Kết cấu đề án này gồm ba phần chính:
Phần I: Lý luận chung về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
Phần II: Thực trạng đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng với đầu tư chiều sâu.
Phần III: Một số giải pháp nhằm kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng.
53 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2639 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu, công nghệ, thiết bị... nhưng hầu như chưa có. Ông Nguyễn Thành Nhơn, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Nhơn Hữu, giải thích: “Ý thức về tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị đối với sự sống còn của doanh nghiệp chưa cao. Sau hơn 4 năm Luật doanh nghiệp ra đời, có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được khai sinh nhưng mức đầu tư cho thiết bị mới vẫn gần như giẫm chân tại chỗ. Chính vì lẽ đó mà khoảng cách giữa các công ty tư vấn công nghệ và doanh nghiệp nói chung ngày càng lớn. Phải đến 20 năm nữa chúng ta mới có thị trường tư vấn đúng nghĩa”.
Theo kết quả điều tra mới đây của 2 tổ chức Swiss Contact (Thụy Sĩ) và GTZ (Đức) tiến hành trên 1.200 doanh nghiệp tại Việt Nam, chỉ có khoảng... 0,1% doanh nghiệp có sử dụng tư vấn khi đầu tư mua sắm công nghệ. Các chuyên gia kinh tế nhận định, chậm đổi mới công nghệ, đặc biệt là những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, những thua thiệt về khả năng phát triển thị trường xuất khẩu sẽ không còn là nguy cơ nữa mà đang trở thành một thực tế khó tránh khỏi.
Đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn chưa được chú trọng đúng mức. Tuy tổng số lao động của cả nước nói chung và cho công nghiệp nói riêng đều tăng, nhưng chất lượng lao động vẫn còn nhiều bất cập, phần lớn lao động công nghiệp là lao động phổ thông hoạt động trong các ngành dệt may, giày da, khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản…nên giá trị gia tăng tạo nên chưa cao. Một số lao động được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng ít có cơ hội tìm được việc làm phù hợp với nghề nghiệp được đào tạo, nên chưa phát huy đựơc năng lực.
Bên cạnh đó trong lĩnh vực quản lý của Nhà nước về đầu tư chiều sâu còn tồn tại một số bất cập là:
Chưa hoạch định được một chiến lược và quy hoạch phát tiển lâu dài làm khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển nói chung, tạo định hướng cho công tác quản lý vĩ mô và cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất. Do đó đầu tư chiều sâu thiếu căn cứ đánh giá một cách toàn diện hiệu quả KTXH của dự án
Chưa tạo được khuôn khổ pháp lý phù hợp khuyến khích và hướng dẫn các thành phần kinh tế đầu tư theo đúng định hướng phát triển. Trong đó chưa tạo ra được một hệ thống chính sách đồng bộ để quản lý các dự án đầu tư chiều sâu, gây ra hiện tượng thất thoát lãng phí. Thực tế đó là: qua điều tra, các công ty Nhật Bản đã nói đến những tồn tại lớn nhất của Việt Nam là cơ sở hạ tầng kém phát triển, thể chế pháp luật vận hành chưa rõ ràng. Trong đó cơ sở hạ tầng với hai vấn đề chính là: thiếu điện năng và đường sá yếu kém được các nhà đầu tư nhấn mạnh.
Tiếp đến đó là chưa tạo ra được một môi trường đầu tư thuận lợi, tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư phát triển, đầu tư chiều sâu tăng nhanh năng lực sản xuất như chính sách tín dụng, lãi suất, chế độ miễn giảm thuế, chính sách công nghệ hoặc sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong lĩnh vực đầu tư.
Trong cơ cấu đầu tư cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước chưa có chính sách ưu tiên thỏa đáng cho vùng sâu, vùng xa, các tỉnh miền núi làm nền tảng cho sự phát triển của các ngành, vùng và các thành phần kinh tế trong cả nước cũng như để bổ sung cho sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư nói chung và đầu tư chiều sâu nói riêng.
Các nhà quản lý cho rằng, trước những hạn chế nêu trên cần có sự quan tâm thích đáng không chỉ từ phía nhà nước, mà bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải có những nỗ lực không ngừng để trước hết là nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định chỗ đứng và vị thế trên thị trường, tạo lợi nhuận lớn và sau đó là để tăng trưởng, phát triển nền kinh tế, nâng cao mức sống cho người lao động, đưa nền kinh tế hoà cùng một nhịp chung với nền kinh tế thế giớí. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam mới ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, chúng ta có thêm nhiều cơ hội mới nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn đó là: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn; sự phân phối lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều; khi hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên; hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Bởi vậy sự nỗ lực không ngừng của mỗi doanh nghiệp là điều rất quan trọng!
II.Thực trạng về vấn đề kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp hiện nay.
Sự cần thiết kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp hiện nay.
Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ mật thiết với nhau: đầu tư chiều rộng là nền tảng cơ sở để đầu tư chiều sâu, đồng thời đến lượt đầu tư chiều sâu lại tiếp tục tạo ra những tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới.
Vấn đề chúng ta đặt ra hiện nay là chú trọng đầu tư chiều sâu song liệu có phải là đúng đắn khi đổi mới công nghệ trên một nền tảng cơ sở hạ tầng yếu kém, sử dụng những công nghệ tự động hóa cao gắn liền với việc giảm lao động trong điều kiện nước ta là một nước có nguồn nhân lực dồi dào?... Làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh ngày càng trở nên gay gắt và phức tạp hơn. Bởi vậy, không thể tách rời đầu tư chiều sâu với đầu tư chiều rộng, đó là điều tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào.
Những kết quả mà các doanh nghiệp đã đạt được thông qua sự phối kết hợp hoạt động đầu tư theo chiều sâu và đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư chiều sâu đúng hướng kết hợp với đầu tư chiều rộng một cách hợp lý, các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước tìm được chỗ đứng trên thị trường cùng với những sản phẩm có tính cạnh tranh cao, chất lượng tốt.
Công ty Trường Hải là một ví dụ điển hình: chỉ trong một thời gian ngắn sau khi gia nhập Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô (Vama), tên của công ty Trường Hải thường xuất hiện trên vị trí dẫn đầu về số lượng bán ra hàng tháng (chỉ chịu đứng sau Toyota VN) và đang ngày càng tăng lên, bỏ xa các doanh nghiệp lớn khác, gây không ít bất ngờ cho nhiều người. Sự lớn mạnh đó xuất phát từ việc đầu tư chiều sâu gắn kết giữa đầu tư về thiết bị, máy móc công nghệ với phát triển, đào tạo con người...
