Chính phủ cần thông tin một cách minh bạch, có sự tính toán hợp lý
và lấy ý kiến của doanh nghiệp trong việc ban hành các điều luật mới liên
quan đến hoạt động của ngành gỗ tránh để xảy ra tình trạng áp thuế bất ngờ
không phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Công văn 11270 ban
hành ngày 23/9/2008 của bộ tài chính với quyết định thu 10% thuế xuất khẩu
đối với sản phẩm gỗ trong hoàn cảnh doanh nghiệp đang khó khăn vì suy
giảm kinh tế đã khiến cho các doanh nghiệp trở tay không kịp. Các doanh
nghiệp đã không hề được chính phủ cho biết, không được tham gia lấy ý kiến
mà buộc phải thực hiện.
Chính phủ cần có sự điều chỉnh đối với các quy định trong giao thông
sao cho tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc vận chuyển hàng hóa của doanh
nghiệp gỗ. Theo quy định hiện hành, trong tải xe lưu thông chỉ được phép tối
đa 25 tấn trong khi phần lớn mỗi một container gỗ nguyên liệu nhập về
khoảng 30 tấn. Do đó, doanh nghiệp đã phải tốn thêm thời gian, chi phí bốc
dỡ hàng trong container nếu không muốn bị phạt. Bởi vậy, chính phủ nên cho
phép mở rộng trọng tải hoạt động đối với các xe container chở hàng nhập
khẩu.
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3479 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường xuất khẩu lại đánh dấu sự
vươn lên mạnh mẽ của doanh nghiệp Việt Nam. Hết năm 2008, việc kim
ngạch đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đạt mức 2,8 tỷ đô vượt qua nhiều nước
xuất khẩu mạnh khác như Inđônêxia, Thái Lan đã cho thấy khả năng lôi kéo
khách hàng nước ngoài đến với sản phẩm gỗ Việt. Tuy nhiên, sự vươn lên
trong khả năng cạnh tranh lôi kéo đơn hàng nước ngoài chủ yếu đến từ yếu tố
giá cả chứ không phải chất lượng. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài chọn Việt
Nam vì mức giá phải trả thấp, thậm chí nhiều lúc họ còn được lợi lớn do bản
thân các doanh nghiệp Việt Nam tự nguyện giảm giá để tranh nhau đơn hàng.
Bên cạnh đó, nếu xét về khả năng cạnh trạnh về giá thì Việt Nam vẫn thua
Trung Quốc, Malaysia bởi doanh nghiệp tại các quốc gia này có phần lớn có
lợi thế hơn về quy mô, năng suất cao hơn và chi phí đầu vào thấp hơn so với
các doanh nghiệp Việt Nam nên tỷ suất lợi nhuận của họ thường cao hơn.
46
Do đó, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng tay nghề công nhân,
năng suất, đổi mới sản phẩm và đẩy nhanh tiến độ trồng rừng nhằm từng bước
đáp ứng nhu cầu nguyên liệu trong nuớc mới là bước đi đúng để tăng khả
năng cạnh tranh cho doanh nghiệp chứ không phải chỉ dựa vào giá cả.
2.4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Việc để mất thị trường trong nước vào tay các doanh nghiệp nước
ngoài sẽ có thể tăng nếu như nhiều hãng sản xuất đồ gỗ hàng đầu của thế giới
đặt nhà máy sản xuất tại Việt Nam. Hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất gỗ
của nước ngoài đặt cơ sở sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là để phục vụ xuất
khẩu, một số ít là bán cả trong nước. Những sản phẩm gỗ chất lượng cao với
thiết kế mẫu mã đẹp ở nước ta chủ yếu đến từ các nước có trình độ tiên tiến.
Nhóm sản phẩm này vào nước ta bằng con đường nhập khẩu và phân phối
thông qua các đại lý trong nước hay qua các công ty xuất nhập khẩu. Giá
thành sản phẩm của chúng là khá cao so với sản phẩm của doanh nghiệp sản
xuất trong nước nên thị trường tiêu thụ sản phẩm này thường rơi vào đối
tượng khách hàng có thu nhập cao. Trong khi đó, rào cản để gia nhập thị
trường Việt Nam và trở nên phổ biến đối với những dòng sản phẩm chất
lượng cao đến từ nước ngoài chính là chí phí và giá thành. Nếu giá thành
giảm, chúng hoàn toàn có thể được người dân Việt Nam mua và sử dụng rộng
rãi. Bởi vậy, một khi các hãng sản xuất đồ gỗ danh tiếng đó đặt được cơ sở
sản xuất tại Việt Nam, giá thành sản phẩm chắc chắn sẽ được giảm đi và phù
hợp với khả năng của nhiều người tiêu dùng trong nước. Hai sản phẩm có
mức giá không chênh lệch mà chất lượng lại khác nhau thì chắc chắn ưu thế
sẽ nghiêng về sản phẩm của nước ngoài.
2.5. Sản phẩm thay thế.
Trong số các mặt hàng đồ gỗ, trừ các mặt hàng như giường, tủ, bàn,
ghế - những mặt hàng mà người tiêu dùng có thói quen dùng đồ gỗ thì chỉ có
duy nhất mặt hàng cửa sổ, cửa ra vào là đang phải chịu sự cạnh tranh với các
dòng sản phẩm có khả năng thay thế khác. Sự xuất hiện của nhiều doanh
47
nghiệp sản xuất các loại cửa ra vào bằng khung nhôm hay kim loại đã làm cho
thị trường tiêu thụ sản phẩm cửa làm bằng gỗ bị giảm. Do cửa khung nhôm
hay kim loại có mức giá rẻ hơn so với cửa gỗ trong khi giá gỗ lại có xu hướng
tăng, vì vậy mà người tiêu dùng đang có xu hướng dich chuyển sang sử dụng
các loại cửa này. Tại các dự án về bất động sản và xây dựng trong nước, cửa
khung nhôm hay kim loại đang ngày càng được chủ đầu tư và người dân dùng
nhiều hơn để tiết kiệm chi phí. Trong tương lai, việc sử dụng cửa khung nhôm
hay kim loại chắc chắn còn tăng nhiều hơn nữa.
3. Môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp.
3.1. Hoạt động Marketing.
Hệ thống phân phối giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt rõ rệt. Đối
với thị trường trong nước, khối doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã có hệ
thống phân phối trải rộng trên khắp toàn quốc còn nhóm các doanh nghiệp
nhỏ hơn thì lại có hệ thống cửa hàng, đại lý phân phối tập trung chủ yếu tại
một khu vực hay địa bàn. Riêng chỉ có nhóm doanh nghiệp nhỏ phụ thuộc
xuất khẩu là gặp khó khăn trong xây dựng hệ thống phân phối. Sở dĩ xảy ra
điều này là bởi nhóm doanh nghiệp này không có đủ vốn. Họ không quen với
việc vừa phải đi từng cửa hàng, đại lý để tiếp thị sản phẩm theo kiểu nhỏ giọt,
vừa phải tập trung sản xuất. Trong khi đó, nếu làm ăn với đối tác nước ngoài
họ có thể bán được hàng chục container một lúc. Do vậy, có bao nhiêu vốn
trong tay là họ dồn vào để mua nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu hết thay vì đầu tư xây dựng cửa hàng riêng cho mình.
