MỤC LỤC
Mở đầu
Ô nhiễm môi trường nước trong các ao nuôi ở đầm phá ven biển miền Trung hiện nay đang ở tình trạng báo động và là mối quan tâm của các nhà Khoa học, nhà Sản xuất, nhà Quản lý môi trường. Phương pháp sinh học, cụ thể là sử dụng chế phẩm vi sinh được lựa chọn để xử lý loại nước thải này.
Nghiên cứu đã tiến hành phân lập và tuyển chọn được một số chủng vi khuẩn có khả năng phân giải protein, tinh bột và cenlulo cao từ bùn đáy và nước thải từ các ao nuôi tôm. Các chủng vi khuẩn có hoạt tính phân giải chất hữu cơ cao được chọn nhân giống và thu sinh khối rồi phối trộn với bùn tự nhiên (bùn lấy từ đáy ao nuôi) theo tỷ lệ nhất định tạo thành bùn hoạt tính dùng để xử lý nước thải từ cá
ao nuôi tôm.
Thí nghiệm khảo sát khả năng xử lý các chất hữu cơ của vi khuẩn được bố trí làm 9 lô với 1 lô đối chứng (không bổ sung bùn hoạt tính), 8 lô còn lại được bổ sung bùn hoạt tính (bùn tự nhiên + sinh khối vi khuẩn theo các tỷ lệ khác nhau) trong đó 4 lô có sục khí và 4 lô không sục khí.
Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy việc bổ sung bùn hoạt tính cho hiệu quả xử lý tốt trong điều kiện có sục khí. Lô số 9 với tỷ lệ bổ sung các chủng Pr:Tb:C là 8:4:1 cho hiệu quả cao nhất với hiệu suất loại BOD là 53,4%; NH +-N là 99,7% và loại hoàn toàn PO 3—P.
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2610 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường và bệnh thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ánh hiện thực một cách hoang đường, hư ảo. Tôn giáo đã vẽ ra bức tranh thế giới hư ảo và bắt buộc những tín đồ hạn hẹp trong sự hiểu biết đó và hướng con người vào sự giải thích tự nhiên, xã hội bằng giáo lý tôn giáo.
Đạo phật răn dạy con người phải chịu đựng, cam chịu để khi chết được đến cõi niết bàn. Đạo Thiên chúa răn dạy con người nhẫn nhục, tu rèn để khi chết được lên Thiên đàng.
Tôn giáo đã khuôn hạn con người trong nhận thức tôn giáo và làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa người với người, đến mục đích và khuynh hướng xã hội và đến cả hành vi của con người.
Những hiện tượng tự nhiên, những thiên tai được đều được tôn giáo nhân cách hóa thành thần, thánh và qua đó cũng giải thích đó là thần, thánh tạo ra. Quan điểm của tôn giáo về thế giới đã tiêm nhiễm những quan niệm và nhận thức phản khoa học và thụ động trước cuộc sống, Giai cấp thống trị lợi dụng chức năng thế giới quan của tôn giáo để thực hiện chính sách ngu dân, giáo dục nhân dân cam chịu cuộc sống ở thế gian, cam chịu áp bức bóc lột, thủ tiêu tính chiến đấu.
1.3.3. Chức năng điều chỉnh
Chức năng điều chỉnh của tôn giáo là tạo ra một hệ thống chuẩn mực và giá trị của đạo đức, luân lý. Tôn giáo chấp nhận vai trò của cái siêu nhiên như một giá trị xã hội cao nhất và xây dựng một hệ thống chuẩn mực, trước hết là bảo đảm và củng cố niềm tin vào cái siêu nhiên. Những chuẩn mực của tôn giáo không chỉ trong tiến hành giáo lễ, mà còn điều chỉnh cả hành vi xã hội của con người, thái độ đối với gia đình, cuộc sống hàng ngày.