Từ đầu tư chiều sâu: Đến thời điểm hiện nay, ngay chính các nhà sản xuất ôtô không chỉ của VN mà trong khu vực đều khẳng định, nhà máy lắp ráp ôtô Chu Lai - Trường Hải được đầu tư lớn bài bản, có hệ thống trang thiết bị thuộc dạng hiện đại nhất hiện nay. Tọa lạc trên diện tích hơn 38 ha với số vốn đã đầu tư vào khoảng 300 tỷ đồng, công suất dự kiến khoảng 25.000 xe/năm. Đặc biệt, thiết bị của nhà máy được nhập về từ những quốc gia có nền công nghệ sản xuất ôtô tiên tiến trên thế giới như Đức, Hàn Quốc, Mỹ. Tất cả các công đoạn sản xuất xe đều được thực hiện trên dây chuyền hiện đại. Đặc biệt, hệ thống dây chuyền nhúng sơn tĩnh điện với số vốn đầu tư hơn 7 triệu USD và đường thử của nhà máy thuộc dạng hiện đại nhất trong ngành sản xuất ôtô tại VN hiện nay. Bên cạnh việc đầu tư hợp lý vào công nghệ, thiết bị với mong muốn trở thành một trong những doanh nghiệp dẫn đầu trong "làng" ôtô VN, điều quan trọng nhất đối với Trường Hải vẫn là đầu tư về con người. Chất lượng sản phẩm là quan trọng, nhưng để có được điều đó thì chất lượng hệ thống mới là yếu tố mang tính quyết định-Trường Hải đã làm được điều đó. Và xa hơn, Trường Hải đã tạo ra sự gắn kết giữa việc học và thực hành, biến những kiến thức trở thành hữu dụng, không lãng phí. Nhiều chuyên gia khẳng định đó là yếu tố quyết định trong đầu tư chiều sâu đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực ôtô. Đầu tư chiều sâu nhưng gắn với thực tế, gắn với tính cụ thể, chuyên nghiệp: Đó cũng là một trong những nét khác biệt của Trường Hải đối với nhiều doanh nghiệp ôtô khác, nhất là những doanh nghiệp có cùng những chủng loại sản phẩm tương tự. Chỉ đơn cử một yếu tố tiêu chuẩn của đại lý có thể khẳng định điều đó. Tất cả các đại lý, chi nhánh của Trường Hải đều phải tuân thủ những quy định ngặt nghèo do chính doanh nghiệp đưa ra. Tuy nhiên, đối với tiêu chí của Trường Hải, điều đó quan trọng, nhưng vẫn chỉ là hình thức. Kết hợp với sự thể hiện đó là những hệ thống dịch vụ bán hàng, sau bán hàng, bảo hành bảo dưỡng, cung cấp thiết bị, phụ tùng chính hiệu đang được mệnh danh là “Number One” đối với các dòng xe tải, xe khách (xe thương mại) tại VN. Tất cả các đại lý phải đạt được các tiêu chí đó, có Showroom, có xưởng dịch vụ với hệ thống máy móc, thiết bị thuộc loại tiêu chuẩn cao nhất, tiên tiến nhất hiện nay. Quan trọng hơn là hệ thống nhân viên tư vấn, chăm sóc khách hàng...
Đến đa dạng hóa sản phẩm: Chính nhờ đầu tư chiều sâu, nên việc đa dạng hoá sản phẩm đối với Trường Hải đã diễn ra một cách dễ dàng. Nhiều người cho rằng có được điều đó là nhờ chữ tín. Đúng! Từ việc phát triển, làm nhà lắp ráp, phân phối hãng Kia - một trong những loại xe khách, tải quá quen thuộc đối với thị trường VN. Đến nay, Trường Hải đã hợp tác với nhiều hãng ôtô sản xuất, lắp ráp nhiều loại sản phẩm phù hợp với thị trường VN như các loại xe Ben, tải mang nhãn hiệu Thaco có tải trọng từ 560 - 17 tấn, giá hợp lý, nhiều tính năng nổi bật với mức tiêu hao nhiên liệu thấp, nội ngoại thất đẹp. Hay như dòng xe khách Thaco với hàng loạt chủng loại, mẫu mã, từ 28 - 51 chỗ ngồi. Chính vì vậy, mục tiêu sản xuất và tiêu thụ hơn 7000 xe tải và 500 xe khách trong năm 2006 của Trường Hải đã được hoàn thành (chiếm khoảng hơn 30% thị phần xe thương mại tại thị trường VN - tính cả việc kinh doanh các loại xe cũ). Ngoài việc đa dạng hoá các chủng loại, sản phẩm ôtô cụ thể, một trong những mục tiêu của Trường Hải là mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như đầu tư vào lĩnh vực tàu biển, vận tải vừa vận chuyển hàng hoá ngoài, vừa vận chuyển linh, phụ kiện cho công ty, giảm giá thành sản phẩm, đầu tư vào bất động sản, ngân hàng...
Có thể nói, sự lớn mạnh của Trường Hải đang diễn ra từng ngày xuất phát từ quan điểm đầu tư chiều sâu về hệ thống công nghệ, thiết bị, nhà xưởng, đào tạo, trọng dụng và sử dụng nhân tài hợp lý, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hóa lĩnh vực đầu tư với sự gắn kết, bổ trợ hợp lý.
Đầu tư chiều rộng kết hợp với đầu tư chiều sâu đã giúp cho trình độ của đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao và được đào tạo chuyên sâu, đã có những chế độ ưu đãi đối với “hiền tài” của đất nước:
“Trong những năm gần đây, Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nước có tốc độ ứng dụng và phổ cập thông tin nhanh nhất thế giới”. Đó là khẳng định trong tờ trình Dự án Pháp lệnh Công nghệ cao do Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội thực hiện. Dự án này được thảo luận trong phiên họp thứ 46 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, diễn ra hôm 30/1. Để khuyến khích phát triển sử dụng nhân lực trong lĩnh vực công nghệ cao, dự thảo Pháp lệnh Công nghệ cao quy định, kỹ sư mới tốt nghiệp đại học làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao sẽ được trợ cấp để mức lương hàng tháng không dưới 3 lần mức lương tối thiểu trong 3 năm đầu kể từ ngày bắt đầu làm việc nếu nơi sử dụng không có thoả thuận khác; và được ưu tiên xét tuyển trong các chương trình đào tạo, thực tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp trong nước và ngoài nước
Những vấn đề tồn tại cần khắc phục để sự phối kết hợp hoạt động đầu tư theo chiều sâu và đầu tư theo chiều rộng đạt hiệu qủa cao.
