Đề tài Luật thương mại Việt Nam 2005 qua gần ba năm thực thi. Những hạn chế và giải pháp khắc phục

Luật Thương mại năm 2005 được ban hành nhằm thay thế Luật Thương mại năm 1997, đã đưa ra những sửa đổi, bổ sung tích cực về phạm vi điều chỉnh, về thương nhân và các hoạt động thương mại cụ thể, Qua ba năm thực thi, với sự ra đời của gần 150 văn bản hướng dẫn, Luật Thương mại đã thực sự có tác động tích cực tới hoạt động thương mại Việt Nam thông qua việc tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động thương mại phát triển, đảm bảo quyền lợ i hợp pháp của các chủ thể kinh doanh.

pdf114 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật thương mại Việt Nam 2005 qua gần ba năm thực thi. Những hạn chế và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng quyền; 2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”.  Thứ hai, xin kiến nghị đưa vào Luật Thương mại năm 2005 khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại vì đây là khái niệm quan trọng, được sử dụng nhiều trong các văn bản dưới luật quy định về nhượng quyền thương mại. Đưa ra khái niệm này sẽ tạo tính hệ thống cho Luật Thương mại năm 2005 và tạo điều kiện để Luật và các văn bản dưới luật hướng dẫn phát huy hiệu lực. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể được quy 81 định như sau: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là thoả thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ theo các điều kiện đã được quy định ở điều 284.”  Thứ ba, liên quan đến điều kiện về thời gian tối thiểu để được nhượng quyền kinh doanh. Như đã phân tích, giới hạn 1 năm kinh doanh đối với hệ thống kinh doanh dự đinh dùng để nhượng quyền thương mại là quá cứng nhắc, và mang tính ép buộc cao, không thực sự phù hợp với thực tiễn thương mại. Vì hoạt động nhượng quyền diễn ra ở rất nhiều các ngành nghề lĩnh vực khác nhau, mà mỗi ngành nghề lại có những đặc điểm và tính chất kinh doanh không hoàn toàn tương đồng. Một năm kinh doanh – điều kiện để được phép nhượng quyền thương mại - đối với một công ty sản xuất máy vi tính là hợp lý. Nhưng đối với những ngành nghề mà việc xây dựng mô hình kinh doanh, xâm nhập thị trường là tương đối nhanh như ngành thời trang, mô hình quán café, giải khát… thì thời gian điều kiện một năm là quá dài. Những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực này sẽ phải đứng im để cho ý tưởng kinh doanh của mình bị chia sẻ “miễn phí” trong khi chờ đủ thời gian để được đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định trong nghị định 35/2006/NĐ-CP theo hướng mở, phù hợp với từng ngành nghề nhất định. Cũng về quy định giới hạn thời gian đối với bên nhượng quyền thứ cấp là thương nhân Việt Nam nhận nhượng quyền thương mại từ thương nhân nước ngoài, như đã phân tích là có những hạn chế gây sự không rõ ràng trong Nghị định 35 và tạo sự đối xử bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cần phải được sửa đổi kịp thời. Như vậy khoản 1 đìều 5 Nghị định 35 với hai hạn chế trên cần được sửa đổi như sau: “Thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: 82 1. Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động trong một khoảng thời gian hợp lý. Các Bộ ngành sẽ có quy định chi tiết về thời gian hợp lý này phù hợp với điều kiện kinh doanh của từng ngành lĩnh vực.” Trường hợp thương nhân Việt Nam hay thương nhân nước ngoài là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng quyền nước ngoài khác, thương nhân Việt Nam hay thương nhân nước ngoài đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại”  Thứ tƣ, hạn chế chưa có quy định cụ thể về cơ chế giải quyết khiếu nại trong trường hợp thương nhân bị từ chối đăng ký nhượng quyền thương mại gây sự thiếu minh bạch trong quá trình cấp đăng ký nhượng quyền thương mại cần kịp thời được khắc phục bằng các quy định cụ thể về quy trình và thủ tục khiếu nại cũng như cần có một nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại để ngăn chặn và hạn chế thái độ quan liêu và hành động tác trách của các cơ quan cấp phép đăng ký nhượng quyền thương mại.  Thứ năm, về cơ quan đăng ký nhượng quyền thương mại, cần bổ sung cơ quan tiếp nhận đăng ký nhượng quyền thương mại đối với các hoạt động nhượng quyền thương mại từ khu chế xuất, khu phi thuế quan,…ra nước ngoài và ngược lại. Tác giả kiến nghị nhiệm vụ tiếp nhận đăng ký nhượng quyền thương mại của các trường hợp này thuộc về chức năng của Ban quản lý Khu chế xuất, khu phi thuế quan diễn ra hoạt động nhượng quyền thương mại, riêng các hoạt động nhượng quyền thương mại nằm trong đối tượng hàng hoá bị hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì quan bản lý Khu chế xuất cần phải trình lên Bộ Thương mại để xin ý kiến (việc cấp đăng ký nhượng quyền thương mại vẫn thuộc trách nhiệm của Ban quản lý Khu chế xuất, khu phi thuế quan…). 