Các lý thuyết về xã hội do các tổ chức tôn giáo truyền bá và xây dựng đã tác động đến hành vi xã hội của con người: các thuyết giáo chứa đựng cả những điều ngăn cấm với các chi tiết cụ thể để điều chỉnh đạo đức con người và thái độ của họ với xã hội, gia đình và quan hệ người với người.
Đạo Phật ở Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, hành vi và nếp sống của nhân dân. Câu "Ở hiền gặp lành" là câu cửa miệng của mỗi con người Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến, đạo đức Phật giáo đã trở thành đạo đức xã hội. "Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" là đạo đức của phụ nữ trong thời phong kiến. "Trung- hiếu- nghĩa" là chuẩn mực đánh giá con người. Những chuẩn mực đạo đức, luân lý này còn ảnh hưởng rất sâu sắc đối với cách đánh giá của con người Việt Nam thời nay.
Chương 2
CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN 1990- 2007
2.1. NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Chủ nghĩa Mác- Lênin với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ngược lại, tôn giáo là công cụ áp bức tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền và thế quyền để nô dịch quần chúng. Tôn giáo đưa ra con đường giải phóng con người bằng sự chịu đựng, nhẫn nhục, cam chịu cuộc sống cực khổ ở trần gian để được hưởng hạnh phúc ở thế giới bên kia sau khi chết đi. Tôn giáo làm cho con người mất dần ý thức dân tộc, xa rời giác ngộ cách mạng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự trên thế gian. Trong tiến trình cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân muốn thực sự giải phóng nhân dân lao động, trước hết là giải phóng nhân dân khỏi áp bức giai cấp, sau đó giải phóng họ khỏi áp bức tinh thần của tôn giáo. Chỉ khi đó con người mới có được hạnh phúc thực sự. Lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với vấn đề tôn giáo là triệt để giải phóng nhân dân lao động khỏi sự nô dịch của tôn giáo
Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
Đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giai cấp.
Nguồn gốc sinh ra tôn giáo hiện đại là sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Muốn giải quyết vấn đề tôn giáo, trước hết phải xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động chỉ có thể được giải phóng thực sự bằng cuộc đấu tranh giai cấp do công nhân lãnh đạo, đập tan nhà nước của giai cấp tư sản và thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội mà từng bước xóa bỏ áp bức, bóc lột, từng bước xóa bỏ nghèo đói và đi đến xã hội tự do, ấm no, hạnh phúc. Trong từng giai đoạn đó, tôn giáo sẽ dần dần mất đi cùng với sự mất đi của nguồn gốc sinh ra nó.
" Muốn xóa bỏ tôn giáo phải xóa bỏ gốc rễ xã hội của nó, đó là sự thống trị của tư sản dưới tất cả mọi hình thức của nó" [2, tr. 287].
Đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng.
Trong tiến trình cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân phải vạch ra đường lối chiến lược và sách lược của từng giai đoạn cụ thể. Trong từng giai đoạn đó, giải quyết vấn đề phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn đó. Nói cách khác, trong từng giai đoạn cách mạng, giải quyết vấn đề tôn giáo để thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đề ra trong giai đoạn đó.
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VIỆT NAM
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á, ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ dàng cho việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thủy (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tôtem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị ngoại bang xâm lược nên Lão giáo, Nho giáo- những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Công giáo- một tôn giáo gắn với văn minh châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo và thu hút người theo đạo.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, Trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nôi, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ…
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kom Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang, Cần Thơ…
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang…
- Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận…
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó cũng là những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể nói riêng.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo. Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở 3 khu vực chính là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với 3 dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng 1 triệu người.
- Công đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có 1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100.000 người Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn có hơn 30.000 người theo đạo Bà Chăm (Bàlamôn). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn người Dao theo đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80- 85%; của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo là 95%; của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân nên tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động, sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với tầng lớp nhân dân làm nên nhiều chiến thắng to lớn của dân tộc.
Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng nước ta. Trong chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và được thực hiện qua nhiều thủ đoạn.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn của Đảng và Nhà nước hoạch định chủ, chính sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1990- 2007
2.3.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tôn giáo và công tác tôn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi Đảng mới thành lập.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh (18/11/1930), Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn giáo tự do tín ngưỡng của quần chúng: "… phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập đoàn nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và đảm bảo tự do tín ngưỡng cho quần chúng…"[4, tr. 231]. Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/9/1945): "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong 6 nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ. Ngày 14/6/1955, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11/6/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo sắc lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11/11/1977, Chính phủ ban hành nghị quyết số 297-Chính phủ về "Một số chính sách tôn giáo", trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59-HĐBT là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24, Đảng đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 2/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khóa IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003) quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: "Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B) [3, tr10]. Từ những nguyên tắc cơ bản đó, điều 68 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" )[3, tr98, 99]. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: "Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [3, tr.159].
Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số 23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 1/7/1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Cư trú…
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo gồm 6 chương:
- Chương I: Những quy định chung. Gồm 8 điều (từ điều 1 đến điều 8).
- Chương II: Hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 6 điều (từ điều 9 đến điều 14).
- Chương III: Tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo. Gồm 10 điều (từ điều 16 đến điều 25).
- Chương IV: Tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 8 điều (từ điều 26 đến điều 33).
- Chương V: Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 4 điều (từ điều 34 đến điều 37).
- Chương VI: Điều khoản thi hành. Gồm 4 điều (từ điều 38 đến điều 41).
Ngày 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo công bố Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam nhằm giúp cho nhân dân trong và ngoài nước, bạn bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam cũng như chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với công tác tôn giáo.
Sách Trắng có 86 trang, gồm 3 chương:
- Chương I : Giới thiệu về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong đó giới thiệu vài nét về tín ngưỡng của tôn giáo Việt Nam; các tôn giáo Việt Nam.
- Chương II: Đề cập Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng, tôn giáo; Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; Kết quả việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Các tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc.
- Chương III: Nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo; Giới thiệu về quan điểm của Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của tôn giáo và quan hệ quốc tế của các tôn giáo.
Sách Trắng đã khẳng định "Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung". Sách Trắng cũng nhấn mạnh: "Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, vì vậy Nhà nước Việt Nam có những chính sách phục vụ cho những nhu cầu đó".
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn gáo ở Việt Nam đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều mặt trong vấn đề tôn giáo của Việt Nam. Nó một lần nữa khẳng định sự đúng đắn và bổ sung cho chính sách tôn giáo của Đảng được thông qua trong Hiến pháp 1992 và Nghị định số 26/1999/NĐ-CP. Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn gáo ở Việt Nam ra đời là một minh chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2/8/1955 thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo".
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955- 1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975- 1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11/11/1977 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như: Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16/10/1990 về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21/3/1991 và sau này là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003 về Công tác tô giáo. Để thể chế hóa tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành- một số ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2/8 hàng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước.
Trong suốt thời gian tăng cường bổ sung, hoàn thiện những chính sách về tôn giáo, bên cạnh đó Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến vấn đề đào tạo cán bộ cho công tác tôn giáo. Mới đây, ngày 8/6/2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 83/2007/QĐ-TTg phê duyệt "Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo" giai đoạn 2006- 2010.
Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn 2006- 2010 có mục tiêu trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, từng bước hoàn thiện, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức theo từng chức danh của cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội và các trường chính trị các cấp về hoạt động tôn giáo.
2.3.2. Tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào các tôn giáo và mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà còn được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ; Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hòa Hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc. Phật giáo có 3 học viện Phật giáo với trên 1000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng Phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh 2 khóa với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới.
