MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư và lạm phát 3
A- Tổng quan về đầu tư và lạm phát 3
I- Đầu tư 3
1. Khái niệm 3
2.Phân loại đầu tư 3
2.1. Hoạt động đầu tư tài chính 3
2.2. Hoạt động đầu tư thương mại 4
2.3. Hoạt động đầu tư phát triển 4
II. Lạm phát 5
1 Khái niệm lạm phát 5
2 Phân loại lạm phát 6
3- Nguyên nhân của lạm phát. 8
4- Tác động của lạm phát 8
B/ LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ LẠM PHÁT 10
I/ Lạm phát tác động đến đầu tư 10
1. Gây sụt giảm nhu cầu đầu tư 10
2. Phá hoại hiệu quả tính toán của các dự án, giảm hiệu suất và rối loạn các dự án đang hoạt động. 15
2.1 Phá vỡ hiệu quả tính toán tài chính của các dự án đầu tư 15
2.3 Áp lực gia tăng lương nhân công cao, trong khi đó giá thành sản phẩm đã cố định hoặc tăng cao gây khó tiêu thụ 17
2.4 Đình đốn các dự án đang hoạt động, hoặc phá sản, rút vốn dẫn tới sụp đổ thị trường, rối loạn nguồn cung, cầu. 18
3. Gây mất cân đối cơ cấu đầu tư, tăng xu hướng đầu cơ trục lợi 18
3.1 Tăng đầu tư vào các ngành không ưu tiên, hoặc không có hiệu quả sau khi lạm phát. 18
3.2 Tăng tâm lý đầu cơ, sử dụng vốn theo hướng ngắn hạn. 19
4. Gây ra môi trường đầu tư mất ổn định (mất tính hấp dẫn của môi trường đầu tư) 20
4.1 Giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng, làm môi trường đầu tư mất hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài 20
4.2 Giá thành các nguồn lực đầu vào làm giảm tính cạnh tranh của môi trường đầu tư 20
5. Suy giảm, phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư 21
II/ Đầu tư tác động đến lạm phát: 22
1. Ngắn hạn – đầu tư thúc đẩy gia tăng lạm phát: 22
1.1 Kích thích, gia tăng tổng cầu – Lạm phát do cầu kéo: 22
1.2 Tăng lượng cung tiền – Lạm phát do cung ứng tiền tệ : 24
1.3 Kích thích xuất nhập khẩu – Lạm phát do xuất nhập khẩu : 24
1.4 Đầu tư dàn trải – Lạm phát do cơ cấu : 25
2. Ảnh hưởng dài hạn – Đầu tư giúp bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát : 25
2.1 Sự gia tăng nguồn cung trong dài hạn : 25
2.2 Hoàn chỉnh cơ cấu kinh tế, hạn chế các cú sốc cung gây ra lạm phát : 26
Chương III : Thực trạng mối quan hệ đầu tư và lạm phát ở Việt Nam hiện nay ( giai đoạn 2007 – 2009 ) 28
A. Thực trạng đầu tư, lạm phát trong các năm gần đây. 28
I. Thực trạng lạm phát trong các năm 2007 - 2009 28
1. Thực trạng lạm phát 28
1.1. Lạm phát 2007-2008 28
1.2. Lạm phát 2009 32
2. Thực trạng đầu tư 37
2.1. Tổng quan. 37
2.2. Tình hình đầu tư ở Việt Nam 37
2.2.1. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà Nước 38
2.2.2. Vốn đầu tư từ khu vực doanh nghiệp tư nhân 40
2.2.3. Vốn từ tiết kiệm dân cư 41
2.3. Nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài 42
2.3.1 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 42
2.3.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). 44
2.4. Các nguồn vốn khác 48
B. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư và lạm phát 49
3. Mối quan hệ của đầu tư tới lạm phát 49
3.1. Tác động của đầu tư tới lạm phát. 49
3.1.1. Ảnh hưởng tới cung tiền tệ. 49
3.1.2. Hiệu quả đầu tư và lạm phát. 51
3.2. Tác động ngược lại của lạm phát đến đầu tư. 54
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ NHẰM DUY TRÌ LẠM PHÁT Ở MỨC THÍCH HỢP 57
Các giải pháp cần thiết.
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4609 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và lạm phát, liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài
Việt Nam rất có kinh nghiệm trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều công ty nước ngoài coi Việt Nam là một điểm lựa chọn thực tế để xây dựng các nhà máy sản xuất, trung tâm phân phối và xuất nhập khẩu.
Từ năm 1988, khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước đã chính thức có mặt tại Việt Nam. Qua gần 20 năm vận động và phát triển, đến nay kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Khu vực kinh tế này đã có những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, cho kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị sản xuất công nghiệp.
2.3.1 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
***Năm 2008 là năm thành công của Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trước những khó khăn của nền kinh tế thế giới và khu vực, lượng FDI đăng ký vào Việt Nam vẫn đạt 58,3 tỷ USD đến hết tháng 10, gấp 2,73 lần tổng số vốn FDI đăng ký của cả năm 2007. Lượng vốn được giải ngân tính đến 10 tháng là 9,1 tỷ USD, cao hơn 13% so với tổng lượng vốn FDI giải ngân 2007.
Sơ đồ 5: Biến động vốn FDI và số dự án đầu tư qua các năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê và www.asset.vn
*** Năm 2009: Vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD.: Ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008. Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008 và chiếm 52,7 % tổng xuất khẩu cả nước. Nếu không tính dầu thô, khu vực ĐTNN xuất khẩu 23,6 tỷ USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98 % so với năm 2008. Nhập khẩu của khu vực ĐTNN năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng 89,2 % so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Trong năm 2009, khu vực ĐTNN xuất siêu 5,03 tỷ USD.
Về tình hình cấp giấy chứng nhận đầu tư: Theo các báo cáo nhận được đến 15/12/2009, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008.
Về tính chung cả cấp mới và tăng vốn: trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008.
***Dự kiến năm 2010: Chủ trương đối với khu vực ĐTNN là tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn lĩnh vực ưu tiên. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN như sau:
- Về thu hút vốn đầu tư vào (bao gồm cả tăng vốn mở rộng sản xuất) đạt từ 22-25 tỷ USD, tăng 10% so với ước thực hiện 2009 với trọng tâm là thu hút các dự án sử dụng công nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. Trong đó, vốn đăng ký mới dự kiến khoảng 19 tỷ USD và vốn tăng thêm dự kiến khoảng 3 tỷ USD.