83  Thứ sáu, cần phải có sự phân định rõ ràng về phạm vi điều chỉnh và giá trị hiệu lực của các luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại: Luật Thương mại năm 2005 (cùng nghị định 35 và thông tư 09), Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật chuyển giao công nghệ năm 2006, Luật Dân sự. Theo đó, cần xác định Luật Thương mại là luật chung điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại và Luật sở hữu trí tuệ là Luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ. Cần tách Luật chuyển giao công nghệ ra khỏi nguồn luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại và xác định Luật Dân sự là luật chung điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại trong trường hợp luật sở hữu trí tuệ và luật thương mại không có quy định hay quy định không rõ ràng. 2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các văn bản dƣới luật hƣớng dẫn thi hành Luật Thƣơng mại năm 2005 Như đã phân tích ở chương 2, Luật Thương mại năm 2005 chỉ là đạo luật khung, không thể bao trùm hết mọi vấn đề thuộc lĩnh vực thương mại, nên để phát huy hơn nữa tính hiệu lực của Luật Thương mại cần phải bổ sung, ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết và hướng dẫn thực thi Luật. Từ những phân tích ở chương 2, tác giả xin kiến nghị cần phải ban hành thêm những văn bản dưới luật sau:  Về đại diện thƣơng nhân, trong Luật Thương mại chưa có điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên giao đại diện và bên đại diện trong trường hợp có mối quan hệ với bên thứ ba – khách hàng, và trong các văn bản dưới luật cũng chưa quy đinh rõ. Vì vậy, cần bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ này trên cơ sở nghiên cứu Luật Thương mại các nước Hoa Kỳ, Pháp, Nhật và có sự điều chỉnh phù hợp với thực tiễn thương mại của Việt Nam.  Về đại lý cung ứng dịch vụ của thƣơng nhân nƣớc ngoài , cần ban hành nghị định mới bổ sung, sửa đổi nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các 84 hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài. Nghị định này sẽ mang tên là “Nghị định quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá, đại lý cung ứng dịch vụ với nước ngoài.” Hoặc có thể ban hành một nghị định mới quy định riêng về đại lý cung ứng dịch vụ của thương nhân nước ngoài. Điều này, góp phần hoàn thiện pháp luật về thương mại, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động đại lý phát triển.  Về dịch vụ logistics: Trong nhiều năm qua, ngành Logistics được Chính phủ bảo hộ. Tuy nhiên, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải để các doanh nghiệp thiết lập các doanh nghiệp liên doanh, với tỷ lệ góp vốn 49 – 50%, để thực hiện kinh doanh các dịch vụ vận tải, giao nhận kho bãi… Ba năm sau khi gia nhập WTO (nghĩa là năm 2009), tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài sẽ tăng lên và bên nước ngoài có thể thiết lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5- 7 năm (2013). Trong khi đó, hoạt động logistics hiện nay chỉ được điều chỉnh bởi 8 điều trong Luật Thương mại và chỉ có duy nhất một nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stics, không đủ để điều chỉnh mọi quan hệ pháp lý phát sinh từ và do hoạt động thương mại này. Do đó, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung Nghị định về kinh doanh dịch vụ Logistics và ban hành thêm các văn hướng dẫn về thực hiện pháp luật về logistics. Trong đó cần đưa vào: 1) Quy trình cấp phép chung cho các công ty Logistics thuộc mọi loại hình (ba loại hình kinh doanh dịch vụ logistics được quy định trong Nghị định 140/2007/NĐ-CP). Quy trình này phải thực sự rõ ràng, dễ hiểu, và thể hiện được sự minh bạch của pháp luật. 2) Quy chế của người chuyên chở không có tàu. Trong quy chế này, cần làm rõ các khái niệm người chuyên chở không có tàu, các nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở không có tàu trong mối quan hệ với khách hàng 85 và chủ tàu, điều kiện kinh doanh của người chuyên chở không có tàu và giới hạn trách nhiệm của họ. 3) Cơ chế giải quyết tranh chấp đầy đủ và xác đáng trong lĩnh vực logistics. Cần có những văn bản hướng dẫn về một cơ chế giải quyết tranh chấp, trong đó nêu rõ quy trình giải quyết tranh chấp, thời hạn khiếu nại, khiếu kiện, các cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp và nghĩa vụ của hai bên trong việc nỗ lực giải quyết tranh chấp… 4) Công nhận nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ Logistics như dịch vụ chuyển phát nhanh.  Về vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại Mặc dù điều 24 Nghị định 35 đã nêu lên những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại khá cụ thể song đến nay chính phủ vẩn chưa ban hành một văn bản dưới luật nào quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực này. Điều này giảm tính hiệu lực và tính thực tiễn của văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại, vì vậy xin kiến nghị chính phủ nhanh chóng ban hành Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại, góp phần đưa Luật Thương mại năm 2005 vào cuộc sống. 3. Nhóm giải pháp nâng cao ý thức pháp luật cho Cơ quan quản lý và các chủ thể kinh doanh thông qua tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật thƣơng mại 3.1. Đối với các cơ quan quản lý Các cơ quan quản lý thương mại góp phần rất quan trọng trong việc đưa Luật Thương mại năm 2005 vào cuộc sống. Vì đây là cơ quan chuyên môn có hiểu biết về các vấn đề pháp lý, hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động thương mại về các quy định của Luật thương mại. Do đó, việc nâng cao nhận thức của đối tượng này về Luật Thương mại năm 2005 là hết sức cần thiết. 