Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách là phương tiện không thể thiếu được của mọi chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam, luật NSNN từ khi được ban hành và qua các lần sửa đổi, bổ sung thừa nhận rằng ngân sách huyện là ngân sách của chính quyền nhà nước cấp huyện và là một bộ phận cấu thành NSNN.
Tuy nhiên, thực trạng về tổ chức quản lý và sử dụng ngân sách huyện Triệu Phong còn nhiều hạn chế và kém hiệu quả, gây thất thoát kinh phí của nhà nước.Đề tài :” Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong - Quảng Trị” là công trình nghiên cứu nhằm giúp cho việc quản lý thu, chi ngân sách nhà nước ở huyện Triệu Phong hiệu quả hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản quản lý NSNN cấp huyện và phân tích thực trạng công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong
Phần nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về NSNN- Quản lý NSNN cấp huyện
Chương 2:Thực trạng công tác tổ chức công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu, chi ở huyện Triệu Phong.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2657 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện Triệu Phong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu học hành, chăm sóc sức khoẻ và đi lại cho nhân dân trên địa bàn; các chương trình, dự án mục tiêu, chương trình bê tông hoá GTNT, kiên cố hoá: trường lớp học, kênh mương được tiếp tục triển khai thực hiện đảm bảo kế hoạch đề ra. Hiện nay, huyện đang tích cực triển khai công tác GPMB để thi công các công trình: Cầu cửa Việt , cầu Bắc Phước, đường Đại -Độ -Thuận- Phước; phối hợp với các ngành cấp tỉnh khảo sát quy hoạch đường Hùng Vương nối dài; Khu đô thị Nam cầu Vĩnh Phước, cầu Đại Áng- Đại Lộc, đây là những công trình có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm đến.
Nhìn chung các công trình dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tiến độ xây dựng các công trình tương đối đảm bảo, công tác giải ngân vốn được quan tâm. Thủ tục về xây dựng cơ bản được tiến hành theo đúng quy định về quản lý xây dựng. Công tác thanh tra kiểm tra giám sát cộng đồng và quản lý chất lượng công trình được tăng cường hơn trước.
2.1.1.5 Công tác tài chính- Ngân hàng:
Tổng thu ngân sách năm 2007 là 97.625 triệu đồng, vượt 20,4% so với năm 2006, thu trợ cấp cân đối 72.164 triệu đồng; thu kết dư và chuyển nguồn 15.012 triệu đồng. Tổng chi ngân sách 97.625 triệu đồng trong đó chi đầu tư phát triển 15.821 triệu đồng, tăng 41,4% so với năm trước; chi thường xuyên 80.804 triệu đồng, tăng 39,2% so với năm trước; chi dự phòng 1000 triệu đồng.
Công tác quản lý tài chính nói chung và công tác thu, chi ngân sách nói riêng có nhiều cố gắng, góp phần chủ động điều hành, quản lý ngân sách. Công tác chi được thực hiện theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, chú trọng cho các lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo.
2.1.1.6 Công tác đối ngoại
Quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại tiếp tục được chú trọng, mở rộng và đạt được những kết quả thiết thực. Các chương trình dự án, chính phủ, phi chính phủ nước ngoài được thực hiện cơ bản đúng cam kết, góp nguồn lực quan trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội huyện, xoá đói giảm nghèo, trong năm 2007 tổ chức tầm nhìn Thế Giới đầu tư trên địa bàn huyên 7.6 tỷ đồng. Năm 2007 Dự án Na uy đã kết thúc đầu tư trên địa bàn, tổng kinh phí dự án đầu tư thực hiện từ trước đến nay là 90 tỷ đồng.
Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND huyện đã tập trung chỉ đạo các ngành chức năng tiến hành thủ tục giao nhận, thanh lý tài sản của dự án, mời kiểm toán đánh giá hiệu quả dự án phát triển nông thôn vùng ven biển của huyện để rút kinh nghiệm tăng cường quản lý khai thác có hiệu quả các công trình sau dự án kết thúc.
