TÓM LƯỢC
Làm thế nào để có thể đánh giá một nền kinh tế mạnh hay yếu? Biểu hiện của nó thể hiện trên những nhân tố nào? Những nhân tố để có thể đánh giá một nền kinh tế đó là dựa trên các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế GDP, lạm phát và thất nghiệp, giá cả đồng tiền của quốc gia đó Trong đó, hai chỉ tiêu được quan tâm nhiều nhất của không chỉ của các nhà hoạch định chính sách mà toàn bộ chủ thể trong nền kinh tế đó chính là lạm phát, thất nghiệp và mối quan hệ giữa chúng.
Nền kinh tế Việt Nam từ sau đổi mới năm 1986 đã đạt được nhiều thành tựu to lớn song cũng mắc không ít những khó khăn, sự biến động liên tục trong nền kinh tế có những năm nền kinh tế tăng trưởng cao và kéo dài trong nhiều năm song cũng có những năm lạm phát cao cùng với tỷ lệ thất nghiệp cao, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Nhà nước đã có nhiều chính sách để điều chỉnh nền kinh tế, phát triển nền kinh tế theo những mục tiêu đã đặt ra. Tuy nhiên, do xuất phát điểm từ một nền kinh tế nông nghiệp nhỏ bé, cùng với cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài bắt đầu bước sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Đặc biệt khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực tính phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới càng lớn.
Xuất phát từ yêu cầu đó, việc nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô từ đó có những chính sách phát triển phù hợp đóng vai trò quan trọng. Chính vì thế nhóm quyết định đi nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009”. Đề tài trước hết nghiên cứu một số lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp sau đó đưa lý thuyết ứng dụng vào nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009 nhằm phân tích, đánh giá, nhìn nhận từ đó kiến nghị, đề xuất một số biện pháp để một mặt kiềm chế lạm phát, một mặt tạo ra nhiều công ăn việc làm trong nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững và kiềm chế lạm phát của Nhà nước ta trong thời gian tới.
Đề tài bao gồm có 4 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009
Chương 4. Các kết luận, thảo luận và một số đề xuất kiến nghị về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1.TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. 1
1.1.Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài1
1.2.Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài2
1.3.Các mục tiêu nghiên cứu. 2
1.3.1.Mục tiêu chung. 2
1.3.2.Mục tiêu cụ thể. 3
1.4.Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu. 3
1.5.Phạm vi nghiên cứu. 3
1.5.1.Phạm vi không gian. 3
1.5.2.Phạm vi thời gian. 3
1.6.Ý nghĩa của nghiên cứu. 3
1.6.1.Ý nghĩa về mặt khoa học. 3
1.6.2.Ý nghĩa về mặt thực tiễn. 4
1.7.Kết cấu của đề tài4
CHƯƠNG 2.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP5
2.1.Một số khái niệm, định nghĩa cơ bản. 5
2.1.1.Lạm phát và các khái niệm liên quan đến lạm phát5
2.1.2.Thất nghiệp và các khái niệm liên quan. 6
2.2.Lạm phát, thất nghiệp và quan điểm một số nhà kinh tế về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp7
2.2.1.Lạm phát – nguyên nhân và tác động. 7
2.2.2.Thất nghiệp – nguyên nhân và tác động. 9
2.2.3.Quan điểm của nhà kinh tế học A.W.Phillips. 10
2.2.4.Sự phát triển quan điểm của A.W.Philips về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn (Đường Philips dài hạn). 11
2.3.Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới13
2.4.Những nghiên cứu có liên quan. 13
2.5.Mô hình nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài14
CHƯƠNG 3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM . 15
3.1.Phương pháp hệ nghiên cứu các vấn đề. 15
3.1.1.Kế hoạch nghiên cứu đề tài15
3.1.2.Các giả thiết trong mô hình nghiên cứu. 15
3.1.3.Phương pháp thu thập số liệu. 15
3.1.4.Phân tích số liệu. 16
3.1.5.Xây dựng mô hình nội dung nghiên cứu. 16
3.2.Đánh giá tổng quan mối quan hệ giữa lạm phát - thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009 và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến mối quan hệ giữa lạm phát - thất nghiệp ở Việt Nam16
3.2.1.Đánh giá tổng quan mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 200916
3.2.2.Ảnh hưởng của nhân tố môi trường đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009. 18
3.2.2.1.Ảnh hưởng của môi trường quốc tế. 18
3.2.2.2.Ảnh hưởng của môi trường trong nước. 20
3.3.Kết quả tổng hợp, đánh giá của các chuyên gia về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp23
3.4.Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp. 25
CHƯƠNG 4.CÁC KẾT LUẬN, THẢO LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM . 29
4.1.Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu. 29
4.2.Các thảo luận về mối quan hệ giữa lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009 qua nghiên cứu39
4.3.Dự đoán mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp giai đoạn 2010 - 2020. 40
4.4.Một số đề xuất, kiến nghị đối với việc cắt giảm tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015. 41
4.4.1.Các giải pháp kiềm chế lạm phát41
4.4.1.1.Các giải pháp trong ngắn hạn. 41
4.4.1.2.Những giải pháp trong dài hạn. 42
4.4.2.Giải pháp tăng trưởng việc làm43
4.4.2.1.Giải pháp về vấn đề kinh tế. 43
4.4.2.2.Nhóm giải pháp về chính sách. 44
4.4.2.3.Nhóm giải pháp về tăng cường quản lí của Nhà nước và sự phối hợp của các tổ chức Đoàn thể trong việc giải quyết việc làm44
4.5.Những hạn chế nghiên cứu và các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. 45
4.5.1.Những hạn chế nghiên cứu. 45
4.5.2.Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. 46
53 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8753 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dầu bôi trơn toàn bộ nền kinh tế, giúp tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, có thể đánh đổi lạm phát để có được mức tăng trưởng cao. Ví dụ như Mỹ có những giai đoạn sử dụng tỷ lệ lạm phát cao hơn cả mức tăng trưởng GDP để tăng cường nguồn vốn cho phát triển kinh tế: 1973 CPI là 11,0%, GDP là 5,77%; năm 1979 CPI là 13,7%, GDP là 3,18%; 1981 CPI là 4,4%, GDP là 2,45%…Hoặc như Trung Quốc dùng lạm phát bình quân 10,98% trong 14 năm (1984-1997) để tạo số vốn từ phát hành tiền lên 3235,71 tỷ NDT (tương đương 383,2 tỷ USD), giúp tăng trưởng GDP 3,23 lần và 3 lần tăng lương, trở thành cường quốc kinh tế thứ tư trên thế giới.
Ở Việt Nam, với xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế thấp việc sử dụng lạm phát như một công cụ để tránh nguy cơ tụt hậu sẽ rất có ý nghĩa. Việc tận dụng lạm phát và vận dụng một cách khoa học ở Việt Nam – vừa đảm bảo tỷ lệ lạm phát ở mức có thể kiểm soát đồng thời đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và các mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một việc hết sức quan trọng. Lạm phát tạo ra nguồn vốn cực rẻ cho nền kinh tế, giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, nền kinh tế vượt qua được khủng hoảng là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và từ đó có tác dụng to lớn đối với việc tạo ra công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Và thực tế đã chứng minh bằng thành công vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới của Việt Nam.