86 Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục sẽ giúp cho cán bộ, công chức thuộc các cơ quan quản lý thương mại từ trung ương, tỉnh – thành phố đến cơ sở nắm được những nội dung cơ bản và những đỉểm mới nổi bật của Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997, đồng thời liên tục cập nhật được nội dung các văn bản pháp luật hướng dẫn thực thi và quy định chi tiết Luật Thương mại năm 2005, các văn bản pháp luật khác liên quan đến hoạt động quản lý thương mại, giúp họ hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ, đồng thời tư vấn hỗ trợ về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp, các cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại. Hình thức phổ biến giáo dục có thể thực hiện như sau: - Các cơ quan quản lý thương mại nghiên cứu, tìm hiểu về Luật Thương mại năm 2005 thông qua các buổi toạ đàm, các lớp tập huấn cho cán bộ, các buổi chuyên đề, trong đó tập trung vào những điểm gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất giữa các đơn vị, các địa phương khác nhau.Trong đó, cần tập trung vào hai hình thức: mở lớp tập huấn và tổ chức các buổi chuyên đề. + Về việc mở các lớp tập huấn Nội dung tập huấn có thể là một văn bản pháp luật thương mại quan trọng kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành hoặc nhiều văn bản pháp luật thương mại độc lập. Những văn bản pháp luật thương mại này có thể là văn bản được tuyên truyền, phổ biến lần đầu hoặc là văn bản được tuyên truyền, phổ biến lặp lại. Học viên của lớp tập huấn là những báo cáo viên chuyên về pháp luật thương mại; những biên tập viên, phóng viên, những cán bộ thi hành pháp luật thương mại, và những cán bộ quản lý trong lĩnh vực văn bản điều chỉnh. Ở các lớp tập huấn, giảng viên không chỉ giới thiệu về các nội dung cơ bản của văn bản mà phải đi sâu vào những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực nghiệp vụ nhất định: thẩm quyền của các chủ thể, các biện pháp quản lý, thủ tục tiến hành các công việc. Chú trọng đổi mới phương pháp tập huấn, 87 kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, lấy người học là trung tâm, áp dụng phương pháp tích cực, mọi người cùng tham gia, có sự trao đổi qua lại giữa học viên và giảng viên, huy động tính tích cực tham gia của học viên, giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành; kết hợp với các phương tiện hỗ trợ như tranh ảnh, băng hình để buổi tập huấn sinh động, người học dễ tiếp thu, thuộc bài ngay tại lớp và biết vận dụng thành thạo trong thực tiễn. Các lớp tập huấn cần có quy chế để việc học tập được nghiêm túc. Cũng cần tổ chức viết thu hoạch hoặc kiểm tra, tổ chức đánh giá kết quả tập huấn (qua phiếu, phỏng vấn trực tiếp…), cấp chứng chỉ để kích thích ý thức và tinh thần học tập của học viên. Về hình thức nên có trang trí, khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và tăng tính hiệu quả. + Về tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thƣơng mại Một buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thương mại là một buổi nói về một lĩnh vực của thương mại gắn với một số quy định của pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực thương mại này. Một buổi nói chuyện chuyên đề thường không đóng khung trong phạm vi pháp luật, trong khuôn khổ một vấn đề khép kín mà mở ra nhiều lĩnh vực có liên quan, nhiều hướng suy nghĩ. Chính vì thế, các buổi nói chuyện chuyên đề thường thu hút được đông đảo báo cáo viên pháp luật, cán bộ nghiên cứu, cán bộ xây dựng pháp luật, cán bộ tuyên truyền pháp luật, hòa giải viên, thành viên các Câu lạc bộ pháp luật... tham gia. Việc thu hút sâu rộng này sẽ là cơ sở để tuyên truyền phổ biến và giáo dục Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản dưới luật hướng dẫn một cách có hiệu quả cao. - Tổ chức các hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành và quy định chi tiết 88 - Kiện toàn đội ngũ báo cáo viên pháp luật; Tiếp tục củng cố, kiện toàn các Phòng Tư pháp; - Gắn nội dung phổ biến pháp luật với các loại hình đào tạo khác dành cho cán bộ, công chức; - Chú trọng việc xã hội hội hoá, đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; - Gắn kết việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thương mại với việc răn đe, xử lý. - Tổ chức Hội thi “Tìm hiểu về Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành và quy định chi tiết Luật Thương mại năm 2005” và Hội thi " Tuyên truyền viên pháp luật giỏi". 3.2. Đối với các chủ thể hoạt động thương mại Tính tích cực về mặt pháp luật chỉ có thể có được khi bản thân các chủ thể của các hoạt động thương mại am hiểu sâu sắc về mặt pháp lý, hoặc phải có những cố vấn pháp lý giàu kinh nghiệm và am hiểu về loại hình hoạt động thương mại mà chủ thể đang thực hiện. Thực tiễn 9 năm thi hành Luật Thương mại năm 1997 và gần ba năm thi hành Luật Thương mại năm 2005 cho thấy, ở nước ta, ý thức pháp luật của các chủ thể kinh doanh chưa cao trong việc chấp hành pháp luật và tự bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Một bộ phận không nhỏ các chủ thể kinh doanh chưa nắm bắt được đầy đủ và chưa thực hiện đúng các quy định của Luật Thương mại năm 1997 liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình. Một số chủ thể kinh doanh còn làm ăn không trung thực, cố tình vi phạm quy định pháp luật. Do đó, để thực thi có hiệu quả Luật Thương mại năm 2005, đồng thời khắc phục những tồn tại trong quá trình thực thi Luật