- Vốn thực hiện năm 2010 dự kiến sẽ tăng hơn năm 2009 do dòng vốn đăng ký của các năm trước đều ở mức cao và trong điều kiện nền kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi. Dự kiến vốn thực hiện sẽ đạt ở mức 10-11 tỷ USD, tăng 10% so với ước thực hiện năm 2009, trong đó, vốn của phía nước ngoài dự kiến là 8-9 tỷ USD, tăng 12,5% so với ước thực hiện năm 2009.
2.3.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI).
Đầu tư gián tiếp nước ngoài ( Foreign Portfolio Investment FPI hay Foreign Indirect Investment ) là phương thức đầu tư quốc tế thông qua ngân hàng và thị trường chứng khoán.Theo đó các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành mua của phiếu của các doanh nghiệp trong nước trên thị trường vốn. FII chủ yếu là đầu tư ngắn hạn, các cuộc giao dịch chủ yếu thông qua lệnh của chủ đầu tư với ngân hàng hoặc các công ty môi giới trên thị trường chứng khoán. Đặc tính của FII là tính thanh khoản cao, tính bất ổn định, nhiều rủi ro và dễ thoái lui.
Trong cơ cấu của các dòng đầu tư vào Việt Nam những năm qua, dòng đầu tư gián tiếp còn khiêm tốn, mới chỉ chiếm hơn 2% (tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 10-50%) nhưng tương lai sẽ phát triển rất nhanh, đòi hỏi phải có các dự báo trước để làm cơ sở cho đề xuất giải pháp nhằm huy động nhiều hơn nguồn vốn này cho phát triển đất nước.
***Trước năm 2008, dễ dàng thấy được lượng vốn FII đổ vào Việt Nam hầu hết đều tăng qua các năm, chủ yếu là do sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán, thu hút được sự chú ý và đầu tư của nhiều tổ chức, quỹ đầu tư nước ngoài. Năm 2007 là năm phát triển ấn tượng của thị trường chứng khoán và vì thế cũng là năm tăng mạnh của lượng vốn FII. Do ảnh hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2008 là 1 năm không thành công của tất cả các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2008 được xem là năm đổ vỡ của nguồn tài chính quốc tê, lượng FII rút ra lên đến hơn 578 triệu USD. Theo UBCKNN đến tháng 12/2008, giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam chỉ còn khoảng 4,6 tỷ USD, giảm 50% so với năm 2007.
***Năm 2009: Đầu năm 2009, vẫn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, các quỹ đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn và phải thận trọng cơ cấu lại danh mục đầu tư (chủ yếu bán ra các cổ phiếu Bluechip) dẫn đến sự sụt giảm mạnh của vốn FII. Tuy vậy, cùng với sự phục hồi của TTCK thế giới và TTCK trong nước, từ quý 2, nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng mua ròng với tổng giá trị giao dịch tăng hơn hẳn so với đầu năm, chững lại vào tháng 9-10 rồi tiếp tục mua ròng trong 2 tháng cuối năm, với mức đỉnh trên 600 điểm của Vn-Index vào tháng 11 và chốt lại năm 2009 với sát mức 500 điểm. . Tuy vậy, so với đầu năm, lương FII chảy ra cung xấp xỉ 500 triệu USD
Quy mô giao dịch các loại chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài trên HOSE (tính đến hết ngày 19-01-2010)
Tháng
Khối lượng giao dịch (CK)
Giá trị giao dịch (tỉ đồng)
Toàn thị trường
ĐTNN (mua)
ĐTNN (bán)
Toàn thị trường
ĐTNN (mua)
ĐTNN (bán)
01-2010
643.529.438
38.306.330
30.878.600
28.695
1.676,904
1.539,486
12-2009
1.044.017.471
98.108.744
74.385.040
40.935
4.281,159
3.168,073
11-2009
1.127.982.889
76.709.018
50.473.340
52.948
3.800,219
2.809,857
10-2009
1.801.142.372
80.855.690
74.526.157
87.456
4.756,774
4.414,349
09-2009
1.474.041.272
67.594.723
97.668.293
68.985
4.032,701
6.201,496
08-2009
1.172.028.044
62.304.060
60.426.850
46.022
3.501,252
2.911,779
07-2009
794.832.850
87.390.590
53.661.849
28.913
4.095,571
2.313,221
06-2009
1.189.288.279
66.021.038
81.061.771
43.629
3.247,732
3.435,922
05-2009
1.025.581.813
74.495.671
61.179.754
30.751
2.878,277
2.549,128
04-2009
748.908.396
45.668.390
63.135.626
17.849
1.588,047
1.715,655
03-2009
412.124.216
42.101.175
39.751.505
8.408
1.088,083
917,123
02-2009
172.404.561
17.566.941
29.397.751
3.505
515,975
725,894
01-2009
127.059.330
19.899.885
18.748.365
3.250
623,770
537,309
*** Đầu năm 2010, khi thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có dấu hiệu khả quan, nhà đầu tư nước ngoài rất cân nhắc trong việc đầu tư, trong đó tổng giá trị giao dịch chỉ chiếm hơn 10% so với toàn thị trường. Xu hướng chính là mua vào, tuy lượng mua và bán ko chênh nhau nhiều. 7 phiên tính đến ngày 19/01/2010 là 7 phiên mua ròng liên tiếp của khối ngoại, chủ yếu nhằm gom dần các cổ phiếu chủ chốt.
* Vốn ODA
Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hổ trợ vốn ký kết.Hiệp định ký kết hổ trợ nầy được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Nguồn vốn ODA được rót vào nước ta với khối lượng ngày càng lớn. Theo số liệu đến năm 2008, hiện có trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng cộng trên 42 tỷ USD.
Ước thực hiện cả năm 2009 tổng vốn ODA ký kết đạt 5,456 tỷ USD, tổng vốn ODA giải ngân đạt khoảng 3 tỷ USD.
Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng: Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, thuộc lĩnh vực phát triển con người (y tê/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản). Vốn ODA đã có những đóng góp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam. Điển hình như sau tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới 10% năm 2004. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới.
Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Gần đây nhất, ngày 26-10-2009, Nhật Bản đã cam kết viện trợ cho VN tổng số vốn 65 tỉ yen trong giai đoạn 1 - năm 2009, dành cho 5 dự án lớn( là phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người nghèo, dự án tăng cường năng lượng hiệu quả và tái tạo năng lượng, dự án tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự án xây dựng tuyến tránh trên quốc lộ 1 - tức dự án xây đường dẫn lên cầu Cần Thơ và dự án xây dựng Nhà máy nhiệt điện Thái Bình và đường dây truyền tải điện) với tổng số vốn 65 tỉ yên. Ngoài ra, Nhật còn cam kết một khoản vay khẩn cấp và hỗ trợ ngân sách xoá đói giảm nghèo là 55 tỉ yên, nâng tổng số tiền Nhật tài trợ cho VN kể từ năm 1992 đến nay đã lên 1.500 tỉ yên(bao gồm 66 dự án đang triển khai và 8 khoản vay về hàng hóa).