Trong hơn 30 năm từ năm 1986, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm mục tiêu tăng trưởng, giảm lạm phát đã có nhiều kết quả tốt đẹp. Lạm phát đã từ 3 con số giảm dần xuống còn 2 con số và đã có thể kiểm soát được, nền kinh tế dần hồi phục và đạt mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, lực lượng lao động tăng nhanh nhưng đã tạo ra được nhiều công ăn việc làm hơn, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm đặc biệt từ những năm 2000 trở lại đây. Quy mô nền kinh tế ngày càng lớn hơn.
Nền kinh tế Việt Nam cũng giống như nền kinh tế của hầu hết các nước Đông Nam Á vẫn chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế hơn so với các mục tiêu khác. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam cao qua các năm, đặc biệt trong giai đoạn 2000 – 2007 mức tăng trưởng đạt bình quân hơn 7,5% năm, có những năm tốc độ tăng trưởng đạt trên 8%/năm. Tăng trưởng kinh tế tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho toàn bộ nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng lạm phát của nền kinh tế có xu hướng gia tăng.
Việc gia tăng tỷ lệ lạm phát cần được đánh giá đúng nguyên nhân và thực tế của sự phát triển đề từ đó có những giải pháp phù hợp, không thể chỉ căn cứ vào mục tiêu đề ra. Đặc biệt, trong 2 năm 2007 và 2008 tỷ lệ lạm phát ở mức cao do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, chính sách tiền tệ nới lỏng cho mục tiêu phát triển những năm trước, tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng chung của cuộc suy thoái; do đó cần phải thực hiện các chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng đồng thời cắt giảm lạm phát.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vẫn còn lớn, lực lượng lao động mỗi năm tăng hơn 1 triệu người do đó tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức thấp, nguy cơ lạm phát luôn cận kề. Do đó Nhà nước cần phải phát huy hiệu quả của mình trong việc đề ra các chính sách hợp lý đảm bảo duy trì mức độ tăng trưởng cũng như kiềm chế lạm phát vì mục tiêu phát triển bền vững.
Kết quả phân tích các dữ liệu thứ cấp
Biểu 3.1. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 1993
Biểu 3.2. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1993 - 1996
Biểu 3.3. Tăng trưởng, lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 1997
Biểu 3.4. Mối quan hệ tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 1999
Biểu 3.5. Cơ cấu tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính giai đoạn 1996 - 2005
Biểu 3.6. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2002 - 2006
Biểu 3.7. Xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 - 2009
Biểu 3.8. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp giai đoạn 2002 - 2006
Biểu 3.9. Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam năm 2008 phân theo vùng
Biểu 3.10. Biểu đồ diễn biến giá dầu thô trên Sở Giao dịch Hàng hóa New York - NYMEX từ 1/11/2007 - 28/11/2008 (hợp đồng tương lai) - Nguồn: NYMEX
CÁC KẾT LUẬN, THẢO LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu
Qua hơn ba mươi năm xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một thời kỳ phát triển rực rỡ với nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức.
Cuối những năm 70 cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu tiềm ẩn có nguy cơ bùng phát, sang những năm 80 của thế kỷ 20 đã diễn ra trên toàn cầu. Hậu quả to lớn từ cuộc chiến tranh giành độc lập vẫn còn, việc áp dụng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cộng hưởng cùng với sự bao vây cấm vận của Mỹ nền kinh tế nước ta đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tăng trưởng kinh tế thấp, có năm còn bị sút giảm; bình quân thời kỳ 1977- 1980, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng dân số (2,31%/năm); bình quân thời kỳ 1977- 1985 chỉ tăng 3,7%/năm. Sản xuất chỉ đáp ứng được 80 - 90% sử dụng; toàn bộ quỹ tích luỹ và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài. Vay nợ và viện trợ của nước ngoài 1976 - 1980 chiếm 38,2% tổng thu ngân sách; 1981 - 1985 chiếm 22,4%; tính đến năm 1985, nợ nước ngoài lên đến 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Lạm phát ngầm diễn ra với mức độ ngày càng cao; ngân sách bị thâm hụt và phải bù đắp bằng việc in tiền để chi tiêu; lại gặp sai lầm "giá - lương - tiền" năm 1985, nên lạm phát phi mã lên tới 774,7% vào năm 1986 và kéo dài ở mức 3 rồi hai chữ số cho đến 1990 - 1991. Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7%.
Lạm phát quá cao trong những năm 1986 – 1988 dẫn đến cuộc sống của người dân lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thất nghiệp tăng cao trong khi giá cả leo thang.
Trước hoàn cảnh khó khăn như vậy, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách nhằm hạn chế mức siêu lạm phát. Năm 1989 đột ngột tăng lãi suất huy động lên đến 10% và 12%/tháng (144%/năm), lãi suất tiết kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm xuống còn xấp xỉ 4%/tháng và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các năm từ 1990 đến 1992 đồng thời cho phép mở rộng nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh vàng.
Cuối 1988 đầu 1989 thực hiện các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát bằng việc nới lỏng tỷ giá USD/VNĐ vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau một thời gian thì đổ bể. Kết quả từ những chính sách của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
Lạm phát đã giảm từ mức 3 con số trong 3 năm 1986 – 1988 đã giảm xuống 2 con số 95,8% năm 1989 và tiếp tục giảm xuống còn 36% năm tiếp theo. Một sự thần kỳ trong cắt giảm lạm phát ở Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã cao lên. Mặc dù, lạm phát tăng cao trong giai đoạn 1986 – 1992 làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp dưới 5% trong 3 năm 1986 – 1988 và đã tăng dần vượt trên 5% và đã đạt trên 8% trong nhưng năm 1992 – 1993.Năm 1992, giá vàng giảm 31,3%, giá USD giảm 25,8%… Năm 1992 lần đầu tiên đã xuất siêu… Tỷ lệ thất nghiệp cao trong giai đoạn cao đã có xu hướng bắt đầu giảm xuốn. Chỉ trong vòng 2 đến 3 tháng đầu năm 1989 số dư huy động tiết kiệm đã dâng cao hơn doanh số tiết kiệm luỹ kế trong 10 năm trước đó; nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu hội nhập trong khu vực và toàn cầu, giao lưu với các quốc gia trên thế giới.
Trong giai đoạn 1990 – 1991 các biện pháp được thực hiện quyết liệt hơn phương châm với ngân sách lấy thu bù chi, ngân hàng lấy vay cho vay, đưa lãi suất huy động 13% để hút tiền do đó lạm phát đã nhanh chóng bị đẩy lùi.
Tiêp theo chu kỳ của sự phát triển, nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1993 – 1997 đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng có xu hướng tăng cao và có thể nói cao nhất trong suốt những năm đổi mới cho đến nay với mức tăng trưởng luôn đạt trên 8% (8,1% năm 1993, 8,8% năm 1994, 9,5% năm 1995, 9,3% năm 1996 và 8,2% năm 1997). Tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 8,78%/năm. Nhờ đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ, dầu thô khai thác và xuất khẩu,... Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào giai đoạn ổn định và phát triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ 1977-1991 (8,77%/năm so với 4,07%/năm).