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
Cùng với việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và tạo điều kiện cho mọi người có thể tham gia tôn giáo cũng như bảo đảm cho sự phát triển của mỗi tôn giáo, Đảng và Nhà nước còn tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào các tôn giáo.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng như Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng hàng đCut của công tác tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế- xã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả nước về chính sách hỗ trợ đất và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số; về phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông các đồng bào tôn giáo khó khăn, các xã, bản nghèo,… Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn lực bảo đảm thực hiên các chương trình, mục tiêu quốc gia như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục, Văn hóa thông tin… Các chương trình này được chú trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn lực ở các xã, thôn, bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng, tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói chung, đồng bào theo đạo nói riêng đối với Đảng và Nhà nước. Điều này đã góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội, an ninh chính trị ở các vùng; đồng thời, tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, đoàn kết dân tộc được củng cố.
Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo đã được ghi nhận và cân đối trong các kế hoạch, cơ chế, chính sách của các bộ, ngành liên quan và của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ sở để cân đối và bảo đảm nguồn lực phát triển hài hòa của hệ thống chính sách của Nhà nước.
Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội thời gian qua với số vốn hàng trăm tỉ đồng đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, góp phần ổn định và phát triển, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết xây dựng đời sống "tốt đời, đẹp đạo". Một bộ phận lớn đồng bào dân tộc, tôn giáo được giao đất ở, đất sản xuất; được hướng dẫn kỹ thuật, được vay vốn, nhận các điều kiện hỗ trợ cần thiết để sản xuất, tăng thu nhập; tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội vùng giáo, vùng đồng bào dân tộc.
Trong những năm đổi mới, Chính phủ, các bộ, ngành, thành phố trực thuộc trung ương đã thực sự quan tâm đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo nhằm tháo gỡ những rào cản, vướng mắc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao và nhiều mặt khác.
Thông qua kênh Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức, cá nhân tôn giáo và liên quan đến tôn giáo ở trong nước và nước ngoài; các cuộc hội thảo chuyên đề do các tổ chức phi chính phủ tổ chức, cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân có dịp tiếp cận với thực tế ở các vùng, miền nhạy cảm về tôn giáo, các nhân vật tôn giáo đã làm cho dư luận dư luận quốc tế hiểu rõ hơn tình hình và chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam.
Đặc biệt, các tín đồ tôn giáo là người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam được các tỉnh, thành phố tạo điều kiện giúp đỡ về địa điểm sinh hoạt, được các tổ chức tôn giáo cử chức sắc hướng dẫn việc đạo.
Các kênh đối ngoại tôn giáo được tăng cường như: trao đổi đoàn; tham dự các diễn đàn, hội thảo đối ngoại về nhân quyền, tôn giáo với các nước EU, Hoa Kỳ, Ốt-xtrây-lia, với ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (Mỹ), diễn đàn nhân dân ASEM hàng năm, hội thảo về pháp luật tôn giáo các nước Đông Nam Á, các cuộc tiếp xúc giữa sứ quán các nước, các tổ chức quốc tế, phóng viên, báo chí nước ngoài với các cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố một cách thường xuyên, thân tình, khách quan đã mang kết quả quan trọng tạo được niềm tin, sự hiểu biết, chia sẻ của các nước, các tổ chức về chính sách tôn giáo, cũng như những vướng mắc trong công tác xử lý một số vấn đề tôn giáo của Việt Nam.