Nhưng thực tiễn quản lý ODA của Việt Nam cồn nhiều bất ổn. Việc coi vốn ODA của nước ngoài, dù là vốn vay, là tiền của người khác cho mình, dù mình sử dụng như thế nào cũng là “quà biếu không” hiện nay vẫn còn tồn tại trong không ít các nhà chức trách quản lý dự án. Vì không coi trọng nguồn vốn này, dẫn tới việc mua sắm tràn lan (như các dự án tại PMU 18) không tiết kiệm, giải ngân cho hết tiền. Chính vì vậy mới có chuyện đến cuối năm một số dự án thi nhau mua sắm máy photo, bàn ghế, thiết bị đắt tiền để giải ngân cho hết. Các dự án nâng cao năng lực trong đó có phần trang thiết bị thường mua hết, cho dù chính các trang thiết bị này cơ sở đó đã có. Trong một bộ có nhiều dự án thì việc chồng chéo trong mua sắm là chuyện bình thường. Chính vì vậy vào các bộ nhiều dự án xe dự án xếp đầy sân, nhiều xe khá đắt tiền và nhập trực tiếp nước ngoài (xe nhập về dự án ODA được ưu đãi thuế).
Vậy ODA là nguồn vốn cùng quý báu đối với sự phát triển của một nước còn nghèo như Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý và giải ngân vốn ODA, trước hết các ban ngành hữu quan phải thay đổi lại nhận thức về vốn ODA, khắc phục các vấn đề còn tồn động nhức nhối, đồng thời đơn giản hoá nhưng minh bạch hơn nữa công tác quản lý và sử dụng ODA.
2.4. Các nguồn vốn khác
Bên cạnh nguồn thu từ FDI, xuất khẩu và viện trợ, nguồn kiều hối cũng là một nguồn lực quan trọng không kém. Việt kiều là một bộ phận không tách rời của dân tộc. Nguồn lực của Cộng đồng người Việt ở nước ngoài còn rất to lớn. Điều đó thể hiện rất rõ qua số lượng kiều hối được gửi về hàng năm và số doanh nghiệp do Việt Kiều đầu tư về nước. Từ 1991-2004, kiều hối tăng bình quân trên 10%/năm. Năm 1991, kiều hối chuyển về mới đạt 31 triệu đô-la, đến năm 1995 đạt gần 300 triệu, năm 1999 đạt hơn 1 tỷ đô-la, năm 2003 đã lên tới 2,6 tỷ và năm 2004 ước đạt 3 tỷ đô-la. Dự đoán với đà tăng trưởng này, đến năm 2010 lượng kiều hối sẽ là gần 5 tỷ. Các doanh nghiệp Việt Kiều có quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Nhiều hội thảo doanh nhân Việt Kiều, các buổi họp mặt của các Hội người Việt Nam ở Nước ngoài đã góp phần tăng cường sự gắn bó của Việt Kiều với quê hương đất nước. Cộng đồng người Việt có cống hiến cho đất nước đang được dành nhiều ưu đãi và được khuyến khích mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. Đó là định hướng nhất quán và đang được triển khai thực hiện từ trung ương đến địa phương.
Cùng với nguồn thu từ kiều hối, thu từ các dịch vụ du lịch, vận tải vãng lai...cũng tăng nhanh, và là nguồn vốn chảy trực tiếp vào các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Thông qua các khoản thuế, các doanh nghiệp này trực tiếp đóng góp vào ngân sách nhà nước.
B. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư và lạm phát
3. Mối quan hệ của đầu tư tới lạm phát
3.1. Tác động của đầu tư tới lạm phát.
3.1.1. Ảnh hưởng tới cung tiền tệ.
Lượng cung tiền lớn ở Việt Nam hay nói cách khác là sự gia tăng vốn đầu tư giai đoạn này khiến cho áp lực lạm phát nảy sinh. Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh. Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao. Cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong những năm gần đây đặc biệt là từ năm 2007 đến nay là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm nay có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. Tốc độ tăng cung tiền tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới 25% mỗi năm và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%. Trong khi nhập khẩu tăng đột biến trong mấy năm trở lại đây để đáp ứng với lượng cầu nội địa tăng thì đối với một số hàng hóa như khách sạn, văn phòng, điện, lao động có kỹ năng (những hàng hóa chủ yếu được sản xuất trong nước) không thể tăng tương ứng. Kết quả là giá của những hàng hóa này phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền. Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam lại chỉ có tăng từ 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35% GDP. Với Việt Nam chính phủ đã quyết định tăng cung tiền nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Tuy nhiên, khi sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng GDP lớn thì sức ép lạm phát bắt đầu xuất hiện.
Cung tiền tăng nhanh là do nhịp độ tăng chi tiêu của Nhà nước. Tổng chi tiêu của Nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221,8 nghìn tỷ đồng (hay 45%) so với năm 2004. Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của Nhà nước trong giai đoạn 2004-2006 là 20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng truởng bán lẻ). Cũng trong giai đoạn trên, thu ngân sách tăng chủ yếu không phải từ nguồn thu nội địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu nội địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ, tăng có 71 nghìn tỷ. Trong khi đó chỉ tiêu của nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190 lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp đôi mức tăng thu nội địa.Khi chi tiêu của nhà nước tăng hơn nhiều so với các nguồn thu ngoài dầu mỏ thì những khoản chi tiêu này sẽ làm tăng tổng cầu. Thế nhưng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sử dụng một cách hiệu quả, chỉ đóng góp nhỏ cho sản lượng (tức là không làm cho tổng cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát.
Ta có thể lấy 1 ví dụ để chứng minh nguyên nhân chủ yếu của lạm phát cao ở Việt Nam là do lượng cung tiền lớn: Năm 2007 giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới tăng cao. Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI nên đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam trong suốt năm nay.Tuy nhiên nếu giá lương thực – thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự,nhưng trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%. Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp hơn, như Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối tháng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm.Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan chỉ là 10,0% và 1,4%.Qua ví dụ này càng thấy rõ hơn ảnh hưởng mạnh mẽ của lượng cung tiền lớn đổ vào Việt Nam khiên cho lạm phát nảy sinh và tăng cao.