Thương mại năm 1997, cần chú trọng công tác nâng cao tính tích cực về mặt pháp lý cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường. 89 Yêu cầu đối với việc nâng cao tính tích cực về mặt pháp lý cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường: Cần chuyển tải một cách thường xuyên, liên tục các thông tin về Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thực thi và quy định chi tiết Luật Thương mại năm 2005, các Luật chuyên ngành liên quan đến với nhân dân. Đảm bảo nội dung các văn bản pháp luật thương mại liên quan đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường đều được phổ biến để các chủ thể này biết, hiểu và thực hiện Hình thức, biện pháp: (+) Đối với các chủ thể hoạt động thương mại nói chung: - Củng cố, tăng cường đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyên viên pháp luật thương mại40 từ Trung ương, tỉnh – thành phố đến cơ sở. Xây dựng lực lượng này đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu tuyên truyền, phổ biến pháp luật sâu rộng cho cán bộ quản lý thương mại và các chủ thể hoạt động thương mại. - Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu Pháp luật. - Tổ chức biên tập, in ấn, phát hành tài liệu pháp luật phổ thông miễn phí xuống cơ sở. - Bổ sung, khai thác tốt tủ sách pháp luật. - Bằng nhiều hình thức sinh động, hấp dẫn trong việc phổ biến pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Phát thanh - Truyền hình, Các báo (Báo thương mại, Báo Doanh nghiệp,…); Các tập san, tạp chí chuyên ngành về pháp luật; 40 Nhiệm vụ của các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật thương mại là cung cấp cho người nghe những nội dung pháp luật cụ thể về lĩnh vực thương mại; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm. Hình thức tuyên truyền này thường được sử dụng trong trường hợp người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ giúp... 90 (+) Đối với các doanh nghiệp - Đối với chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp: Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về Luật Thương mại nói riêng và pháp luật kinh tế nói chung. - Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của các công ty tư vấn pháp luật và các nhà tư vấn pháp luật chuyên nghiệp. (+) Đối với các cá nhân hoạt động thương mại một các độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp - Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật thương mại và nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, các trưởng thôn, xóm, khối phố, các hòa giải viên để huy động lực lượng này tham gia hoạt động phủ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. - Thông tin qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở. 4. Nhóm các giải pháp khác 4.1. Đưa Luật Thương mại vào giảng dạy trong Nhà trường Đề Luật Thương mại năm 2005 có thể đi vào cuộc sống sâu và rộng hơn nữa, cần tích cực tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật, và một trong những biện pháp để tuyên truyền Luật Thương mại năm 2005 một cách hiệu quả là đưa Luật Thương mại năm 2005 vào chương trình giảng dạy của các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc. Luật Thương mại năm 2005 cần phải được đưa vào làm một môn học bắt buộc đối với mọi chuyên ngành đào tạo đại học, cao đẳng liên quan đến kinh tế, thương mại, và là một môn tự chọn khuyến khích đối với khối các trường, các chuyên ngành kỹ thuật. Để đạt được hiệu quả cao trong tuyên truyền giáo dục pháp luật thương mại trong Nhà trường, việc giảng dạy Luật Thương mại trong nhà Trường cần đáp ứng được các yêu cầu sau: Thứ nhất, giảng viên phải là người có hiểu biết sâu rộng về pháp luật thương mại nói chung, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn nói riêng. Thứ hai, việc giảng dạy phải kết hợp các phương pháp đặc biệt trong giảng dạy pháp luật là phương pháp Socrat trong 91 truyền đạt kiến thức và hệ thống tình huống. Phương pháp Socrat đòi hỏi một lớp học năng động với sự trao đổi các ý kiến, các câu hỏi và câu trả lời giữa các sinh viên và đòi hỏi sinh viên phải tham gia tích cực. Hệ thống tình huống đòi hỏi sinh viên đọc trước các vụ việc liên quan đến các tranh chấp trong thương mại. Hai phương pháp này sẽ giúp cho sinh viên có được kỹ năng phân tích, kỹ năng thiết yếu của người học luật. Tác dụng của việc giảng dạy Luật Thương mại trong nhà Trường: việc giảng dạy Luật Thương mại trong nhà trường một mặt sẽ giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam, mặt khác sẽ giúp sinh viên hình thành phương pháp luận về cách thức tiếp cận với các văn bản pháp luật thương mại, tạo cơ sở vững chắc cho sự tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng pháp luật thương mại vào cuộc sống và thực tiễn hoạt động thương mại của sinh viên sau này. Hơn nữa, khi sinh viên đã có nhận thức sâu rộng về vai trò, ý nghĩa và nội dung cơ bản của Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn, sinh viên sẽ là lực lượng tiên phong, đóng góp vào việc tuyên truyền phổ biến pháp luật thương mại cho những doanh nghiệp và người dân khác. 4.