Trong thời gian gần đây, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra cảnh báo về mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép.
Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ qua (ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%.
Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế để lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi sắp tới Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,. Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài.
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4107 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý thuyết tài chính tiền tệ - Khủng hoảng nợ công ở châu âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề Tài: Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ
KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU
Giảng Viên Hướng Dẫn: Võ Đình Vinh
Lớp Thực Hiện: Luật Tài chính – Ngân Hàng – Chứng Khoán
Nguyễn Tuấn Anh K095041741
Phạm Mai Quế Chi K095041742
Trần Vũ Hòa K095041764
Nguyễn Thị Thiên Lý K095041776
Lưu Thế Quyền K095041794
Nguyễn Thị Thu Vân
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Công việc
Người phụ trách
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU
Vũ Hòa, Thiên Lý, Thế Quyền
II.NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU CÁI NHÌNH TOÀN CẢNH
Vũ Hòa, Thiên Lý
III. ẢNH HƯỞNG NỢ CÔNG ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Tuấn Anh, Quế Chi
Clip và hình ảnh
Thế Quyền
Tổng hợp và trình bày file word
Tuấn Anh
Trình bày Power Point
Quế Chi, Tuấn Anh
Thuyết trình
Quế Chi
MỤC LỤC
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG 4
1.1 Khái niệm nợ công 4
1.2 Các hình thức vay nợ của chính phủ 5
II.NỢ CÔNG CHÂU ÂU- CÁI NHÌN TOÀN CẢNH 5
2.1 Nguyên nhân đẩy châu Âu vào “biển nợ” 5
2.2 Tình trạng nợ công ở thế giới 10
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI NÓI CHUNG VÀ VIỆT NAM NÓI RIÊNG 14
3.1 Đối với nền kinh tế thế 14
3.2 Đối với nền kinh tế Việt Nam 19
Tham khảo 26
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG
1.1 Khái niệm nợ công
Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
1.2 Các hình thức vay nợ của chính phủ :
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Vay trực tiếp :Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)... Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
II.NỢ CÔNG CHÂU ÂU- CÁI NHÌN TOÀN CẢNH
2.1 Nguyên nhân đẩy châu Âu vào “biển nợ”
2.1.1.Do vượt rào nợ công và thâm hụt ngân sách cach NN cao:
Một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực sử dụng đồng euro là hầu như tất cả các nước tham gia khu vực tiền tệ này đã vi phạm các quy tắc riêng, do chính họ tự áp đặt.
Theo tiêu chuẩn được thông qua như một phần của liên hiệp kinh tế và tiền tệ này thì nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP vào cuối mỗi năm tài chính và thâm hụt ngân sách của chính phủ hàng năm không được vượt quá 3% GDP
Tuy nhiên chỉ có 2 trong số 16 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu Euro là Phần Lan và Luxembourg là đáp ứng đầy đủ hai tiêu chí: tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên của khối sử dụng đồng euro là 60% GDP, và thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt quá 3%
Những quốc gia còn lại đã có một sự "vượt rào" khá ngoạn mục về tỷ lệ nợ công cũng như mức thâm hụt ngân sách hàng năm, một sự vượt rào "tập thể" chính là một nguyên nhân quan trọng khiến châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công.
Tỷ lệ nợ công so với GDP tại châu Âu
2.1.2Hy Lạp lại là "cái nôi" của khủng hoảng
Hy lạp là quốc gia có số nợ lên tới 115,1% GDP (2009) và thâm hụt ngân sách ở mức 13,6% tổng sản phẩm quốc nội ( năm 2009 nợ công việt nam là 52,6% và thâm hụt ngân sách là 9,4% tổng sản phẩm quốc nội…. báo cáo cục thống kê) có thể nói những con số mà hy lạp tạo ra thật ấn tượng.
Thâm hụt ngân sách so với GDP tại các quốc gia châu Âu
2.1.3.Các mốc của khủng hoảng nợ châu Âu
Eurozone
5/11/2009 Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
22/12/2009 Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ 3 hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp.
14/1/2010 Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, chính phủ Hy Lạp tuyên bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm 2012.
29/1/2010 Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương 70 tỷ USD trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4%
11/4/2010 Bộ trưởng Tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần.
23/4/2010 Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
2/5/2010 Thủ tướng Hy Lạp cho biết chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới.
9/5/2010 IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập tức 5,5 tỷ euro.