Đối với thị trường nước ngoài, chỉ có một số các doanh nghiệp lớn,
tập đoàn trong nước và khối doanh nghiệp FDI là mở được văn phòng đại
diện, chi nhánh cũng như hệ thống cửa hàng, đại lý để trực tiếp bán sản phẩm.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lại chủ yếu là bán hàng thông qua các công
ty trung gian hoặc gia công theo yêu cầu từ phía nước ngoài. Bởi vậy, khối
doanh nghiệp này không có khả năng tạo dựng được thương hiệu cho sản
phẩm gỗ Việt. Tuy nhiên, đây cũng là điều không thể tránh khỏi do các doanh
48
nghiệp bị hạn chế về vốn trong khi nguồn thu lại phụ thuộc chủ yếu vào đơn
hàng của đối tác nước ngoài.
Về hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại, có thể nói đây là hoạt
động được nhóm doanh nghiệp sản xuất dành nhiều ưu tiên về ngân sách nhất,
đặc biệt là khối doanh nghiệp xuất khẩu. Đối với thị trường xuất khẩu, doanh
nghiệp Việt Nam rất tích cực tham gia vào các hội chợ, triển lãm thương mại
quốc tế để quảng bá sản phẩm. Trái lại, đối với thị trường trong nước, doanh
nghiệp chủ yếu quảng bá qua báo chí hoặc qua nhiều phương tiện khác có
mức chi phí thấp, chỉ có một số ít là qua phương tiện truyền thông nhưng
không thường xuyên.
3.2. Hoạt động tài chính kế toán.
Với các doanh nghiệp lớn, tỷ lệ vay của khối doanh nghiệp này
thường ít và khả năng thanh khoản cao. Bởi vậy, khối doanh nghiệp này
không phải chịu áp lực từ nợ vay cũng như áp lực từ sự chậm trễ trong việc
hoàn vốn và hoàn thuế. Trái lại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại gặp khá
nhiều khó khăn phát sinh từ vấn đề này và nhiều doanh nghiệp thậm chí còn
hoạt động khá mạo hiểm. Điều này xảy ra khi họ ký được hợp đồng có giá trị
lớn nhưng vượt quá khả năng của vốn chủ sở hữu, dẫn đến tình trạng các
doanh nghiệp này phải đi vay vốn với tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với vốn chủ
sở hữu. Bởi vậy, nếu tiền hàng bị chậm thu hồi hay bên khách hàng huỷ hợp
đồng hay cắt giảm đơn hàng bất chợt, ngay lập tức khối doanh nghiệp này sẽ
lâm vào tình trạng khó khăn do không xoay đâu ra đủ tiền trả ngân hàng do
toàn bộ vốn mà họ vay đã đổ hết vào việc mau nguyên liệu. Theo điều tra của
tổ chức kỹ thuật GTZ của Đức, nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ vốn chủ sở hữu
rất thấp chỉ vào khoảng trên dưới 20%, trong khi đó nợ phải trả đến 70%
[1,8]. Phần lớn tài sản dưới dạng vốn lưu động là nguyên vật liệu dự trữ và
thành phẩm trong kho chờ xuất bán hoặc sản phẩm đã giao nhưng chưa thu
được tiền. Đây cũng chính là vấn đề đáng nói nhất cuả các doanh nghiệp sản
49
xuất đồ gỗ hiện nay. Nhìn chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp sản xuất đồ gỗ này không cao.
Chỉ tiêu doanh thu thuần/vốn (1 đồng vốn làm ra được bao nhiêu
đồng doanh số) bình quân thời kỳ 2000 – 2005 đạt 1,259 tăng dần từ năm
2001 đến 2005, chỉ tiêu này năm 2006 đạt 1,267. Điều này cho thấy khả tạo ra
doanh thu của các doanh nghiệp là có tăng nhưng không nhiều. Rõ ràng, hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp mới chỉ từng bước cải thiện dần nhờ vào số
lượng đơn hàng tăng chứ chưa thực sự tạo được đột phá trong quy trình sản
xuất. Nói cách khác chất lượng và máy móc kỹ thuật mới chỉ đóng góp một
phần nhỏ trong việc tăng doanh thu. Mặt khác, chúng ta có thể thấy được tốc
độ tăng của chỉ tiêu doanh thu thuần/ vốn rõ ràng vẫn còn thấp hơn nhiều so
với tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị đồ gỗ sản xuất ra. Do
vậy, tỷ lệ này hoàn toàn không tương xứng với giá trị đầu ra của doanh
nghiệp. Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
ngành gỗ nước ta là không cao.
3.3. Hoạt động sản xuất.
Hoạt động sản xuất ở Việt Nam hiện vẫn là sự kết hợp giữa thủ công
và cơ khí trong khi tại các nước có nền sản xuất phát triển, số lượng công
nhân ít và máy móc đóng góp phần lớn vào quá trình sản xuất. Mặt khác, sản
phẩm mà họ làm ra mang tính đại trà nên có thể dùng cả một dây chuyền máy
móc làm ra một loại sản phẩm với số lượng lớn. Việc quá phụ thuộc vào đơn
hàng nhập khẩu có thiết kế riêng lẻ của nhiều khách hàng khác nhau đã khiến
ngay cả những doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Việt Nam dù có thừa vốn nhưng
cũng chưa thể áp dụng cả một dây chuyền máy móc đồng bộ dành cho một
nhóm sản phẩm nhất định. Kết quả là, dù doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Việt Nam
có trang bị máy móc hiện đại nhưng vẫn chỉ là để sử dụng cho một phần của
công đoạn sản xuất và số lượng lao động ở các doanh nghiệp gỗ ở Việt Nam
nhìn chung vẫn còn khá đông.
50
Nhiều doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm gỗ đòi hỏi các chi tiết thiết
kế có hoạ tiết trang trí, trạm, khắc vẫn sử dụng lượng lớn công nhân để gia công
gây mất nhiều thời gian thay vì đầu tư sử dụng các loại máy dập, tạo hình.
Theo kết quả điều tra dự án của tổ chức kỹ thuật GTZ Đức được thực
hiện tại Bình Định và khu vực Tây nguyên, công suất của các nhà máy chế
biến gỗ nhiều khi chỉ đạt khoảng 50% so với thiết kế. Nguyên nhân là do tính
thời vụ của đơn đặt hàng và phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Như vậy,
có thể thấy rằng mặc dù là một trong 2 trung tâm sản xuất lớn của cả nước
nhưng các doanh nghiệp ở đây khi đầu tư, xây dựng nhà xưởng đã chưa tính
toán phù hợp với nhu cầu sản xuất, gây nên lãng phí nguồn lực.
So với các doanh nghiệp sản xuất gỗ của Trung Quốc, chi phí tính
trên một đơn vị sản phẩm của họ vẫn còn thấp hơn Việt Nam. Sở dĩ họ làm
được điều này là do các doanh nghiệp Trung Quốc đạt được lợi thế về quy
mô. Diện tích nhà xưởng, năng lực sản xuất lớn có khả năng đáp ứng được
nhiều đơn hàng dễ dàng giúp doanh nghiệp giảm chi phí. Mỗi tháng, các
doanh nghiệp lớn của Trung Quốc có thể xuất lên đến hàng ngàn container
trong khi con số này đối với bộ phận doanh nghiệp vừa nhỏ ở Việt Nam
(chiếm tỷ lệ chủ yếu trong toàn) ngành lại chỉ là là vài chục. Hiên nay, xuất
hàng với một tỷ lệ container gỗ lớn như vậy chỉ có ở tập đoàn lớn hoạt động
đa ngành đa nghề ở Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất gỗ lớn ở Bình Định,
Bình Dương và các doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư tại Việt Nam.