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ pháp luật chuyên sâu về pháp luật thương mại Để có thể tăng tính hiệu lực của Luật Thương mại, cần phải tăng cường đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp luật chuyên sâu về pháp luật thương mại. Đội ngũ cán bộ này sẽ có trách nhiệm đảm bảo tính khả thi của Luật Thương mại, phân tích đánh giá hiệu quả thực thi của Luật và phân tích tìm ra điểm hạn chế của Luật Thương mại trong quá trình thực thi, đề xuất các kiến nghị để bổ sung, sửa chữa Luật Thương mại theo hướng luôn phù hợp với thực tiễn thương mại Việt Nam và các thông lệ thương mại quốc tế. Để có được một đội ngũ cán bộ như vậy, cần tích cực cử các sinh viên trường luật, các cán bộ pháp luật, các luật sư đi học luật ở các nước có pháp luật thương mại phát triển như Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản,… Việc học tập pháp luật thương mại ở các nước này sẽ giúp các cán bộ pháp luật Việt Nam có cái nhìn tổng quan và sâu sắc về pháp luật thương mại các nước, từ đó phân tích 92 điểm mạnh điểm yếu của pháp luật thương mại Việt Nam, có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc ban hành luật thương mại, xây dựng Luật Thương mại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn mang tính hiệu quả cao, có tác dụng tốt nhất trong việc thúc đẩy các hoạt động thương mại. 4.3. Xây dựng, củng cố, duy trì các chuyên trang, chuyên mục về pháp luật thương mại trên báo chí Nhà nước cần đặc biệt chú ý xây dựng và duy trì các website chuyên về pháp luật thương mại, các website pháp luật có mục riêng về pháp luật thương mại. Các website này là nơi đăng tải các văn bản dưới luật mới nhất hướng dẫn việc thực thi Luật Thương mại và các luật chuyên ngành điều chỉnh các hoạt động thương mại cụ thể. Các website này cũng là nơi các doanh nghiệp, người dân bình luận về các văn bản pháp luật thương mại mới, nơi các cơ quan pháp luật trả lời các câu hỏi thắc mắc của doanh nghiệp, người dân về nội dung của các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần tạo điều kiện và khuyến khích các văn phòng luật sư, các trung tâm tư vấn pháp luật thiết lập các website vì mục tiêu lợi nhuận có chức năng như chức năng của các website miêu tả ở trên. Để thúc đẩy sự phát triển của các website này, Nhà nước cần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người điều hành các website. 4.4. Giải pháp liên quan đến dịch vụ nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại tuy xuất hiện đã hơn mười năm nay nhưng quy mô và tốc độ phát triển chưa thật sự tương xứng với tiềm năng. Do đó, Nhà nước cần phải có các chính sách xúc tiến, tư vấn, hỗ trợ đào tạo trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Đối với doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, Nhà nước nên khuyến khích họ thành lập, tham gia vào các hiệp hội nhượng quyền thương mại để có điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tự đào tạo, đồng thời cũng là một trong những đầu mối tham khảo, phản biện xã hội để hoàn thiện về chính sách pháp luật về thương mại. 93 Về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động hơn trong việc tìm kiếm, tiếp cận các kinh nghiệm, kiến thức và các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Để có được hiệu quả cao khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, doanh nghiệp phải có chiến lược xây dựng thương hiệu thật tốt, hệ thống kinh doanh được tổ chức hợp lý, hiệu quả và mang tính đặc thù. Cuối cùng, điều quan trọng hơn hết, chính doanh nghiệp, thông qua hoạt động thực tế của mình, phải tích cực hơn nữa trong việc đề xuất, đóng góp ý kiến cho Nhà nước để xây dựng các chương trình phát triển nhượng quyền thương mại, ban hành các chính sách, quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. 94 KẾT LUẬN Luật Thương mại năm 2005 được ban hành nhằm thay thế Luật Thương mại năm 1997, đã đưa ra những sửa đổi, bổ sung tích cực về phạm vi điều chỉnh, về thương nhân và các hoạt động thương mại cụ thể,… Qua ba năm thực thi, với sự ra đời của gần 150 văn bản hướng dẫn, Luật Thương mại đã thực sự có tác động tích cực tới hoạt động thương mại Việt Nam thông qua việc tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động thương mại phát triển, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, thực tiễn qua gần ba năm thực thi Luật Thương mại năm 2005 cho thấy Luật Thương mại năm 2005 vẫn chưa thực sự phát huy hiệu lực. Một số điều khoản trong Luật Thương mại năm 2005 vẫn chưa phù hợp với thực tiễn thương mại Việt Nam và các thông lệ, tập quán thương mại quốc tế; một số điều khoản khác lại gây mâu thuẫn với nhau hay với các văn bản dưới luật, các luật chuyên ngành; một số khác còn mơ hồ, chưa rõ ràng… Trong khi đó, các văn bản dưới luật để hướng dẫn Luật vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Hơn nữa, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO và đang phải đối mặt với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại và thực thi có hiệu quả Luật Thương mại năm 2005. Chính vì vậy, yêu cầu nâng cao hiệu quả của Luật Thương mại năm 2005 càng trở nên bức bách. Để đạt được điều này, cần phải có sự kết hợp đồng bộ và hợp lý công tác hoàn thiện Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản dưới luật hướng dẫn Luật với việc nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý và doanh nghiệp về nội dung và vai trò của Luật Thương mại năm 2005 và các nhóm giải pháp khác. Nhiệm vụ này cần sự phối hợp của nhiều chủ thể: các cơ quan lập pháp như Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành; các cơ quan quản lý thương mại; các doanh nghiệp, và các cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thương mại khác. Theo đó, Quốc hội chịu trách nhiệm sửa đổi các quy định 95 mang tính hạn chế của Luật Thương mại năm 2005, Chính phủ sửa đổi những nghị định còn chưa hoàn chỉnh và ban hành thêm các nghị định còn thiếu, các bộ ngành chịu trách nhiệm bổ sung sửa đổi, ban hành mới các thông tư hướng dẫn Nghị định. Các cơ quan quản lý thương mại và doanh nghiệp cần tích cực nâng cao hiểu biết về pháp luật thương mại nói chung và Luật Thương mại năm 2005 cùng các văn bản hướng dẫn, mặt khác có những ý kiến đóng góp để hoàn thiện Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn. 