10/5/2010: Kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro được đưa ra để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp.
18/5/2010: Chính phủ Đức công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS).
25/5/2010: Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP từ mức 5,3% của năm 2009.
27/5/2010: Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD.
28/5/2010: Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+.
29/5/2010: Nở rộ biểu tình ở Lisbon - Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt chặt ngân sách của chính phủ.
7/6/2010: Đức thông qua kế hoạch “thắt lưng buộc bụng” nhằm mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách về mức quy định của EU trước năm 2013.
8/6/2010: Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh vực công sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ bằng cách nghỉ làm.
9/6/2010: Kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và Đảng có chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách vẫn chưa đạt được thỏa thuận chung.
10/6/2010: Thỏa thuận để cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù không có sự hỗ trợ của nghiệp đoàn lao động.
2.2 Tình trạng nợ công ở thế giới
Khi nợ công tăng cao và vượt quá xa giới hạn an toàn thì nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài nước. Xung quanh diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay với tâm chấn là Hy Lạp và hiện đang có nguy cơ lan tỏa sang nhiều nền kinh tế khác,nó đã tác động lớn đến nền kinh tế của thế giới.
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, các nền kinh tế phát triển là đối tượng gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn nhất và trong đó, khu vực đồng ơ-rô đang gặp phải những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Trong báo cáo được công bố ngày 9-6 "Hậu quả do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra trên phương diện thuế khóa", các chuyên gia của IMF khẳng định rằng, vào đầu năm 2010 tổng nợ công của 10 nước giàu nhất thế giới sẽ đạt mức 106% GDP (tương đương mỗi người dân nợ 50 nghìn USD). Vào đầu năm 2007 con số này là 78%. Như vậy, trong vòng 3 năm, nợ công của "10 nước giàu nhất” đã tăng hơn 9 nghìn tỉ USD.
Ở những nền kinh tế đầu tàu khác của thế giới, nợ công cũng đang trong tình trạng báo động. Ngày 19-5, ngày 26-5,IMF và OECD đã lần lượt cảnh báo mức nợ công hiện nay lên tới 190% GDP và chưa có dấu hiệu dừng lại, Nhật Bản có mức nợ công lớn nhất trong số các nước phát triển.Theo cảnh báo này, Nhật Bản có thể sẽ “trở thành một Hy Lạp thứ hai”. Tiếp đó,ngày 2-6-2010, Bộ Tài chính Mỹ thông báo nợ công của Hoa Kỳ tính đến đầu tháng sáu năm nay đã vượt quá kỷ lục 13 ngàn tỉ USD. Khoản công nợ này đã tăng khoảng 1.600 tỉ USD so với năm ngoái, tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm qua và chiếm tới 90% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính phủ, các cuộc tổng đình công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten.
Trong một phát biểu tại một cuộc họp ở thủ đô Bu-ê-nốt Ai-rét hồi đầu tháng 5-2010, Tổng thống Ác-hen-ti-na đã nói, ngày nay, chúng ta đang phải chứng kiến những hình ảnh đau buồn tại Hy Lạp. Tình trạng rối loạn đang xảy ra ở nước này gjống với những gì mà Ác-hen-ti-na đã phải trải qua hồi năm 2001. Những công thức tương tự từ các tổ chức tín dụng đa phương yêu cầu cải cách, trong đó có việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu ngân sách, là nguyên nhân then chốt gây ra rối loạn. Các tổ chức tín dụng đa phương này không hiểu được những gì đang diễn ra trên thế giới nói chung và trong xã hội Ác-hen-ti-na hay Hy Lạp nói riêng.
Cách đây 9 năm, năm 2001, Ác-hen-ti-na đã phải đối mặt với tình trạng rối loạn nghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi Tổng thống Ác-hen-ti-na khi đó là ông Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau đó, người kế nhiệm là A-đôn-phơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia, với khoản nợ 90 tỉ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực chất" nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức khỏe" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia… Chẳng hạn, hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành “một Hy Lạp thứ hai”, thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" – tác động tiêu cực đến tăng trưởng…/.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI NÓI CHUNG VÀ VIỆT NAM NÓI RIÊNG:
3.1 Đối với nền kinh tế thế giới
Kinh tế thế giới vừa trải qua cơn bão khủng hoảng dữ dội nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái 1929-1933 và đang chật vật hồi phục. Thế nhưng, sự hồi phục hiện nay của kinh tế thế giới rất mong manh, bấp bênh và không loại trừ khả năng có thể bị suy thoái trở lại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó, tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước là một nguyên nhân quan trọng.