3.4. Hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Với nhóm doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ ngoài trời và đồ gỗ trong nhà,
số lượng các doanh nghiệp có bộ phận phát triển sản phẩm thường rất ít. Một
phần vì không có đội ngũ chuyên thiết kế và trong nước cũng chưa có nhiêu
cơ sở đào tạo chuyên ngành này. Một phần vì nhiều doanh nghiệp nước ta đã
quen với việc làm theo mẫu yêu cầu của khách hàng. Khối doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thì lại đem mẫu từ các trụ sở chính của họ ở ngoài Việt
Nam để công nhân trong nước ta gia công. Doanh nghiệp nào đưa ra được
51
mẫu mã mới thì đó cũng chỉ là các mẫu tự thiết kế của các quản đốc, công
nhân kỹ thuật có kinh nghiệm và của ban lãnh đạo.
Trong khi đó, nhóm doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ ở Việt
Nam lại có khả năng sáng tạo và phát triển sản phẩm cao. Các doanh nghiệp
sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ tập trung chủ yếu ở các làng nghề lâu đời, sản phẩm
được làm ra bởi các nghệ nhân cùng với đội ngũ lao động đều trải qua đào tạo
thực tế dưới sự chỉ dẫn của các nghệ nhân đi trước. Tuy nhiên, mặt hàng gỗ
mỹ nghệ lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản phẩm gỗ và không
có nhu cầu cao bằng đồ gỗ trong nhà và ngoài trời (chiếm tỷ trọng xuất khẩu
chính) nên vì vậy chưa tạo được lợi thế cạnh tranh cho cả toàn ngành.
3.5. Nguồn nhân lực.
Với quy mô khoảng 170.000 lao động trong gần 2600 doanh nghiệp sản
xuất gỗ, tỷ lệ lao động có trình độ đại học chỉ chiếm 3%, công nhân kỹ thuật gần
30%, số còn lại gần 70% chủ yếu là lao động phổ thông. Với yêu cầu thực tế
hiện nay thì nhu cầu về nguồn nhân lực là rất lớn cả ở bậc công nhân, kỹ sư.
Theo tính toán của các chuyên gia, tuỳ theo quy mô nhà máy, năng lực sản xuất,
số lượng kỹ sư có thể dao động trong khoảng 7-10% tổng số lao động phổ thông.
Như vậy, với tổng số lao động hiện nay nhu cầu kỹ sư chế biến lâm sản cần phải
là 17.000. Với quy mô đào tạo hiện nay số lượng kỹ sư chế biến lâm sản, công
nhân kỹ thuật không đủ cung cấp cho các doanh nghiệp.
Ở hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu cán bộ quản lý, kỹ sư giỏi công
nhân lành nghề, khiến cho năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất không
cao. Điều này sẽ hạn chế sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực
nếu xét về khả năng xử lý những đơn hàng lớn và khả năng tăng tỷ suất lợi
nhuận. Cụ thể, trong ngành chế biến gỗ, bình quân một người làm ra chưa
được số sản lượng tương đương 10.000 USD/năm, trong khi ở Trung Quốc
con số này đã là 15.000 USD/năm.
Năng suất lao động tính theo chỉ tiêu doanh thu/lao động bình quân
các DN cả nước thời kỳ 2000- 2006 đạt: 65,689 triệu đồng/lao động, tăng đều
52
hàng năm. Năm 2006 dạt 123,265 triệu đồng bằng 176% năm 2000, tốc độ
tăng bình quân 10,85%/năm. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn con quá ít so với
mức tăng về kim ngạch xuất khẩu (năm 2006 bằng 513,3 % so với năm 2000).
Điều này cho thấy năng suất của đội ngũ lao động tại các doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh đồ gỗ vẫn hạn chế và vẫn còn ít so với kết quả đạt được.
Mức tăng chậm hơn 1/3 lần này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn
phải tuyển và sử dụng thêm nhiều lao động khi mở rộng sản xuất hay xử lý
các đơn đặt hàng mới.
Mặc dù nhu cầu về kỹ sư và công nhân kỹ thuật rất lớn, tuy nhiên sức
hấp dẫn với người học vẫn không cao so với các ngành nghề khác, nguyên
nhân cơ bản là lương của kỹ sư chế biến lâm sản vẫn còn thấp. Chất lượng
đào tạo về kỹ sư và công nhân chưa đáp ứng tốt yêu cầu về trình độ công
nghệ và thiết bị trong thực tế. Chưa thiết lập được sự gắn kết giữa nhà trường
và doanh nghiệp trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Bởi vậy, phần
lớn lực lượng lao động khi ra ra trường vẫn phải tiến hành đào tạo và bồi
dưỡng nghiệp vụ lại.
53
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN
THIỆN MÔI TRƢỜNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH ĐỒ GỖ Ở VIỆT NAM
I. Về phía chính phủ.
1. Đối với hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô.
Như đã đề cập ở trên, lạm phát tăng cao trong năm 2008 một phần là
do các tổng công ty, các tập đoàn nhà nước đã đầu tư một lượng vốn lớn ra
bên ngoài khiến cho lượng tiền đổ vào nền kinh tế lúc đó quá nhiều nhưng lại
được hấp thụ một cách không hiệu quả, vượt xa so với giá trị hàng hoá dịch
vụ tạo ra. Bởi vậy, chính phủ cần xem xét và tái lập lại sự kiểm soát đối với
hoạt động đầu tư của các tổng công ty, các tập đoàn nhà nước để tránh tình
trạng đầu tư tràn lan không hiệu quả ra ngoài lĩnh vực kinh doanh của mình,
trong khi vẫn thiếu vốn để đảm bảo các nhiệm vụ kinh doanh chính. Hiện tại,
vốn đầu tư của nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng các nguồn vốn đầu
tư của xã hội trong khi đó việc giám sát đầu tư nguồn vốn này vẫn còn rất
nhiều bất cập.
Chính phủ phải có sự điều chỉnh trong việc sử dụng các khoản chi
tiêu của mình. Cụ thể là chính phủ cần cắt giảm mạnh chi tiêu công và những
khoản chi tiêu khác không thật cần thiết góp phần hạn chế tình trạng lạm phát.
Đồng thời, chính phủ nên sử dụng các khoản chi tiêu công này cho hoạt động
đầu tư vào cơ sở hạ tầng, có như vậy mới tạo được nền móng và điều kiện tốt
hơn cho các doanh nghiệp phát triển. Bởi vậy, trong kế hoạch tái cơ cấu và cắt
giảm đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ cần có sự ưu tiên cho
những hạng mục công trình, dự án liên quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng,
không nên cắt giảm đồng loạt dẫn đến có nhiều công trình bị dở dang.