Tại Đại hội Đảng lẩn thứ 8, Đảng đã nhận định nước ta còn tồn tại một số mặt yếu kém về đầu tư là: tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp, nền kinh tế rất thiếu vốn; đầu tư của ngân sách nhà nước còn dàn trải, bị lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp; đầu tư của nhân dân vào sản xuất còn ít; nguồn tài trợ cho phát triển và đầu tư nước ngoài thực hiện chậm.
Tới Đại hội Đảng lần thứ 9, nước ta còn tồn tại đó là đầu tư còn phân tán, làm cho hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhất là vốn từ ngân sách chưa cao. Trong nông nghiệp ít chú ý đầu tư vào khâu nghiên cứu, ứng dụng giống mới có năng suất và giá trị hàng hoá lớn. Trong công nghiệp, chưa tập trung đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại; chưa đầu tư đúng mức cho phát triển ngành cơ khí chế tạo. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ chưa phát huy tốt thế mạnh của từng vùng, nhất là những vùng có tiềm năng nhưng chưa có điều kiện khai thác.
Tới Đại hội Đảng lần thứ 10, Đảng ta nhận định: Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, chưa hướng mạnh vào đầu tư chiều sâu, vào các ngành có giá trị tăng thêm cao và tạo nhiều việc làm. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải, thất thoát, hiệu quả thấp. Một số công trình lớn, quan trọng cấp quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất của một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm.
Qua đó ta thấy rằng vấn đề đầu tiên là đầu tư theo chiều sâu chưa gắn kết và làm cơ sở cho sự phát triển mở rộng sản xuất. Việc mở rộng sản xuất diễn ra nhanh nhờ có sự tham gia liên doanh của đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là ở khu vực dịch vụ và công nghệ, trong khi đó đầu tư theo chiều sâu nhằm đổi mới công nghệ diễn ra rất chậm. Công nghệ đưa vào sản xuất chủ yếu ở trình độ trung bình. Điều này sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất ở một quy mô lớn hiện đại hơn.
Tuy phát triển đầu tư theo chiều rộng cả ở thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, nhưng lại thiên về xu hướng tăng tỷ trọng đầu tư chiều rộng ở kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khi đó, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ diễn ra nhanh hơn ở thành phần kinh tế quốc doanh nhờ nhũng ưu đãi nhất định của Nhà nước.
Nhìn chung, trong đầu tư chiều sâu chưa có sự thay đổi cơ bản về trình độ công nghệ ở phần lớn các trang thiết bị, đầu tư chiều sâu chưa thực sự là cơ sở, là bàn đạp cho sự phát triển của đầu tư chiều rộng.
Thứ hai, cơ cấu giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đó là việc đầu tư chiều rộng được chú trọng hơn đầu tư chiều sâu quá nhiều: “Lâu nay trong chiến lược phát triển công nghiệp, chúng ta quá chú trọng đến đầu tư theo chiều rộng, hàng ngang, mà chưa chú tâm đến đầu tư theo chiều sâu, dẫn tới việc nếu bây giờ có ai hỏi sản phẩm nào là mặt hàng chủ lực của ngành công nghiệp Việt Nam, cũng đành chịu...”. Đây là lời bộc bạch của ông Hoàng Trung Hải, Bộ trưởng Công nghiệp tại các kỳ hội thảo, hội nghị của ngành.
Quý I năm nay, giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) trên địa bàn cả nước chỉ tăng 14,4% so với cùng kỳ, đạt khoảng gần 102.000 tỉ đồng. Với việc tăng thấp hơn so với mức bình quân hơn một năm trở lại đây của ngành, đã đẩy nền kinh tế đứng trước nguy cơ không hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 8- 8,5% (tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm từ 37- 42%).
Bước sang tháng 4, ngành công nghiệp đã dần lấy lại được phong độ, với mức tăng trưởng GTSXCN đạt 16,41% so với cùng kỳ. Với mức tăng này, tính chung trong 4 tháng đầu năm, GTSXCN đạt mức tăng trưởng khoảng 15,1%, tuy thấp hơn kế hoạch đề ra 16%. Góp phần vào sự tăng trưởng đó chủ yếu dựa vào các ngành khai thác than tăng 27,1%, điện phát ra tăng 12,7%, xe máy các loại tăng 24,4%, động cơ điện tăng 21,8%... Và một số địa phương như Vĩnh Phúc tăng tới 46,2%, Bình Dương tăng 34,3%, Cần Thơ tăng 30,3%, Hà Nội tăng 24,4%, Quảng Ninh tăng 19,1%, Đồng Nai tăng 21,3%... Như vậy, để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế trong năm 2005 với mức tăng trưởng 7,5- 8% như Nghị quyết của Quốc hội đề ra, gánh nặng đặt lên vai ngành công nghiệp là rất lớn. Vì thế, nhiệm vụ số 1 hiện nay đối với ngành công nghiệp cả nước là phải tăng tốc GTSXCN lên từ 16,5- 17,5% từ nay đến cuối năm, đồng thời duy trì và nâng mức tăng trưởng đó trong kế hoạch 5 năm tiếp theo (2006- 2010). Dù cho trong bối cảnh hiện nay khi mà giá cả đầu vào (chi phí trung gian) không được thuận lợi, nhưng theo Bộ Công nghiệp đây cũng không phải là nhiệm vụ quá khó khăn.
Sẽ là phát triển toàn diện, nếu như giá trị gia tăng tỷ lệ thuận với GTSXCN. Nhưng tiếc thay, nhìn vào biểu đồ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong suốt những năm qua, bên cạnh sự khởi sắc về mặt GTSXCN, vẫn và đang tồn tại một bức tranh đối lập nhau khá rõ nét giữa tốc độ tăng trưởng trong sản xuất và giá trị tăng thêm (giá trị gia tăng- phần hiệu quả trong sản xuất kinh doanh). Nếu như trong vòng 3 năm trở lại đây, GTSXCN luôn luôn có mức tăng trưởng từ 15- 16%/năm; thì giá trị gia tăng của ngành lại không tăng đáng kể, thấp nhất là 8,5% và thời điểm cao nhất cũng chỉ tăng 10,5% vào năm 2004. Giá trị tăng thêm ít chuyển biến không những nói lên tính hiệu quả của DN thuộc ngành chưa cao, chậm chuyển biến, mà còn thể hiện trong một thời gian khá dài nội tại ngành vẫn không có sự chuyển biến về nguồn nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh, dẫn tới hệ số phụ thuộc vào thị trường nước ngoài lớn.