2.1.2 Xã hội
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngày càng được giữ vững. Các thiết chế văn hoá thể thao từ huyện đến cơ sở từng bước được đầu tư, xây dựng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Công tác chi trả chế độ chính sách, trợ cấp xã hội cho các đối tượng được thực hiện kịp thời đầy đủ. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh, trong năm quỹ tình nghĩa đã huy động được 497,3 triệu đồng. Quỹ vì người nghèo 658 triệu đồng. Đã xây dựng và sửa chữa, bàn giao 334 nhà tình nghĩa, tình thương. Tiếp nhận 735 triệu đồng do tổ chức SoDi( Đức) hỗ trợ để xây dựng nhà cho các nạn nhân chất độc màu da cam…..
Công tác đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi, an toàn cho các tổ chức phi chính phủ đến thăm, tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn được thực hiện tốt.
Tóm lại trong những năm gần đây nền kinh tế huyện Triệu Phong tương đối phát triển hơn so với những năm trước đây. Kinh tế phát triển theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần. Cơ sở hạ tầng được tăng cường; thu ngân sách đạt loại khá; bộ mặt nông thôn, thị trấn có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân được nâng lên, nhất là được những kết quả quan trọng trên lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, tạo nguồn nhân lực, quốc phòng an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế- xã hội huyện Triệu Phong còn một số tồn tại, hạn chế như:
Nền kinh tế huyện vẫn còn chậm phát triển, chưa bền vững, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, từng ngành, từng sản phẩm còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, chất lượng nguồn lực thấp, chuyển dịch lao động còn chậm. Nguyên nhân một phần là do việc tập trung vốn đầu tư cho xây dựng đầu tư cơ bản chưa được quan tâm đúng mức.
Hoạt động thương mại dịch vụ phát triển chưa mạnh sức mua còn hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn xuống cấp chưa được đầu tư, xây dựng.
Một số chủ đầu tư thiếu tích cực trong lập thủ tục đầu tư XDCB, công tác phê duyệt, thẩm định dự án của các ngành chuyên môn còn chậm. Một số dự án triển khai chậm không đảm bảo tiến độ như: nhà thi đấu TDTT, đường nối từ tỉnh lộ 68 đi Triệu Đông.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở đầu tư chưa đúng mức. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh nhân dân ở tuyến cơ sở còn hạn chế.
Cơ sở vật chất trường lớp mặc dù có những tiến bộ nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ vẫn chưa đáp ứng cho việc dạy và học theo phương pháp đổi mới. Hệ thống giáo dục mầm non phân tán, cơ sở các khu vực xuống cấp chậm được khắc phục.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tình hình tội phạm còn tiềm ẩn nhiểu phức tạp, nhất là khiếu nại tố cáo trên lĩnh vực đất đai…..
Kết quả như vậy một phần là do công tác quản lý ngân sách nhà nước của huyện Triệu Phong chưa thực sự hiệu quả.
2.2 Thực trạng công tác thu chi ngân sách nhà nước ở huyện Triệu phong trong thời gian qua
2.2.1 Tình hình thu chi ngân sách trong những năm qua:
Năm 2007 là năm đầu thực hiện thời kỳ ổn định ngân sách giai đoạn 2007 – 2010 và năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ 17 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010. Trên cơ sở Quyết định số 85/2006/QĐ – UBND ngày 22/12/2006 của UBND tỉnh Quảng trị và Nghị quyết số 7b/2006/NQ – HĐ ngày 22/12/2006 của Hội đồng nhân dân huyện về dự toán thu chi và phân bổ ngân sách năm 2007. UBND huyện đã tuyệt đối tuân thủ sự chỉ đạo của UBND tỉnh, các ban ngành cấp tỉnh, mặt khác tích cực chỉ đạo các cơ quan, ban ngành của huyện, các xã, thị trấn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch thu chi ngân sách đã đề ra.
2.2.1.1Về thu ngân sách:
Tổng thu ngân sách năm 2007 là 97.625 triệu đồng đạt 146,8% KH, trong đó thu trên địa bàn 10.449 triệu đồng đạt 114,5% KH, thu trợ cấp 72.164 triệu đồng đạt 125,8% KH.