“Mầm bệnh” bắt nguồn từ Hy Lạp, quốc gia có mức nợ công cao nhất khu vực Eurozone, tương đương 144% GDP năm 2010. Đây là hậu quả của thói quen “vung tay quá trán” của người dân Hy Lạp cũng như thuật “tô hồng” thống kê kinh tế của Athens những năm trước đây, nhằm đáp ứng các tiêu chí gia nhập Liên minh châu Âu (EU).
Sự quan tâm của thế giới đang đổ vào Hy Lạp, nơi mà núi nợ đã đè sụn lưng thần Héc-quyn và đang đẩy nền kinh tế nước này vào nguy cơ sụp đổ.Hy Lạp hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, với tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm ngoái là 12,7% GDP và nợ công lên tới 300 tỷ euro, tương đương chiếm 124 % GDP năm 2009 - vi phạm nghiêm trọng quy định của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu (thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP và nợ công dưới 60% GDP). và mức thâm hụt ngân sách hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục âm. Hiện nay, Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy mô nền kinh tế và được ví như “một người bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch”. Mức độ tín nhiệm tài chính của nước này đã bị tụt xuống hạng BBB-. Điều này đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn. Trong khi đó,Hy Lạp cần có thêm 54 tỷ euro và cần ngay 23 tỷ euro trong tháng 4 và tháng 5/2010 để trả nợ. Nếu không trả được, Hy Lạp sẽ trở thành nước bị vỡ nợ, các chủ nợ sẽ tìm cách siết nợ, và như vậy, nền kinh tế nước này sẽ rơi vào khủng hoảng khi mà các nhà đầu tư tìm cách tháo chạy khỏi Hy Lạp.
Và không chỉ có một mình Hy Lạp, tình trạng nợ công chồng chất không chỉ là hiện tượng đơn lẻ diễn ra ở Hy Lạp hay Băng Đảo và Đu-bai gần đây, mà đã trở thành hiện tượng khá phổ biến trên thế giới. Không riêng các nước đang phát triển mới đi vay, mà cả những nước phát triển giàu có cũng mắc nợ.
Hiện nay, Mỹ là con nợ lớn thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên tới 13.000 tỷ USD, chiếm khoảng 93% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mức thâm hụt ngân sách của Mỹ năm 2010 dự kiến là - 9,9%.
Rồi đến Trung Quốc, nước hiện được coi là chủ nợ nước ngoài lớn của Mỹ và nhiều nước khác với nguồn dự trữ quốc gia trên 2000 tỷ USD, song cũng không phải là không mắc nợ. Theo Giáo sư Victor Shih từ trường Đại học Northwestern của Mỹ, các chính quyền địa phương của Trung Quốc đã vay mượn tổng cộng trên 11 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương với 1,68 nghìn tỷ USD Mỹ) từ năm 2004 cho tới cuối năm ngoái và Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách khổng lồ, chiếm hơn 10% GDP trong năm nay.
Ấn Độ, một nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á cũng đang đối mặt với tình trạng nợ công nặng nề. Tỷ lệ nợ so với GDP năm 2009 lên tới 88,9% và mức thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến là - 6,8%. Hiện Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia BBB- giống như Hy Lạp.
Trong liên minh châu Âu (EU), chẳng nước nào thoát khỏi nợ nần. Ngay cả Đức, nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, cũng đẫm mình trong nợ với mức 84,5% GDP. Nợ công của Pháp cuối năm 2009 đã lên xấp xỉ 1500 tỷ euro, tương đương với 82,6 % GDP, mức thâm hụt ngân sách -7,6 % và dự kiến còn tiếp tục với mức -7,1% năm 2010. Tình hình của Italy lại còn đáng buồn hơn với mức nợ công lên tới 120 % GDP năm ngoái và dự kiến thâm hụt ngân sách -5,6% năm 2010, trong khi tăng trưởng kinh tế tiếp tục khó khăn (-2,3%). Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Băng Đảo, Ai-ơ-len cũng đang lâm tình cảnh nợ lần bi đát. Các nước này đều có tỷ lệ nợ gần ngang, thậm chí có nước còn lớn hơn GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định (-3%) của EU, trong khi triển vọng tăng trưởng kinh tế rất ảm đạm. Trường hợp Tây Ban Nha rất đáng lo ngại và đã được nhiều chuyên cảnh báo là “con bài domino lớn kế tiếp” Hy Lạp, bởi vì “sao chiếu mệnh” rất xấu của nước này đã xuất hiện, với ngân sách bị thâm hụt ngang mức 11,4% GDP, tổng nợ công và tư tương đương 300% GDP - những con số này trầm trọng hơn của Hy Lạp rất nhiều. Trong khi đó, thất nghiệp của Tây Ban Nha cũng rất cao, tới 20% (4,5 triệu người) và nhất là hệ thống ngân hàng rất mong manh.