Bảng tốc độ tăng cung tiền M2 qua các năm
Nguồn: ADB (2007). “Key Indicators 2007: Inequality in Asia”;
Tóm lại, hậu quả tất yếu của những hoạt động trên là cung tiền mở rộng như một cú sốc tiền tệ rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
3.1.2. Hiệu quả đầu tư và lạm phát.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Qua phân tích tình hình đầu tư từ giai đoạn 2001 – 2008, rõ ràng hiệu quả đầu tư của Việt Nam gần đây rất kém. Hiệu quả đầu tư kém từ đầu tư nhà nước cùng với việc đầu tư ồ ạt cùng một lúc từ đầu tư nước ngoài và tiền dự trữ dân cư kèm theo sự quản lý lỏng lẻo của hệ thống tài chính ngân hàng cùng với chính sách thiếu hợp lý của chính phủ khiến cho cung tiền tệ mở rộng như một cú sốc. Đổ tiền vào đầu tư là việc làm đúng nếu chất lượng đầu tư hiệu quả và tốc độ tăng trưởng kinh tế phù hợp với mức độ tăng cung tiền tệ. Thống kê cho thấy, cuối quý II năm 2007 lượng tiền mặt lưu thông và tiền gửi ngân hàng tăng tới 21% , còn đến tháng 10 năm 2008 lượng tiền mặt lưu thông và tiền gửi ngân hàng tăng tới 25%. Điều này làm cho chỉ số giá tiêu dùng đã tăng nhanh chóng mặt, cuối năm 2007 giá tiêu dùng đã tăng 12,6% so với cuối năm 2006 và đến cuối quý I năm 2008 giá tiêu dùng tăng tới 9 % so với cuối năm 2007. Đến cuối năm 2008, giá tiêu dùng đã tăng tới 19,69% so với cùng kỳ năm 2007.
Chỉ số Vn-Index giai đoạn 2005-2008
Chứng khoán Việt Nam kết thúc năm 2009 với sự trái chiều của 2 chỉ số
Thực tế qua các con số cho thấy đầu tư nhà nước nhận được khoản chi quá mạnh tay trừ chính phủ thông qua các dự án công, dự án chính phủ và các loại tín dụng ưu đãi. Tuy nhiên việc vung tiền mạnh tay này đem lại kết quả rất bé trong việc phát triển và xuất khẩu so với con số rất lớn của nó. Cụ thể theo một số nguồn chính xác, trong giai đoạn 2001 – 2006, đầu tư chính phủ chiếm gần 44% tổng đầu tư nhưng chỉ tạo sự tăng trưởng 41.1% trong tổng tăng trưởng công nghiệp và chỉ đạt 10% giá trị tăng lượng tuyển dụng lao động khu vực này là 0.1%. Hệ số đầu tư ICOR chung rất cao trong giai đoạn 2010- 2008, chịu ảnh hưởng rất lớn do đầu tư nhà nước quá kém.
Đầu tư chứng khoán và bất động sản với việc thiếu định hướng của nhà nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Trong năm 2007, tổng giá trị vốn hóa trong thị trường chứng khoán là 30 tỷ USD chiếm 43% GDP và gấp 3 lần về quy mô so với năm 2006. Bất động sản và chứng khoán tăng theo sự nóng sốt của dư luận và thị trường ảo gây ảnh hưởng đến nền kinh tế rất nhiều. Với số vốn hóa 30 tỷ USD đầu năm 2008 giá trị của thị trường chứng khoán dần dần tiến về với giá trị thực, đến cuối năm bị thu hẹp chỉ còn 13 tỷ USD. Số tiền thất thoát từ thị trường chứng khoán gây lao đao nền kinh tế và đổ dồn tích lũy vào các kênh giao dịch và tiết kiệm ngân hàng. Đây cũng là mối lo ngại cho việc lạm phát gia tăng liên tục trong những năm gần đây.
3.2. Tác động ngược lại của lạm phát đến đầu tư.
Lạm phát tác động đến nhiều mặt của mọi nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Lạm phát Việt Nam từ năm 2000 cho đến nay tăng giảm không đều, tình hình lạm phát ít nhiều có những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến hoạt động đầu tư của nước ta.
Tích cực
Thực tế lạm phát tác động đến đầu tư ở Việt Nam khá rõ rệt. Trong những năm đầu thập kỷ, nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển khá nhanh và ngày càng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng trong những năm tiếp theo. Những năm đầu thập kỷ lạm phát thấp nhưng những dự đoán về sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam là rất tốt nên tình hình đầu tư đạt được những kết quả cao. Những năm giữa thập kỷ chỉ số lạm phát của nước ta khá ổn định, chỉ số lạm phát trong giai đoạn 2004 – 2006 đạt ở mức lạm phát lý tưởng trong khoảng 6% - 7%. Trong những năm này, vốn đầu tư cả nước liên tục tăng nhanh, lạm phát lý tưởng làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với chính sách thu hút vốn đầu tư hấp dẫn làm hco các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt đầu tư vào Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước cũng mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và trở thành khu vực đầu tư quan trọng trong nền kinh tế. Đỉnh điểm là năm 2006 chỉ số lạm phát 7.5% .Tăng trưởng kinh tế được đánh giá rất cao của chuyên gia kinh tế quốc tế qua nhiều năm làm cho đầu tư thực sự trở nên rất nóng đạt 404.712 tỷ VNĐ. Điều này ảnh hưởng lớn đến đầu tư năm 2007, tổng vốn đầu tư đạt 523000 tỷ đồng, tăng hơn 120.000 tỷ VNĐ so với năm 2006.
Tổng vốn đầu tư qua các năm: theo tổng cục thống kê
Đơn vi: tỷ VNĐ
2000
2001
2002
2003
2004
151.183
170.469
200.145
239.246
290.927
2005
2006
2007
2008
343.135
404.712
523.000
580.000
Tiêu cực
Tại Việt Nam quá trình gây ảnh hưởng sâu sắc dẫn đến lạm phát tăng cao tới hai con số.Tuy nhiên khi lạm phát tăng cao thì cũng gây ảnh hưởng ngược lại đến đầu tư. Lạm phát là hiện tượng giảm mã lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.Với các nhà đầu tư việc giá cả các nguyên vật liệu theo đó mà cũng tăng theo khiến chi phí sản xuất tăng cao hơn so với trước đây dẫn đến giá đầu ra của sản phẩm cũng phải tăng theo để bù lại chi phí bỏ ra cho việc mua nguyên vật liệu với giá cao.Điều này khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm trở lên khó khăn hơn khi mà cùng một sản phẩm thì nay người tiêu dùng phải bỏ ra số tiền lớn hơn trước,điều này đã hạn chế sức mua của người tiêu dùng.Tuy nhiên,ngoài chi phí nguyên vật liệu phải tăng thêm phải bỏ ra.Các nhà sản xuất còn phải bỏ ra các chi phí khác như chi phí vận chuyển,tiêu thụ sản phẩm,quảng cáo sản phẩm…Chính trở ngại của việc tăng giá của các hàng hóa,dịch vụ này khiến cho các nhà đầu tư trở lên e ngại trong vấn đề đầu tư trong thời buổi giá cả lạm phát tăng cao.Như vậy tình hình lạm phát tăng cao đã khiến cho tình hình đầu tư trở lên khó khăn,các nhà đầu tư e ngại vấn đề giá nguyên liệu và các chi phí khác trong quá trình sản xuất sẽ tăng cao hơn mà họ không thể lường trước được điều này.Do đó lạm phát quả thực đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lí và khả năng đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam.