Điểm lại một số ngành như dệt may, tuy xuất khẩu đạt từ 2- 3 tỉ USD trong một vài năm qua, nhưng do có đến gần 80% nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu, làm cho không ít DN chủ yếu “gia công” cho phía nước ngoài. Theo Tổng công ty Dệt may Việt Nam, dù doanh thu toàn ngành đạt cao nhưng phần thu về của chúng ta chỉ chiếm 25- 30% (nghĩa là trong số 1 tỉ USD xuất khẩu, Việt Nam chỉ thu được từ 250- 300 triệu USD, còn lại là phía nước ngoài; ngành da giày cũng trong tình trạng tương tự. Ngay như ngành Thép, chẳng phải gia công cho ai, nhưng yếu tố cấu thành nên lợi nhuận nhất chính là nguồn phôi thép phục vụ cho sản xuất cũng phải phụ thuộc gần 80% vào thị trường thế giới, không những dẫn đến việc giá cả thép thành phẩm luôn luôn biến động trên thị trường, mà đáng lẽ phần thu về cho ngân sách nhà nước rất lớn, cũng phải “bó hẹp” để dùng cho việc nhập khẩu phôi. Trong khi, theo tính toán của các nhà khoa học, nếu sớm đưa vào xây dựng khu liên hợp sản xuất phôi, thép... ở mỏ quặng sắt Thạch Khê- Hà Tĩnh sẽ góp phần rất lớn cho việc chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất thép ở Việt Nam (đồng nghĩa với việc giá trị tăng thêm của ngành cũng cao), song tất cả chỉ mới nằm trên giấy. Ngay đến ngành dầu khí, một trong những ngành mũi nhọn có đóng góp lớn vào kinh tế nước nhà, xuất khẩu luôn luôn đạt giá trị cao (trên 5 tỉ USD năm 2004), nhưng vì 100% là xuất thô, nên tính ra tiền xuất không đủ tiền nhập xăng, dầu cho việc tiêu dùng trong nước. Và vì phải xuất khẩu dầu thô, nên phần giá trị gia tăng chủ yếu nằm trong tay các công ty Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...
Vấn đề tồn tại thứ ba là trình độ quản lý vốn đầu tư, dự án đầu tư của các cán bộ trong doanh nghiệp còn thấp. Việc đào tạo kỹ năng quản lý cho các cán bộ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí, tham ô, hối lộ, tham nhũng còn diễn ra phổ biến. Điều này có thể thấy rõ trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản. Thống kê gần đây đã chỉ ra số vốn thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản khoảng 10% tổng số đầu tư. Điều này đã làm tăng tỷ trọng chi phí trong tổng số vốn đầu tư, đẩy chi phí đầu tư lên cao.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc hầu hết là cũa nát và chắp vá, không tạo điều kiện để đầu tư chiều sâu, có hiệu quả cũgn là một vấn đề tồn tại cần khắc phục. Các thiết bị đo lường, thử nghiệm nói chung không đồng bộ, không có khả năng kiểm tra đánh giá trình độ các sản phẩm. Những cơ sở xây dựng từ trước phần lớn thiếu các thiết bị xử lý chất thải, khí thải và gây ô nhiễm môi trường xung quanh khá nặng.
Do đầu tư không đồng bộ, hệ thống công nghệ thiếu phụ tùng thay thế, tổ chức cung ứng nguyên vật liệu kém hiệu quả, cứng nhắc nên hệ số sử dụng thiết bị rất thấp(25-30%), suất tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm còn quá lớn(thường gấp 1,5-2 lần so với mức chung cả thế giới). Nhiều tiêu chuẩn, quy phạm, quy trình kỹ thuật, định mức đã lỗi thời nhưng chưa được sửa đổi. Chắc chắn với một cơ sở vật chất như vậy sẽ không thể thúc đẩy việc đầu tư mở rộng sản xuất gây khó khăn cho đầu tư chiều sâu đổi mới, cải tiến kỹ thuật, tiến độ của việc đổi mới sẽ chậm. Do ảnh hưởng của cơ sở vật chất và trang thiết bị máy móc nói trên,theo tính toán chung, số hàng hoá trong nước vừa qua bị ứ đọng 40% do gía cao và chất lượng kém, 20% do không hợp nhu cầu tiêu dùng, 27% do không cạnh tranh nổi với hàng ngoại, 30% sản phẩm tiêu dùng truyền thống không còn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng nữa.
Và cuối cùng, đó là đầu tư theo chiều sâu diễn ra chưa đều khắp và chưa có được định hướng vào những mục tiêu chiến lược phát triển của doanh nghiệp, do đó khó tạo ra điều kiện để doanh nghiệp có thểo tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Theo Bộ trưởng Hoàng Trung Hải, phương hướng phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới là phải đầu tư vào những ngành, lĩnh vực trọng điểm có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn vừa để phát huy tiềm năng vừa có lợi thế cạnh tranh cao. Nhưng để chốt lại trong vòng 5 đến 10 năm nữa, đâu là lĩnh vực và nhóm sản phẩm nào thì vẫn là bài toán chưa có lời giải.
Về cái gọi là “phát triển ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và chất xám cao” như lời Bộ trưởng Hải, cũng như trong bản “Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020”. Mới đây tại cuộc hội thảo liên quan đến Bản chiến lược trên, TS Phạm Quang Ngọc, thuộc Đại học Tổng hợp Liên Hiệp Quốc cho rằng, khái niệm mà bản chiến lược đưa ra như trên vẫn còn khá mập mờ. Chẳng hạn, công nghiệp có công nghệ cao là thế nào? Công nghiệp dựa vào một số mũi nhọn là gì? Công nghệ cao hiểu theo cách là chúng ta nhập nhiều nhà máy hiện đại về, nhưng tri thức không có, thì cũng chẳng khác gì đặt các nhà máy ấy ở bất kỳ đâu trên thế giới.
