Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 52 - 
Abstract: Object tracking in computer vision has been 
researched for many years, but it’s still considered as an 
open problem up to now. Recently, there has been a 
tracking method whose efficiency has been proved in many 
pieces of research in the world, that is Particle filter using 
color-based observation model. This paper takes the idea 
proposed in [8] for the purpose of building some most 
basic functions of a traffic surveillance system which only 
performs in motorcycle lane, improving some experimental 
results attained in [8], and introducing the ability to 
recognize the motorbikes driven in wrong way. 
I. GIỚI THIỆU 
Theo vết đối tượng là thành phần chủ yếu trong các 
hệ thống theo dõi (surveillance), dẫn đường 
(guidance), phòng tránh ách tắc (obstacle avoidance 
system), hay các ứng dụng tương tác người – máy 
thông minh (intelligent human-computer interactive 
system). Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là xác 
định số lượng các đối tượng thành phần cùng với vị trí, 
và động tác chuyển động tương ứng của chúng nhằm 
đưa ra những quyết định điều khiển thích hợp. Thông 
thường các phương pháp theo vết được chia làm hai 
loại chính: bottom-up và top-down [6]: 
Bottom-up: xuất phát từ các quan sát, thực hiện rút 
trích, phân đoạn để tìm ra đối tượng cần theo vết. 
 Top-down: giải quyết bài toán một cách thuận chiều 
hơn bằng cách ước lượng mức hợp lý (likelihood) của 
các giả thuyết cho trước dựa trên quan sát thu được. 
Cụ thể hơn, đầu tiên, phát sinh ra một tập các giả 
thuyết có thể có trong không gian trạng thái của hệ 
thống, sau đó sử dụng quan sát để tính likelihood cho 
từng giả thuyết, các likelihood này sẽ quyết định đến 
mức độ “tin cậy” của từng giả thuyết (thường được 
biểu thị bằng các trọng số). Cuối cùng tổng hợp tập 
các giả thuyết-trọng số để cho ước lượng trạng thái của 
hệ thống. 
Theo vết đối tượng sử dụng lọc Particle thuộc vào 
loại phương pháp top-down. Giống như các phương 
pháp lọc phi tuyến khác, lọc Particle cũng lấy ước 
lượng Bayes hồi quy làm giải pháp lý thuyết, nhưng nó 
lại sử dụng ý tưởng của phương pháp Monte Carlo để 
xấp xỉ cho giải pháp lý thuyết này. Cụ thể, lọc Particle 
sử dụng một tập lớn các mẫu - mỗi mẫu được ví như 
một particle – rút ra từ một hàm mật độ đề xuất để 
biểu diễn cho hàm mật độ hậu nghiệm, sau đó sử dụng 
các giá trị mật độ hậu nghiệm này để đưa ra ước lượng 
trạng thái hiện thời của hệ thống. Những điểm mạnh 
khiến cho lọc Particle được xem là một công cụ ưu việt 
cho các bài toán lọc phi tuyến hiện nay đó là: khả năng 
giải quyết các bài toán lọc tổng quát mà không đòi hỏi 
bất cứ giả định nào về hệ thống, tốc độ hội tụ không 
phụ thuộc vào số thành phần của vectơ trạng thái, có 
khả năng mở rộng để thực hiện trong môi trường tính 
toán toán song song, ngoài ra với sức mạnh của máy 
tính, người ta có thể gia tăng độ chính xác của phép 
xấp xỉ bằng cách tăng số lượng các điểm mẫu. 
Trong bối cảnh bài toán theo vết các đối tượng xe 
lưu thông bằng thị giác máy tính, chúng tôi sử dụng 
công cụ lọc Particle với mô hình quan sát dựa trên 
màu, vì màu sắc là một đặc trưng trực quan dễ rút 
trích và chi phí tính toán thấp, hơn nữa nó lại bất biến 
với phép biến đổi tỉ lệ - bắt gặp trong bối cảnh của ứng 
dụng theo dõi giao thông. 