Các cuộc trao đổi kinh nghiệm quản lý với các nước trong khu vực như: Lào, Căm- pu- chia, Trung Quốc, trên kênh cơ quan chức năng nhà nước và các tổ chức tôn giáo được tiếp tục duy trì và tăng cường hơn trong thời gian qua. Cùng với các hoạt động đó là việc hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo cử đoàn tham dự các hội nghị, hội thảo, các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài như Hội đồng Giám mục Việt Nam tham gia làm thành viên Hội đồng Giám mục Á châu, các Giám mục tham dự lễ tang Giáo hoàng Gioan Phao- lô II và lễ đón nhận chức Giáo hoàng Bên- dic- to XVI, các đại hội Giới thẻ Công giáo thế giới,… Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo quốc tế được tổ chức hàng năm, thăm và trao đổi với Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Thái Lan, Liên minh Phật giáo Lào, Phật giáo Căm- pu- chia và các hội thảo về Phật giáo do các nước trong khu vực tổ chức… là những nét mới trong chính sách tôn giáo của Nhà nước ta. Đáng chú ý là: Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mời và tổ chức đón đoàn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai (Pháp) vào thăm và tổ chức một số hoạt động tôn giáo trong thời gian 3 tháng đầu năm 2005 và chuyến thứ hai vào năm 2007; Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức đón đoàn Bộ trưởng Bộ Truyền giáo tòa thánh Va- ti- căng thăm Hội đồng Giám mục Việt Nam và một số giáo phận; Đoàn các Mục sư Mỹ tham dự Đại hội đồng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) lần thứ hai…
Năm 2008, Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Đại lễ Phật giáo Liên hợp quốc. Đây là một lễ hội tôn giáo lớn và có uy tín lớn trên thế giới với sự tham gia của hàng trăm đoàn đại biểu các nước, hàng vạn tăng ni, phật tử và những nhà nghiên cứu, học giả về Phật giáo trên thế giới.
Đặc biệt, các tín đồ tôn giáo là người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam được các tỉnh, thành phố tạo điều kiện giúp đỡ về địa điểm sinh hoạt, được các tổ chức tôn giáo cử chức sắc hướng dẫn việc đạo.
Thực tiễn công tác đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo từ sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW và Chương trình hành động của Chính phủ đã thực sự thấm nhuần đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, có sự quan tâm, điều hành khá thống nhất, đồng bộ và có sự tham gia tích cực chủ động, của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố liên quan đã mang lại kết quả rất quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức, tình cảm của bạn bè quốc tế.
2.3.3. Vấn đề đấu tranh phòng, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực đế quốc, phản động
Các thế lực phản động thường lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc để cổ súy tư tưởng ly khai, chống đối, ráo riết ủng hộ những phần tử bất mãn, quá khích nhằm kích động biểu tình, gây bạo loạn. Cần nhận rõ những âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của chúng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Lợi dụng xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", kích động xu hướng chia rẽ, ly khai, gây mất ổn định xã hội, từ đó phát triển thành các cuộc bạo loạn chính trị ở một số quốc gia để lấy cớ đó can thiệp, lật đổ, thực hiện ý đồ ép buộc các nước có chế độ chính trị hoặc lựa chọn con đường phát triển khác với Mỹ và một số nước đồng minh của Mỹ phải phụ thuộc vào Mỹ. Việt Nam là một trong những nước nằm trong tầm ngắm của chúng.
Để thực hiện âm mưu đó, cùng với việc lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền" và "dân tộc", "tôn giáo" được sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta. Đồng thời, các hoạt động gây dựng lực lượng chống đối ở trong nước được thực hiện một cách ráo riết nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hòng làm mất ổn định chính trị- xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dưới đây là các phương thức hoạt động chủ yếu được các thế lực thù địch, những phần tử phản động lưu vong, phần tử xấu sử dụng:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích động tâm lý, mặc cảm, tư tưởng ly khai, tư tưởng chống đối trong cộng đồng đồng bào có đạo và đồng bào dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực hiện "diễn biến hòa bình", các chiến lược gia phương Tây khẳng định: Tôn giáo và dân tộc là hai vũ khí có khả năng đánh gãy xương sống cộng sản. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã phần nào cho ta thấy thủ đoạn này của chúng.
Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch nhìn nhận tôn giáo như một "lực lượng chính trị" có thể "đối trọng" với Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, các tổ chức phản động người Việt lưu vong cũng tích cực hậu thuẫn cả về vật chất lẫn tinh thần cho những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo ở Việt Nam nhằm phục vụ ý đồ sử dụng tôn giáo làm "lực lượng" thúc đẩy nhanh tiến trình "dân chủ hóa", thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.