Tình trạng nợ gia tăng đến mức “sởn gai ốc” ở nhiều nước như vậy báo hiệu một triển vọng không mấy sáng sủa của kinh tế thế giới. Một số ý kiến cho rằng, không loại trừ khả năng khủng hoảng nợ xảy ra tại một trong số mắt xích xung yếu nhất hiện nay sẽ dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế mới có thể lan rộng. Nếu châu Âu không cứu Hy Lạp bây giờ thì “con mồi” vỡ nợ kế tiếp sẽ là Tây Ban Nha, Băng Đảo và có thể cả Italia nữa.
Tuy quả bom nợ công hẹn giờ đang tích tắc ở châu Âu, nhưng có sức công phá và lan tỏa gấp bội lại là một quả bom tương tự ở Nhật Bản.
Nói đến khủng hoảng nợ, các nhà đầu tư nghĩ ngay đến Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha. Thế nhưng cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu chỉ là “khúc dạo đầu” cho một bản “đại giao hưởng” nợ công toàn cầu với những hậu quả vô cùng khủng khiếp. Ngòi nổ của vụ nổ lớn tài chính tiền tệ này chính là Nhật Bản. Không chỉ ở mức vài trăm triệu euro như ở Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha, nợ công ở Nhật Bản đã lên tới xấp xỉ 8.000 tỷ euro. Ngày 22/2,theo thông tin từ hãng xếp hạng Moody's thì Nhật Bản khó có thể duy trì mức xếp hạng Aa2. Và Nhật Bản có khả năng mất đi vị trí thứ ba thế giời. Cuối tháng 1/2011, Standard & Poor's đã hạ điểm của Nhật Bản xuống mức AA.
Nguyên nhân chính của xu thế tụt điểm này là tình trạng bất lực của chính trường Nhật Bản, khi “một cuộc cải tổ ngân sách hiệu quả đòi hỏi sự ổn định nội các”. Theo ông, đây chính là “gót chân Achilles” của Nhật Bản. Những kế hoạch tăng thu nhập nhà nước của Thủ tướng Kan đã vấp phải không chỉ sự chống đối của phe đối lập mà còn bị phản đối trong nội bộ đảng Dân chủ cầm quyền.
Nợ công ở Nhật Bản hiện đã lên đến mức gấp 2 lần tổng sản phẩm quốc nội, với tỷ lệ nợ cao hơn Hy Lạp tới 50%. Do 95% nợ công của Nhật Bản nằm trong tay các nhà cho vay nội địa, nên Tokyo vẫn chưa phải trải qua những gì mà Athen nếm chịu trong năm 2010. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài hiện không có phương tiện gây áp lực buộc chính phủ Nhật Bản phải tiến hành tu bổ ngành tài chính Nhật Bản, đã từng có thời người ta tưởng có thể sẽ “mua hết nước Mỹ”, ấy vậy mà bây giờ cũng trở thành một con nợ “cỡ bự” với mức nợ tương đương với 227 % GDP và thâm hụt ngân sách dự kiến -10,2 % năm 2010.
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu đang dần mất khỏi tầm kiểm soát và có nguy cơ lan truyền từ nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Italia, Ireland, Hy Lạp và Tây Ban Nha) sang các nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn như Vươg quốc Bỉ.Công ty xếp hạng tín dụng Standard & Poor rất có thể sẽ đánh tụt xếp hạng tín dụng của Bỉ trong vòng 6 tháng tới, do quốc gia này có mức nợ công, thâm hụt ngân sách cao và không có khả năng thành lập được một chính phủ ổn định.