Do vậy, để Việt Nam trong thời gian 10 năm, 20 năm có các sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới mang thương hiệu Việt Nam, nhằm tạo ra những tập đoàn công nghiệp thực sự như kiểu Petronas của Malaysia, mấu chốt của vấn đề là các Bộ, ngành và các nhà hoạch định chính sách phải có định hướng chuẩn mực trong chiến lược phát triển công nghiệp rõ ràng để khuyến khích mọi tầng lớp, mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, nghiên cứu. Còn nói tập trung “phát triển công nghệ cao”, trong khi bản thân những nhà hoạch định công nghiệp vẫn chưa đủ tầm, “sức mạnh” nội lực thấp, thì nói phát triển vào lĩnh vực này cũng chỉ là sáo rỗng. Bản báo cáo nào về công nghiệp hay chiến lược công nghiệp cũng nói về vấn đề này, nhưng đã 3- 4 năm rồi vẫn chẳng thấy “công nghệ cao” ở đâu. Trong khi đó, ngay đến Singapore (quốc gia không được xếp vào hạng G7) người ta cũng đã gần như bỏ qua để tập trung phát triển nền công nghệ sinh học, công nghệ gen…
Trong khi đó, là một nước nông nghiệp, lại giàu tài nguyên thiên nhiên, hiểu theo nghĩa nào đó thì nền công nghiệp chế biến của nước đó phải rất phát triển. Nhưng trên thực tế, nền công nghiệp chế biến của ta hiện nay vẫn quá lạc hậu và kém phát triển. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đều ở dạng sơ chế, gạo, cà phê, chè... Thế nhưng, tiếc thay dù trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp cũng có nói đến vấn đề phát triển ngành công nghiệp chế biến để phát huy lợi thế, song giữa nói và làm dường như vẫn còn quá cách xa nhau.
Để có được những tập đoàn mạnh, sản xuất ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh, không cần phải so sánh với các nước phát triển, mà chỉ cần nhìn sang Trung Quốc, nước xếp vào hàng quốc gia đang phát triển như Việt Nam, ngoài các mặt hàng tiêu dùng giá rẻ như dệt may, da giày... ở lĩnh vực công nghiệp nặng người ta đã có các sản phẩm xe máy, xe hơi mang thương hiệu “Made in China” đang dần chiếm lĩnh thị trường châu Á, châu Phi mà còn vươn sang cả châu Âu. Còn Việt Nam, trong suốt những năm qua, quanh đi quẩn lại cũng chỉ những ngành công nghiệp cơ bản; Khai thác (than, dầu, khí, khoáng sản), công nghiệp tiêu dùng... Còn các sản phẩm công nghiệp chủ lực mang thương hiệu Made in Việt Nam có khả năng cạnh tranh quốc tế cao thì hầu như không có. Những cái tên Bình Tiên, Trung Nguyên, Vinamilk... vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì vậy, đã đến lúc trong chiến lược phát triển công nghiệp giai đoạn 2006- 2010 và 2010- 2015, điều cốt yếu là trong khâu hoạch định chính sách công nghiệp chúng ta phải tạo ra bước đột phá, nhằm “đẻ” ra được những tập đoàn công nghiệp thực thụ mang thương hiệu Việt Nam. Còn nếu cứ quy hoạch, phát triển và thường dựa vào một số Tổng công ty Nhà nước, có lẽ sẽ còn phải mất nhiều thời gian để “đốt đuốc” đi tìm các sản phẩm công nghiệp...
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG
Quan điểm và phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp
Một số quan điểm cơ bản đối với hoạt động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp.
Quan điểm hỗ trợ và tạo điều kiện tiền đề đối với hoạt động đầu tư chiều rộng và chiều sâu trong doanh nghiệp:
Trước hết đó là quan điểm và thái độ đúng đắn của nhà nước đối với vị trí, vai trò và sự phát triển của các doanh nghiệp trong quá trình CNH-HĐH.
Ở nước ta hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu nhanh nhạy với các nhu cầu đa dạng và phong phú của nền kinh tế thị trường, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của đất nước. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp chậm phát triển, năng lực sản xuất không cao, năng suất lao động thấp, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu. Từ đó, quan điểm chung đối với các doanh nghiệp là cần tạo ra một số điều kiện tiền đề và những công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp này ổn định lại sản xuất, thực hiện đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất mang lại hiệu quả thiết thực cho mỗi doanh nghiệp và nền kinh tế xã hội
Điều kiện ổn định về chính trị xã hội, nhất quán trong chính sách đổi mới và phát triển kinh tế, để các nhà đầu tư dù đó là doanh nghiệp lớn hay vừa và nhỏ, trong nước, ngoài nước hay nhân dân đều an tâm đầu tư cũng như bảo đảm hiệu quả của quá trình đầu tư.
Những công cụ hỗ trợ là:
- Chính sách động viên khuyến khích đầu tư, đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp.
- Chính sách tạo nguồn, thu hút nguồn vốn đầu tư, đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp
- Chính sách và các giải pháp hỗ trợ đổi mới công nghệ
Hỗ trợ về thông tin, đào tạo tay nghề công nhân và lập quản lý các dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất
Quan điểm kết hợp hài hòa giữa các lợi ích kinh tế trong qúa trình đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp
Đây là quan điểm bao trùm đối với hoạt động đầu tư. Mọi dự án đầu tư trước hết phải xem xét, đánh giá, lựa chọn sao cho vừa đem lại hiệu quả kinh tế tài chính cho chủ đầu tư, vùa đem lại hiệu quả KT-XH cho cộng đồng. Mục tiêu của hoạt động đầu tư được xem xét từ hai góc độ: tầm quản lý vĩ mô và vi mô. Đạt được các mục tiêu này sẽ phải góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển ở tầm vĩ mô xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, của xã hội hoặc của địa phương, của ngành
Chẳng hạn, mục tiêu cụ thể, trước mắt của hoạt động đầu tư đối với mỗi doanh nghiệp là nhằm giảm chi phí sản xuất, tận dụng triệt để năng lực sản xuất hiện có, sản xuất hàng xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu… (nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định và gia tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp). Thực hiện các mục tiêu cụ thể này sẽ cần phải đóng góp vào thực hiện mục tiêu phát triển của địa phương (phát triển KT-XH của địa phương) hoặc của ngành (thực hiện chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của ngành). Đó là điều mà các cấp quản lý của địa phương hoặc của ngành phải xem xét nếu hoạt động đầu tư này chịu sự quản lý của địa phương hoặc của ngành.
Các chủ đầu tư cần phải nhận thức sâu sắc rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân người lao động là động lực trực tiếp tạo ra sức sáng tạo, ý chí và quyết tâm giúp chủ đầu tư thực hiện được các mục tiêu đầu tư đã đề ra.
Theo quan điểm này, những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp đảm bảo các yêu cầu sau:
Hiệu quả KT-TC mà dự án tạo ra phải tương xứng với kiệu quả KT-XH: góp phần giảm chỉ tiêu tỷ suất vốn đầu tư, tăng mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, không gây ô nhiễm môi trường
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cạnh tranh và hợp tác giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, bình đẳng cùng tồn tại và phát triển
Không ngừng cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần đối với người lao động, đặc biệt là cải thiện môi trường làm việc trong doanh nghiệp.