Thứ hai, tích cực ủng hộ những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo, tổ chức lôi kéo, kích động, tổ chức các tín đồ biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để lấy cớ can thiệp từ "bên ngoài". Sự hậu thuẫn này chính là lý do giải thích tại sao hiện nay các phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong một số cộng đồng tôn giáo có thái độ công khai thách thức, ngang nhiên chống đối chính quyền. Ngoài ra, chúng còn lợi dụng tình hình khiếu kiện để xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo. Từ đó kích động quần chúng tín đồ nổi dậy, chống chế độ, chí rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một số tổ chức tôn giáo phản động ở hải ngoại như Phật giáo Việt Nam thống nhất hải ngoại phát tán tài liệu trên mạng internet với nội dung xuyên tạc, vu khống chính quyền Việt Nam khủng bố, đàn áp, bắt giam, ngăn cản hoạt động tôn giáo của các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo; số cầm đầu tổ chức người Thượng lưu vong ở Mỹ tổ chức biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, liên tục chỉ đạo số trong nước thu thập tình hình có liên quan đến dân chủ, nhân quyền và tìm cách gặp người nước ngoài để yêu cầu họ giúp giải quyết vấn đề "Tin Lành Đề- ga". Nhiều năm qua, đạo Tin Lành bị bọn phản động Phun- rô triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng núp dưới chiêu bài "Tin Lành Đề- ga" để kích động quần chúng chống phá cách mạng.
Thứ ba, tích cực thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các tôn giáo (liên tôn); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phản động, cơ hội chính trị trong nước để tạo dựng ngọn cờ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam (thủ đoạn này đó từng được các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa cộng sản sử dụng thành công ở một số nước xó hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây); đẩy mạnh phát triển các hội đoàn tụn giáo, làm sầm uất xứ đạo, khuyếch trương thanh thế, kết hợp với tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên để tập hợp quần chúng, gây áp lực với chính quyền địa phương nếu bị xử lý.
Thứ tư, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý, phỏ hoại tư tưởng, tuyên truyền kích động mâu thuẫn, xung đột, nhất là đối lập về hệ tư tưởng giữa "hữu thần" với "vụ thần", giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản; vu cáo cộng sản diệt đạo, Nhà nước đàn áp tôn giáo làm cho bộ phận quần chúng lạc hậu ngộ nhận tin theo, từ đó, tạo lực lượng chống đối ngầm chế độ xó hội chủ nghĩa Việt Nam. Một số tổ chức phản động người Việt lưu vong lợi dụng hoạt động tài trợ và thông qua hoạt động từ thiện để chuyển tài liệu tôn giáo có nội dung phản động vào trong nước, xuyên tạc bản chất chế độ ta, kích động tư tưởng chống đối trong quần chúng tín đồ. Điều đó đó ớt nhiều tỏc động đến tư tưởng của một số đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là số đồng bào có đạo, dẫn đến những hành động vi phạm pháp luật như: chống lại việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương; tập hợp lực lượng để tổ chức gây rối trật tự công cộng, gây bạo loạn chính trị...
Những hoạt động chống phá trên đây của các thế lực thù địch đều nhằm mục đích làm cho nhân dân ta "tự diễn biến", hỡnh thành các nhân tố, các lực lượng, khuynh hướng chống chủ nghĩa xó hội trong lũng xó hội ta, kớch động gây mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dùng quần chúng để làm suy yếu hiệu lực của chính quyền. Nhận thức rừ tớnh chất nguy hiểm trong hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam, tại Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đó cảnh bỏo: Trong chiến lược "diễn biến hũa bỡnh", vấn đề tôn giáo được các thế lực phản động trong và ngoài nước coi là "ngũi nổ" hết sức nhạy cảm.
Trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động lưu vong, số cơ hội chính trị, phần tử xấu vẫn sẽ tiếp tục lợi dụng tôn giáo với nhiều hỡnh thức, thủ đoạn mới để lôi kéo, tập hợp lực lượng, tiếp tục hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tiếp tục chỉ đạo từ bên ngoài, móc nối với những phần tử chống đối ở trong nước xây dựng cơ sở, tỡm cỏch tỏi phục hồi cỏc hoạt động chống đối. Do vậy, nhỡn chung tỡnh hỡnh mọi mặt về cơ bản là tiếp tục ổn định, song vẫn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, khó lường trước, cần hết sức quan tâm, không thể xem thường.
Thực trạng và xu hướng trên cho thấy tính chất nguy hiểm trong âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Nếu không nâng cao cảnh giác và chủ động ngăn chặn, đối phó có hiệu quả với hoạt động chống phá của chúng, sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội. Thực trạng này đó và đang đặt ra một số yêu cầu cấp thiết sau:
Một là, cấp uỷ, chớnh quyền các cấp cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo nói chung, từng tôn giáo cụ thể nói riêng. Chú trọng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động tụn giỏo, khắc phục tỡnh trạng buụng lỏng quản lý ở một số địa phương. Cần nhận thức rừ rằng, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định chính trị - xó hội ở cả nước cũng như từng địa phương.
Hai là, chỳ trọng công tác xây dựng lực lượng chính trị, cơ sở cốt cán trong tôn giáo; làm tốt công tác phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên trong tín đồ tôn giáo nhằm phát huy tác dụng làm "hạt nhõn" trong phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương, cơ sở. Kiện toàn bộ máy tuyên truyền nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng; đặc biệt là ở những vùng có đông đồng bào theo đạo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung tuyên truyền tập trung vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo để quần chúng tín đồ hiểu rừ và chấp hành nghiờm tỳc; khai thỏc cỏc giỏ trị nhõn văn, đạo đức tiến bộ trong giáo lý tôn giáo để vận động, thu hút, tập hợp quần chúng tín đồ tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Trước sự tấn công quyết liệt của các thế lực thù địch, nếu chúng ta không chú trọng, quan tâm, nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, không "nắm" được quần chúng thỡ sẽ phải đối mặt với những nguy cơ như nhiều nước xó hội chủ nghĩa ở Đông Âu những năm 80 và 90 của thế kỷ trước.
Ba là, đẩy mạnh công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; thực hiện tốt chính sách đoàn kết lương - giáo; tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chương trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội, xoỏ đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, làm cho cộng đồng ổn định, buôn làng phát triển, gia đỡnh ấm no... Bờn cạnh đó, phải kịp thời vạch trần mọi âm mưu, phương thức, thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng nước ta; vạch trần bộ mặt phản động, đội lốt tôn giáo để phá hoại cách mạng của cái gọi là "Tin Lành Đề-ga" để quần chúng nhân dân hiểu rừ, từ đó nâng cao trỡnh độ nhận thức, giác ngộ, ý thức cảch giác cách mạng trong quần chúng tín đồ.
Bốn là, các tỉnh, thành phố có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể; nhất là, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo chuyên sâu ở tỉnh, huyện, xó, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý nhà nước đối với công tác tôn giáo trong tỡnh hỡnh mới. Tổ chức cỏc lớp, cỏc đợt tập huấn riêng cho các chức sắc, chức việc, người có ảnh hưởng, uy tín với cộng đồng tôn giáo, dân tộc để phổ biến chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đồng thời, nhắc nhở trách nhiệm của họ trong khi chăm lo việc đạo phải thường xuyên yêu cầu tín đồ chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng cuộc sống "tốt đời - đẹp đạo", tuõn thủ phỏp luật, làm trũn nghĩa vụ cụng dõn, cảnh giỏc và gúp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, phải nắm chắc số phần tử bất món, cơ hội chính trị, cực đoan, quá khích trong các cộng đồng tôn giáo, số đối tượng cầm đầu kích động quần chúng giáo dân khiếu kiện trên từng địa bàn cụ thể để chủ động quản lý, đấu tranh có hiệu quả, ngăn chặn kịp thời.