Chính phủ cần phải tăng tính thanh khoản cho thị trường tài chính,
tiền tệ. Mặc dù đã chủ động giảm lãi suất và áp dụng mức hỗ trợ lãi suất
4%/năm trong gói kích cầu, tuy nhiên đối với những doanh nghiệp hiện đang
54
khó khăn, việc chính phủ chỉ cho vay ngắn hạn trong thời gian không quá 8
tháng dường như vẫn là chưa đủ, đồng thời gây khó khăn trong việc hoạch
định chiến lược dài hạn. Vì vậy, chính phủ nên xem xét tăng thời hạn hỗ trợ
vay vốn ưu đãi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính phủ cũng nên cho phép
các doanh nghiệp đảo nợ các hợp đồng vay vốn ở thời điểm lãi suất cao để
vay lại và hưởng mức hỗ trợ lãi suất như hiện nay bởi thực tế có nhiều doanh
nghiệp đã buộc phải chấp nhận mức lãi suất cho vay cao trong năm 2008
nhằm có đủ vốn thực hiện hợp đồng đã kí với khách hàng trong khi theo quyết
định 131/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, mức hỗ trợ lãi suất chỉ được áp
dụng cho các hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời
gian từ 1/2 tới 31/12/2009. Những vấn đề này trở nên khá quan trọng đối với
doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ bởi số vốn mà doanh nghiệp trong ngành này
vay nhằm phục vụ cho sản xuất thường lớn và họ vẫn còn phải chịu các khoản
lãi vay cao trong năm 2008. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ vẫn
chưa thể tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi của chính phủ do ngân hàng chỉ
chấp nhận cho doanh nghiệp vay một khi trả hết nợ trong khoản vay cũ. Do
vậy, việc cho phép tiến hành đảo nợ các hợp đồng vay vốn là một biện pháp
cần thiết.
Chính phủ cần lưu ý đặc biệt đến chính sách tỷ giá và vấn đề ngoại tệ.
Trong năm qua, việc giá đô lên xuống thất thường, tình trạng thừa, thiếu
ngoại tệ và không mua ngoại tệ, của một số ngân hàng cộng với việc ép giá
mua đô quả thực đã gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
sản xuất gỗ chịu ảnh hưởng lớn do 80% nguyên liệu là nhập và những đơn
hàng lớn của họ chủ yếu đến từ nước ngoài. Do đó, nhà nước cần củng cố hệ
thống ngân hàng thương mại, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ ngoại
tệ để mua nguyên liệu nhập khẩu, dễ dàng bán ngoại tệ khi thu được tiền hàng
và cung cấp thông tin dự báo về tình hình kinh tế một cách kịp thời hơn để
doanh nghiệp có được biện pháp ứng phó.
55
Thực tế là trong năm vừa qua, vấn đề dự báo thực hiện chưa được tốt.
Những hiện tượng gây ra hoạt động đầu tư tràn lan không hiệu quả vượt xa so
với giá trị hàng hoá dịch vụ tạo ra khiến lạm phát tăng cao cũng như hiện
tượng bong bóng của thị trường bất động sản, tình trạng tập đoàn lớn của nhà
nước giành quá nhiều vốn đầu tư vào các ngành không thuộc thế mạnh của
mình… là những hiện tượng hoàn toàn có thể giám sát được và đưa ra những
cảnh báo, điều chỉnh kịp thời.
2. Đôi với việc ban hành và thực thi các chính sách pháp luật.
Chính phủ cần thông tin một cách minh bạch, có sự tính toán hợp lý
và lấy ý kiến của doanh nghiệp trong việc ban hành các điều luật mới liên
quan đến hoạt động của ngành gỗ tránh để xảy ra tình trạng áp thuế bất ngờ
không phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Công văn 11270 ban
hành ngày 23/9/2008 của bộ tài chính với quyết định thu 10% thuế xuất khẩu
đối với sản phẩm gỗ trong hoàn cảnh doanh nghiệp đang khó khăn vì suy
giảm kinh tế đã khiến cho các doanh nghiệp trở tay không kịp. Các doanh
nghiệp đã không hề được chính phủ cho biết, không được tham gia lấy ý kiến
mà buộc phải thực hiện.
Chính phủ cần có sự điều chỉnh đối với các quy định trong giao thông
sao cho tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc vận chuyển hàng hóa của doanh
nghiệp gỗ. Theo quy định hiện hành, trong tải xe lưu thông chỉ được phép tối
đa 25 tấn trong khi phần lớn mỗi một container gỗ nguyên liệu nhập về
khoảng 30 tấn. Do đó, doanh nghiệp đã phải tốn thêm thời gian, chi phí bốc
dỡ hàng trong container nếu không muốn bị phạt. Bởi vậy, chính phủ nên cho
phép mở rộng trọng tải hoạt động đối với các xe container chở hàng nhập
khẩu.
Chính phủ cần tiếp tục cải cách hệ thống thủ tục hành chính, đặc biệt
là trong việc hoàn thuế, thu thuế và làm thủ tục hải quan. Chính phủ cần bãi
bỏ một số thủ tục rườm rà , không cần thiết và gây lãng phí về mặt thời gian
cho doanh nghiệp. Mặt khác, chính phủ cũng cần linh hoạt trong việc giải
56
quyết vấn đề hoàn thế cho doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ bởi ngành này rất cần
thu hồi vốn nhanh để trả nợ ngân hàng và tái đầu tư cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trên thực tế, cơ quan hải quan quy đinh thời hạn giải quyết hoàn
thuế là 60 ngày nhưng mốc tính lại là kể từ ngày cơ quan nhận đủ hồ sơ xin
hoàn thuế có đầy đủ các chứng từ bản gốc. Trong khi đó, phải từ 3 đến 6
tháng sau khi ký hợp đồng, nhiều doanh nghiệp sản xuất gỗ mới được thanh
toán và có đầy đủ những chứng từ gốc này. Điều này khiến cho doanh nghiệp
phải chờ đợi rất lâu mới có thể nhận được số tiền hoàn thuế. Vì vậy, chính
phủ nên ưu tiên hoàn thuế cho doanh nghiệp trước, số chứng từ gốc còn thiếu
(như chứng từ thanh toán bản gốc) sẽ cho doanh nghiệp bổ sung và kiểm tra
sau. Ngoài ra, chính phủ cũng nên kéo dài thời hạn nộp thuế đối với nguyên
vật liệu nhập khẩu để sản xuất ra hàng xuất khẩu thay vì 275 ngày như hiện
nay bởi thời hạn này vẫn còn ít hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp có đơn đặt hàng sản phẩm gỗ lớn. Thời hạn này khiến cho
doanh nghiệp gặp khó khăn do vừa phải trả lãi vay giờ lại phải lo nộp thuế
trong khi tiền hàng thì chưa kịp thu về hết.
Chính phủ cần đưa ra những chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, hoạt
động nhập khẩu máy móc để tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển
của ngành sản xuất bột giấy. Do chi phí đầu tư để xây dựng nhà máy sản xuất
bột giấy quá lớn nên nước ta vì vậy hiện vẫn còn quá ít nhà máy sản xuất ra
sản phẩm này. Bởi vậy, sản phẩm dăm gỗ khai thác ra vẫn chủ yếu để xuất
bán cho các nhà sản xuất bột giấy nước ngoài với giá rẻ để rồi các doanh
nghiệp sản xuất giấy trong nước lại phải nhập bột giấy về với mức giá cao.
Điều này khiến cho ngành công nghiệp sản xuất giấy của nước ta cũng trở nên
bị phụ thuộc về nguồn nguyên liệu giống ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ.
Đây quả là một điều nghịch lý và nó cho thấy thực tại rằng nguồn nguyên liệu
dăm gỗ ở nước ta đang được sử dụng không hiệu quả. Nếu ngành sản xuất bột
giấy trong nước phát triển, rõ ràng không chỉ đầu ra cho sản phẩm dăm gỗ
57
được đảm bảo và tiêu thụ nhanh mà ngành sản xuất giấy trong nước còn giải
quyết được bài toán thiếu hụt nguyên liệu và tiết kiệm được chi phí đầu vào.