Quan điểm xây dựng có hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trong các doanh nghiệp
Hiệu quả đầu tư là kết quả tổng hợp của các biện pháp nhằm đạt được những mục tiêu đã định trước. Vì vậy cần có quan điểm hệ thống đồng bộ trong khi đề xuất những chính sách, giải pháp nhằm hướng các hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp phù hợp với chính sách đầu tư, quy hoạch đầu tư phát triển của từng vùng, ngành và nền kinh tế, tránh tình trạng lộn xộn thiếu kỉ cương, không kiểm soát được gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích quốc gia.
Quan điểm tiên tiến.
Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu nhất thiết phải mang lại những hiệu quả thiết thực. Theo quan điểm này, những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp phải đảm bảo đạt được những yêu cầu sau:
Thay thế, đổi mới thiết bị và công nghệ trong dây chuyền sản xuất phải tiên tiến hơn, mức độ hiện đại hóa cao hơn, có khả năng tiết kiệm được chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Đa dạng hóa trình độ công nghệ ngay trong mỗi doanh nghiệp, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại để có thể sử dụng tối thiểu thiết bị hiện có, tranh thủ đi ngày vào kỹ thuật, công nghệ hiện đại ở một số khâu có ý nghĩa quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm.
Kết hợp chuyên môn hóa với đa dạng hóa sản xuất kinh doanh tổng hợp
Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả KT-XH đối với các dự án đầu tư, giúp các chủ đầu tư có những phương tiện tiên tiến, hiện đại trong phát triển và xây dựng hiệu quả đầu tư. Từ đó có thể ra những quyết định đầu tư chuẩn xác.
Phù hợp với khả năng và cơ cấu vốn đầu tư có thể huy động và sử dụng của quốc gia, mỗi doanh nghiệp và nhân dân.
Những quyết định trên phải được tôn trọng và quán triệt trong một chủ thể thống nhất trong khi đề ra phương hướng và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp
Lựa chọn lĩnh vực đầu tư phù hợp với định hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp nhà nước: tổ chức, sắp xếp lại theo hướng giảm số lượng nhưng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng vai trò là xương sống của nền kinh tế, là công cụ quan trọng để định hướng XHCN. Hướng các DNNN vào chiếm lĩnh các mặt hàng, ngành hàng quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đó là:
Những ngành đáp ứng nhu cầu công cộng của xã hội (làm đường, cấp thoát nước, sản xuất vũ khí đạn dược…)
Những ngành cần sự kiểm tra, kiểm soát của nhà nước (in ấn, xuất bản, sản xuất thuốc tân dược…)
Những ngành sản xuất tư kiệu sản xuất (cơ khí, chế tạo, điện, sản phẩm phục vụ nông nghiệp…)
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: khuyến khích phát triển và hướng vào sản xuất những mặt hàng phục vụ nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần thông kê, rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện có và thẩm tra kỹ lưỡng trước khi cho phép thành lập một doanh nghiệp mới nhằm loại bỏ những doanh nghiệp “hữu danh vô thực” lợi dụng tư cách pháp nhân và con dấu của doanh nghiệp được thừa nhận theo luật định để lừa đảo, tham ô, sản xuất hàng giả, buôn lậu, trốn thuế. Tránh được những rủi ro đáng tiếc xảy ra khi cấp vốn và cho vay vốn đầu tư.
Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới, thị trường quốc tế và khu vứ sẽ có mối quan hệ mật thiết với thị trường trong nước. Do vậy, những biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư chiều sâu hướng vào xuất khẩu sẽ tạo sự giao lưu vật tư hàng hóa thiết bị, công nghệ vơi các nước trong khu vực và trên thế giới thúc đẩy trở lại đối với đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu và sản xuất trong nước.
Nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu theo hướng đa dạng hóa trình độ công nghệ, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại căn cứ vào phương hướng tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp trên địa bàn.
Cải tạo và phát triển các doanh nghiệp có kỹ thuật công nghệ hiện đại, thích hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, là phương hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp trong cả nước
Tóm lại phương hướng tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp trong cả nước theo hướng CNH HĐH sẽ tạo ra những mảnh đất màu mỡ để hoạt động đầu tư chiều sâu mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, đạt được những mục tiêu KT-XH đã được đặt ra. Vì vậy phương hướng đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư chiểu rộng và đầu tư chiều sâu phải gắn với phương hướng tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp trên địa bàn
Nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp theo hướng triệt để khai thác các nguồn lực xã hội và nguồn vốn đầu tư.
Cùng với công tác sắp xếp lại doanh nghiệp tạo môi trường cho đầu tư thì công tác tạo nguồn và huy động vốn là tiền đề vật chất để đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu tiến hành thuận lợi như mong muốn
Đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp đòi hỏi lượng vốn lớn (tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng lao động). Chính vì vậy, phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp là huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư. Trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng (không chỉ giải quyết vấn đề nguồn vốn mà còn bao gồm cả lợi ích về chuyển giao công nghệ, về đào tạo tay nghề và mở mang thị trường).
Đối với nguồn vốn trong nước (gồm có vốn ngân sách, vốn doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn của dân). Hướng tạo nguồn này là thực hành chính sách triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cải thiện điều kiện sống của nhân dân vàd bằng cả hệ thống chính sách khuyến khích, một dư luận xã hội lành mạnh và các thể chế bắt buộc tiết kiệm chi tiêu ngân sách và trong toàn xã hội
Họat động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp là hoạt động thường xuyên, liên tục. Vốn đầu tư trong mỗi doanh nghiệp chủ yếu là do tự huy động từ các nguồn tự có, vay tín dụng, cổ phần… cùng với phát động, khuyến khích thỏa đáng đối với phong trào thi đua phát huy sáng kiến của người lao động góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâ.u
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp
Giải pháp huy động các nguồn vốn cho đầu tư:
Giải pháp thu hút nguồn vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung vào việc tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp, quy hoạch và xây dựng các kế hoạch đầu tư, đầu tư chiều sâu phù hợp với quy hoạch và chiến lược đầu tư phát triển của địa phương, ngành và vùng lãnh thổ, đồng thời công khai các dự án khả thi nhằm thu hút nguồn vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ.
Khống chế mức vay thương mại và dần chấm dứt nguồn vốn này nhất là vay ngắn hạn để bù đắp những thiếu hụt trong cân đối thu chi ngân sách nhà nước.