Lạm phát ngày càng được kiềm chế và hầu hết đạt mức 1 con số trừ năm 1995 là 16,9% (8,4% năm 1993, 9,5% năm 1994, 5,7% năm 1996 và 3,2% năm 1997). Trung bình cả giai đoạn 1993 – 1997 lạm phát tăng 8,74%/năm. Việc nội tệ bị đánh giá cao và áp dụng cơ chế tỷ giá cứng nhắc của chính phủ trong suốt giai đoạn từ 1992 – 1996 đã làm cho tỷ lệ lạm phát tăng suốt trong những năm 1993 – 1995 và đặc biệt trong năm 1995 mức lạm phát đã lại vượt 1 con số lên mức 16,9%.
Cùng với tốc độ tăng trưởng cao và lạm phát có xu hướng giảm, có thể kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm từ 10,5% năm 1993 xuống còn 5,7% năm 1996 và 6,01% năm 1997. Trung bình cả giai đoạn tỷ lệ thất nghiệp là 7,1%/năm. Số người thất nghiệp ở các đô thị chiếm tỷ lệ cao hơn thất nghiệp ở nông thôn - Năm 1989 tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố là 13, 2% và nông thôn là 4% thì tới năm 1996 đã có sự thay đổi: ở thành phố con số này là 8% và ở nông thôn là 4, 8%. Tỷ lệ thất nghiệp cao ở lứa tuổi thanh niên (từ 15 đến 30 tuổi), chiếm 85% tổng số người thất nghiệp và tăng dần.
Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997, lượng vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991-1996 thu hút 27,8 tỷ USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến 1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,...
Sau một giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng cao, năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á bắt đầu từ Thái Lan và lan nhanh sang các quốc gia khác.
Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã giảm xuống (9,3% năm 1996 xuống 8,2% năm 1997, 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì từ 1997 bị giảm liên tục, đến 1999 chỉ còn gần 2,6 tỷ USD. Kinh tế Việt Nam đang bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên cũng chịu ảnh hưởng những tác động tiêu cực của của khủng hoảng. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998 chỉ còn 1,9%. Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997 chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%.
Cuộc khủng hoảng cũng làm cho lạm phát ở Việt Nam tăng trong trong giai đoạn 1997 -1998. Với những chính sách tiền tệ đúng đắn, có chế tỷ giá xơ cứng đã được điều chỉnh đã mang lại những tác động to lớn làm cho lạm phát giảm trong những năm tiếp theo và đặc biệt giảm mạnh trong những năm 2000 – 2001.
Tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn này có xu hướng gia tăng, nó là do tác động của khủng hoảng kinh tế, sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy, lạm phát và thất nghiệp trong giai đoạn này có mối quan hệ chưa phải sâu sắc do thất nghiệp do tác động nhiều của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự sụt giảm tăng trưởng còn lạm phát giảm do thành tựu của chính sách tiền tệ nhiều hơn.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn so với mấy năm trước đó mức trung bình là 6,535%/năm, tăng liên tục qua các năm 5,88% năm 1996 lên 7,4% năm 1999 trong đó tỷ lệ lạm phát với nam cao hơn nữ nhưng tỷ lệ này dần đã có xu hướng ngược lại trong những năm tiếp theo.
Tình trạnh thiếu việc làm đầy đủ còn phổ biến. Quỹ thời gian làm việc trong năm mới sử dụng được hơn 2/3 năm 1998, tỷ lệ thời gian là được sử dụng ở khu vực nông thôn nói chung đã được nâng cao hơn sơ với năm 1997. Tính chung cả nước, tỷ lệ này đã tăng từ 72, 1% đến 72, 9%. Năm 1998, số người hoạt động kinh tế thường xuyên thiếu việc làm ở nông thôn đã giảm từ 27, 65% của năm 1997 xuống còn 25, 47% (26, 24%).
Một mặt, do độ mở cửa chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt trên dưới 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi…), do đã có dầu thô, gạo xuất khẩu; mặt khác do có sự chủ động ứng phó từ trong nước… nên Việt Nam không những không bị cuốn hút vào vòng xoáy, mà còn vượt qua được cuộc khủng hoảng này. Tăng trưởng kinh tế đã có xu hướng cao lên (2000 tăng 6,79%, 2001 tăng 6,89%). Giá tiêu dùng 1999 chỉ còn tăng 0,1%, 2000 còn giảm 1,7%, 2001 giảm 0,4%; giá vàng 1999 giảm 0,2%, 2000 giảm 1,7%; giá USD 1999 chỉ tăng 1,1%, 2000 tăng 3,4%. Xuất khẩu 1999 tăng 23,3%, 2000 tăng 25,5%. Năm 2000, Hiệp ước thương mại song phương Việt- Mỹ đã được ký kết. Việc ký kết Thoả thuận thương mại song phương (BTA) là một mốc quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. BTA khiến hàng hoá Việt Nam được hưởng quy chế Quan hệ thương mại bình thường (NTR) trên thị trường Hoa Kỳ. Khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ sẽ cho phép Việt Nam nhanh chóng tiếp tục quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế dựa trên sản xuất với định hướng xuất khẩu. Nó cũng khiến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ Châu Âu, Châu Á, và các vùng khác tăng thêm.
Tăng trưởng cao do ảnh hưởng tích cực từ việc ký kết thương mại đã cho tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 7,4% năm 1999 xuống còn 6,44% năm 2000 và 6,29% năm 2001. Công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn do đầu tư nước ngoài tăng, sản xuất trong nước và xuất khẩu ngày một phát triển cùng với một loạt các chính sách phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm của Nhà nước.
Lạm phát thời kỳ này giảm mạnh một phần cũng do hiệu quả của việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái cho phù hợp từ những năm 1997.
Cuộc khủng hoảng thứ ba xuất hiện từ Mỹ - nước vừa mới ký Hiệp định thương mại song phương với Việt Nam cuối năm 2000. Cuộc khủng hoảng này có dấu hiệu từ sau sự kiện 11/9/2001, cộng hưởng với cuộc khủng hoảng chu kỳ, cũng đã tác động đến kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu 2001 chỉ tăng 3,8%… Nhưng với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã vượt qua tác động lớn của cuộc khủng hoảng này. Tăng trưởng kinh tế đã liên tục cao lên (2002 tăng 7,08%, 2003 tăng 7,34%, 2004 tăng 7,79%, 2005 tăng 8,44%, 2006 tăng 8,23%).
Trong giai đoạn 2002 – 2007 Nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện những chính sách kích cầu để tăng trưởng do đó tăng trưởng thời kỳ này vẫn cao. Nhưng khi chấp nhận mức tăng trưởng cao kéo theo đó là lạm phát cũng tăng nhanh.
Lạm phát trong 2 năm 2002, 2003 ở mức thấp nhưng đến năm 2004 lạm phát ở mức cao từ 3,2% năm 2003 lên mức 7,71% năm 2004. Mặc dù dấu hiệu của lạm phát xuất hiện nhưng đã không có những giải pháp thỏa đáng, sự chủ quan từ phía Nhà nước cũng như nhận định của các nhà hoạch định về tỷ lệ lạm phát. Lạm phát tiếp tục leo thang trong năm 2005 lên mức 8,29%. Sang năm 2006 mặc dù đã giảm chút ít nhưng vẫn ở mức cao 7,48%, bình quân 6,1%/năm. Lạm phát tăng cao trong giai đoạn này có thể giải thích bởi các lý do: giá dầu trên thế giới bắt đầu có xu hướng tăng cao khiến giá xăng dầu trong nước và kéo theo đó là giá cả tất cả các mặt hàng có xu hướng tăng cao. Thêm vào đó dịch cúm gia cầm khiến giá cả nhiều mặt hàng khác cũng leo thang do dùng thay thế mặt hàng gà trong ngắn hạn. Cả 2 yếu tố này đã khiến cho giá cả leo thang.