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Các văn bản pháp luật: 1. Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 2. Công ước của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 3. Công ước Lahaye năm 1964 mua bán hợp đồng quốc tế những động sản hữu hình 4. Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 5. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 6. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 7. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1999 8. Luật Đầu tư năm 2005 II. Sách báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu khoa học 9. Lê Hoàng Anh. Bình luận các vấn đề mới của Luật Thƣơng mại trong điều kiện hội nhập. NXB Tư pháp, Hà Nội, năm 2007 10. TS. Lê Hoàng Anh. Bình luận các vấn đề mới của Luật Thƣơng mại trong điều kiện hội nhập. NXB Tư pháp, Hà Nội, năm 2007 11. Dự án VII/94/003 “Tăng cƣờng năng lực pháp luật tại Việt Nam”, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực của khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam, tập 1, Hà Nội tháng 3/1998, tr.88 12. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ, Ths. Nguyễn Minh Hằng, Ths. Hồ Thuý Ngọc. Đề tài: Cơ sở khoa học của việc sửa đổi và hoàn thiện Luật Thƣơng mại Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán thƣơng mại quốc tế. Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, năm 2004 13. PGS. TS. Nguyễn Thị Mơ, Hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại và hàng hải trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002. 14. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ. Sửa đổi Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 1997 phù hợp với pháp luật và tập quán thƣơng mại quốc tế. NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. 97 15. Thị Thu Huyền. Khoá luận tốt nghiệp đại học: Một số giải pháp phát triển hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trường đại học Ngoại Thương, năm 2007. 16. Đinh Hiền Minh, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Báo cáo tăng trƣởng kinh tế Việt Nam năm 2007 17. Phạm Thị Hồng Nhung. Khoá luận tốt nghiệp đại học: Các quy định về hành vi thƣơng mại theo Luật Thƣơng mại năm 2005. Trường đại học Ngoại Thương, năm 2006. 18. Lê Hữu Nghĩa, Lê Danh Vĩnh. Thƣơng mại Việt Nam 20 năm đổi mới. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006. 19. PGS.TS. Bùi Ngọc Sơn. Đề tài: Những nội dung cơ bản của Luật Thƣơng mại năm 2005, so sánh với luật thƣơng mại một số nƣớc và các đề xuất áp dụng. Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, năm 2007 20. GS. TS. Nguyễn Như Tiến. Đề tài: Logistics và khả năng ứng dụng trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải doanh nhận ở Việt Nam. Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội. 21. “Tình hình kinh tế xã hội quý I/2008”, tài liệu họp báo Chính phủ ngày 27/03/2008, website Chính phủ, Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 28/03/2008 22. Tạp chí Thương mại số 32, tháng 4 năm 2007 III. Các website 23. Website của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO: Danh sách thành viên của WTO tính đến ngày 16 tháng 5 năm 2008 truy cập ngày 16/05/ 2008: 24. Chuyên trang WTO : Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta: ngày truy cập: 10/05/2008 25. Website của Thổng cục Thống kê: Mục “Thông tin thống kê hàng tháng” – Tình hình kinh tế xã hội năm 2004, 2005, 2006, 2007: truy cập ngày 10/05/2008: 98 26. Báo điện tử Vietnamnews: truy cập ngày 10/05/2008 27. Webiste Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh: truy cập ngày 10/05/2008 28. Webiste Sở Thương mại Thành phố Hà Nội: truy cập ngáy 10/05/2008 29. Webiste hiệp hội giao nhận và vận tải Việt Nam: Danh sách hội viên, ngày truy cập 10 tháng 5 năm 2008 30. Website của Hiệp hội giao nhận vận tải quốc tế: International Federation of Freight Forwarders Associations Individual Membership, ngày truy cập: ngày 10/05/2008 31. Webiste Công ty giao nhận và vận tải Vinatrans: ngày truy cập: 10/05/2008 32. Danh sách văn phòng đại diện hàng hải nước ngoài: ship.com/NewsDetail.aspx?ID=129&CatID=40 ngày truy cập: 10/05/2008 33. Website công ty APL: Annual Report 2005, ngày truy cập: 10/05/2008 34. Báo cáo tình chính năm 2005, 2006, 2007, truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2005 35. Danh sách nhà hàng KFC: ngày truy cập: 10/05/2008 36. Website Phở 24: Danh sách nhà hàng Phở 24: ngày truy cập: 10/05/2008 37. Hoạt động nhượng quyền thương mại: 38. Hệ thống phân phối của Trung Nguyên:, ngày truy cập: 10/05/2008 39. Website chuyên trang về nhượng quyền thương mại: ngày truy cập: 10/05/2008 mid=40 99 PHỤ LỤC 1 HỆ THỐNG HOÁ CÁC VĂN BẢN DƢỚI LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN THỰC THI LUẬT THƢƠNG MẠI NĂM 2005 (Tính đến ngày 28/05/2008, sắp xếp theo thứ tự thời gian ban hành) I. Các Nghị định 1. Nghị định số 12/2006/NĐ-CP (23/01/2006) quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài 2. Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20-02-2006 của chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hoá. 3. Nghị định số 20/2006/NĐ-CP ngày 20-02-2006 của chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại 4. Nghị định số 21/2006/NĐ-CP về việc kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ do Chính phủ ban hành ngày 27/02/2006 5. Nghị định số 22/12/2006/NĐ-CP ngày 28-02-2006 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. 6. Nghị định số 35/2006/NĐ-CP (31/03/2006) quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại 7. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP (04/04/2006) quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại 8. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP (09/06/2006) về thương mại điện tử 9. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP (12/06/2006) quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện 10. Nghị định số 72/2006/NĐ-CP (25/07/2006) quy định chi tiết Luật Thương mại về Văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam 100 11. Nghị định số 82/2006/NĐ-CP về việc quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm do Chính phủ ban hành ngày 10/08/2006 12. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP (30/08/2006) về nhãn hàng hoá 13. Nghị định 158/2006/NĐ-CP ngày 28-12-2006 Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa 14. Nghị định số 23/2007/NĐ-CP (12/02/2007) quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 15. Nghị định số 30/2007/NĐ-CP về việc kinh doanh xổ số do Chính phủ ban hành ngày 01/03/2007. 16. Nghị định số 39/2007/NĐ-CP về việc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh do Chính phủ ban hành ngày 16/03/2007 17. Nghị định số 55/2007/NĐ-CP về việc kinh doanh xăng dầu do Chính phủ ban hành ngày 06/04/2007 18. Nghị định số 90/2007/NĐ-CP về việc quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam do Chính Phủ ban hành.ngày 31/05/2007 19. Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển do Chính phủ ban hành.ngày 05/07/2007 20. Nghị định số 140/2007/NĐ-CP (05/09/2007) Quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc 21. Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại. 22. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ quy định về thành lập, hoạt động, chính sách và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu 101 23. Nghị định số 40/2008/NĐ-CP ngày 07/04/2008 của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu và cồn rượu bao gồm: đầu tư, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán và các hoạt động khác liên quan đến sản xuất, kinh doanh rượu và cồn rượu. II. Thông tƣ 1. Thông tư số 04/2006/TT-BTM (06/04/2006) hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 2. Thông tư 06/2006/TT-BTM ngày 11-04-2006 Hướng dẫn về thủ tục đăng ký dấu nghiệp vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại 3. Thông tư 07/2006/TT-BTM ngày 17-04-2006 Hướng dẫn thủ tục cấp và quản lý việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ theo Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa 4. Thông tư số 09/2006/TT-BTM (25/05/2006) hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại 5. Thông tư 10/2006/TT-BTM ngày 01-06-2006 Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 08/2006/TT-BTM về việc hướng dẫn cách xác định xuất xứ đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có xuất xứ không thuần túy theo Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về xuất xứ hàng hóa 6. Thông tư số 32/2006/TT-BNN (09/06/2006) hướng dẫn việc thực hiện Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 7. Thông tư số 04/2006/TT-NHNN (03/07/2006) hướng dẫn thực hiện Nghị định số 12/2006/NĐ-CPngày 23/01/2006 8. Thông tư số 11/2006/TT-BTM (28/09/2006) hướng dẫn thực hiện Nghị định số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/07/2006 9. Thông tư 10/2006/TT-BCN ngày 01-12-2006 Sửa đổi khoản 3 Mục II Thông tư số 01/2006/TT-BCN ngày 11 tháng 4 năm 2006 về quản lý xuất nhập khẩu hoá chất độc hại, tiền chất ma tuý, hoá chất theo tiêu chuẩn kỹ thuật thuộc diện quản lý chuyên ngành của Bộ Công nghiệp 102 10. Thông tư 09/2007/TT-BKHCN ngày 06/04/2007 của Bộ Khoa học và công nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/08/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá. 11. Thông tư 09/2007/TT-BTM ngày 17/07/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 12. Thông tư số 14/200/TT-BKHCN ngày 25/07/2007 bổ sung Thông tư 09/2007/TT-BKHCN ngày 06/04/2007 của Bộ Khoa học và công nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/08/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá. 13. Thông tư số 05/2008/TT-BCT ngày 14/04/2008 sửa đổi, bổ sung thông tư só 09/2007/TT-BTM ngày 17/07/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 14. Thông tư số 05/2008/TT-BCT