đó là sự không chính xác của công tác hạch toán, mức giá hạch toán trong chi phí sản xuất và giá thành vẫn rất thấp so với thực tế. Lí do thứ hai đó là cơ chế bao cấp. Các khoản bao cấp của ngân sách Nhà nước cho các xí nghiệp quốc doanh dưới dạng bù lỗ, bù giá, bù lương. Với tình hình chi tiêu cũng như nộp thuế như vậy của các doanh nghiệp Nhà nước thì khó có thể có một ngân sách nào có thể bội thu. Vì vậy ngân sách Nhà nước Việt Nam lâm vào tình trạng thâm hụt triền miên. BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH 1986-1989 (%) Năm 1986 1987 1988 1989 % so với tổng chi 46 31 26 40 % so với GDP 7,2 5,4 8,2 41 (Nguồn: Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh - NXB Tài chính-1996) Tỉ lệ thâm hụt khá cao và biến động một cách bất thường. Tình trạng này rất khó chấm dứt nếu như không giải quyết dứt đIểm tình trạng nợ đọng dây dưa, trốn thuế, gian lận trong nộp thuế, làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, nếu như không chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan, bù lỗ giá cả cho các doanh nghiệp. Thâm hụt ngân sách ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế vì nó liên quan đến vấn đề xử lí thâm hụt. Nhà nước lấy đâu ra nhiều tiền như vậy để bù đắp cho chính sách chi tiêu thiếu hiệu quả của mình. Rõ ràng Nhà nước phải huy động vốn từ nhiều nguồn để bù đắp. Trong thời kì 1981-1988 thâm hụt ngân sách Nhà nước Việt Nam được bù đắp chủ yếu bằng tiền phát hành ra, hay còn gọi là tín dụng của Ngân hàng trung ương (chiếm tới 61% tổng nguồn bù đắp thâm hụt); trong khi đó tỉ lệ vay nợ và viện trợ nước ngoài giảm rõ rệt, từ 66% thời kì 1981-1985 xuống chỉ còn 36% thời kì 1986-1988. Số nguồn bù đắp từ tín dụng vay trong nước trong thời kì này là không đáng kể (chỉ còn khoảng 3%) CƠ CẤU NGUỒN BÙ ĐẮP THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM (% SO THÂM HỤT) Thời kì 1981-1985 1986-1988 Tiền phát hành 30,6 57,9 Vay nước ngoài 65,7 38,5 Vay trong nước 3,7 3,7 (Nguồn : Bộ Tài chính) Tại sao Nhà nước lại có thể phát hành nhiều tiền như vậy bởi vì chức năng phát hành tiền là của Ngân hàng trung ương ? Điều này có thể là vô lí ở nước khác nhưng ở Việt Nam thì đó là điều tất yếu. Trước năm 1988, hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống Ngân hàng một cấp, và về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách Nhà nước. Hoạt động chủ yếu của hệ thống Ngân hàng này là nhân vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp Nhà nước và của ngân sách Nhà nước để cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Mối quan hệ của Ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng hết sức hạn chế. Khi ngân sách Nhà nước thâm hụt thì cách dễ làm nhất, thường thấy nhất lúc ấy là phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt. Khi các doanh nghiệp Nhà nước thiếu vốn thì Ngân hàng Nhà nước phát hành thêm tiền để cho vay tín dụng. Hậu quả thế nào thì ai cũng rõ : lạm phát gia tăng với tốc độ cao và không gì kiểm soát được. Khối lượng tiền tệ gia tăng không tương ứng với khối lượng hàng hóa được sản xuất ra đã làm cho tiền thừa tràn ngập các kênh lưu thông, sức mua của đồng tiền giảm sút. Người ta tranh nhau mua vàng, đô la, hàng hóa để dự trữ, biến nhà mình thành kho dự trữ nhỏ càng làm cho hàng hóa trở nên khan hiếm và càng giảm sức mua của đồng tiền. Đồng nội tệ tràn ngập lưu thông trong khi Ngân hàng thì luôn thiếu tiền để trả lương công nhân viên. Do đó đến kì lĩnh lương ngân hàng lại tiếp tục in tiền ra để trả càng làm cho khối lượng tiền tệ tăng lên, đồng tiền mất giá. Làm sao tiền có thể quay trở lại ngân hàng thông qua con đường tiết kiệm được vì không một mức lãi suất nào có thể theo kịp tốc độ lạm phát tăng không ngừng lúc bấy giờ. Không gửi tiết kiệm nhưng không ai dám giữ tiền lâu vì tiền lúc này trờ thành một thứ hàng hóa nguy hiểm. Sức mua giảm sút nhanh chóng nên giữ tiền lúc này khác nào giữ một cục than hồng trong tay, người ta muốn đẩy nó đi càng nhanh càng tốt làm cho tốc độ lưu thông của tiền ngày càng lớn. Khối lượng tiền đã lớn, tốc độ lưu thông lại nhanh càng làm cho lạm phát trở nên dữ dội. Ngay trong nước mình mà người ta không dám tiêu tiền Việt, đâu đâu cũng đòi hỏi thanh toán bằng séc, bằng vàng, bằng đô la... Điểm lại tình hình lạm phát năm 1980-1988 có một đặc điểm nổi bật là lạm phát rất cao, tốc độ tăng rất nhanh không gì có thể kiểm soát được. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát là có quá nhiều tiền thừa trong lưu thông làm sức mua của đồng tiền giảm sút. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức rõ và khắc phục lạm phát trước khi hậu quả khó lường của nó xảy ra. b-Giai đoạn kiềm chế lạm phát 1989-1992 Đặc điểm nổi bật của quá trình chống lạm phát những năm qua ở Việt Nam là phải chống lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cái mốc đánh dấu sự chuyển biến cơ bản và cũng có thể nói là thành công của công cuộc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam những năm qua là ở chỗ nhận thức được nguyên nhân trực tiếp của lạm phát là có quá nhiều tiền trong lưu thông, là có quá nhiều “cầu” cho nên trong giải pháp đã quay về với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ là chủ yếu bằng chủ trương làm cho đồng tiền trở thành khan hiếm để chống lạm phát. CHỈ SỐ LẠM PHÁT THỜI KÌ 1989-1992 (TỈ LỆ %) Năm 1989 1990 1991 1992 Tỉ lệ lạm phát 34% 67% 67% 18% (Nguồn : Bộ Tài chính) Còn nhớ cuối năm 1988 tỉ lệ lạm phát còn là 400% thì đến cuối năm 1989 tỉ lệ lạm phát giảm xuống chỉ còn 34%. Trong các năm tiếp theo lạm phát được duy trì ở mức 2 con số, đặc biệt là trong năm 1992 tỉ lệ lạm phát đã được kiềm chế ở mức 18%. Để đạt được điều đó Việt Nam đã phải tiến hành đồng bộ một loạt các biện pháp đặc biệt là xóa bao cấp về vốn qua ngấn sách Nhà nước và qua tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước; xóa một phần bao cấp qua giá vật tư, nguyên liệu và giá một số loại hàng tiêu dùng khác. Các biện pháp này cùng với những cố gắng trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu đã góp phần đẩy lùi tình trạng lạm phát phi mã. Nhờ vậy mà tình trạng thâm hụt ngân sách đã có những cải thiện đáng kể. CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM (% GDP) Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tổng thu Tổng chi Thâm hụt 14,7 22,8 -8,1 13,5 17,2 -3,7 19,0 22,7 -3,7 22,3 28,5 -6,2 25,4 28,1 -2,7 22,2 26,9 -4,7 (Nguồn : Bộ Tài chính) Tuy rằng tình trạng thâm hụt vẫn còn nhưng so với mức “đỉnh cao” năm 1988 thì là rất đáng khích lệ. Trên cơ sở đó nguồn bù đắp thâm hụt cho ngân sách Nhà nước cũng có những chuyển biển. Nhận thức được tình trạng thừa tiền quá nhiều trong lưu thông do in tiền bừa bãi, Nhà nước đã kiên quyết giản hẳn tiến tới chấm dứt tình trạng in tiền. CƠ CẤU NGUỒN BÙ ĐẮP THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (% SO VỚI THÂM HỤT) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 Tiền phát hành Vay nước ngoài Vay trong nước 10 25 65 - 52 48 - 71 29 - 45 55 - 28 72 (Nguồn : Bộ Tài chính) Tỉ lệ vay trong nước đã tăng lên rất rõ rệt chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn bù đắp thâm hụt. Đây là con đường tốt nhất để bù đắp thâm hụt. Tuy vậy vay dân cũng có những mặt trái của nó, vì vậy không thể sử dụng nó một cách vô hạn được. Một mặt vay nợ để chi tiêu năm nay là gánh nặng tài chính cho những năm sau, nhất là khi mức lãi suất tương đối cao thì gánh nặng đó không phải là nhỏ. Mặt khác nguồn vốn đầu tư của đất nước phụ thuộc chủ yếu vào số vốn tiết kiệm của nền kinh tế, nên Nhà nước sử dụng ngày càng nhiều số vốn tiết kiệm đó dưới hình thức vay dân để bù đắp bội chi ngân sách thì kinh tế ngoài quốc doanh sẽ càng còn ít vốn hơn để đầu tư phát triển sản xuất. Một yếu tố nữa quyết định đến quá trình chống lạm phát thắng lợi là từ giữa tháng 3-1989 đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát hàng tháng. Tháng 1 và 2 năm 1989 chỉ số gia tăng hơn 7,4% và 9,2% nhưng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kì hạn 3 tháng đã được