Từ 1/10/06 Chính phủ tăng tiền lương tối thiểu của khối cán bộ công chức tại các DNNN với mức tăng 28,6%, cao hơn mức tăng 20,7% của năm 2005 theo Đề án cải cách tiền lương giai đoạn 2003 -2007, đồng thời điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu đối với khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng bình quân là 42% từ mức 487.000 – 626.000 lên mức 710.000 – 870.000 đồng/tháng. Đây là một nhân tố làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, từ đó tạo sức ép làm gia tăng lạm phát. Ở Việt Nam mức giá thường có xu hướng tăng trước và cao hơn so với sự gia tăng của tiền lương.
Chính sách kích cầu, đi liền và đòi hỏi ngân hàng tăng tín dụng đưa lạm phát đến mức báo động. Cả năm 2002, lạm phát là 3,9%, sau đó giảm xuống 3,10% năm 2003, tuy nhiên, từ năm 2004, lạm phát tăng mạnh trở lại ở mức 7,80%. Từ năm 2004 đến 2007, lạm phát ở VN đã cao hơn các nước láng giềng ngoại trừ Indonesia, một quốc gia đang đối mặt với những vấn đề kinh tế, chính trị nghiêm trọng, năm 2004 CPI là 9.5%, 2005 là 8.4%, năm 2006 là 6.6%. Giai đoạn từ 2005 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng – mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 – 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó.
Tăng trưởng cao, nền kinh tế với những ưu đãi của Nhà nước đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp từ 6,01% năm 2002 xuống còn 4,82% năm 2006. Trung bình cả giai đoạn 5,566%/năm. Năm 2006 số lao động trong lực lượng lao động ước tính là 43,44 triệu người tăng 2,1% so với năm 2005. Tỷ lệ thất nghiệp đạt 4,4% theo xu hướng giảm trong suốt giai đoạn 2002 – 2006. Chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng giúp tăng thêm thu nhập, tăng đầu tư, sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong nước đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho nền kinh tế giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong cơ cấu tỷ lệ thất nghiệp, khu vực Tây Nguyên, Đồng bằng song Cửu Long và Tây Bắc vẫn ở mức thấp nhất cả nước năm 2006 tỷ lệ thất nghiệp tương ứng là 4,2% và 4,9%. Các vùng khác tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn khá cao như Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ là 5,6%; Duyên hải Nam Trung bộ 5,5%; Bắc Trung Bộ 5%; Đông Bắc 5,1%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng và đạt mức 8,48% cao nhất từ trước đến nay, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,64% năm 2007. Nhưng sang năm 2008, tốc độ tăng trưởng đã giảm xuống còn 6,23% do ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.
Nhưng đánh đổi với tốc độ tăng trưởng cao, cùng với ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm cho mức lạm phát ở Việt Nam đã vượt mức 1 con số lên 12,63% năm 2007.
Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả những năm sau.
Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
Năm 2007 cũng là mốc đánh dấu quan trọng Việt Nam gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO, do đó việc tác động của các cú sốc từ bên ngoài cũng tác động rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, trong đó có sự gia tăng mức lạm phát ở Việt Nam trong những năm 2007 và kéo dài đến năm 2008. Năm 2008 lạm phát ở mức 22,97% - cao nhất từ năm 2000 trở lại đây.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giảm sút; tiêu thụ sản phẩm chậm, hàng hóa ứ đọng, kể cả các vật tư quan trọng, lương thực và nhiều nông sản xuất khẩu có khối lượng lớn; số người mất việc làm năm 2008 khoảng 667.000 người, 3.000 lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn. Theo Bộ Lao Động, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam vào khoảng 4,65%. Tức là khoảng hơn 2 triệu lao động không có việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp trong 2 năm 2007 – 2008 đã có xu hướng tăng nhẹ 0,1%. Danh sách các doanh nghiệp giải thể, tạm ngưng hoạt động, thu hẹp sản xuất ngày càng dài thêm trong các báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Xét về cơ cấu, trong năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp Đồng bằng Sông Hồng vẫn chiếm tỷ lệ cao 5,35% tiếp theo đó là khu vực Đông Nam Bộ với 4,89%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 4,77%; thấp nhất là vẫn là khu vực Tây Nguyên với 2,51%. Theo TS.Nguyễn Thị Lan Hương, thuộcViện khoa học lao động và xã hội khẳng định, năm 2008 tổng việc làm mới được tạo ra chỉ là 800.000 so với khoảng 1,3 triệu việc làm mới được tạo ra trong năm 2007. Nhiều ngành sử dụng nhiều lao động có tốc độ tăng việc làm cao bị ảnh hưởng rõ rệt từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra khoảng 50% việc làm trong hệ thống doanh nghiệp nói chung, mỗi năm tăng thêm khoảng 500.000 lao động. Tuy nhiên trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm nhân sự.
Trước lạm phát leo thang lên mức 22,97% năm 2008 Nhà nước ta đã có nhiều chính sách để cắt giảm lạm phát đưa về mức 1 con số và có thể kiểm soát được, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, mục tiêu xa hơn đó là sự phát triển kinh tế bền vững. Trong giai đoạn này gói gồm 8 nhóm giải pháp đã được thực hiện và đã đạt được nhiều hiệu quả trong thực tế: Tiết kiệm chi tiêu gần 3000 tỷ đồng để đầu tư các vấn đề xã hội trong đó có vấn đề tạo thêm công ăn việc làm; kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu, đẩy mạnh xuất khẩu từ đó đẩy mạnh sản xuất trong nước, giúp các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm cân đối cung cầu đặc biệt coi trọng lĩnh vực nông nghiệp, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh đẩy mạnh hoạt động sản xuất đảm bảo cân đối cung cầu. Cấp hơn 7300 tỷ đồng đảm bảo các vấn đề xã hội như tạo thêm công ăn việc làm, đảm bảo điều kiện cuộc sống, tăng cường sức khỏe nhân dân tạo ra được đội ngũ việc làm có cả thể lực và trí lực.
Bên cạnh đó là hàng loạt các chính sách tài chính và tiền tệ, các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát như tăng hạn mức tín dụng, kiềm chế tăng giá cả của các mặt hàng trong đó có mặt hàng lương thực và năng lượng.
Những chính sách của Nhà nước trong kiềm chế lạm phát năm 2007 kéo dài đến 2008 đã đạt được nhiều thành tựu trong cuối năm 2008, đặc biệt kết quả năm 2009. Lạm phát đã giảm từ 2con số xuống còn 1 con số 6,88% giảm đến 16,09%. Như vậy có thể thấy lạm phát năm 2009 giảm một cách đáng ngạc nhiên như vậy bởi các lí do sau:
Một là, khủng hoảng tài chính thế giới đã, đang và sẽ còn đẩy giá cả hàng hoá thế giới chìm vào cơn sốt lạnh rất sâu, cho nên thị trường trong nước không thể không hạ nhiệt theo thị trường thế giới.