3. Đối với hoạt động quản lý nguồn nguyên liệu.
Với việc pháp luật nhiều nơi thắt chặt hơn hoạt động truy xuất nguồn
gốc và kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng gỗ nhập khẩu thông qua các
bằng chứng gốc, chính phủ và cơ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý rừng
là bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần phải đẩy nhanh tiến độ triển
khai các dự án tái tạo và bảo vệ rừng theo tiêu chuẩn của FSC - Hội đồng
quản lý rừng thế giới, đặc biệt là với các khu rừng mà doanh nghiệp được
phép khai thác gỗ. Có như vậy, nguồn gỗ nguyên liệu khi khai thác ra mới
được cấp chứng chỉ rừng của FSC - một điều kiện kiên quyết để doanh nghiệp
Việt Nam có thể xuất khẩu được sản phẩm sang cho khách hàng ở thị trường
Âu, Mỹ và giúp doanh nghiệp tránh được các rào cản thương mại với mục
đích bảo hộ tại các nước này.
Chính phủ nước ta cần đứng ra đại diện và hỗ trợ cho hiệp hội các
doanh nghiệp sản xuất gỗ trong việc phản bác lại những cáo buộc tương tự
như kiểu của EIA (Environmental Investigation Agency) - một tổ chức môi
trường có trụ sở ở Anh và của Telapak khi hai tổ chức này cho rằng Việt Nam
đang trở thành trung tâm chế biến gỗ bất hợp pháp ở Đông Nam Á và sử dụng
chủ yếu nguồn gỗ lậu bởi những bản báo cáo này kiểu này dễ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến uy tín của ngành sản xuất đồ gỗ Việt Nam cũng như quan
hệ làm ăn với các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Nhằm tránh tình trạng nhiều doanh nghiệp khi được giao rừng đã
quản lý, sử dụng nguồn gỗ không có hiệu quả, đồng thời còn để cho các đối
tượng lâm tặc khai thác bừa bãi mà không có hành động bảo vệ lẫn đối phó
nào, chính phủ cần nhanh chóng ban hành và bổ sung chi tiết các quy định về
xử phạt hành chính đối với doanh nghiệp. Thực tế là cơ quan quản lý địa
phương đang gặp khó khăn trong việc yêu cầu doanh nghiệp bồi thường do
không thể nào định giá được thiệt hại. Bởi vậy, để khắc phụ điều này, chính
58
phủ có thể quy định mức xử phạt và đòi bồi thường cụ thể, tính theo đơn vị
cây hay hecta. Thậm chí, chính phủ hoàn toàn có thể cho bãi miễn doanh
nghiệp khai thác, bãi miễn cán bộ đã ra quyết định trong việc giao đất, giao
rừng cho doanh nghiệp. Ngoài ra, chính phủ cần ra những chỉ thị thích hợp
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trồng rừng mà hiện tại đang gặp khó khăn
về vốn hay quản lý không hiệu quả có thể chuyển nhượng lại các khu rừng đã
trồng cho các doanh nghiệp khác có đủ năng lực hơn để tiếp quản. Làm được
những điều này, nguồn gỗ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất sẽ được khai thác
có hiệu quả hơn và buộc doanh nghiệp cũng như cán bộ quản lý thuộc địa
phương có ý thức trách nhiệm trong các hoạt động của mình.
Bên cạnh việc đẩy mạnh các dự án giao đất trồng rừng và giao rừng
cho doanh nghiệp quản lý, khai thác và tái tạo, chính phủ và cơ quan quản lý
địa phương cần tiến hành đánh giá kỹ các phương án đầu tư một cách có chọn
lọc để có thể tìm ra các doanh nghiệp có năng lực thực sự. Điều này sẽ góp
phần giúp doanh nghiệp chủ động về nguồn nguyên liệu, giảm bớt việc nhập
khẩu và đảm bảo cho nguồn tài nguyên được sử dụng hiệu quả.
Chính phủ cần có biện pháp hoặc ra những chỉ thị thích hợp ngăn
chặn việc khai thác cây non làm mảnh dăm cho công nghệ giấy có giá trị chỉ
khoảng 70 USD/tấn, để dành cây cho công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu có
giá khoảng 1500 USD/tấn. Và khi cây lớn, không những thân cây được dùng
cho sản xuất hàng mộc với giá trị cao như vừa nêu mà các cành ngọn vẫn
dùng làm dăm cho công nghiệp giấy. Điều này tăng đáng kể giá trị thu hoạch
của rừng trồng, kích thích trở lại cho việc đầu tư trồng rừng mà không cần có
sự trợ giúp tài chính của chính phủ nữa.
Tại các khu vực, địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh đồ gỗ và là trung tâm lớn về sản xuất đồ gỗ của cả nước, việc đảm bảo
có được nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu để kịp phục vụ sản xuất, giảm thiểu
thời gian, chi phí giao dịch và phòng tránh rủi ro đối với những biến động,
phụ thuộc từ đối tác gỗ nước ngoài đã trở thành nhu cầu thiết yếu. Hiện tại,
59
bản thân nhiều đối tác nước ngoài có tiềm lực về gỗ nguyên liệu với năng lực
cung ứng cao cũng muốn đẩy mạnh đầu ra cho sản phẩm của mình. Bởi vậy,
cơ quan quản lý thuộc các khu vực này nên nhanh chóng cho phép hiệp hội
sản xuất đồ gỗ xây dựng và thành lập chợ đầu mối về gỗ trong kho ngoại quan
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để các công ty chuyên cung cấp gỗ nguyên
liệu mở văn phòng đại diện tại Việt Nam. Mô hình này được áp dụng sẽ giúp
cho các đối tác nước ngoài có thể trực tiếp đổ gỗ vào chợ đầu mối để chào
bán, góp phần nhanh chóng đáp ứng nhu cầu cho nhiều doanh nghiệp một lúc
thay vì phải mất công giải quyết và làm thủ tục cho nhiều đơn hàng riêng lẻ
khác nhau. Bên cạnh đó, tại chợ đầu mối, mỗi doanh nghiệp có thể xem xét,
lựa chọn kịp thời từng số lượng, từng chủng loại phù hợp với các đơn hàng và
khách hàng của mình thay vì phải đi tìm kiếm các nhà cung cấp gỗ nguyên
liệu có sản phẩm phù hợp như trước đây. Làm được điều này, cả doanh
nghiệp trong nước lẫn nhà cung cấp nước ngoài cũng sẽ giảm thiểu được tối
đa chi phí cho việc giao dịch, tìm nguồn hàng.
Nhà nước cần xây dựng các trung tâm thử nghiệm chất lượng gỗ và sản
phẩm gỗ cấp quốc gia và xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng sản
phẩm gỗ xuất khẩu phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp
thực hiện việc kiểm định chất lượng và được cấp giấy chứng nhận phù hợp
với các tiêu chí về chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quy định. Những
vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng khi các thị trường lớn như EU và
Mỹ yêu cầu kiểm định chất lượng, xuất xứ của gỗ, sản phẩm gỗ trong thời
gian tới.
4. Đối với hoạt động tìm hiểu, thông tin về thị trƣờng.
Chính phủ, bộ công thương và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần
thường xuyên cung cấp những thông tin về diễn biến thị trường, giá cả, cơ hội
kinh doanh và đặc biệt là những thay đổi về chính sách, pháp luật nhập khẩu,
động thái của cơ quan quản lý nước ngoài đối với mặt hàng đồ gỗ của các
60
nước nhằm dự báo và phòng tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi thâm nhập thị
trường quốc tế.