Một trong những điểm yếu của lọc Particle là khả 
năng duy trì tính đa mô hình kém, mà trong một hệ 
Lọc Particle dựa trên màu ứng dụng vào 
hệ thống theo dõi giao thông 
Applying Color-based Particle Filter to Traffic Surveillance System 
Lê Hoài Bắc, Nguyễn Phi Vũ 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 53 - 
thống theo dõi giao thông, yêu cầu theo vết cùng lúc 
nhiều đối tượng xe trong vùng quan sát là không thể 
tránh khỏi, chính vì thế, ở đây chúng tôi sử dụng một 
phiên bản cải tiến của lọc Particle - lọc Particle đa mô 
hình, nhằm khắc phục điểm yếu này. Phương pháp này 
đã được đề xuất và thử nghiệm trong [5], [7], [8] và đã 
chứng tỏ được tính hiệu quả của nó. 
Trong những phần còn lại, bài báo sẽ tổ chức như 
sau: phần II là sơ lược về nền tảng lý thuyết của lọc 
Particle, phần III nói về phiên bản lọc Particle đa mô 
hình, phần IV là ứng dụng lọc Particle đa mô hình vào 
hệ thống theo dõi giao thông, phần V trình bày các kết 
quả thực nghiệm và cuối cùng là kết luận. 
II. LỌC PARTICLE 
Xét một hệ thống động thỏa các giả định về mô hình 
Markov bậc nhất, trước tiên ta cần thống nhất một số 
kí hiệu: 
xk: trạng thái của hệ thống ở thời điểm k. 
zk: quan sát ở thời điểm k. 
Xk: chuỗi các trạng thái của hệ thống từ thời điểm 
ban đầu đến thời điểm k. 
Zk: chuỗi các quan sát từ thời điểm ban đầu đến thời 
điểm k. 
Để ước lượng trạng thái cho một hệ thống động, ta 
cần có 2 mô hình: 
Mô hình động: mô tả sự tiến hoá của trạng thái theo 
thời gian: 
 1 1 1( , )k k k k- - -=x f x v (1) 
với vk-1 là vectơ nhiễu (ngẫu nhiên), xác suất chuyển 
tiếp 1( | )k kp -x x tính được từ mô hình này. 
Mô hình quan sát: mô tả mối quan hệ giữa quan sát 
và trạng thái ở cùng thời điểm: 
 ( , )k k k k=z h x w (2) 
với kw là vectơ nhiễu (ngẫu nhiên), mô hình này 
được sử dụng để tính likelihood ( | )k kp z x . 
Giải pháp Bayes cho rằng chúng ta có thể đạt được 
mật độ hậu nghiệm (posterior density) p(xk|Zk) qua 
hai bước: 
Dự đoán: 
 1 1 1 1 1( | ) ( | ) ( | )k k k k k k kp p p d- - - - -= òx Z x x x Z x (3) 
Cập nhật: 
 ( | )k kp x Z 1
1
( | ) ( | )
( | ) ( | )
k k k k
k k k k k
p p
p p d
-
-
=
ò
z x x Z
z x x Z x
 (4) 
Chúng ta chỉ có thể áp dụng giải pháp Bayes trong 
trường hợp không gian trạng thái rời rạc và hữu hạn. 