Theo dõi các khoản nợ và thực hiện trả nợ đúng thời hạn cần cân nhắc tính toán kỹ các điều kiện vay và trả trước khi ký các hiệp định vay vốn với nước ngoài. Điều đó ảnh hưởng tới cơ cấu xuất khẩu và năng lực xuất khẩu của nền kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bao gồm vốn tự có một phần thu nhập sau thuế và huy động của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Để huy động hết các nguồn vốn trong doanh nghiệp cho đầu tư đầu tư theo chiều sâu cần có một số giải pháp sau:
Sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước giữ lại một số doanh nghiệp thật cần thiết còn lại nghiên cứu và chuyển đổi hình thức sở hữu với sở hữu đan xen, cổ phần hóa… nhất là các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ
Triệt để thực hiện bình đẳng giữ các thành phần kinh tế, nhất là chính sách thuế, tín dụng, bảo lãnh, thế chấp… tiến tới quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp với tài sản nhà nước
Đổi mới cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phân phối thu nhập của mình sau khi đã làm nghĩa vụ thuế đối với nhà nước và bỏa toàn vốn. Đối với nhu cầu đầu tư, đầu tư chiều sâu doanh nghiệp được quyền tự chủ cân đối nguồn vốn và huy động nguồn vốn để đầu tư. Các bộ, sở chỉ làm chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực của mình phụ trách mà không can thiệp sâu vào các hoạt động kinh doanh.
Cần công khai các dự án đầu tư., đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài doanh nghiệp và tiến tới khi hình thành thị trường vốn thì có thể nhanh chóng tham gia thông qua việc bán cổ phiếu đầu tư, cổ phần…
Nguồn vốn đầu tư của nhân dân (bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần của nhân dân). Đây là nguồn vốn ban đầu quý giá có ý nghĩa quan trọng và có tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng số nguồn vốn ở trong nước. Nó có khả năng động viên được mọi nguồn dự trữ trong nhân dân cà sử dụng vốn một cách linh hoạt hơn, phát huy được năng lực tiềm tàng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo ra công ăn việc làm cho cả ở thành thị và nông thôn.
Để huy động tối đa nguồn vốn cho đầu tư của mọi tầng lớp nhân dân cần thực hiện động bộ chính sách và giải pháp sau:
Cần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh và nhân dân đỡ cảm thấy bị “thiệt thòi” khi bỏ vốn ra đầu tư, đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất.
Cần có chính sách khuyến khích động viên, hỗ trợ thỏa đáng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ cá thể vì các doanh nghiệp này mới ra đời còn non trẻ nhưng đầy tiềm năng phát triển.
Đối với hệ thống ngân hàng cần nhanh nhạy điểu chỉnh mức lãi suất đảm bảo “lãi suất dương” để huy động vốn trong dân và của các doanh nghiệp.
Nhanh chóng xử lý những vướng mắc trong luật khuyến khích đầu tư trong nước có liên quan đến những vấn đề: sử dụng đất đai vấn đề thuế hoặc ưu đãi trong việc đầu tư phát triển khu vực ưu tiên… đồng thời nhanh chóng đồng bộ hóa các văn bản dưới luật để văn bản pháp luật này nhanh chóng đi vào đời sống nhân dân động viên nhân dân cả nước hăng hái tham gia đầu tư phát triển sản xuất.
Đẩy mạnh các biện pháp để làm thông thoáng thị trường vốn tích cực chuẩn bị hình thành thị trường chứng khoán. Trước mắt cần liên kết các loại thị trường: thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán tín phiếu kho bạc để thu hút nhanh nguồn vốn trong nhân dân.
Giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư
Đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia và lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Đẩy mạnh hoạt động vận động xúc tiến đầu tư
Đổi mớ, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cạnh tranh thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài tù nay đến năm 2010
Hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý quá trình đầu tư
Hoàn thiện chiến lược quy hoạch đầu tư phù hợp với chiến lược tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp
Các yêu cầu cần đảm bảo khi xây dựng giải pháp chiến lược đầu tư:
Triệt để khai thác các nguồn lực, các ưu thế về tài nguyên thiên nhiên của đất nước tham gia vào quá trình đầu tư. Đánh giá và lựa chọn đúng thời điểm khai thác ở mỗi ngành, mỗi địa phương để tận dụng tối đa các nguồn lực có hạn và ngày càng trở nên khan hiếm đồng thời có phương án tái tạo lại các nguồn lực phục vụ cho quá trình đầu tư ở những thời kỳ tiếp theo của doanh nghiệp
Tranh thủ mối quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực để thúc đẩy đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Tranh thủ khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, lợi dụng vốn của các nước phát triển, đang phát triển phục vụ cho chiến lược đầu tư của đất nước
Các giải pháp chiến lược đầu tư phải giải quyết hài hòa mối quan hệ đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu để bắt kịp với trình độ khoa học công nghệ trên thế giới, chú ý đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp
Hoàn thiện các tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư
Hoàn thiện quản lý thực hiện dự án đầu tư
Tổ chức quản lý sau dự án đầu tư
Hoàn thiện quản lý chất lượng xây dựng cơ bản trong quá trình đầu tư
Hoàn thiện cơ chế quản lý dự án đầu tư trong doanh nghiệp
Quản lý nhà nước đối với sự triển khai và hoạt động của dự án đầu tư. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ, theo dõi hoạt động của mỗi dự án để định hướng và có biện pháp chi phối thông qua các công cụ vĩ mô: thông tin giá cả trong ngoài, các chỉ tiêu kế hoạch… từ đó xây dựng chính sách đầu tư phù hợp nhằm bảo đảm phân phối và sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả
Nhà nước cần ban hành quy định về thẩm định dự án ở các cấp, cần phải quy định chi tiết, chặt chẽ các nội dung và các bước thẩm định lần đầu, thẩm định bổ sung, mọi dự án đầu tư phải được qua thẩm định
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu, ngoài cái chung cần thông qua một số chỉ tiêu: lao động có việc làm do thực hiện dự án, việc làm do dự án tạo ra, việc làm do dự án liên đới mang lại (bởi vì trong khi tạo ra một số lao động cho dự án mới cũng làm cho một số lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khác bị mất việc do các cơ sở này không cạnh tranh được với sản phẩm của dự án mới, phải thu hẹp sản xuất), chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế (cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án tạo ra trên thị trường quốc tế)
Hoàn thiện cơ chế quản lý giá xây dựng cơ bản trong hoạt động đầu tư: hoàn thiện nội dung, phương pháp xác định các khoản mục chi phí trong giá dự toán cho phù hợp với những thay đổi về trình độ tổ chức, quản lý xây dựng cơ bản cũng như các chế độ chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Luôn có biện pháp điều chỉnh kịp thời, đúng đắn các chi phí trong dự toán cho phù hợp với sự biến động giá cả trên thị trường
Củng cố và phát triển thị trường đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng
Đối với thị trường lao động: thông qua chế độ chính sách tiền lương và phân phối thu nhập để điều hòa lao động phù hợp với co cáu ngành và vùng lãnh thổ. Đồng thời thu hút nguồn lao động có kỹ thuật cao vào các dự án đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trên thị trường
Đối với thị trường công nghệ: xây dựng và phát triển năng lực công nghệ quốc gia thích nghi và đủ mạnh từ việc lựa chọn công nghệ kết hợp hiện đại hóa công nghệ truyền thống, sử dụng công nghệ một cách có hiệu quả trong sản xuất và dịch vụ. Qua đó, tích lũy và tiến tới làm chủ thị trường công nghệ.