ngày 14/04/2008 về việc quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do Bộ Công thương ban hành để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 09/2007/TT-BTM ngày 17 tháng 7 năm 2007 của Bộ Thương mại hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 15. Thông tư số 30/2008/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 16/04/2008 để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003, Nghị định số 148/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 và Nghị định số 156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế Giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá trị gia tăng 103 16. Thông tư số 62/2008/TT-BNN về việc điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy sản do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành ngày 20/05/2008 để sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 02/2006/TT- BTS ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Thủy sản hướng dẫn thi hành Nghị định số 59/2005/NĐ-CP ngày 4 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy sản III. Quyết định 1. Quyết định 58/2006/QĐ-BTC ngày 20-10-2006 Về việc quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký dấu nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ giám định thương mại 2. Quyết định 38/2006/QĐ-BTM ngày 26-12-2006 Về việc ủy quyền cho Ban quản lý Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, thu hồi Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài theo Luật Thương mại trong phạm vi Khu kinh tế Chân mây - Lăng cô 3. Quyết định 13/2007/QĐ-BCT ngày 27-12-2007 Về Quy tắc xuất xứ và Thủ tục thực hiện Quy tắc xuất xứ cho Bản thỏa thuận giữa Bộ Công Thương nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Thương mại Vương quốc Cam-pu- chia 4. Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg (07/11/2006) về việc quản lý hoạt động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới 5. Quyết định 18/2007/QĐ-BTM ngày 30-07-2007 về việc ban hành Quy chế cấp chứng nhận xuất xứ điện tử 104 PHỤ LỤC 2 BẢN TÓM TẮT CAM KẾT WTO CỦA VIỆT NAM Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ quy định WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Ta đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại VN được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí... Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Về doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thương mại Nhà nước, cam kết của ta trong lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp Nhà nước không phải là mua sắm Chính phủ. Tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại doanh nghiệp: Điều 52 và 104 của Luật doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất 105 làng 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty. Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31-5-2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. Về yêu cầu minh bạch hóa, ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên. Về các nội dung khác liên quan đến cam kết đa phương, về thuế xuất khẩu ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Về các nội dung khác liên quan đến cam kết đa phương, về thuế xuất khẩu ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Ta còn đàm phán một số vấn đề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại... Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. Về thuế nhập khẩu, mức cam kết chung là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. 106 Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Những cam kết về dịch vụ Về cam kết mở của thị trường dịch vụ. Xét về diện cam kết, trong BTA ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110. Về mức độ cam kết. Thỏa thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Trong đó cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế là không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm 107 việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp VN nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí, ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, ta còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Ta cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp VN như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ... Tất cả các công ty vào VN cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Dịch vụ viễn thông, ta có thêm một số nhân nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp VN nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác VN đã được cấp phép. Như vậy, với dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng, ta vẫn giữ mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng. Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1-1-2009. Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón... ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. 108 Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1-4-2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại VN nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân VN trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng VN, không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng. Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn- xuất bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4214_6923.pdf