Trước hết, các số liệu thống kê của IMF cho thấy, nếu như năm 2003 giá nguyên liệu thế giới chỉ tăng 11,5%, thì 5 năm trở lại đây sốt nóng hầu như liên tục gia tăng: năm 2004 tăng 23,9%; năm 2005 tăng 24,2%; năm 2006 tăng 20,7%; năm 2007 tăng 11,9% và ước tính năm 2008 tăng kỷ lục 28,7%.
Thế nhưng, trước xu thế bắt đầu manh nha giảm từ tháng 8 vừa qua, tháng 10 IMF dự báo giá nguyên liệu thế giới trong năm 2009 sẽ chỉ giảm nhẹ 6,2%, nhưng chính trong tháng này giá nguyên liệu thế giới bất ngờ rơi tự do 21,6%, đầu tháng 11 định chế tài chính quốc tế này đã đưa ra một dự báo gây chấn động dư luận quốc tế rằng, giá nguyên liệu thế giới trong năm 2009 sẽ rơi tự do 21,4%.
Việc giá dầu mỏ thế giới liên tục giảm buộc giá trong nước cũng phải sớm giảm theo, còn giá những hàng hoá và dịch vụ có liên quan chẳng chóng thì chầy chắc chắn cũng sẽ buộc phải giảm theo.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, thay vì bị lạm phát do chi phí đẩy ngày càng mạnh liên tục trong nhiều năm qua, việc giá nguyên liệu nhập khẩu sẽ còn tiếp tục giảm mạnh trong thời gian tới sẽ làm triệt tiêu nguyên nhân gây lạm phát đặc biệt quan trọng này.
Hai là, bên cạnh những tác động rất mạnh của việc giá cả thế giới rơi tự do như vậy, xuất khẩu hàng hoá của ta trong năm 2009 sắp tới chắc chắn sẽ còn gặp những khó khăn gay gắt hơn nhiều, cho nên cũng sẽ góp phần tạo ra sức ép giảm giá trong nước.
Sở dĩ như vậy là bởi lẽ, cùng với giá cả rơi tự do, nhập khẩu hàng hoá, đặc biệt là của các trung tâm kinh tế thế giới, những thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của nước ta, sẽ “chạm đáy” với mức tăng trưởng “âm” 0,1% trong năm 2009 sắp tới, trong khi năm 2008 ước tính vẫn còn tăng 1,8%; năm 2007 tăng 4,5%; năm 2006 tăng 7,5%...
Về phương diện này, mặt hàng gạo xuất khẩu có lẽ là một thí dụ tiêu biểu nhất. Giá gạo thế giới liên tục giảm mạnh khiến hoạt động xuất khẩu ngày càng gặp khó khăn, tạo sức ép giảm giá trong nước ngày càng lớn.
Ba là, về phía thị trường trong nước, một tác nhân rất quan trọng gây lạm phát phi mã trong thời gian qua đã và sẽ tiếp tục được loại trừ.
Đó là, nếu quan sát những diễn biến của giá tiêu dùng trong 23 tháng (từ tháng 1/2007 đến tháng 11/2008) có lạm phát cao, 18 tháng đầu tiên là thời đoạn giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống liên tục tăng mạnh, cho nên tỷ trọng trong tổng mức tăng của giá tiêu dùng của nhóm hàng này đã từ 46,10% tăng lên mức kỷ lục 71,17%, nhưng từ đó đến nay đã liên tục giảm, cho nên tỷ trọng này hiện chỉ còn 67,95% (tỷ trọng tương ứng của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại là 53,90%; 28,53% và 32,05%).
Có thể nói, nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến bước ngoặt trong diễn biến giá cả này chính là việc chúng ta liên tục được mùa lúa chưa từng có từ đầu năm đến nay khiến giá lương thực từ tháng 7 đến nay đã liên tục giảm và việc bảo đảm an ninh lương thực trong nước tốt hơn trong thời gian tới sẽ khiến chúng ta không còn phải đối mặt với lạm phát cao bắt nguồn từ tác nhân nội sinh rất quan trọng này.
Bốn là, cho dù chúng ta sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% trong năm tới, nhưng đây cũng sẽ vẫn là năm thứ hai tụt dốc, cho nên lạm phát do cầu kéo sẽ tiếp tục suy yếu thêm.
Sở dĩ như vậy là bởi lẽ, nếu như trong tám năm 2000-2007, việc hầu như liên tục duy trì được đà tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước đồng nghĩa với tốc độ tăng thu nhập của quảng đại các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao, sức mua của thị trường trong nước ngày càng mạnh, thì ngược lại, sự suy giảm tốc độ tăng liên tiếp trong hai năm 2008-2009 lại đồng nghĩa với tốc độ tăng thu nhập giảm, sức mua giảm khiến giá cả không thể tăng mạnh.
Không những vậy, việc giá cả không thể tăng mạnh còn bắt nguồn từ nguyên nhân “kép” khác. Đó là, sau một khoảng thời gian lạm phát phi mã quá dài, sức mua của một bộ phận không nhỏ dân cư đã bị suy kiệt và khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển khó khăn, công ăn việc làm của bộ phận dân cư này trở nên khó khăn hơn, thu nhập giảm sẽ khiến sức mua giảm.
Tiếp theo, trong điều kiện xu thế giá cả giảm ngày càng mạnh và kéo dài, tâm lý “thắt lưng buộc bụng” của một bộ phận rất lớn dân cư sẽ mạnh hơn và điều này cũng khiến sức mua xã hội giảm.
Việc tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong thời kỳ sốt lạnh những năm cuối thập kỷ trước và đầu thập kỷ này chỉ dao động xung quanh ngưỡng 10%, tức là chưa bằng một nửa của những năm nền kinh tế đang trên đà tăng tốc gần đây và cũng chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng của năm lạm phát tăng phi mã 2008 đủ cho thấy điều đó.
Nói tóm lại, trong điều kiện hội đủ các yếu tố tiền tệ, chi phí đẩy và cầu kéo đều mạnh như năm 2007 và năm 2008, lạm phát của nước ta đã tăng phi mã, còn trong năm 2009 sắp tới, khi cả ba yếu tố này không còn, chí ít là sẽ bị suy yếu rất nhiều, thì không có lý gì lạm phát sẽ cao ngất ngưởng ở mức hai con số.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính từ cuối năm 2007 kéo dài đến năm 2008, tăng trưởng kinh tế vẫn có xu hướng giảm năm 2009 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,2%. Từ cuối năm 2008, nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng Nhà nước đã chuyển sang thực hiện nhiều chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng, vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo an ninh xã hội. Thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng để mở rộng và phát triển sản xuất việc làm đã được tạo ra nhiều hơn. Nhưng các chính sách này cần có độ trễ nên hiện tại tỷ lệ thất nghiệp trong năm 2009 vẫn ở mức 4,66%. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đã thu hẹp sản xuất, giảm đầu tư do đó lượng lao động trong doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm xuống. Lực lượng lao động thất nghiệp thường trở về dạng bán thất nghiệp có công việc nhưng thu nhập thấp hơn nên tỷ lệ thất nghiệp còn chưa được chính xác.