đưa lên 12% và 9% mỗi tháng. Biện pháp lãi suất thực dương này lần đầu tiên được thực thi đã phá vỡ thế trì trệ của các kênh, thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính sách lãi suất âm ổn định từ năm 1985 đến quý 1 năm 1989. Số dư tiết kiệm tăng lên nhanh chóng trong tháng đầu, quý đầu. Giải pháp này có thể xem là giải pháp tình thế theo nghĩa đột phá vào nhu cầu có khả năng thanh toán làm trì hoãn sức mua của khối lượng tiền tệ thừa so với quỹ hàng hóa trong dân trước đó. Đồng thời nó còn là một dấu hiệu dù chỉ là sự mở đầu, thực hiện cuộc cải cách về tín dụng : chống bao cấp vốn lưu động. Nhận thức được vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kìm chế lạm phát và ổn định lưu thông tiền tệ cũng như sự yếu kém của hệ thống Ngân hàng một cấp, Nhà nước đã quyết định đổi mới hệ thống Ngân hàng. Tháng 5 năm 1988 đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách tiền tệ ở Việt Nam bằng việc tách Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thành hai hệ thống, bước đầu hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp theo thông lệ của kinh tế thị trường. Sự hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp cùng với việc đưa vào áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trước hết là công cụ lãi suất đã góp phần rất cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát và đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô những năm sau đó. c-Giai đoạn lạm phát 1994-1995 Đến tháng 11/1994 chỉ số gia tăng 13,2% so với tháng 12/1993. BẢNG LẠM PHÁT THỜI KÌ 1993-1995 (%) Năm 1993 1994 1995 Tỉ lệ lạm phát 5,2 14,4 12,7 (Nguồn : Bộ Tài chính) Như vậy tốc độ gia tăng giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 1994 cao hơn 1993. Nguyên nhân chính là: Một là, năm 1993 giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 5,2% là một kết quả không bình thường do sức mua hạn chế.Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, năng suất lao động xã hội còn thấp mà đến năm 1993 lại có đến 6 tháng giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng giảm,điều đó chứng tỏ biểu hiện giảm phát.Do vậy,năm 1994 phải có các biện pháp tăng cầu để tạo ra sự phát triển cân đối và nhịp nhàng giữa chống lạm phát và phát triển kinh tế. Hai là, giá cả 1994 chịu sự tác động của cả hai bước cải tiến chế độ tiền lương với lượng tiền mặt chi ra tơí 7600 tỷ đồng. Ba là, trong lạm phát năm 1994 một số giá đầu vào tăng nhanh nên ảnh hưởng đến giá đầu ra, như vật tư, nguyên liệu nhập khẩu,nguyên liệu trong nước. Như vậy, năm 1994 đột biến giá cả chỉ xảy ra đối với lương thực và một vài mặt hàng khác như giấy,vở học sinh, còn phần lớn giá về cơ bản vẫn giữ ổn định và mức lạm phát vẫn có thể kiểm soát được. Mặt khác, như phân tích ở trên, sự tăng giá 1994 có những yếu tố không hoàn toàn giống với lạm phát trong suy thoái kinh tế như những năm trước. Phần ba BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG CUỘC CHỐNG LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI. 1-/ Một số bài học kinh nghiệm rút ra Thập kỷ 80 đã chứng kiến diễn biến của tình trạng lạm phát trầm trọng chưa từng thấy ở nước ta. Lạm phát kéo dài triền miên đã gây ra khủng hoảng kinh tê xã hội, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạm phát này là do chúng ta đã duy trì một cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc, lạc hậu, bảo thủ trì trệ. Các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ cũng được bao cấp, bù lỗ, cung cấp tín dụng không hạn chế với lãi suất ưu đãi. Để phục vụ cho chính sách chi tiêu bất hợp lí đó, Nhà nước đã chỉ đạo cho Ngân hàng Nhà nước in thêm tiền ra. Khối lượng tiền tệ trong lưu thôngtăng lên làm cho lạm phát ngày càng tăng và không sao kiểm soát được. Thêm vào đó sự phụ thuộc quá mức của Ngân hàng Nhà nước vào chính phủ đã thui chột vai trò cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là ổn định tiền tệ, xem nhẹ các công cụ của chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước ngoài việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp còn phải “ tuân lệnh” của chính phủ và cho chính phủ “mượn” máy in để in tiền. Giai đoạn chống lạm phát 1989-1992 có thể coi là giai đoạn chống lạm phát thành công nhất trong lịch sử của Việt Nam, nếu không muốn nói là khó có nước nào có thể có được kết quả tốt như vậy. Từ mức lạm phát nặng nề ba con số giảm hẳn xuống còn hai con số, có lúc chỉ còn một con số. Vấn đề đặt ra là chúng ta đã nhận thức được nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát ở Việt Nam, từ đó mới có biện pháp chống lạm phát hữu hiệu được. Người ta thường nói “ thuốc đắng giã tật ”. Đối với “con bệnh” lạm phát ở Việt Nam thời kì 1980-1988 bệnh đã đến mức trầm trọng, muốn khỏi bệnh thì phải chịu đau thôi, đó là lẽ đương nhiên. Việc nhận thức được có quá nhiều tiên trong lưu thông là đúng, từ đó dẫn đến việc hạn chế cũng như chấm dứt bù đắp bội chi ngân sách bằng cách in tiền. Nhưng quan trọng hơn đó là chúng ta đã nhận thức được vì sao chúng ta phải in tiền và đã mạnh dạn tiến hành một loạt các biện pháp được tiến hành song song cùng với hạn chế in tiền. Đó là : - Lãi suất được mạnh dạn đưa lên ở mức cao để khuyến khích gửi tiết kiệm, giảm nhu cầu về tiền, giảm khối lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường. - Xoá bao cấp về vốn qua ngân sách Nhà nước và qua tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước, xoá bao cấp qua giá vật tư, nguyên liệu và một số loại hàng hoá tiêu dùng khác. - Thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp, dần dần tháo bỏ sự lệ thuộc của Ngân hàng Nhà nước vào chính phủ, tạo đIều kiện cho Ngân hàng Nhà nước tự do điều hành và sử dụng chính sách tiền tệ một cách hợp lí. Nói gì thì nói, sự thay đổi về cơ chế quản lí kinh tế là sự thay đổi có ý nghĩa quan trọng nhất đối với tình hình kinh tế xã hội nước ta nói chung và công cuộc chống lạm phát nói riêng. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp bị xoá bỏ, thay vào đó là cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Từ đó đã chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Mặc dù vào thời điểm hiện nay chúng ta đang ở trong tình trạng thiểu phát tức là lạm phát liên tục giảm và ở mức thấp nhưng cảnh giác và dự phòng trước lạm phát không phải là thừa. Lạm phát có thể quay trở lại bất cứ lúc nào và gây ra những hậu quả khó lường, vì vậy chúng ta cần phải thực hiện một số mục tiêu dài hạn hơn, chắc chắn hơn, có thế chúng ta mới chủ động đối phó với lạm phát được. 2-/ Một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát qua tín dụng mang tính dài hạn Công bằng mà nói thì thâm hụt ngân sách là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới từ những nước công nghiệp phát triển đến những nước nghèo đang phát triển. Ở Việt Nam trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngân sách Nhà nước luôn ở trong tình trạng thâm hụt nặng nề. Mặc dù từ năm 1992, chính phủ đã chủ trương chấm dứt tình trạng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, nhưng thay vào đó Việt Nam đã phải vay nợ nước ngoài khá lớn để bù đắp bội chi. Biện pháp vay vốn nước ngoài để đầu tư nếu không quan tâm đến hiệu quả toàn diện cua đầu tư, không có biện pháp thu hồi vốn một cách kiên quyết thì sẽ làm cho nợ nước ngoài tăng lên dẫn đến mất uy tín trong thanh toán quốc tế. Do vậy nợ nước ngoài dứt khoát không thể sử dụng về mặt lâu dài để cân đối ngân sách Nhà nước. Nếu như ngân sách Nhà nước cứ lâm vào tình trạng thâm hụt triền miên, ai có thể bảo đảm là chúng ta lại không tiếp tục in tiền ra. Muốn giải quyết dứt điểm lạm phát qua tín dụng, nhất định phải lành mạnh hoá ngân sách Nhà nước. Dù không phải là người nghiên cứu sâu về kinh tế, ai cũng có thể nói rằng muốn cân đối ngân sách Nhà nước thì phải tăng thu, giảm chi. Vấn đề đặt ra là tăng thu giảm chi như thế nào mới là điều quan trọng. Trong điều kiện hiện nay và trong những năm tới, thiết nghĩ chúng ta nên thực hiện những phương hướng cơ bản sau đây để khắc phục tình trạng bội chi