Ngoài trường hợp này thì đây chỉ là giải pháp lý thuyết 
vì không có phương pháp tổng quát nào để tính các 
tích phân trong (3) và (4) trong trường hợp liên tục và 
nhiều chiều. Vì lí do đó, các phương pháp lọc phi tuyến 
ra đời (lọc Kalman mở rộng, lọc unscented Kalman, 
xấp xỉ mắt lưới, lọc tổng Gauss, … [3], [12]) nhằm 
mục đích xấp xỉ cho giải pháp lí thuyết này. Cũng 
không nằm ngoài mục tiêu trên, lọc Particle xấp xỉ hàm 
mật độ hậu nghiệm bằng một tập lớn các mẫu phát 
sinh từ một hàm mật độ đề xuất (proposal density): 
1~ ( | , )i ik k k kq -x x x z . Mỗi mẫu sẽ được gắn với một 
trọng số được cập nhật một cách hồi quy như sau: 
 1
1
1
( | ) ( | )
( | , )
i i i
i ik k k k
k ki i
k k k
p pw w
q
-
-
-
= ´z x x x
x x z
% (5) 
với 1
i
kw - là trọng số đã được chuẩn hoá ở thời điểm 
k-1: 1
1
11
i
i k
k N j
kj
ww
w
-
-
-=
=
å
%
%
 và ikw% là trọng số chưa được 
chuẩn hoá ở thời điểm k. Và như vậy, hàm mật độ hậu 
nghiệm sẽ được xấp xỉ như sau: 
1
( | ) ( )N i ik k k k kip w d=» -åx Z x x (6) 
với d (.) là hàm Delta Dirac, và ước lượng trạng 
thái của hệ thống ở thời điểm k sẽ là: 
 k[ | ]kE x Z » 1
N i i
k ki
w
=å x (7) 
Những gì vừa trình bày trên đây là nội dung chính 
của phương pháp lấy mẫu tín nhiệm theo chuỗi 
(Sequential Importance Sampling - SIS), đây là phiên 
bản đơn giản nhất của lọc Particle, nội dung thuật toán 
SIS được trình bày trong bảng 1. 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 54 - 
Bảng 1. Thuật toán SIS. 
Có một vấn đề nảy sinh trong thuật toán SIS là sau 
một số hữu hạn bước lặp đệ quy, giá trị các trọng số 
mẫu bị suy giảm trầm trọng xuống mức gần bằng 
không, ngoại trừ một mẫu có trọng số gần bằng một, 
đây được gọi là hiện tượng thoái hoá mẫu, khi hiện 
tượng này xảy ra, mọi nỗ lực tính toán sẽ trở nên vô 
nghĩa vì chúng ta đang sử dụng một tập mẫu gồm 
những mẫu có đóng góp không đáng kể vào biểu diễn 
của mật độ hậu nghiệm (xem [2] để biết thêm chi tiết). 
Để khắc phục hiện tượng này, chúng ta cần đưa vào 
thuật toán SIS bước tái lấy mẫu (Resampling) mỗi khi 
quan sát thấy hiện tượng thoái hoá mẫu xảy ra (thông 
qua kích thước mẫu hiệu dụng 
2
1
1ˆ
( )
eff N i
ki
N
w
=
=
å
). 
Bước này sẽ làm nhiệm vụ loại bỏ những mẫu có trọng 
số không đáng kể và nhân bản những mẫu có trọng số 
cao. Sau bước tái lấy mẫu, các trọng số mẫu sẽ được 
đồng đều hoá = 1/N (xem chi tiết trong [11]). Có thể 
hình thức hoá thủ tục tái lấy mẫu như sau: 
Bảng 2 trình bày phiên bản thuật toán lọc Particle 
thông dụng. 
Bảng 2. Thuật toán lọc Particle. 
III. LỌC PARTICLE ĐA MÔ HÌNH 
Gọi { , , , , }k k k k k kP M X W C= Õ là tập biểu diễn 
particle cho mật độ hậu nghiệm đích, với các thông số 
ở thời điểm k: Mk là số mô hình con, kÕ là tập trọng 
số kết hợp, kX là tập particle, kW là tập trọng số ứng 
với particle, kC là tập chỉ số particle với ý nghĩa 
( )i
kC m= nếu particle thứ i thuộc thành phần thứ m. 
Hàm mật độ hậu nghiệm đích được xấp xỉ bằng tổng 
có trọng số các hàm mật độ hậu nghiệm của mỗi mô 
hình con: 
 ,
1
( | ) ( | )
kM
mk k m k k k
m
p pp
=
= åx Z x Z (8) 
với ,m kp là trọng số kết hợp của mô hình con thứ m 
ở thời điểm k. 