Các thảo luận về mối quan hệ giữa lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2009 qua nghiên cứu
1. Nhìn nhận tổng quan về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong giai đoạn 1986 – 2009?
Xét về dài hạn, theo các chuyên gia kinh tế và các nhà hoạch định chính sách không có mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát ở Việt Nam.
Trong từng giai đoạn ngắn, có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp; Việt Nam chủ yếu theo chủ trương tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh trong suốt giai đoạn nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng cái giá phải trả cũng rất lớn, lạm phát gia tăng nhanh. Điều này không chỉ đối với Việt Nam mà hầu hết các nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, nếu không có chính sách phát triển hợp lý sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng và Thái Lan là một bằng chứng rõ ràng nhất. Một số giai đoạn ngắn như những năm mới bắt đầu đổi mới, hoặc những năm Nhà nước thực hiện cắt giảm lạm phát tăng cao thì nền kinh tế cũng có sự sụt giảm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
2. Có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam trong ngắn hạn?
Như những nhìn nhận chung về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp ở Việt Nam, có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn ở Việt Nam, nhưng nếu do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng của giá cả năng lượng như dầu mỏ thì hầu như lạm phát và thất nghiệp không có mối quan hệ với nhau. Trong những giai đoạn này, mặc dù tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh nhưng nền kinh tế cũng sụt giảm nhanh và tỷ lệ thất nghiệp vẫn tăng cao qua các năm. Việc đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp hầu như phục thuộc rất lớn vào yếu tố bên trong, mà quan trọng đó là các chính sách vĩ mô phát triển kinh tế của Nhà nước. Để cắt giảm lạm phát nhanh chóng, đưa lạm phát về mức hợp lý cho sự phát triển kinh tế Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tài khóa thắt chặt kéo theo đó tăng trưởng kinh tế sẽ thấp và tỷ lệ thất nghiệp lại gia tăng do ảnh hưởng của các chính sách này và ngược lại.
3. Trong giai đoạn 1986 – 2009 để đạt được các mục tiêu Nhà nước đã sử dụng những chính sách gì? Hiệu quả của các chính sách đó đối với việc đạt các mục tiêu đặt ra và tác động mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước thực hiện những mục tiêu khác nhau có thể là tăng trưởng kinh tế cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm; cắt giảm lạm phát nhằm phát triển kinh tế ổn định, đảm bảo cuộc sống người dân … Với những mục tiêu khác nhau Nhà nước thực hiện các chính sách khác nhau để đạt được các mục tiêu đặt ra với việc sử dụng hiệu quả các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, các chính sách khác liên quan đến tạo việc làm … Xét một cách toàn diện, trong giai đoạn từ 1986 – 2009 những chính sách Nhà nước đưa ra đã đạt được nhiều thành tựu bên cạnh một số hạn chế nhỏ khác. Nền kinh tế Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực, cắt giảm lạm phát đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô như việc đưa con số lạm phát từ mức 3 con số về mức 2 con số và dần 1 con số hay việc cắt giảm thành công lạm phát tăng cao trong 2 năm 2007, 2008 xuống còn 6,88% năm 2009.
Dự đoán mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp giai đoạn 2010 - 2020
Mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2015 đó là tiếp tục thực hiện kiềm chế lạm phát, đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo đời sống nhân dân. Nhưng giữa lạm phát và tăng trưởng trong ngắn hạn luôn có sự đánh đổi, chính vì thế việc chính phủ đặt ra quá nhiều mục tiêu cùng một lúc và muốn đạt hiệu quả của tất cả các mục tiêu là rất khó thực hiện.
Nhằm khắc phục lạm phát gia tăng cao trong 2 năm 2007 và 2008, Chính phủ đã thực hiện tốt các chính sách cắt giảm lạm phát và đã phải đánh đổi bằng tốc độ tăng trưởng đã giảm xuống còn 5,32% năm 2009. Năm 2010, Chính phủ tiếp tục kiên trì mục tiêu giữ vững tốc độ tăng trưởng 6,5% và nới lỏng chỉ tiêu lạm phát ở mức 8%. Tình hình kinh tế xã hội những tháng đầu năm đã có những chuyển biến tích cực, an sinh xã hội bảo đảm, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, song Chính phủ nhìn nhận tình hình kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, nhiều thách thức mới nảy sinh đòi hỏi theo dõi chặt chẽ và phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Trong đó thách thức lớn nhất là nhập siêu đang gia tăng, cán cân thanh toán khó khăn, nguy cơ lạm phát quay trở lại, lãi suất vẫn ở mức cao hạn chế khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Trong khi đó, hệ thống các định chế tài chính chưa lành mạnh, tính công khai, minh bạch thấp. Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội và bù đắp bội chi ngân sách gặp khó khăn.
Ngoài nguyên nhân khách quan, Chính phủ thừa nhận công tác chỉ đạo, điều hành vĩ mô còn hạn chế, phản ứng chính sách trong quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản còn lúng túng và chậm. Trong khi đó, quản lý, điều hành giá một số mặt hàng chưa linh hoạt. Việc xử lý những vấn đề xã hội bức xúc như nạn chặt phá và cháy rừng, lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, tai nạn và ùn tắc giao thông, chất lượng giáo dục và khám chữa bệnh,... hiệu quả chưa cao.
Trong giai đoạn 2010 – 2015, tiếp tục kiên trì mục tiêu cắt giảm lạm phát trước mắt, do đó phải hy sinh tốc độ tăng trưởng, tăng tỷ lệ thất nghiệp. Chính sách Nhà nước còn chưa đạt được sự tin tưởng của người dân, do đó các chính sách đặt ra là chưa thực sự đạt hiệu quả cao, việc thực hiện kiềm chế lạm phát sẽ còn phải hy sinh một mức thất nghiệp cao, việc đạt được mức độ hy sinh hợp lý là rất khó khăn.
Giai đoạn 2015 – 2020, sau khi nền kinh tế đã vượt qua được khủng hoảng kinh tế thành công sẽ tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục tăng cao. Bên cạnh đó, việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng không nhỏ của nền kinh tế toàn cầu do đó lạm phát sẽ tăng cao.
Một số đề xuất, kiến nghị đối với việc cắt giảm tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015
Các giải pháp kiềm chế lạm phát
Để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, hướng đến mục tiêu đã đề ra (nền kinh tế tăng trưởng bền vững, lạm phát được kiểm soát), nước ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính chất dài hạn cũng như các giải pháp trong ngắn hạn trên 3 phương diện: nhà nước, doanh nghiệp và các hiệp hội.
Các giải pháp trong ngắn hạn
Chúng ta nhận thấy lạm phát nước ta xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn do lượng tiền trong lưu thông quá nhiều. Vì vậy phải phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các chính sách, nhất là giữa chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
- Về chính sách tiền tệ: Tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc, phát hành các tín phiếu bắt buộc là những biện pháp cần thiết nhưng cùng lúc áp dụng cả 3 chính sách sẽ không tránh khỏi những tác động gây rối loạn thị trường tiền tệ. Trong điều hành chính sách tiền tệ, mọi biện pháp đưa ra phải đáp ứng tiêu chuẩn bắt buộc là tính linh hoạt. Việc hút tiền về lúc này là hợp lý nhưng trong quá trình này phải đảm bảo thị trường giữ được tính thanh khoản cao (khả năng thanh toán của nền kinh tế cao).