qua ngân sách. Thứ nhất: Đối với các doanh nghiệp Nhà nước cần thanh toán dứt điểm tình trạng nợ nần dây dưa. Một mặt chúng ta có thể tăng được nguồn thu đáng kể từ việc thanh toán nợ này, tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác chúng ta cũng chấm dứt được tình trạng bao cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây thông qua cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi. Đây là cách tốt để chúng ta cải thiện được tình trạng kém hiệu quả của ngân sách Nhà Nước. Thứ hai: Cần cải thiện hệ thống quản lí và thu thuế để chúng ta có thể khai thác tốt nhất nguồn thu từ thuế, bảo đảm tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Về thuế suất, phản ứng chung của người chịu thuế là thuế suất quá cao. Thuế có tác động rất lớn đến hoạy động đầu tư, hoạt động tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Thuế có thể nói là một thứ chi phí sản xuất đối với nhà đầu tư. Thuế suất quá cao sẽ hạn chế đầu tư và tiêu dùng, từ đó tác động làm hạn chế tổng cầu. Mặt nếu đánh thuế quá cao sẽ làm cho doanh thu thuế giảm, tình trạng trốn lậu thuế sẽ diễn ra nhiều hơn. Nếu chúng ta quy định thuế suất thấp,không những kích thích được tiêu dùng và đầu tư mà còn có thể thu được nhiều thuế hơn. Sẽ không có tình trạng trốn thuế, lậu thuế, không những thế người nộp thuế còn tự giác trong vấn đề nộp thuế. Điều này sẽ góp phần rất lớn làm giảm nhẹ gánh nặng của công tác thuế. Vì vậy thiết nghĩ chúng ta nên xem xét giảm thuế suất, quy định một mức thuế suất phù hợp hơn, như vậy sẽ có lợi hơn. Ngoài ra vẫn còn sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc nộp thuế vẫn còn tồn tại ở một số sắc thuế và lệ phí. Thành phần kinh tế quốc doanh nói chung vẫn còn được ưu đãi về thuế hơn các thành phần khác. Phản ứng của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phân biệt đối xử này là trốn thuế và lậu thuế. Một vấn đề khác còn tồn tại đó là sự yếu kém của hệ thống sổ sách kế toán và kiểm toán. Trong điều kiện đó thì các biện pháp miễn thuế và giảm thuế để khuyến khích đầu tư sẽ rất ít có ý nghĩa bởi vì việc hạch toán đúng để được giảm thuế thường ít có lợi hơn là trốn thuế. Nhiều công ty lợi dụng điều này vừa xin giảm thuế, miễn thuế vừa trốn thuế làm thất thu rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Thứ ba: Về chính sách chi ngân sách Nhà nước cần thực hiện chi tiêu hợp lí, tập trung đầu tư vào những dự án trọng điểm, có khả năng thu hồi vốn nhanh, tránh đầu tư dàn trải, vừa thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa kích thích đầu tư tư nhân cùng phát triển. Muốn làm được đIều này thiết nghĩ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án đầu tư cần phải được cải thiện. Song song với công tác lành mạnh hoá ngân sách Nhà nước, cần nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lí và điều hành chính sách tiền tệ. Về lâu về dài chính sách tiền tệ sẽ là rất hữu hiệu trong việc ổn định lưu thông tiền tệ, khắc phục lạm phát, ổn định nền kinh tế. Để cho sự tác động của chính sách tiền tệ vào hệ thống lãi suất trên thị trường tiền tệ tín dụng và khẳng định vai trò của nó trong việc chống lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới cần phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, không phải tất cả các công cụ đều được sử dụng đồng thời một lúc. Vấn đề đặt ra là, dựa trên cơ sở thực tiễn nào mà công cụ này hay công cụ kia đã, đang, và sẽ được áp dụng ở Việt Nam. Các công cụ hành chính được sử dụng trực tiếp như thế nào, với mức độ nào để vừa góp phần chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế cuyển sang cơ chế thị trường. Các công cụ mới phát huy hiệu lực đến đâu và cần có thêm điều kiện gì để từng bước trở thành những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ . Đó là vấn đề cần phải nghiên cứu trong thời gian tới. kết luận Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Lãi suất đã trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát qua tín dụng ở Việt Nam.DOC
Luận văn liên quan