Các trọng số kết hợp của mỗi mô hình con sẽ được 
cập nhật ở mỗi thời điểm một cách hồi quy như sau: 
, 1
,
, 1
1
k
m
n
i
m k k
i I
m k M
i
n k k
n i I
w
w
p
p
p
-
Î
-
= Î
=
å
å å
%
%
 (9) 
với ikw% là trọng số mẫu chưa chuẩn hoá. 
Như trên ta thấy mỗi mô hình con sẽ được áp dụng 
lọc Particle một cách độc lập, sau đó chúng sẽ kết hợp 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 55 - 
với nhau thông qua trọng số kết hợp để cho ra mật độ 
hậu nghiệm đích. 
IV. ỨNG DỤNG LỌC PARTICLE VÀO HỆ 
THỐNG THEO DÕI GIAO THÔNG 
1. Mô hình động 
Vectơ trạng thái của mỗi mô hình con có dạng xk = 
(xk, yk) là toạ độ Decartes (liên tục) của mỗi xe trên 
ảnh tại thời điểm k. Mô hình động được mô tả qua 
từng thành phần của trạng thái: 
 1 1 1 1f( , )
x x
k k k k kx x v x v- - - -= = + 
 1 1 1 1f( , )
y y
k k k k ky y v y v- - - -= = + (10) 
với các nhiễu 1
x
kv - và 1
y
kv - là các biến ngẫu nhiên 
tuân theo phân phối chuẩn lần lượt là 2(0, )xdN và 
2(0, )ydN . Như vậy, hàm động của vectơ trạng thái có 
thể viết như sau: 
 1 1 1 1f( , )k k k k k- - - -= = +x x v x v (11) 
với 1k -v là vectơ ngẫu nhiên tuân theo phân phối 
chuẩn 2(0, )N D và 2D là hiệp phương sai của 2 biến 
ngẫu nhiên 1kx - và 1ky - . 
Theo [10], vectơ trạng thái được định nghĩa bổ sung 
thêm 2 thành phần w, h lần lượt là chiều rộng và chiều 
cao của vùng ứng viên, đây là cách định nghĩa tổng 
quát và lý tưởng vì sẽ giúp nắm bắt được chính xác 
vùng ứng viên. Song, ở đây chúng tôi muốn giảm chi 
phí tính toán và cho rằng chiều cao và chiều rộng của 
vùng ứng viên có thể suy ra một cách xấp xỉ dựa vào 
mô hình chiếu phối cảnh (do vị trí đặt máy quay là cố 
định nên ta có thể dễ dàng xấp xỉ được điều này). 
2. Mô hình quan sát 
Bài báo này sử dụng mô hình quan sát dựa trên màu, 
mô hình quan sát này đã cho thấy được tính hiệu quả 
của nó trong nhiều hệ thống theo vết bằng thị giác máy 
tính và nhiều công trình nghiên cứu ([4], [6], [7], 
[10]), xin trình bày ngắn gọn lại như sau (xem chi tiết 
trong [11]): 
Sử dụng khoảng cách Bhattachayya để tính “khoảng 
cách” giữa mô hình màu tham khảo 
* *
0 1,...,{ ( ; )}n Nk n =K x@ và mô hình màu ứng viên 
1,...,( ) { ( ; )}n Nk kk n =K x x@ : 
1/2
* *
0
1
[ , ( )]= 1 ( ; ) ( ; )
N
k k
n
k n k nx
=
é ù
ê ú
ë û
-åK K x x x (12) 
Mô hình ứng viên và mô hình tham khảo sẽ được 
chia thành hai vùng con (trên và dưới, hình1) để tăng 
độ chính xác. Sau đó ta sẽ tính được likelihood của 
mô hình ứng viên như sau: 
2 2 *
1
[ , ( )]
( | ) j j kjk kp e
lx
=
-åµ
K K x
z x (13) 
Hình 1. Mô hình ứng viên 
3. Phát hiện đối tượng chuyển động 
Các đối tượng chuyển động quan tâm ở đây là các 
xe máy đi trong vùng quan sát. Phương pháp phát hiện 
chuyển động được lựa chọn trong trường hợp này là 
trừ nền. Trong ngữ cảnh bài toán theo dõi giao thông 
thời gian thực thì yếu tố tốc độ xử được đặt lên rất cao, 
vì vậy đây là một lựa chọn thích hợp, vì phương pháp 
này cho kết quả khá tốt mà độ phức tạp không cao. 