Chính phủ cần hỗ trợ khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động
xúc tiến thương mại thông qua việc tăng cường tổ chức các chuyến công tác
đi tìm hiểu thị trường, các buổi gặp gỡ với đối tác nước ngoài bởi nhóm
doanh nghiệp này thường bị hạn chế về nguồn kinh phí dành cho hoạt động
xúc tiến thương mại và thậm chí là không có trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính toàn cầu như hiện nay. Đối với họ, tìm được thị trường mới lúc này là
điều vô cùng quan trọng khi lượng đơn đặt hàng của doanh nghiệp bị suy
giảm. Để làm được điều này, cần có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan nhà
nước như tham tán thương mại, đại sứ quán ở nước ngoài, cơ quan truyền
thông với hiệp hội.
5. Đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực.
Bộ lao động thương binh và xã hội nhanh chóng thực hiện việc củng
cố và phát triển thêm các cơ sở đào tạo nghề (sản xuất đồ gỗ) cho các vùng có
nhu cầu. Cho đến nay, ngoại trừ 1 trường hợp doanh nghiệp ở Bình Định mới
xây dựng 1 trung tâm đào tạo liên kết với nước ngoài, hiện cả nước vẫn chưa
có trường, trung tâm đào tạo nào khác có quy mô lớn được xây dựng tại các
vùng kinh tế trọng điểm về sản xuất gỗ. Nếu bộ vẫn chậm trễ, chưa kịp thực
hiện thì bộ nên đề nghị chính phủ cho phép các doanh nghiệp có đủ năng lực
tự thành lập các trường, trung tâm đào tạo.
II. Về phía các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ.
1. Đối với các hiệp hội.
Trước tiên, hiệp hội doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản Việt Nam,
hiệp hội sản xuất đồ gỗ và mỹ nghệ cũng như các hiệp hội sản xuất gỗ tại địa
phương cần nâng cao vai trò của mình trong việc điều phối hoạt động và trợ
giúp các doanh nghiệp trong ngành. Hiện tượng một số doanh nghiệp trong
năm qua thiếu sự đoàn kết, phối hợp với nhau trong thời điểm khó khăn đã
cho thấy các hiệp hội chưa thực hiện tốt vai trò của mình. Các doanh nghiệp
61
thay vì hợp tác, chia sẻ các đơn hàng cho nhau để giữ giá lại quay ra hạ giá để
giành giật đơn hàng. Nhiều trường hợp đơn giá sản phẩm chỉ còn 1/2 so với
giá trị ban đầu đối tác đưa ra khiến cho bản thân doanh nghiệp có được đơn
hàng cũng chẳng thu được nhiều lợi nhuận. Cụ thể là hiệp hội cần thông tin,
hướng dẫn giúp cho các doanh nghiệp đàm phán, thoả thuận, liên kết với nhau
trong việc chọn ra doanh nghiệp trúng thầu và phân chia nhiệm vụ, vai trò, lợi
ích giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện đơn hàng. Ngoài ra, hiệp hội
cũng cần nhanh chóng thông tin và môi giới cho các doanh nghiệp thừa
nguyên liệu đến các doanh nghiệp thiếu nguyên liệu. Điều này sẽ giúp cho
doanh nghiệp thừa nguyên liệu giải quyết được lượng gỗ thừa còn tồn đọng
và đẩy nhanh quá trình thu hồi vốn còn doanh nghiệp thiếu nguyên liệu có đủ
gỗ để kịp thời thực hiện đơn hàng, tránh phải cạnh tranh lẫn nhau khi thị
trường gỗ nguyên liệu nhập về khan hiếm không đủ đáp ứng cho doanh
nghiệp trong ngành.
2. Đối với hoạt động Marketing.
Doanh nghiệp sản xuất gỗ cũng như các hiệp hội cần đẩy mạnh hoạt
động xúc tiến thương mại và nhanh chóng mở rộng sang các thị trường mới
như Nga, Ấn Độ, Trung Á, Trung Đông. Đây đều là những thị trường giàu
tiềm năng và có nhu cầu lớn do hoạt động sản xuất kinh doanh gỗ tại những
thị trường này chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Hơn nữa, những quy
định pháp lý liên quan đến sản phẩm gỗ nhập khẩu tại đây lại không khắt khe
bằng thị trường Âu Mỹ và các yêu cầu về chuẩn mực, mẫu mã hay thị hiếu
cũng không ở mức cao như những thị trường khó tính này. Vấn đề chính ở
đây chỉ là việc các doanh nghiệp Việt Nam tìm được cho mình đối tác cũng
như hệ thống phân phối phù hợp.
Những doanh nghiệp quá phụ thuộc vào xuất khẩu và ít lưu tâm đến
thị trường trong nước cần phải cải tạo, xây dựng lại hệ thống phân phối và
hoạt động xúc tiến thương mại trong nước. Nước ta vẫn còn nhiều doanh
nghịệp không có hệ thống phân phối của riêng mình. Tuy nhiên, bản thân họ
62
lại vốn không quen với việc vừa phải tập trung sản xuất, vừa phải đi đến từng
của hàng, đại lý tiếp thị và cung cấp sản phẩm theo kiểu nhỏ giọt. Trong khi
đó, nguồn thu chính lại đến từ số lượng lớn các container xuất khẩu. Bởi vậy,
các doanh nghiệp kiểu này cần trích lập một phần lợi nhuận từ hoạt động xuất
khẩu để lập quỹ xây dựng cơ sở phân phối riêng. Một khi thực hiện được,
doanh nghiệp lúc ấy sẽ có cơ hội quảng bá và đưa ra tất cả các sản phẩm của
mình ra thị trường thay vì chỉ là một vài sản phẩm cho các đại lý, đồng thời
còn không bị chia sẻ lợi nhuận. Ngoài ra, doanh nghiệp khi gặp khó khăn về
kinh phí trong việc quảng cáo đến tay người tiêu dùng, họ hoàn toàn có thể sử
dụng nhiều phương tiện có chi phí thấp hơn như phát tờ rơi, cataloge đến tay
người tiêu dùng, dán áp phích quảng cáo, đặt biển quảng cáo ngoài trời.
3. Đối với hoạt động sản xuất.
Trong quá trình đàm phán hợp đồng với đối tác nước ngoài, khi khách
hàng có yêu cầu sử dụng loại gỗ nguyên liệu nhập tại những vùng nằm ngoài
khu vực Đông Nam Á có chứng chỉ FSC, doanh nghiệp nên cố gắng thương
lượng để khách hàng có thể chuyển sang sử dụng các loại gỗ tương đương lấy
từ các nguồn gỗ có FSC trong khu vực Đông Nam Á hoặc các loại gỗ khác
trong nước nếu doanh nghiệp có nguồn cung trong nước. Làm được điều này,
doanh nghiệp sẽ giảm được khá nhiều chi phí vận chuyển trong khi mức thuế
CEPT dành cho nhóm hàng gỗ nguyên liệu có nguồn gốc ở các nước thuộc
Đông Nam Á, Trung Quốc và mức thuế dành cho nhóm hàng gỗ nguyên liệu
ở các nước ngoài Đông Nam Á nhưng thuộc WTO là tương đương nhau với
phần lớn là 0%. Khi đó, chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp sẽ giảm.