Điều này đặc biệt đúng khi ta nhìn lại:
Năm 2007 là năm có những biến động rất lớn trong nền kinh tế , thị trường chứng khoán bùng nổ, là kênh huy động vốn quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển. Nhưng hoạt động đầu tư sản xuất lại không được xem trọng, các Doanh nghiệp thường đem lượng vốn huy động được tiếp tục đầu tư vào chứng khoán đẩy giá chứng khoán lên cao kỷ lục làm cho lạm phát tăng dần, đến cuối năm 2007 chỉ số lạm phát vào khoảng 12.6% vượt ngưỡng an toàn 9.5%.
Đầu năm 2008 lạm phát tăng cao, làm các nhà đầu tư hoang mang và lo lắng. Các nhà đầu tư nước ngoài có dấu hiệu rút vốn đầu tư. Các nhà đầu tư trong nước thiếu tự tin vào nền kinh tế vĩ mô, làm lượng vốn đầu tư giảm. Không chỉ ảnh hưởng đến việc huy động vốn đầu tư, lạm phát còn ảnh hưởng đến cả giai đoạn thực hiện dự án đầu tư. Nhiều dự án nhà nước bị đình trệ do quyết định thắt chặt tiền tệ của chính phủ, một số dự án đầu tư nước ngoài rút vốn đàu tư. Những dự án dầu tư đang được giải ngân cũng gặp nhiều khó khăn vì lạm phát tăng cao, giá cả leo thang. Cụ thể ở thành phố Hà Nội năm 2008,tại quận Long Biên: tiến độ giải ngân 19 dự án với tổng vốn hơn 123 tỷ VNĐ từ nguồn vốn tập trung của thành phố mới đạt 14.46%, 169 dự án sử dụng ngân sách của quận chỉ giải ngân được 20%. Ngoài ra, còn 179 dự án tổng mức đầu tư 152 tỷ VNĐ do ủy ban nhân dân các phường làm chủ đầu tư tỷ lệ giải ngân đạt 40%.
Giữa năm 2008 khi giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao từ 200% - 300%. Cơn sốc cung bât lợi này đã khiến hàng loạt nhà đầu tư trong ngành xây dựng thà nộp phạt rồi phá bỏ hợp đồng còn hơn tiếp tục xây dựng để chịu lỗ. Cũng khoảng thời gian đó khi liên tiếp các cuộc khủng hoảng giá gạo, ga, ...đều có tác động xấu tới đâu tư. Ngược lại nó lại kích thích đầu cơ gây tác động xấu cho nhân dân và tiếp tục làm tăng lạm phát lên.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ NHẰM DUY TRÌ LẠM PHÁT Ở MỨC THÍCH HỢP
I. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NĂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ HẠN CHẾ LẠM PHÁT
1. Phân bổ và sử dụng vốn có hiệu quả:
1.1 Phân bổ vốn có hiệu quả:
Công tác phân bổ vốn các chương trình mục tiêu quốc gia của một số bộ ngành, địa phương của nước ta hiện nay còn có nhiều tồn tại. Công tác phân khai, giao kinh phí và nhiệm vụ tiến hành còn chậm, lập và phân bổ kế hoạch vốn không sát thực tế, dẫn đến phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, không thực hiện được. Việc điều chỉnh kế hoạch vốn không đảm bảo đủ căn cứ pháp lý, một số tỉnh được kiểm toán chưa phân bổ hết số kinh phí giao bổ sung. Hơn nữa, tình hình phân bổ dự toán tại một số bộ ngành, địa phương còn bình quân, dàn trải, chia nhỏ kinh phí cho nhiều đơn vị, nhiều chương trình. Do vậy, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng kinh phí của NSNN; có biện pháp tăng cường giám sát và chống cho được việc phân bổ vốn đầu tư dàn trải, phân tán và việc sử dụng các khoản chi tiêu không đúng định mức, sai chế độ qui định. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, thì cùng với việc nâng cao vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định dự toán NSNN, tổ chức giám sát việc phân bổ và thực hiện dự toán NSNN, cần tăng cường thực hiện công khai hoá tài chính ngân sách và quy trình xây dựng phân bổ NSNN. Đồng thời phải khẩn trương nghiên cứu hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu từ nguồn NSNN, tiêu chuẩn trang bị cơ sở vật chất cho các công sở, đơn vị hành chính sự nghiệp, đảm bảo yêu cầu hiện đại hoá công sở, yêu cầu hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh tế tài chính, phù hợp với xu hướng phát triển "Chính phủ điện tử".
Phân bổ hợp lý nguồn vốn FDI vào những vùng, ngành theo hướng để phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời phù hợp với xu thế chuyên môn hoá giữa các nước và đảm bảo sự phát triển bền vững. Để nâng cao hiệu quả đầu tư cũng nên có chính sách khuyến khích hơn nữa trong việc thu hút vốn và công nghệ hiện đại của nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu, chế biến, ứng dụng công nghệ thông tin, sinh học, điện tử, vật liệu mới, công nghiệp cơ khí.
1.2. Sử dụng vốn có hiệu quả
1.2.1. Vốn ngân sách Nhà nước
Tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai, minh bạch của chi tiêu công. Cần rà soát lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Chính phủ, UBND các cấp phải tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành áp dụng các tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển cho các Bộ, ngành, địa phương; Định mức đầu tư cho công trình phù hợp với điều kiện KT- XH của từng vùng; Chỉ đạo đẩy nhanh công tác giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn trái phiếu Chính phủ; Điều chuyển hợp lý các nguồn vốn chậm hoặc không giải ngân được theo kế hoạch. Còn các Bộ, ngành và địa phương là coi trọng, tập trung công tác điều hành, phối hợp chặt chẽ kiểm tra việc thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản sử vốn ngân sách nhà nước theo đúng quy hoạch, kế hoạch đã được duyệt...