a) Học nền 
Sử dụng ý tưởng trong [9], phương pháp học nền sẽ 
tạo ra một chuỗi n-1 mặt nạ Mi(x) (i = 2,…, n) ứng với 
n-1 cặp frame ảnh liên tiếp, mỗi mặt nạ Mi(x) sẽ xác 
định xem điểm x trên ảnh tại i-1 có phải là điểm 
chuyển động không bằng cách trừ hai frame ảnh liên 
tiếp Ii và Ii-1 này. Sau đó, các điểm ảnh trên ảnh nền B 
sẽ được cập nhật dựa trên chuỗi mặt nạ Mi(x). Thuật 
toán học nền được trình bày trong bảng 3. 
b) Phát hiện đối tượng 
Sau khi đã có được ảnh nền, ta có thể xác định điểm 
thuộc đối tượng chuyển động bằng cách so sánh sự 
chênh lệch màu sắc giữa điểm đó và điểm cùng vị trí 
trên ảnh nền. Kết hợp với một số kỹ thuật heuristic 
như: loại bỏ những vùng có mật độ điểm chuyển động 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 56 - 
thưa thớt, tách các đối tượng bị dính nhau do bóng, 
điều chỉnh khung detect cho sát với kích thước thực 
của đối tượng, cùng với thuật toán “vết dầu loang” để 
tìm các vùng liên thông, cuối cùng có được danh sách 
các đối tượng xe chuyển động, nội dung của thuật toán 
phát hiện đối tượng chuyển động được trình bày trong 
bảng 4. 
Bảng 3. Thuật toán học nền. 
Bảng 4. Thuật toán phát hiện đối tượng chuyển động. 
4. Theo vết đối tượng 
Việc theo vết mỗi đối tượng xe chuyển động được 
xem là một mô hình con và sẽ được áp dụng lọc 
Particle một cách độc lập, sau đó chúng sẽ được theo 
dõi mức độ đóng góp vào phân phối đích qua các trọng 
số kết hợp. 
Chúng tôi đưa ra một thuật toán nhằm kết hợp hai 
công cụ phát hiện đối tượng chuyển động và lọc 
Particle đa mô hình để hình thành nên một thuật toán 
theo vết hoàn chỉnh, tạm gọi là thuật toán Tracking. 
Thuật toán Tracking ở đây sẽ lấy kết quả phát hiện đối 
tượng chuyển động làm tiền đề cho lọc Particle đa mô 
hình. Trong suốt quá trình theo vết, một đối tượng xe 
lưu thông qua vùng quan sát sẽ chỉ được phát hiện một 
lần duy nhất vào lúc bắt đầu đi vào vùng này, tức là 
thuật toán Detect chỉ cần được thực hiện trên một vùng 
nhỏ ngay vạch xuất phát của vùng quan sát - gọi là 
“vùng xuất phát” - để phát hiện các đối tượng mới đi 
vào vùng quan sát, và như vậy thuật toán Detect sẽ 
không cần quan tâm đến các đối tượng đã đi ra (một 
phần hay hoàn toàn) khỏi “vùng xuất phát” này, nhiệm 
vụ đó sẽ dành cho lọc Particle. Thuật toán Detect sẽ 
được hiệu chỉnh lại đôi chút trong trường hợp chỉ áp 
dụng cho “vùng xuất phát”, tên gọi được đổi thành 
DetectInBeginningArea. 
Thuật toán Tracking được trình bày trong bảng 5, 
với Pk được định nghĩa trong phần III và NOListk là 
danh sách các đối tượng mới đi vào “vùng xuất phát” 
ở thời điểm k. 