Đối với những doanh nghiệp có nhiều đơn dặt hàng nhưng không có
được nguồn nguyên liệu ốn định cho sản xuất và thường xuyên xảy ra tình
trạng thiếu nguyên liệu dẫn đến phải gia công sản phẩm sử dụng nguyên liệu
của khách hàng nước ngoài với mức thù lao thấp, nhóm doanh nghiệp này cần
nghiên cứu thành lập liên doanh sản xuất với các doanh nghiệp cung cấp gỗ
63
nguyên liệu của nước ngoài dưới hình thức các doanh nghiệp nước ngoài xuất
khẩu nguyên liệu gỗ sang Việt Nam để liên doanh này chế biến xuất khẩu
sang thị trường thứ ba. Có như vậy, doanh nghiệp sẽ tạo sự ràng buộc về mặt
lợi ích với các nhà cung cấp nước ngoài, không còn phải lo về nguồn nguyên
liệu. Đặc biệt, nếu liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam nên ưu tiên liên doanh
với doanh nghiệp Malaysia bởi các doanh nghiệp này hiện vẫn đang là nhà
cung cấp gỗ nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam và nguồn gỗ nhập từ
Malaysia có chi phí rẻ hơn so với loại gỗ tương đương đến từ nhiều Châu lục
khác.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất cần lưu giữ đầy đủ, chi tiết
các hồ sơ liên quan đến sản phẩm ( xuất xứ sản phẩm, nguồn gốc nguyên liệu,
tên khoa học , trị giá hàng, thông số kỹ thuật…) cùng các giấy tờ, chứng nhận
khác có liên quan để tránh những rủi ro từ quy định pháp lý nước nhập khẩu
và đây cũng là bằng chứng quan trọng để đối phó lại với các cáo buộc phi lý
như kiểu của IEA hay Telapak trước đây và sử dụng để chứng minh tính hợp
pháp cho khách hàng nếu như họ có yêu cầu doanh nghiệp giải trình.
4. Đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực.
Để giải quyết tình trạng yếu kém trong khâu thiết kế và nâng cao chất
lượng sản phẩm, mẫu mã, các doanh nghiệp sản xuất gỗ cần có được một đội
ngũ thiết kế chuyên nghiệp và công nhân tay nghề cao. Mặc dù hiệp hội đã
chỉ ra thực trạng này từ lâu, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khắc
phục và để tâm. Khi mà các cơ sở đào tạo đội ngũ nhân lực trong nước không
đáp ứng được nhu cầu ngành, doanh nghiệp cần chủ động liên kết với các tổ
chức kỹ thuật và đào tạo nghề của các quốc gia phát triển, có công nghệ sản
xuất tiên tiến. Với các doanh nghiệp lớn, họ cần trực tiếp hợp tác với đối tác
nước ngoài mở trung tâm đào tạo nghề chế biến gỗ như trường hợp duy nhất
hiện tại giữa doanh nghiệp Trường Thành với tổ chức kỹ thuật GTZ của Đức,
có sự tham gia giảng dạy của chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, các doanh
nghiệp có thể cử người đi học thiết kế ở nước ngoài bởi trong tương lai,
64
doanh nghiệp Việt Nam không chỉ mãi cạnh tranh về giá trong khi năng suất,
mẫu mã, chất lượng sản phẩm mới là yếu tố quyết định để doanh nghiệp Việt
Nam cạnh tranh với đối thủ nước ngoài trên các thị trường lớn và cả thị
trường đồ gỗ cao cấp trong nước. Còn đối với các doanh nghiệp nhỏ không đủ
điều kiện về mặt tài chính nhưng thuộc cùng một địa bàn , họ có thể chung
vốn để mở trường đào tạo hoặc tự tổ chức các khoá học nâng cao nghiệp vụ
cho cán bộ, công nhân dưới sự chỉ dẫn của chuyên gia nước ngoài. Các
chương trình liên quan đến những công nghệ mới hay để nâng cao chuyên
môn cần được xây dựng và triển khai dần theo các cấp độ khác nhau, phù hợp
với trình độ người học.
65
KẾT LUẬN
Thách thức đặt ra cho mỗi ngành sản xuất công nghiệp đó là làm thế
nào để phát triển bền vững nhất, thực sự trở thành thế mạnh của mỗi một quốc
gia và có đóng góp lớn về giá trị kinh tế. Với mục tiêu đó, hoàn thiện môi
trường kinh doanh sẽ tạo bước đà cho doanh nghiệp trong ngành đẩy nhanh
tiến trình phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh cả trong nước lẫn quốc tế.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Nếu
các doanh nghiệp trong ngành không tự hoàn thiện bản thân và vươn lên thì
tất yếu dẫn đến thất bại. Về phía nhà nước và các cơ quan quản lý chính phủ,
nếu như những chính sách, cơ chế định hướng đưa ra không tạo được thuận
lợi cho doanh nghiệp thì rất dễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến ngành và khi đó,
bản thân nhà nước cũng phải chịu thiệt. Mặc dù không phải tất cả vấn đề nào
nhà nước, cơ quan quản lý và doanh nghiệp cũng có thể kiểm soát, điều chỉnh
nhưng đưa ra sự hỗ trợ kịp thời nhằm hạn chế mọi tác động, ảnh hưởng tiêu
cực là cần thiết. Môi trường kinh doanh luôn thay đổi nhưng bản thân nó cũng
đã đem lại cho ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ nước ta nhiều cơ hội chứ
không phải chỉ toàn là những khó khăn, rủi ro. Bởi vậy, biết tận dụng thế
mạnh để nắm lấy cơ hội và vượt qua khó khăn, biết xem xét đánh giá các mặt
yếu để từng bước khắc phục và phòng tránh các rủi ro là yếu tố quyết định
đến thành công của toàn ngành.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn và bất lợi trong thời gian vừa qua, nhưng
nhìn chung những tác động đó không thể nào ngăn cản được sự phát triển của
toàn ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ trong thời gian tới. Khó khăn đến từ
môi trường bên ngoài là khó khăn chung cho tất cả nền kinh tế chứ không chỉ
riêng mỗi ngành. Bên cạnh đó, những mặt hạn chế trong môi trường nội bộ
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ cũng là những điều không thể
tránh khỏi và là tất yếu với một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển
như nước ta hiện nay. Vấn đề chính ở đây là các doanh nghiệp trong ngành
66
cần chọn bước đi phù hợp với khả năng của mình và các chính sách phát triển,
hỗ trợ đối với ngành từ phía chính phủ phải được thực hiện một cách hiệu quả
trên cơ sở gắn chặt với thực tiễn. Riêng đối với doanh nghiệp, không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và xây dựng
một đội ngũ nhân viên có trình độ cao sẽ là nhân tố quyết định đến khả năng
cạnh tranh của ngành trong tương lai. Khi gói kích cầu của chính phủ trở nên
có tác dụng, các doanh nghiệp vượt qua được khó khăn. Ngành sản xuất và
kinh doanh đồ gỗ ở Việt Nam hứa hẹn sẽ còn đem lại nhiều đóng góp to lớn
nữa cho kinh tế đất nước.
Khoá luận được hoàn thành trong điều kiện hạn chế về mặt thời gian,
tài liệu thu thập và khả năng nghiên cứu của người viết, do đó khoá luận
không tránh khỏi những điểm chưa hoàn thiện và những sai sót nhất định. Em
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn!