1.1.2. Nguồn vốn từ dân cư
Hết sức khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, kể cả hộ gia đình, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Tuy kinh tế tư nhân hoạt động theo qui mô nhỏ và vừa là chính, song gần đây đã có tư nhân trong nước có khả năng đầu tư qui mô khá lớn, kể cả xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư của tư nhân ít bị thất thoát và thường đạt hiệu quả cao. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát triển không những đưa được nguồn vốn nhàn rỗi còn lớn trong dân vào sản xuất, kinh doanh thay cho cất giữ hoặc dồn vào kinh doanh đất đai mà còn tạo được nhiều việc làm, nâng cao được hiệu quả đầu tư trong xã hội. Các ngành, các cấp cần thấu suốt và thực hiện tốt nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương khóa IX về phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về qui mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, lĩnh vực mà luật pháp không cấm, xúc tiến cuộc vận động “Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”.
Khắc phục các biệu hiện không bình đẳng đối với kinh tế tư nhân cả trong cơ quan nhà nước và trong tâm lý xã hội, đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước theo pháp luật đối với mọi hoạt động kinh tế. Chính phủ sẽ tổng kết bốn năm thi hành Luật doanh nghiệp nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn luật này, thật sự khuyến khích và thúc đẩy kinh tế tư nhân đầu tư kinh doanh có hiệu quả; chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ở nông thôn.
1.2.3 Nguồn vốn từ nước ngoài
Đối với nguồn vồn ODA
Cần đề ra các nguyên tắc lựa chọn dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA, tránh đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian quy định và kiên quyết từ chối các khoản ODA vay xét thấy không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp do bị chi phối bởi các yếu tố ràng buộc
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối với nguồn vốn ODA theo hướng giảm bớt những bất cập hiện tại nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu quả sử dụng vốn của các dự án, đồng thời đảm bảo phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và hài hòa với thủ tục của các nhà tài trợ.
Nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của chủ đầu tư, thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án lựa chọn, lập văn kiện dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện hợp đồng mua sắm, xây lắp, tư vấn..., khả năng trả nợ, tính bền vững trong quá trình phát triển và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả sử dụng vốn. Thực hiện tốt công tác quản lý tài chính Nhà nước đối với nguồn vốn ODA, chống tình trạng bố trí sử dụng vốn dàn trải, xác định rõ ngay từ đầu những dự án phải vay lại và trả nợ cho Chính phủ với những dự án được ngân sách cấp để làm cơ sở xây dựng dự án.
Kiện toàn, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là các ban quan lý dự án theo hướng phân định rõ chức năng quản lý của bộ ngành chủ quản với chức năng tổ chức thực hiện dự án; hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng khép kín các khâu trong quy trình thực hiện đầu tư ở một bộ, ngành, địa phương vì tình trạng này dễ dẫn đến phát sinh tiêu cực; gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan quản lý trong việc thực hiện dự án và có chế tài đủ mạnh để xử lý.
Quản lý chặt chẽ tài sản mua sắm phục vụ hoạt động dự án.
Nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan và cán bộ thẩm định dự án ở các bộ ngành, địa phương đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý. Các địa phương phải tổ chức tốt việc thực hiện Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức (ODA) thời kỳ 2006-2010 và Kế hoạch hành động thực hiện đề án này
Tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra của bộ chủ quản, các bộ có chức năng quản lý và các cơ quan thanh tra, kiểm toán đối với việc thực hiện dự án và đối với hoạt động quản lý của chủ đầu tư. Tổ chức thực hiện theo “Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006-2010” để có những đánh giá, điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế tình trạng chậm giải ngân và để xây dụng kế hoạch cho những dự án tiếp theo.
Đối với nguồn vốn FDI
Tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư cao hơn và có chất lượng hơn. Một môi trường đầu tư hấp dẫn khi chúng ta xây dựng được một hệ thống chính sách pháp luật rõ ràng, cụ thể. Các văn bản pháp luật phải minh bạch, có hệ thống, không trùng chéo, không tuỳ tiện thay đổi, đơn giản hoá hệ thống thuế; xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ… Cải cách triệt để thủ tục hành chính trên cơ sở xây dựng và hình thành hệ thống thủ tục hành chính phù hợp, đồng thời thường xuyên giám sát, kiểm tra để kịp thời chấn chỉnh và hạn chế những tiêu cực xảy ra trong đầu tư. Giảm thủ tục, phiền hà, sách nhiễu khi cấp phép đầu tư. Giảm các cấp quản lý đầu tư tiến tới 1 cửa, một con dấu trong đầu tư, giảm tính phân biệt giữa các thành phần kinh tế.
Thiết lập lại danh mục dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài rõ ràng, cụ thể, thiết thực, hiệu quả với nhiều ngành nghề đầu tư theo hướng có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 – 2005 đã được ban hành, nhưng những dự án trọng điểm nhất vẫn chưa thu hút và hấp dẫn được các nhà đầu tư. Vì vậy, cần rà soát lại danh mục dự án này để điều chỉnh và bổ sung những dự án có quy mô lớn cần kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài với những tiêu chí cụ thể, rõ ràng thực sự có lợi cho cả nhà đầu tư cũng như cho đất nước. Danh mục này cũng cần được xây dựng trên cơ sở phát huy các lợi thế của Việt Nam, có tính tập trung cao, tránh sự đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, hướng đích. Giảm thiểu các chi phí đang được xem là cao hơn các quốc gia cùng khu vực như điện, vận tải, cước phí viễn thông…nhằm tạo động lực thu hút mới đối với các nhà đầu tư.
Tổ chức các hoạt động như tư vấn, hướng dẫn hình thức và thủ tục đầu tư; xúc tiến thu hút FDI từ các nước; mở chiến dịch mới về vận động, xúc tiến đầu tư tại các quốc gia trọng điểm truyền thống như Nhật Bản, Singapore, EU, Đài Loan, Hàn Quốc… thiết lập các giải pháp về nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh của nước ta. Coi trọng và đánh giá đúng vị trí của các thị trường và đối tác truyền thống, chủ yếu là các nước châu Á vốn có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá với Việt Nam. Đồng thời, cần mở rộng việc thu hút FDI từ các nước đối tác mới như Hoa Kỳ, Nam Mỹ… Đồng thời khuyến khích và hỗ trợ cho người Việt Nam ở nước ngoài kêu gọi, xúc tiến các nhà đầu tư nước ngoài hoặc trực tiếp đầu tư về Việt Nam.
Thiết lập các chính sách, chủ trương cụ thể nhằm chủ động xử lý, đối phó và giải quyết những vướng mắc của nhà đầu tư, tăng lòng tin của các nhà đầu tư.