STT
NỘI DUNG
Dự toán HĐND giao
NSNN năm 2007
T. Số
Huyện
Xã
T. Số
Huyện
Xã
TỔNG THU NSNN
66,482
63,954
2,528
97,625
94,825
2,800
A
TỔNG THU NS ĐỊA BÀN
9,125
6,597
2,528
10,449
7,921
2,528
1
Thu từ khu vực ngoài QD
2,700
2,327
373
3,785
3,413
372
Thuế VAT và TNDN
2,460
2,232
228
3,535
3,309
226
Thuế môn bài
240
95
145
247
101
146
Thuế tiêu thụ đặc biệt
0
2
2
Thu khác ngoài quốc doanh
0
1
1
2
Lệ phí trước bạ
700
676
24
871
784
87
3
Thuế sử dụng dất NN
120
120
122
122
4
Thuế nhà đất
290
87
203
260
78
182
5
Phí và lệ phí
1,030
57
973
861
22
39
6
Thuế chuyển quyền SDĐ
50
15
35
58
17
41
7
Thu tiền sử dụng đất
3,300
3,300
3,450
3,450
8
Tiền thuê đất
85
85
117
117
9
Thu từ quỹ đất 5% và HLCS
800
800
800
800
10
Thu khác
50
50
125
40
5
B
THU KẾT DƯ
5,015
4,743
272
C
THU CHUYỂN NGUỒN
9,997
9,997
D
THU TRỢ CẤP
57,357
57,357
0
72,164
72,164
1
Thu trợ cấp cân đối
57,357
57,357
7,357
7,357
2
Thu trợ cấp mục tiêu
14,807
4,807
Nhìn chung thu ngân sách năm 2007 đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Một số nguồn thu đạt tỷ lệ khá cao như thu từ đấu giá quyền sử dụng đất (138%), lệ phí trước bạ (124,4%), thuế VAT và TNDN (143,7%).
Nguyên nhân tăng giảm của một số nội dung thu:
- Về đấu giá QSDĐ: Năm 2007, UBND tỉnh giao KH thu tiền đấu giá QSDĐ 2.500 triệu đồng, Nghị quyết HĐND huyện đề ra mức phấn đấu 3.300 triệu đồng. Nguồn thu này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu ngân sách trên địa bàn. UBND huyện đã chỉ đạo Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất của huyện tiến hành đấu giá các lô đất tại Thị Trấn Ái tử, xã Triệu đại, đến nay nguồn thu này đạt 3.450 triệu đồng, so với KH UBND tỉnh giao đạt 138%, so với Nghị quyết HĐND huyện đạt 104,5%. Đây là một cố gắng rất lớn của các ngành, các xã, thị trấn, đặc biệt có sự đóng góp tích cực của Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất huyện.
- Thu khu vực ngoài quốc doanh thực hiện 3.785 triệu đồng, đạt 140,2% KH (Thuế GTGT và TNDN 143,7%, thuế môn bài thực hiện 102,9% KH). Nguyên nhân nguồn thu này tăng là có nhiều cố gắng của ngành thuế, tăng cường công tác quản lý, hướng dẫn các DN thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và có biện pháp xử lý nghiêm đối với các trường hợp dây dưa, vi phạm việc nộp thuế theo Luật quản lý thuế quy định. Mặt khác là các DN đã biết chủ động khai thác nguồn hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh nên số thu năm 2007 tăng đáng kể so với năm 2006.
- Tiền thuê đất thực hiện 117 triệu đồng, đạt 137,6% KH. Nguồn thu này tăng cao là nhờ điều chỉnh hệ số lần tính và nhờ có sự rà soát kỹ lưỡng của cơ quan Thuế đối với các hộ thuê đất phát sinh trong năm đưa vào quản lý.
- Lệ phí trước bạ thực hiện 871 triệu đồng, đạt 124,4% KH, đây là nguồn thu không cố định và phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của huyện, trong năm việc đấu giá QSDĐ tương đối thuận lợi, điều kiện đời sống nhân dân huyện nhà tăng lên đáng kể do đó nguồn thu này cũng tăng theo tỷ lệ.