Thị trường tư liệu xây dựng: tổ chức và quản lý tốt thị trường này để không xatỷ ra những đột biến về giá cả và khan hiếm giả tạo. Đồng thời, thúc đẩy và tạo điều kiện đáp ứng tại chỗ về vật liệu xây dựng.
Ngoài ra cần nhanh chóng tạo điều kiện tiền đề cấn thiết để hình thành và phát triển thị trường thông tin, thị trường tài chính…
Đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết bị và quy trình công nghệ
Mục đích là để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất các sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu. Giải pháp này rất quan trọng đối với tất cả các ngành sản xuất công nghiệp từ chế tạo cơ khí đến lắp ráp điện tử, máy tính, ô tô, xe gắn máy, gia công hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác than, dầu khí. Ngoài ra cần tăng tỷ lệ nội địa hóa để tận dụng nguồn nhân lực và tiềm năng sẵn có trong nước, giảm giá thành đầu vào, giảm giá thành sản phẩm
Kết hợp hài hòa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng trong doanh nghiệp
Để đạt được mục tiêu đề ra, doanh nghiệp cần nghiên cứu chiến lược, mục tiêu rõ ràng, cụ thể để có một cơ cấu đầu tư chiều rộng và chiều sâu hợp lý để thích ứng với sự biến động của thị trường
Trước hết, doanh nghiệp nên lập các chiến lược đầu tư (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) rõ ràng, cụ thể để đảm bảo tính nhất quán của đầu tư trong hiện tại và tương lai tương ứng với mục tiêu của donah nghiệp, đồng thời giúp cho doanh nghiệp linh hoạt hơn thích ứng với những biến động của thị trường. Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải hết sức nhạy bén bới sự thay đổi và xu hướng của thị trường để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định được thời điểm nào thì đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu, hay kết hợp cả hai hình thức đầu tư.
Mặt khác, xác định chính xác chu kỳ sống của sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được nên đầu tư chiều rộng hay đầu tư chiều sâu phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường
Doanh nghiệp cần cân nhắc khi tiến hành đầu tư, để đảm bảo sự đồng bộ giữa các yếu tố sản xuất, phát huy ưu điểm của hai hình thức đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
Một số kiến nghị nhằm kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu đạt được hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường
Thực trạng công nghệ ở nước ta hiện nay còn rất lạc hậu mà một phần quan trọng là do sự yếu kém của khâu điều hành. Thế nên, đổi mới công nghệ cần phải gắn với trách nhiệm người điều hành. Nếu không, dù đổi mới nhiều lần, công nghệ vẫn lạc hậu, sản xuất vẫn đình trệ, khó khăn lại đổ lên đầu Nhà nước.
Doanh nghiệp vẫn cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp, bởi đó chính là yếu tố tiên quyết giúp doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Ngoài ra các doanh nghiệp cần gắn liền hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp mình với các mục tiêu phát triển của đất nước và nhu cầu của thị trừơng để từ đó có cơ cấu đầu tư hợp lý, đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần phải đổi mới cơ chế hành chính, hạn chế tối đa những thủ tục rườm rà trong khâu đầu tư, tạo lập được môi trường kinh doanh đầu tư thật sự thuận lợi cho chính các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bởi cơ chế, chính sách có tốt mấy mà không đến được với cộng đồng doanh nghiệp thì cũng chẳng có tác dụng gì.
Đồng thời chúng ta phải biết nguồn vốn nào nên đầu tư cho lĩnh vực nào thì hiệu quả: Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế và trợ giúp vùng khó khăn. Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng có thu hồi vốn và hỗ trợ đầu tư một số dự án quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hướng vào nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vốn của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và việc làm.
Hoạt động đầu tư chiều rộng hay chiều sâu cũng phải gắn liền với thực trạng nước nhà. Nước ta đang trong giai đoạn CNH-HĐH, việc xác định ngành công nghiệp mũi nhọn là hết sức quan trọng, thế nhưng có phải đầu tư vào ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao là tốt? Ông Ronal Klause, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nhận xét rằng: “Cần phát triển ngành công nghiệp phát huy lợi thế cạnh tranh.Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP một cách đáng khâm phục. Trong đó, công nghiệp (có cả yếu tố nước ngoài) đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải hiện nay là nên phát triển nền công nghiệp theo chiều hướng nào để đạt hiệu quả và sức cạnh tranh cao nhất? Quan điểm của tôi cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần phải đầu tư công nghiệp theo chiều sâu, tránh tình trạng đầu tư theo chiều rộng (dàn trải) như hiện nay. Trước đó, cần đặc biệt tập trung vào ngành công nghiệp chế biến (chế biến nông, thuỷ sản và chế biến nguồn khoáng sản) để mang lại giá trị gia tăng cao. Đây chính là nền công nghiệp mũi nhọn, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh nhất của Việt Nam. Còn nếu cứ nói phát triển công nghiệp hàm lượng chất xám cao thì khó có thể bắt kịp các nước phát triển như Nhật Bản hay Hàn Quốc.”
Trong bối cảnh Việt Nam mới ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Trong đó cơ hội thu hút nguồn vốn đầu tư sẽ nhiều hơn, thế nhưng cơ hội không tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Và ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
‘Giáo trình kinh tế đầu tư’. Trường đại học Kinh tế Quốc dân.
‘Một số vấn đề lý luận, phương pháp luận và quy hoạch phát triển kinh tế Việt Nam’. Bộ kế hoachj và đầu tư viện chiến lược phát tiển – NXB chính trị quốc gia, năm 2002.
Văn kiện đại hội đảng 8,9,10.
Trang web bộ kế hoạch đầu tư : www.mpi.gov.vn
Trang web tổng cục thống kê : www.gso.gov.vn
Trang web cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh : www.pso.hochiminhcity.gov.vn
Trang web bộ tài chính: www.mof.gov.vn
Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.vn
Trang thị trường: www.thitruong.vnn.vn
Trang đầu tư: www.vir.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DATV1060.doc