Những năm qua, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo đó đạt được nhiều thành tựu rất đáng ghi nhận, đó cú những bước tiến tốt hơn và ngày càng đi vào ổn định; công tác tuyên truyền, vận động quần chúng đó đem lại những hiệu quả tích cực hơn, tỡnh hỡnh sinh hoạt tụn giỏo ở cỏc chi hội dần đi vào xu thế bỡnh thường, ổn định, quần chúng tín đồ, chức sắc, chức việc vui mừng, phấn khởi, yên tâm, tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, các hoạt động tôn giáo trái phép giảm hẳn... Tuy vậy, trong thời gian tới các cấp uỷ, chính quyền, các ngành chức năng và các đoàn thể ở địa phương, cơ sở phải không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, tiếp tục có những biện pháp thiết thực, hữu hiệu để đấu tranh ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch trong nước và quốc tế.
KẾT LUẬN
Công tác tôn giáo của Đảng trong giai đoạn 1990- 2007 đã đạt được nhiều thành tựu và kết quả khả quan. Với những chính sách, chương trình tôn giáo đúng đắn và hợp lý, Đảng đã giải quyết được vấn đề tôn giáo một cách xuất sắc.
Chính sách tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng đã giúp đồng bào tôn giáo được tự do hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng trong phạm vi pháp luật. Không những thế, Đảng và Nhà nước còn tạo nhiều điều kiện để những người theo tôn giáo có thể dễ dàng tổ chức những hoạt động tôn giáo. Qua đó, Đảng đã thực sự thể hiện sự chăm lo của mình đối với nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Cùng với đó, chủ trương đoàn kết các tôn giáo với nhau trong cả nước cũng phát huy tác dụng và hiệu quả thiết thực.
Chính sách phát triển kinh tế ở những vùng có đồng bào tôn giáo sinh sống một mặt đáp ứng được nhu cầu của họ, mặt khác cũng góp phần rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa các vùng, các miền, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Chủ trương kết hợp giải quyết vấn đề dân chủ với vấn đề tôn giáo là vô cùng sáng suốt. Qua đó, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc thêm vững chắc. Không hề có sự kỳ thị giữa những người không theo tôn giáo và những người có tôn giáo. Cùng với đó, Đảng còn chủ trương mở rộng đối ngoại trong tôn giáo. Chính sách này đã đáp ứng được nhu cầu giao lưu, học hỏi lẫn nhau giữa các tôn giáo của các dân tộc trên thế giới. Qua đó cho thế giới hiểu hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo cũng như vấn đề dân chủ. Qua đó, Đảng có được niềm tin trong nhân dân, uy tín đối với bạn bè quốc tế.
Vấn đề tôn giáo luôn là một vấn đề nhạy cảm mà các thế lực phản động luôn lấy đó để bôi nhọ và công kích Chính phủ ta. Nhưng với những chủ trương và chính sách vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, khéo léo, ta đã thành công trong việc chống lại sự phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của kẻ thù. Không những thế, Đảng còn thức tỉnh được những người trước đây lầm đường lạc lối nay trở lại với con đường chính nghĩa của cách mạng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm tôn giáo nằm trong văn hóa. Văn hóa lại là một trong những động lực của chủ nghĩa xã hội. Làm tốt công tác tôn giáo cũng góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi cuối cùng.
Nhìn ra thế giới, khi thấy mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc xảy ra ở rất nhiều nơi, chúng ta mới thấy được tính quan trọng trong công tác tôn giáo. Đảng đã giải quyết tốt vấn đề này đã một lần nữa chứng minh và khẳng định được năng lực, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng là Đảng tiên phong lãnh đạo nhân dân đi đến những thắng lợi mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. V.I. Lênin (1958), Tác phẩm Mác - Ăngghen - Chủ nghĩa Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.