- Thu trợ cấp 72.164 triệu đồng đạt 125,8% KH (trong đó thu trợ cấp cân đối đạt 100%, thu trợ cấp mục tiêu 14.807 triệu đồng). Thu trợ cấp đạt cao là nhờ vào nguồn thu trợ cấp mục tiêu bổ sung trong năm, trong đó bao gồm:
+Thu bổ sung kinh phí bầu cử Quốc hội: 279 triệu đồng
+Thu bổ sung kinh phí kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn và 35 năm giải phóng quê hương Triệu phong: 250 triệu đồng
+Thu bổ sung khắc phục thiên tai: 1.150 triệu đồng
+Thu bổ sung tiêu huỷ dịch LMLM: 31 triệu đồng
+Thu bổ sung diễn tập khu vực phòng thủ: 80 triệu đồng
+Thu bổ sung tiền lương mới 9.224 triệu đồng
+Thu bổ sung BTHGTNT: 1.600 triệu đồng
+Thu bổ sung KCHKM: 800 triệu đồng
+Thu bổ sung các khoản phụ cấp cán bộ xã: 847 triệu đồng
+Thu bổ sung kinh phí cải cách hành chính và Ban chỉ đạo 120: 22 triệu đồng
+Thu bổ sung kinh phí giám sát đầu tư cộng đồng: 24 triệu đồng
+Thu bổ sung kinh phí xây dựng trụ sở UBND xã Triệu Lăng: 500 triệu đồng.
-Thu chuyển nguồn và thu kết dư từ năm 2006 chuyển qua năm 2007 thực hiện: 15.012 triệu đồng.
Bên cạnh các khoản thu đạt và vượt kế hoạch, vẫn còn một số khoản thu như Thuế nhà đất thực hiện 260 /290 triệu đồng, đạt 89,7% KH; phí lệ phí thực hiện 861/1030 triệu đồng, đạt 83,6% KH, So với cùng kỳ năm trước giảm 21%; đây là hai nguồn thu chủ yếu phân cấp, cân đối cho các xã, thị trấn nhưng các địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức nên tỷ lệ đạt thấp.
2.2.1.2 Chi ngân sách:
2/Chi ngân sách
Nội dung
Dự toán năm 2007
TH năm 2007
Tổng chi NS huyện
66.482
97.625
A/ Chi cân đối NSĐP
65.482
96.625
I/ Chi đầu tư phát triển
7.430
15.821
II/ Chi thường xuyên
58.052
80.804
1/ Sự nghiệp kinh tế
2.192
6.106
-SN nông nghiệp, thuỷ lợi, TS
587
1.417
- SN giao thông
145
145
-Kiến thiết thị chính
130
130
- Phòng chống bảo lụt
100
100
- Khắc phục thiên tai
2.984
- SN khoa học công nghệ và MT
255
255
- Sự nghiệp khác
975
1.075
2/ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo
35.300
45.247
- Sự nghiệp giáo dục
34.900
44.847
- Sự nghiệp đào tạo, dạy nghề
400
400
3/ Sự nghiệp y tế
1.564
2.092
4/ Sự nghiệp VHTT
150
150
5/ Sự nghiệp phát thanh
50
50
6/ Sự nghiệp TDTT
100
103
7/ Chi đảm bảo xã hội
989
989
8/ Chi quản lý hành chính
5.592
6.979
-QLNN
3.440
4.482
- Đảng
1.070
1.271
- Đoàn thể
1.053
1.197
- Hỗ trợ các hội
29
29
9/ An ninh - Quốc phòng
410
490
- An ninh
130
130
- Quốc phòng
280
360
10/ Chi ngân sách xã
11.241
14.097
Trong đó: chi chuyển giao
8.713
11.297
11/ Chi khác, các ngày lễ lớn
464
714
12/ Chi bầu cử quốc hội
279
13/ Chi cải cách tiền lương
2.913
14/ Chi từ nguồn vượt thu năm 2007
587
15/ Hỗ trợ các đơn vị
8
B/ Dự phòng
1.000
1.000
Bảng 2
Tổng chi ngân sách năm 2007 đạt 97.625 triệu đồng, xấp xĩ 146,8% KH. Trong đó chi đầu tư phát triển 15.821 triệu đồng, đạt 212,9% KH; chi thường xuyên 80.804 triệu đồng, đạt 139,2% KH; chi dự phòng đạt 100% KH.
Nhìn chung tình hình chi ngân sách đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Nhiều nhu cầu phát sinh ngoài kế hoạch đã được giải quyết, tích cực góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội trong năm. Hầu hết các khoản chi đều tăng so với dự toán mà Nghị quyết HĐND huyện giao. Chi ngân sách tăng cao một mặt để tương ứng với trợ cấp có mục tiêu tỉnh bổ sung trong năm, mặt khác để thực hiện thu chuyển nguồn và kết dư năm 2006 chuyển qua. Tổng số tiền được tỉnh trợ cấp có mục tiêu và từ thu chuyển nguồn, thu kết dư trong năm 2007 là 29.514 triệu đồng.