Với thuật toán tracking trên đây, ngoài khả năng 
theo vết đối tượng, chúng ta còn có khả năng phát hiện 
các đối tượng di chuyển ngược chiều. Các đối tượng di 
chuyển ngược chiều sau khi đi ngang qua “vùng xuất 
phát” sẽ biến mất khỏi vùng quan sát, và như vậy vùng 
ứng viên trên ảnh của đối tượng này sẽ có likelihood (tỉ 
lệ thuận với trọng số kết hợp) giảm rất nhanh trong 
khoảng thời gian chỉ vài frame ảnh ( ,m k Thresholdp p£ 
và Thresholdk k£ ). Nắm bắt được tính chất này ta có thể 
phát hiện các đối tượng di chuyển ngược chiều. 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 57 - 
Bảng 5. Thuật toán Tracking 
Ngoài ra, với kết qủa Tracking có được, chúng ta có 
thể thực hiện tính vận tốc trung bình xe đi trong vùng 
quan sát dựa vào chiều dài thực tế của tim đường và số 
frame ảnh xe có mặt trong vùng quan sát. Quỹ đạo 
chuyển động của xe trong vùng quan sát cũng sẽ được 
lưu lại để phát hiện các trường hợp di chuyển lạng 
lách, lấn tuyến. 
V. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 
Chương trình ứng dụng được triển khai và thử 
nghiệm trên máy PC Pentium IV 2.4Ghz, 512MB 
RAM, tốc độ xử lý của chương trình tương đương 30 
frame ảnh/giây, đảm bảo thực hiện trong thời gian 
thực. Kết quả định tính rất tốt, gần như tất cả các đối 
tượng đi vào vùng xuất phát đều được phát hiện và bắt 
rất sát với kích thước xe, điều này tạo một tiền đề tốt 
cho bước theo vết, một khi kết quả phát hiện đối tượng 
tốt thì kết quả theo vết đối tượng cũng tốt theo. Kết 
quả định lượng được thực hiện kiểm tra trên 11 bộ test, 
mỗi đoạn video test dài khoảng 10s, kết quả là rất khả 
quan (bảng 6). 
Hình 2. Một số kết quả phát hiện đối tượng nằm trong 
“vùng xuất phát” 
Bảng 6. Thống kê kết quả phát hiện đối tượng. 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 58 - 
V. KẾT LUẬN 
Những kết quả đạt được trong 
bài báo này là một sự nỗ lực nhằm 
cải tiến những gì đã đạt được trong 
[8], và thực tế cũng đã đạt được 
một số cải tiến khả quan, tuy nhiên 
có một mục tiêu lớn vẫn chưa hoàn 
thành, đó là mở rộng thành hệ 
thống theo dõi nhiều phương tiện 
giao thông khác nhau, điều này 
gặp một trở ngại lớn là hiện bóng 
đổ và tán xạ ánh sáng gây ra bởi 
các phương tiện lưu thông kích 
thước lớn. Đây chính là cải tiến 
quan trọng nhất nếu muốn đưa ứng 
dụng vào thực tế. Tuy nhiên, nhóm 
tác giả tin rằng điều này không 
phải là không thể khắc phục được. 
Hướng phát triển của đề tài này 
vẫn còn rất nhiều triển vọng vì tính thực tế và hiệu quả 
cao của nó, hi vọng sẽ có nhiều nỗ lực hơn nữa để hoàn 
thiện và một hệ thống theo dõi giao thông tự động ở 
Việt Nam sẽ ra đời trong một tương lai gần. 
Hình 3. Một số kết quả theo vết đối tượng. 
(a) Đối tượng đi ngược chiều mới được phát hiện (b) Trọng số kết hợp suy giảm nhanh (c) Đã phát hiện đi ngược chiều 
Hình 4. Phát hiện đối tượng đi ngược chiều. 
Hình 5. Tính vận tốc chuyển động. 
Hình 6. Lưu vết quỹ đạo chuyển động. 
Tạp chí BCVT & CNTT kỳ 3 10/2007 
- 59 - 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] A.DOUCET, N.FREITAS, N.GORDON, “Sequential 
Monte Carlo Methods in Practice”, Springer, January 
2001, ISBN: 0-387-95146-6. 