2. Đầu tư phát triền nguồn nhân lực nhằm năng cao năng suất lao động
Để từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần thực hiện nhiều biện pháp như tăng quy mô đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường lao động; tạo nhiều việc làm, đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
Muốn phát huy tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam, vấn đề quan trọng là phải tạo ra động lực mới thông qua chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ lao động. Chính sách đó phải là một chính sách phân phối theo lao động, theo tài năng; phải thực hiện sự công bằng trong phân phối và khuyến khích, tôn vinh lao động sáng tạo, trọng dụng nhân tài, phát triển nhân lực.
Thực hiện tốt được những đường hướng này, chắc chắn không chỉ chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, đời sống người lao động được bảo đảm, mà quan trọng nhất, đây còn là nhân tố quyết định cho sự phát triển và ổn định nền kinh tế của đất nước.
3. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
Nhà nước cần xây dựng một chiến lược quy hoạch phát triển KHCN nói chung và quy hoạch tổng thể về phát triển công nghệ trên những dự báo khoa học về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đảm bảo cho các doanh nghiệp công nghiệp phát triển ổn định, vững chắc, giành thắng lợi trong cạnh tranh, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động chuyển giao đổi mới và phát triển công nghệ. Đổi mới công nghệ phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển công nghệ của đất nước cũng như chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu từng bước bắt kịp trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới chủ động sáng tạo công nghệ theo mô hình Nghiên cứu ( R ) - Triển khai ( D ).
II. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, hiện nay khi lạm phát đã giảm cần áp dụng chính sách tiền tệ linh động để đối phó với lạm phát hiệu quả
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, cùng với chính sách giá, chính sách tiền tệ cũng phải phù hợp. Theo Cục trưởng cục quản lý giá Nguyễn Tiến Thỏa: “Cần điều hành linh hoạt, thận trọng chính sách tiền tệ, điều hành lãi suất thị trường phù hợp với diễn biến của lạm phát, cung cầu vốn trên thị trường. Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng, tối đa ở mức 25%”.
Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng 25%, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% của năm 2009. Việc định hướng tăng trưởng tín dụng ở mức 25% được Ngân hàng Nhà nước xem xét trên cơ sở yêu cầu “thắt” dần chính sách tiền tệ để phòng ngừa khả năng lạm phát cao trở lại. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng tránh việc thắt chặt đột ngột có thể gây “sốc” đối với nền kinh tế cũng như đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Bởi vậy, tăng trưởng tín dụng năm 2010 ở mức 25% vẫn cao hơn so với mức 21% của năm 2008, năm điển hình của chính sách tiền tệ thắt chặt. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục khẳng định quan điểm sẽ tập trung tín dụng và tạo điều kiện hỗ trợ cho các nhu cầu vay vốn trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạn chế tín dụng đối với các nhu cầu vốn ở các lĩnh vực phi sản xuất.
Theo Tiến sỹ Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, nguy cơ lạm phát bùng phát trong năm nay là điều không thể chủ quan và chủ trương của Chính phủ lúc này đang tập trung phòng ngừa lạm phát cao quay trở lại. Do đó, mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng được đặt ra trong năm nay ở mức 25% là hợp lý. Cục Quản lý giá đề xuất phải điều chỉnh cả chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm cả trong chi đầu tư, chi phát triển và chi thường xuyên, giảm bội chi ngân sách nhà nước so với năm 2009 (giữ bội chi khoảng 6.2% so với GDP).
2. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
Thực tế cho thấy, trong một nền kinh tế có chế độ tỷ giá gần như cố định như Việt Nam, chính sách tài khoá tỏ ra hiệu quả hơn trong giúp tăng trưởng GDP, đồng thời không gây sức ép quá lớn tới mặt bằng giá. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng nếu như ngân sách được sử dụng thực sự hiệu quả, đồng thời hạn chế hiệu ứng chèn lấn đối với khu vực dân doanh. NHNN cũng cần điều chỉnh chính sách chính sách theo hướng giảm tâm lý găm giữ USD, chẳng hạn như thông qua việc duy trì chênh lệch lãi suất USD và vàng so với VND ở mức hợp lý, để khuyến khích người dân giữ VND, thay vì găm giữ USD và vàng.
Việc chủ động kiềm chế LP chỉ mang lại hiệu quả cao khi các biện pháp tiền tệ được thực thi đồng thời với các giải pháp về tài khoá. Do đó, cần đổi mới chính sách tài khoá theo hướng công khai, loại bỏ yếu tố “xin - cho”, để bảo đảm công bằng trong phân bổ ngân sách. Cùng với thắt thắt chặt hợp lý, nên tăng hiệu quả của chi ngân sách, nhất là chi cho đầu tư công nhằm giảm sức ép đối với CPI và giảm rủi ro khi có những biến động từ bên ngoài. Hạn chế khởi công các dự án lớn, mà thay vào đó tập trung vốn cho hoàn thành các dự án có thể đưa vào sử dụng trong năm 2010 và 2011. Bên cạnh đó, để đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững trong dài hạn, cần tái cấu trúc nền kinh tế, mà bản chất là tạo ra hành lang pháp lý để đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực đầu tư hiệu quả. Muốn vậy, cần tạo bước đột phá về cổ phần hoá DN nhà nước và tạo ra môi trường kinh doanh tiết kiệm chi phí hơn cho DN.
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đảm bảo cân đối cung cầu về hàng hóa.
Chính phủ cần yêu cầu khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, tập trung phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, chuẩn bị đủ giống cho sản xuất vụ hè thu, tăng nguồn cung thực phẩm. Từ đó, giá cả lương thực, thực phẩm sẽ sớm được ổn định. Cần nhấn mạnh việc khắc phục tình trạng thiếu điện, bảo đảm điện cho sản xuất. Thực hiện nhiệm vụ này còn bao gồm cả việc dự tính chu kỳ sản xuất hàng hóa kịp thời trong những dịp cao điểm hay các khu vực chịu thiên tai, lũ lụt ...Đảm bảo lưu thông hàng hóa thông suốt.
Tập trung đẩy mạnh sản xuất công nghiệp; huy động mọi nguồn lực, tập trung chỉ đạo phòng chống cháy rừng, có biện pháp khắc phục hạn hán, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, bảo đảm cho vụ đông xuân đạt kết quả cao. tiếp tục tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ sản xuất nông lâm, thủy sản, trước hết là việc tiêu thụ sản phẩm một số ngành hàng có lượng hàng hóa lớn và sản xuất tập trung như lúa, gạo, thủy sản và một số nông sản khác nhằm duy trì, phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân; tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Tăng cường các hoạt động thương mại, khuyến khích việc sử dụng hàng nội, nhân rộng Chương trình ''Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam''; đồng thời với tăng cường tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới để đẩy mạnh xuất khẩu.