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Lê Khắc Côi (2008), “Thấy gì qua khảo sát 60 doanh nghiệp
chế biến gỗ ở Bình Định”.
2. Vũ Huy Đại (2008), “Thuận lợi , khó khăn và đề xuất mộ số giải
pháp phát triển ngành chế biến xuất khẩu”.
3. GS Philip Kotler, Biên dịch: TS Vũ Trọng Hùng (2003), Giáo trình
“Quản trị Marketing”, Nhà xuất bản Thống Kê.
4. Nguyễn Tôn Quyền (2008), “Ngành công nghiệp gỗ Việt Nam sau
hai năm gia nhập WTO”.
5. PGS, TS Lê Văn Tân (2000), Giáo trình “Quản trị chiến lược”,
Nhà xuất bản Thống Kê.
6. Lê Bá Toàn, Báo cáo “Tình hình nguồn nguyên liệu gỗ ở Việt
Nam”.
7. PGS.TS Lê Đình Tùng, TS nguyễn Trung Văn, CN Nguyễn Thanh
Bình, ThS Phan Thu Hương, ThS Lê Huy Thành, ThS Nguyễn Huyền Minh
(2000), Giáo trình “Marketing lý thuyết”, Nhà xuất bản Giáo Dục.
8. Tập thể tác giả (2008), Kỷ yếu hội thảo “Môi trường kinh doanh ở
Việt Nam”, Nhà xuất bản Hồng Đức.
9. Tập thể tác giả trường đại học Ngoại Thương (2006), Giáo trình
“Quản trị học”.
10. Ngân hàng thế giới - World Bank (2008), “Báo cáo đánh giá môi
trường kinh doanh của Việt Nam trong năm 2008”.
11. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (2008), “Báo cáo
đánh giá tình hình kinh doanh 6 tháng đầu năm 2008”.
12. Sở công thương tỉnh Bình Dương (2008), Báo cáo hội thảo “Đánh
giá tác động hội nhập sau 2 năm gia nhập WTO đối với ngành chế biến gỗ và
thủ công mỹ nghệ”.
68
Các website:
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
69
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung
APEC
Asian Pacific Economy Cooperation
(Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương)
GSP The Generalized Systems Preferentail
(Chế độ thuế ưu đãi thuế quan phổ cập)
NAFTA
North American Free Trade Area
(Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ)
CEPT Common Effective Tariffs
(Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung)
CPI Consumer Price Index
(Chỉ số giá tiêu dùng)
EIA Evironmental Investigaton Agency
(Cơ quan điều tra về môi trường)
EU European Union
(Liên minh Châu Âu)
FDI Foreign Direct Investment
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)
FSC Forest Stewardship Council
(Hiệp hội quản lý rừng thế giới)
FLEGT Forest Law Enforcement Governance And Trade
(Tăng cường thực thi luật quản trị rừng và buôn bán gỗ)
LP Lạm phát
VNĐ Việt Nam Đồng
WTO World Trade Organization
(Tổ chức thương mại thế giới)
70
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu của ngành sản xuất đồ gỗ.............................27
Bảng 2.2. Tỷ lệ lạm phát của một số nước Châu Á trong tháng 2/2008.........32
Bảng 2.3. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam phân theo
thị trường 2 tháng đầu năm 2009.....................................................................42
DANH MỤC MÔ HÌNH
Mô hình 1.1. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M.Porter................................13
71
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƢỜNG KINH DOANH ............ 4
I. Khái niệm về môi trƣờng kinh doanh. ................................................. 4
II. Các nhân tố của môi trƣờng kinh doanh và tác động của chúng đến
doanh nghiệp. ............................................................................................ 4
1. Môi trƣờng vĩ mô. .............................................................................. 4
1.1. Môi trường kinh tế. ........................................................................ 5
1.2. Môi trường chính trị, pháp luật . .................................................... 7
1.3. Môi trường văn hoá xã hội............................................................. 8
1.4. Môi trường công nghệ. .................................................................. 9
1.5. Môi trường tự nhiên..................................................................... 10
1.6. Toàn cầu hoá. .............................................................................. 11
2. Môi trƣờng ngành: .......................................................................... 13
2.1. Khách hàng. ................................................................................ 14
2.2. Nhà cung cấp. .............................................................................. 15
2.3. Đối thủ cạnh tranh hiện tại. .......................................................... 15
2.4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. .......................................................... 17
2.5 Sản phẩm thay thế. ....................................................................... 19
3. Môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp. ................................................... 19
3.1. Hoạt động Marketing. .................................................................. 20
3.2. Hoạt động tài chính, kế toán. ....................................................... 22
3.3. Hoạt động sản xuất. ..................................................................... 22
3.4. Hoạt động nghiên cứu và phát triển. ............................................ 23
3.5. Nguồn nhân lực. .......................................................................... 24
III. Mục đích của việc phân tích tác động của các nhân tố trong môi
trƣờng kinh doanh: ................................................................................. 25
72
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG KINH DOANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH ĐỒ GỖ Ở
VIỆT NAM ................................................................................................. 26
I. Tình hình phát triển của ngành sản xuất và kinh doanh đồ gỗ ở Việt
Nam. ......................................................................................................... 26
1. Năng lực, quy mô sản xuất. ............................................................. 26
2. Sản phẩm của ngành........................................................................ 29
II. Thực trạng môi trƣờng kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất
và kinh doanh đồ gỗ ở Việt Nam. ........................................................... 30
1. Môi trƣờng vĩ mô. ............................................................................ 30
1.1. Môi trường kinh tế. ...................................................................... 30
1.2. Môi trường chính trị, pháp luật. ................................................... 34
1.3. Môi trường công nghệ. ................................................................ 36
1.4. Môi trường văn hoá, xã hội.......................................................... 37
1.5. Môi trường tự nhiên..................................................................... 37
1.6. Toàn cầu hoá. .............................................................................. 39
2. Môi trƣờng ngành. ........................................................................... 41
2.1. Khách hàng. ................................................................................ 41
2.2. Nhà cung cấp. .............................................................................. 43
2.3. Đối thủ cạnh tranh hiện tại. .......................................................... 45
2.4. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. .......................................................... 46
2.5. Sản phẩm thay thế. ...................................................................... 46
3. Môi trƣờng nội bộ doanh nghiệp. ................................................... 47
3.1. Hoạt động Marketing. .................................................................. 47
3.2. Hoạt động tài chính kế toán. ........................................................ 48
3.3. Hoạt động sản xuất. ..................................................................... 49
3.4. Hoạt động nghiên cứu và phát triển. ............................................ 50
3.5. Nguồn nhân lực. .......................................................................... 51
73
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN
THIỆN MÔI TRƢỜNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH ĐỒ GỖ Ở VIỆT NAM ......................... 53
I. Về phía chính phủ. ............................................................................... 53
1. Đối với hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô. ........................................ 53
2. Đôi với việc ban hành và thực thi các chính sách pháp luật. ......... 55
3. Đối với hoạt động quản lý nguồn nguyên liệu. ............................... 57
4. Đối với hoạt động tìm hiểu, thông tin về thị trƣờng....................... 59
5. Đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực. .................................... 60
II. Về phía các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đồ gỗ. ............... 60
1. Đối với các hiệp hội. ......................................................................... 60
2. Đối với hoạt động Marketing. ......................................................... 61
3. Đối với hoạt động sản xuất. ............................................................. 62
4. Đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực. .................................... 63
KẾT LUẬN ................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 67
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4561_3978.pdf