[2] A. DOUCET, S. J. GODSILL, and C. ANDRIEU. 
“On sequential Monte Carlo samplingmethods for 
Bayesian filtering”, Statistics and Computing, 10(3):197–
208, 2000. 
[3] B.RISTIC, S.ARULAMPALAM, N.GORDON, 
“Beyond the Kalman Filter”, Artech House, 2004. 
[4] C.HUE, J.P.CADRE, P.PREZ, “Tracking multiple 
objects with Particle Filtering”, IEEE Transactions on 
Aerospace and Electronic Systems, 38(3):791–812, 2002. 
[5] J.VERMAAK, A.DOUCET, P.PEREZ, “Maintaining 
multi-modality through mixture tracking”, Proceedings of 
the Ninth IEEE International Conference on Computer 
Vision (ICCV 2003) 2-Volume Set 0-7695-1950-4/03, © 
2003 IEEE. 
[6] K.NUMIARO, E.K.MEIER, L.J.VAN GOOL, 
“Objects tracking with an Adaptive Color-based Particle 
Filter”, IVC, 21(1):99110, January 2003. 
[7] K.OKUMA, A.TALEGHANI, N.FREITAS, 
J.J.LITTLE, D.G.LOWE, “A Boosted Particle Filter: 
Multitarget Detection and Tracking ”. In ECCV04, pages 
Vol I: 2839, 2004. 
[8] LE HOAI BAC, PHAM NAM TRUNG, LE 
NGUYEN TUONG VU, “Applied Particle Filter in Traffic 
Tracking”, IEEE Transactions on signal processing 2006. 
[9] LÊ HOÀI BẮC, TRƯƠNG THIÊN ĐỈNH, “Hệ thống 
theo dõi giao thông bằng thị giác máy tính”, Tạp chí Phát 
triển KH-CN, tập 7, số 10/2004. 
[10] LÊ NGUYỄN TƯỜNG VŨ, NGUYỄN MINH 
TRANG, “Ứng dụng lọc Particle trong bài toán theo vết 
đối tượng”, luận văn Cử nhân Tin học, Khoa Công nghệ 
thông tin, Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh, 
2005. 
[11] NGUYỄN PHI VŨ, “Tìm hiểu lọc phi tuyến, lọc 
Particle và ứng dụng vào hệ thống theo dõi giao thông”, 
luận văn Cử nhân Tin học, Khoa Công nghệ thông tin, Đại 
học Khoa học tự nhiên TP. HCM 2006. 
[12] S.ARULAMPALAM, S.MASKELL, N.GORDON, 
T.CLAPP, “A Tutorial on Particle Filters for Online 
Nonlinear/Non-Gaussian Bayesian Tracking”, IEEE 
Transactions on signal processing vol.50, No.2, February 
2002. 
Ngày nhận bài : 16/8/06 
SƠ LƯỢC TÁC GIẢ 
LÊ HOÀI BẮC 
Sinh năm 1963. 
Tốt nghiệp Đại học ngành 
Toán năm 1984. Tốt nghiệp Cao 
học ngành Tin học năm 1990. 
Bảo vệ luận văn Tiến sĩ ngành 
Tin học năm 1999. Được phong 
chức danh Phó giáo sư năm 
2005 . 
Hiện nay là Phó Trưởng khoa Công nghệ thông tin, 
Đại học Khoa học Tự nhiên TP. HCM. 
Hướng nghiên cứu: Trí tuệ nhân tạo, Tính toán mềm 
và Data mining. 
Email: 
[email protected] 
NGUYỄN PHI VŨ 
Sinh ngày 15/7/84 tại Khánh 
Hòa. 
Tốt nghiệp Đại học Khoa học 
tự nhiên TP. HCM ngành Công 
nghệ thông tin năm 2006. 
Hiện đang công tác tại Khoa 
Công nghệ thông tin, Đại học 
Khoa học tự nhiên TP. HCM. 
Hướng nghiên cứu: Lọc phi tuyến và ứng dụng vào 
các bài toán theo vết đối tượng bằng thị giác máy tính. 
Email: 
[email protected]