4. Từ việc đẩy mạnh sản xuất trong nước, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu.
Kiểm soát chặt các mặt hàng nhập khẩu sẽ là giải pháp chủ đạo nhằm giữ nhập siêu ở mức 20% như kế hoạch; trong đó tập trung kiểm soát các mặt hàng như xăng dầu, hàng tiêu dùng xa xỉ, ôtô. Đối với xăng dầu là mặt hàng mà Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã sản xuất được, từ nay đến hết năm, Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương, Vụ Thị trường trong nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và 11 đầu mối tiêu thụ xăng dầu cần hợp tác chặt chẽ, cân đối cung cầu để ưu tiên tiêu thụ hết khoảng 800 nghìn tấn sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung Quất; đồng thời giảm bớt hoặc ngừng lượng xăng dầu nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu. Nhằm giảm nhập siêu, Vụ Xuất nhập khẩu sẽ phải rà soát lại tất cả các mặt hàng nhập khẩu, xem lại danh mục các mặt hàng tiêu dùng do nhà nước quản lý bởi danh mục này đã được ban hành 3 năm, hiện đã có nhiều thay đổi; đồng thời xem xét việc cấp giấy nhập khẩu tự động để không khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không cần thiết.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh sản xuất trong nước, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp sau. Một là, khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường, đáp ứng một cách tốt nhất các sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, tập trung đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Hai là, tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản vào những dự án có hiệu quả qua việc tháo gỡ khó khăn về thu sếp vốn, giải phóng mặt bằng; giám sát chặt chẽ tiến độ các dự án đầu tư để sớm huy động vào sản xuất. Tăng cường chỉ đạo thực hiện các dự án trọng điểm. Ba là, Cục Quản lý thị trường Bộ Công Thương kết hợp với các lực lượng và các bộ, ngành tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát giá các mặt hàng thiết yếu. Đồng thời, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế tiếp tục thực thi các biện pháp nhằm giảm nhập siêu trong thời gian tới, trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật phù hợp với quy định quốc tế để hạn chế nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng không thiết yếu.
5. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng vẫn còn khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, trong dân cư, tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng rất lớn. Trước hết, Chính phủ chỉ đạo việc triệt để thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để thực hiện các nhiệm vụ, kể cả trong trường hợp giá cả tăng. Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán.
Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các Tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả, đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của các đơn vị này. Chuyển nền kinh tế từ tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, chuyển từ kinh tế khai thác sang chế biến, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khan hiếm và hạn chế tiêu dùng... Cơ cấu lại hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ tiêu dùng theo hướng tiêu thụ ít năng lượng và nguyên nhiên vật liệu đồng thời có ít chất thải.
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường, minh bạch hóa thông tin, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
Các hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước về giá sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ, đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Đây là những luồng vốn của khu vực trong hoặc ngoài nước đổ vào thị trường hiện nay. Chính phủ cần năm rõ và quản lý nguồn vốn này điều phối vào các khu vực cần thiết. Thêm vào đó đảm bảo minh bạch hóa thông tin các thị trường nhạy cảm như cổ phiếu, bất động sản nhằm tránh tình trạng các nguồn đầu tư biến thành đầu cơ gây tác động xấu cho xã hội, trực tiếp đẩy mức lạm phát lên cao hơn nữa. Để thực hiện các biện pháp này có hiệu quả thì việc chính phủ phải quy định, bổ sung chặt chẽ, đầy đủ các bộ luật, điều luật của các thị trường liên quan. Việc này sẽ tránh nhà đầu tư lách luật kiếm lời đồng thời đẩy các nhà đầu tư nhỏ vào phá sản.
Năm 2010, một số nhóm hàng hóa đầu vào quan trọng của sản xuất và đời sống như than, điện, nước... tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường. Giá cả nhiều mặt hàng sẽ được "thả" chứ không "neo" như trước đây. Tuy nhiên, "thả" giá không có nghĩa là thả nổi hoàn toàn giá trong nước để thị trường trong nước chịu sự tác động tự do, tự phát của thị trường thế giới mà vẫn có những biện pháp điều hành vĩ mô nhất định. Trong những trường hợp biến động bất thường thì phải áp dụng kịp thời các biện pháp bình ổn giá. Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm soát giá hàng hóa, dịch vụ... đặc biệt là các hàng hóa, dịch vụ độc quyền, để khuyến khích cạnh tranh về giá theo pháp luật. Kiểm soát chặt chẽ phương án giá, mức giá bán của các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục Nhà nước định giá, bình ổn giá... “Với những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống như xăng dầu, thép xây dựng, ximăng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm... thì phải kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng biến động của thị trường để đầu cơ nâng giá. Phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm tra việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá, đấu tranh chống mọi hiện tượng đầu cơ, nâng giá bất hợp lý”.
7. Bên cạnh kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ chỉ rõ cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
Bộ chính trị kết luận: “Mục tiêu ưu tiên hàng đầu hiện nay là kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, đặc biệt quan tâm tới an sinh xã hội, hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, người làm công ăn lương chịu ảnh hưởng nhiều của lạm phát, để những năm tới tiếp tục phấn đấu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, cải thiện đời sống nhân dân". Do đó, Chính phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm mở rộng các chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo. Mức cho vay ưu đãi học tập với học sinh, sinh viên nghèo, hộ chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số đã được tăng lên, tạo điều kiện để họ tiếp tục học tập nâng cao trình độ, cải thiện cuộc sống. Các đối tượng khác như ở xã nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, ngư dân, diêm dân, nông dân… được thụ hưởng những hỗ trợ từ các chương trình giảm nghèo, chương trình 135, kiên cố hóa trường học, nhà ở, nước sạch… Khi các áp lực từ các khu vực khó khăn này giảm đi đồng nghĩa với việc ổn định giá cả và đời sống, các chính sách từ đó phát huy hiệu quả. Các khu vực nông thôn, miền núi khó khăn thường chịu ảnh hưởng khá nặng nên chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ giá, trợ cấp sản xuất nông nghiệp, y tế…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư
2. Giáo trình Lập dự án đầu tư
3. Giáo trình Kinh tế vĩ mô
4. Giáo trình Kinh Tế Học
5. www.kinhtehoc.com
6. www.vneconomy.vn
7. www.vir.com.vn
8. www. xaluan.com
9. www.gso.gov.vn - Tổng cục thống kê
10. www.mpi.gov.vn - Bộ kế hoạch và đầu tư.
11.
12.
13.
14.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và lạm phátliên hệ thực tiễn việt nam hiện nay.doc