- Khuyến khích sản xuất để tăng cung hàng hóa đồng thời phải nâng cao chất lượng của sản phẩm. Đối với Việt Nam, lương thực thực phẩm vẫn là mặt hàng quan trọng vì vậy việc tìm cách khắc phục tình trạng thời tiết khắc nghiệt để thúc đẩy sản xuất cũng rất quan trọng.
- Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ ngoài vào.
- Chính sách tài khóa: thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt bằng cách giới hạn đầu tư để giảm “sốt”, đặc biệt ở lĩnh vực công nơi mà hiệu quả đầu tư rất thấp và độ thất thoát cao. Nhà nước cũng cần có chính sách sàng lọc những đầu tư nước ngoài và chỉ chấp nhận những đầu tư có hiệu suất tăng trưởng kinh tế cao và phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hạn chế mức chi tiêu tối thiểu của ngân sách nhà nước.
- Rà soát lại các hạng mục đầu tư và Nhà nước chỉ đầu tư những dự án thật cần thiết, tạo điều kiện tối đa cho đầu tư khu vực ngoài nhà nước vào những lĩnh vực có thể thay thế, hạn chế tối đa chi từ vốn vay nợ nước ngoài, giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách xuống theo tỷ lệ quốc tế.
- Hoạt động trên thị trường mở, phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, không chỉ là trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ, mà còn cho phép các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp có uy tín, có nhu cầu ngoại tệ chính đáng được phép phát hành để huy động ngoại tệ trôi nổi trong nền kinh tế và cả lượng ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang được coi là "thừa". Đây là giải pháp có tác dụng kép: vừa hút được USD về, vừa tránh đưa tiền đồng ra lưu thông tạo sức ép lạm phát, vừa ổn định được tỷ giá.
Những giải pháp trong dài hạn
Trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh kiềm chế và đẩy lùi lạm phát tuy đã thu được kết quả nhất định, nhưng kết quả chưa thật vững chắc và nguy cơ tái lạm phát cao vẫn còn tiềm ẩn.
- Các biện pháp tiền tệ và tín dụng: Chính phủ cần thực hiện các chính sách tiền tệ hợp lý, điều chỉnh một cách linh hoạt theo biến đổi của thị trường. Các công cụ của chính sách tiền tệ (lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc…) phải được sử dụng nhạy bén với diễn biến cung cầu hàng hóa và giá cả thị trường.
+ Cần tính toán tổng lượng tiền của ngân hàng trung ương phù hợp với sự khống chế mức tăng tổng phương tiện thanh toán.
+ Bên cạnh khống chế dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ở mức vừa phải, bảo đảm sử dụng đồng vốn có hiệu quả, thì phải nâng cao chất lượng tín dụng và thu hồi được nợ. Đẩy mạnh việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty của bộ tài chính và các doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước cần chuẩn bị tốt công tác phát hành tín phiếu ngân hàng để bán ra thị trường thu hút tiền dư thừa trong lưu thông khi có dấu hiệu lạm phát gia tăng.
+ Bảo đảm việc mua bán ngoại tệ được thực hiện ổn định ở các tổ chức tín dụng. Tỷ giá hối đoái phải được điều chỉnh theo cung cầu và diễn biến của thị trường ở mức hợp lý, theo cung cầu và diễn biến của thị trường bảo đảm khuyến khích phát triển sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định tiền tệ, làm lành mạnh cán cân thanh toán.
+ Tái cấp vốn ở mức hợp lý, mức lãi suất tái cấp vốn thực hiện theo hướng nâng cao hiệu quả tín dụng và làm cơ sở để điều chỉnh lãi suất thị trường. Phải chú trọng tới yêu cầu tái cấp vốn tối đa không vượt quá mức cung ứng dành cho mục tiêu cung ứng phương tiện thanh toán trong năm.
+ Lãi suất điều hành phải linh hoạt, theo sát cung cầu vốn phục vụ phát triển và tăng trưởng kinh tế, bảo đảm đáp ứng yêu cầu huy động vốn và kiềm chế lạm phát.
- Chính sách tài khóa:
+ Giữ mức bội chi ngân sách nhà nước ở mức hợp lý so với GDP trên cơ sở phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi và hiệu quả. Quản lý chặt chẽ các khoản thu, kiên quyết quyết liệt chống tham nhũng.
+ Đi đôi với việc nghiên cứu chính sách thuế. Vì mỗi một chính sách thuế đều ảnh hưởng đến giá cả, gián tiếp ảnh hưởng tới lạm phát
+ Thực hiện nghiêm túc tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, tổ chức sử dụng vốn ngân sách nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả và phải chịu trách nhiệm đối với khoản chi sai làm thất thoát tài sản và những khoản chi lãng phí, phô trương hình thức.
+ Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao năng suất lao động, chống thất thoát, lãng phí vốn tài sản nhà nước.
+ Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường và tăng cường hiệu quả sử dụng công cụ chính sách vĩ mô, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn và thực hiện cải cách và hoàn thiện lĩnh vực hành chính.
Giải pháp tăng trưởng việc làm
Giải pháp về vấn đề kinh tế
Giải pháp về kinh tế là giải pháp chủ yếu để tăng cầu lao động, là giải pháp cơ bản và có hiệu quả giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới. Giải pháp này với mục đích hướng vào tăng trưởng kinh tế, tăng cầu lao động từ đó dẫn đến tăng việc làm:
+ Phát triển toàn diện khu vực nông thôn: Các chương trình phát triển khu vực nông thôn cần phải được khuyến khích tập trung vào việc tạo thu nhập cho khu vực nông thôn, tăng số công ăn việc làm, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng (điện, đường, trương, trạm) đồng thời cung cấp các tiện nghi khác cho nông thôn.
Phát triển toàn diện khu vực nông thôn trước hết phải nhận thức được tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp vẫn là hình thức sản xuất chính nhưng phải dần chuyển đổi từ hình thức sản xuất nông nghiệp nhỏ lên sản xuất lớn, tập trung nâng cao năng suất hiệu quả lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
+ Phát triển khai thác các yếu tố tăng việc làm tự thân: Khu vực việc làm tự thân bao gồm những chủ doanh nghiệp độc lập, chủ cửa hàng, cửa hiệu tự hạch toán, người làm thường xuyên và không thường xuyên nghề tự do, các thành viên gia đình…làm việc tuỳ theo nhu cầu sử dụng vốn và nhu cầu hàng hoá và dịch vụ.
+ Mở rộng các ngành sản xuất có qui mô nhỏ, lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động
Nhóm giải pháp về chính sách
+ Chính sách về dân số: Thực hiên xã hội hoá công tác kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Thực hiện phân bố lại dân cư, lao động trên địa bàn từng địa phương cũng như phạm vi toàn quốc là giải pháp quan trọng nhằm thay đổi qui mô cơ cấu dân số, lao động tạo nên sự hợp lí giữa các vùng miền
+ Xuất khẩu lao động và chuyên gia: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước… Nâng cao trình độ nghiệp vụ cơ quan làm dịch vụ xuất khẩu lao động, khắc phục tình trạng người lao động vốn nghèo khổ đi làm thuê mà còn bị lừa gạt.