Tình trạng của Bỉ rất xấu. Bỉ cũng phải hứng chịu bong bóng bất động sản xấu như Tây Ban Nha. Nợ công năm 2009 của Bỉ tăng lên mức 96% GDP, cao hơn 20% so với mức của Bồ Đào Nha - quốc gia được dự báo sẽ là nước phải cứu trợ tiếp theo trong nhóm PIIGS. Có lẽ điều quan trọng nhất là việc Bỉ không thể có một chính phủ đoàn kết dân tộc, do kể từ cuộc bầu cử tháng 4/2007, Bỉ đã trải qua 3 đời chính phủ khác nhau.
Tình hình của Áo tốt hơn của Bỉ. Nợ và thâm hụt ngân sách của Áo thấp hơn đáng kể so với Bỉ, 68% so với 96% GDP và 3,5% so với 6%. Hệ thống chính trị của Áo ít nhiều cũng ổn định và lĩnh vực bất động sản của Áo hoàn toàn khác với châu Âu. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng của nước này lại đang trong tình trạng xấu, do cho vay quá nhiều, trong khi "bong bóng tín dụng đang nổ".
Áo và Bỉ là các nền kinh tế tiên tiến với lĩnh vực tài chính tinh vi, phức tạp. Do đó bất kỳ một tác động xấu nào đối với các quốc gia phát triển Tây Âu thông qua hai quốc gia này sẽ làm các nhà đầu tư sợ hãi. Nếu Áo và Bỉ đi vào con đường của Hy Lạp, các nhà đầu tư sẽ mất hết lòng tin đối với châu Âu.
Tuy nhiên, điểm chung nhất giữa Áo và Bỉ với các nước nhóm PIIGS là họ đều phụ thuộc vào nguồn tài chính từ bên ngoài để giải quyết khoản nợ rất lớn trong nước. Áo, Bỉ, Hy Lạp và Ireland đều là quốc gia tương đối nhỏ, có nguồn tài chính hạn chế. Khi một quốc gia đối mặt với khó khăn về tài chính, điều đầu tiên chính phủ làm là đưa ra một thỏa thuận để huy động các nguồn tài chính nhằm giải quyết các khó khăn. Tỷ lệ phụ thuộc vào nguồn tài chính bên ngoài của cả bốn nước Áo, Bỉ, Hy Lạp và Ireland là trên 50% GDP, một mức quá cao khiến cho các nước nói trên có thể xử lý tốt những vụ hỗn độn tài chính lớn.
3.2 Đối với nền kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
Xuất khẩu khó khăn kéo GDP sụt 1,7%
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%).
Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
2. Lãi suất cao, doanh nghiệp thiệt nặng
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ước các nước phát triển vẫn huy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%.
Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn.
Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỷ suất lợi nhuận trên 24-27%, là mức cao so với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).
3. FDI suy giảm
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.
4. Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư
Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc.
Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác.
Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
5. Bảo hiểu rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên
Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm.
Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
6. Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào cuối năm
Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD.
Sang tháng 6, tỷ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng 3, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng, cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010
7. Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra cảnh báo về mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép.
Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ qua (ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%.
Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế để lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi sắp tới Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,... Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài.
8. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ.
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và các nước châu Âu cũng khiến Việt Nam phải suy nghĩ lại về bài toán chất lượng tăng trưởng. Tỷ lệ đầu tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong số hơn 40% nói trên, khoảng 27-30% được tài trợ bởi nguồn vốn tiết kiệm trong nước. Hơn 10% còn lại là từ dòng vốn từ bên ngoài (FDI, FPI, ODA và các khoản vay khác), trong đó vốn vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.
\
LỜI KẾT
Thật khó để giải quyết vấn đề đau đầu này khi mà nền kinh tế luôn gặp quá nhiều những khúc mắc.Hi vọng khủng hoảng sẽ dịu xuống –điều đó còn nhờ vào tài năng của chính phủ. Ngoài tăng cường hiệu lực quản lý, sử dụng vốn ODA của các cơ quan Nhà nước thì việc minh bạch hóa, có cơ chế cụ thể để nhân dân và xã hội giám sát được các công trình sử dụng vốn ODA, chính là biện pháp giúp nguồn vốn này được sử dụng hợp lý và hiệu quả nhất. Làm cho mỗi đồng vốn vay trở thành một viên gạch kiến thiết tương lai chứ không phải là gánh nặng cho hậu thế, do vậy, không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là của toàn xã hội…. Một tương lai mới đang chờ đợi……