+ Gắn kết giáo dục, đào tạo với công việc làm. Tăng qui mô đào tạo, đặc biệt là đào tạo tay nghề. (Theo số liệu kết quả điều tra lao động việc làm năm 2005, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 76%, gần 98% lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo chuyên môn… Vì thế cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại để có việc làm ổn định lâu dài. )
Nhóm giải pháp về tăng cường quản lí của Nhà nước và sự phối hợp của các tổ chức Đoàn thể trong việc giải quyết việc làm
+ Quản lí yếu tố giá cả, tiền lương, phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Đây là giải pháp tác động gián tiếp đến việc làm
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng Ngân sách nhà nước trong việc giải quyết việc làm bằng việc tiến hành cải cách chính sách thuế cũng như đầu tư khuyến khích phát triển các ngành nghề có thể thu hút được nhiều lao động, khoản chi y tế trong chi tiêu thường xuyên của ngân sách nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sức khoẻ cho nhân dân và nâng cao chất lượng lao động.
+ Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ việc làm, thông qua các trung tâm dịch vụ việc làm. Có chính sách đầu tư cơ sở vật chất cho các trung tâm dịch vụ việc làm, giới thiệu việc làm của các hội đoàn thể, và nâng cao năng lực hoạt động của các trung tâm này. Các trung tâm này phải có cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực và có kinh nghiệm nghề nghiệp.
+ Tăng cường tổ chức Hội chợ việc làm hàng năm để các cơ quan quản lý lao động quảng bá, thông tin nhu cầu về việc làm, các DN và các trung tâm dạy nghề có điều kiện trực tiếp tiếp xúc với người lao động, tuyển sinh, tuyển lao động.
+ Có chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi và có chính sách thuế phù hợp cho các DN phát triển sản xuất, giải quyết được nhiều lao động. Khuyến khích, hướng nghề, hướng nghiệp, mở các cơ sở sản xuất, ngành nghề ở nông thôn nhằm thu hút lao động tại chỗ, để hạn chế áp lực lao động đổ vào thành phố, gây áp lực về môi trường, nhà ở và phát sinh các tệ nạn xã hội, nhất là khi người lao động thất nghiệp.
+ Có chính sách hỗ trợ cho người lao động có điều kiện học nghề. Cần điều chỉnh chính sách hỗ trợ của tỉnh vì định mức cho mỗi người lao động nghèo học nghề còn quá thấp hiện nay. Nên quy định thời gian, mức trả công và có sự ràng buộc giữa người học nghề với giới chủ. Các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật về lao động, có như vậy người lao động vừa không bị thiệt về quyền lợi mà còn làm cho người lao động càng thêm gắn bó xây dựng DN.
Những hạn chế nghiên cứu và các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Những hạn chế nghiên cứu
a. Hạn chế trong xây dựng mô hình nghiên cứu và thông tin số liệu nghiên cứu
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong giai đoạn 1986 – 2009 là khá dài do đó việc tìm kiếm các thông tin và số liệu liên quan một cách đầy đủ và chi tiết còn nhiều hạn chế. Những thông tin trong đó: nguồn lực thực hiện các chính sách với các mục tiêu vĩ mô đặt ra trong cả giai đoạn, thông tin sự biến động bên trong của tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát còn nhiều khó khăn.
Việc xây dựng một mô hình kinh tế lượng nghiên cứu trực tiếp mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp còn khó khăn. Việc phân tích vẫn chủ yếu dựa trên cách phân tích cơ bản với những mô hình thông dụng mới chỉ đánh giá được phần nào mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
b. Hạn chế về thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu đề tài không nhiều do đó việc thu thập, phân tích và đánh giá một cách đầy đủ chính xác các thông tin, số liệu từ đó đưa ra được mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp còn nhiều khó khăn.
c. Hạn chế về trình độ nghiên cứu
Trình độ nghiên cứu còn hạn chế, khả năng phân tích, đánh giá còn chưa xứng tầm với đề tài nghiên cứu nên phân tích còn sơ sài, khả năng nhìn nhận dự báo còn nhiều khó khăn.
d. Hạn chế từ bên ngoài
Thông tin, số liệu thu thập được còn có một khoảng chênh nhất định nên không tránh khỏi phân tích thiếu chính xác.
Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Lạm phát, thất nghiệp và quan trọng hơn cả đó là mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp luôn là vấn đề nóng hổi cần có sự quan tâm của các chuyên gia kinh tế, các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu. Phân tích, đánh giá đúng được mối quan hệ này sẽ giúp việc đưa ra các quyết định mang tính vĩ mô hiệu quả hơn, đánh giá sâu xát hơn về lợi ích thu được cũng như cái giá phải trả cho mỗi quyết định.
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp cần được lượng hóa trên mô hình kinh tế lượng qua đó lượng hóa được mối quan hệ này bằng các con số cụ thể, xác định được mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố với nhau, ảnh hưởng của các nhân tố khác đến mối quan hệ này như các chính sách, ảnh hưởng của khủng hoảng…Việc xây dựng mô hình có thể dựa trên quan niệm của nhà kinh tế A.W.Philips hoặc Friedman và Phelps về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
Đề tài cần đi sát với từng giai đoạn trong thực tế, đặc biệt trong thời đại hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang dần có xu hướng phục hồi, chính sách vĩ mô có nhiều thay đổi do đó mối quan hệ này cũng sẽ thay đổi.
Nhà nước, các nhà nghiên cứu cần đầu tư nhiều hơn nhằm nghiên cứu, đánh giá được mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp từ đó đưa ra được các giải pháp hữu hiệu điều chỉnh mối quan hệ này theo hướng tích cực, đạt được các mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn cụ thể.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Ngọc, Bài giảng kinh tế vĩ mô, NXB Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2009
Niên giám thống kê các năm 1992, 1993, 1995, 2000, 2005, 2006, NXB Thống kê
TS.Nguyễn Trọng Hoài, Ổn định lạm phát – cái giá phải trả
Đỗ Văn Tính, Thất nghiệp tại Việt Nam
Nguyễn Văn Phúc, Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, Khoa Kinh tế, Đại học Mở TP HCM
PGS.TS Nguyễn Quang Hiển, Thị trường lao động: thực trạng và giải pháp, NXB Thống kê, Hà Nội, 1991
ThS. Nguyễn Thị Thu, Mai Thị Trang, Đánh giá về lạm phát năm 2006, dự báo năm 2007, Vụ CSTT, NHNN
PGS.TS Trần Hoàng Ngân, Ths. Võ Thị Tuyết Anh, Lạm phát, nguyên nhân và giải pháp
Nguyễn An Lương, Một số nhìn nhận về nguyên nhân lạm phát Việt Nam 2007, Vụ CSTT, NHNN
Harvard Kennedy School 3rd_paper, Nguyên nhân sâu xa về mặt cơ cấu của bất ổn kinh tế vĩ mô,
Các Trang Web tham khảo và lấy số liệu:
o www.worldbank.org.vn
o www.gso.gov.vn
o www.sbv.gov.vn
o www.imf.org
o www.adb.org
o www.vneconomy.vn
o www.bvsc.com.vn
o
o www.vnexpress.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- minhhoan.doc