Một số nội dung chi tăng cơ bản:
-Chi đầu tư phát triển: 15.821 triệu đồng, đạt 212,9 % KH. Việc chi đầu tư phát triển tăng cao là nhờ ngân sách tỉnh bổ sung 2.100 triệu đồng (gồm vốn BTHGTNT: 1.600 triệu đồng, vốn xây dựng trụ sở xã T. Lăng: 500 triệu đồng), thu kết dư và thu chuyển nguồn năm 2006 chuyển sang 6.141 triệu đồng chủ yếu vốn hỗ trợ của thành phố HCM, tiền sử dụng đất, các công trình tạm ứng nhưng chưa có khối lượng thanh toán.
-Chi sự nghiệp kinh tế: 6.106 triệu đồng, đạt 278,6 % KH. Chi sự nghiệp kinh tế cao chủ yếu tăng nguồn chi khắc phục thiên tai do ngân sách tỉnh bổ sung với số tiền 1.150 triệu đồng, trong năm 2006 chi khắc phục thiên tai tỉnh bổ sung sử dụng không hết chuyển năm 2007 thực hiện 1.834 triệu đồng, vốn trả nợ KCHKM và xây dựng mới 800 triệu đồng.
-Chi sự nghiệp giáo dục và SN y tế năm nay thực hiện cao chủ yếu là tăng lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo Nghị định 93, 94 của Chính phủ.
-Chi quản lý hành chính 6.979 triệu đồng, đạt 124,8 % KH tăng chủ yếu là chi tiền lương 1.077 triệu đồng, số còn lại là các nhiệm vụ phát sinh ngoài kế hoạch được chi từ nguồn kết dư ngân sách.
-Chi an ninh quốc phòng thực hiện 490 triệu đồng, đạt 119,5 % KH tăng so với dự toán giao 80 triệu đồng là do ngân sách tỉnh bổ sung kinh phí diễn tập khu vực phòng thủ
-Chi ngân sách xã: 14.907 triệu đồng, đạt 125,4 % KH tăng chủ yếu là bổ sung tiền lương, các khoản phụ cấp theo chế độ quy định.
Ngoài các nhiệm vụ chi đã nói ở trên, do năm 2007 huyện tiến hành tổ chức nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn như kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn, kỷ niệm 35 năm giải phóng quê hương, 60 năm ngày Thương binh Liệt sỹ và diển tập khu vực phòng thủ đã làm tăng dự toán ghi đầu năm KH:
+Dịp Lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí Thư Lê Duẩn, kỷ niệm 35 năm giải phóng quê hương, ngân sách tỉnh bố trí kế hoạch từ đầu năm 130 triệu đồng và trong năm bổ sung cho huyện 250 triệu đồng; UBND huyện đã chỉ đạo điều chỉnh nguồn vốn sự nghiệp NN, trích chi khác ngân sách, dự phòng với số tiền 482 triệu đồng để bổ sung chi cho lễ. Như vậy tổng số kinh phí thực hiện chi cho các ngày lễ lớn là 862 triệu đồng, trong đó chi mang tính chất đầu tư, sửa chữa các công trình 217 triệu đồng.
+Lễ kỷ niệm 60 năm ngày Thương binh Liệt sỹ và diển tập khu vực phòng thủ ngân sách huyện đã trích dự phòng thực hiện 471 triệu đồng.
Số chi ngân sách dự phòng ngoài việc trích để bổ sung cho các nhiệm vụ nói trên, số còn lại đã được chi bổ sung các hoạt động phát sinh ngoài kế hoạch không ghi đầu năm cho các đơn vị, các xã thị trấn.
Thực trạng và đánh giá công tác quản lý thu chi ở huyện triệu phong trong thời gian qua
Trong những năm gần đy công tác quản lý thu chi ở huyện Triệu Phong được tổ chức như sau:
HĐND huyện Triệu Phong đã thực hiện vịêc quyết định giao dự toán NSNN, kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành NSNN và phê chuẩn quyết toán NSNN.
Y UBND huyện Triệu Phong thực hiện tương đối đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình:
UBND đã thực hiện lập dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách của mình theo các chỉ tiêu quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 25 của luật NSNN; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên.
Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính trực tiếp.
Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính – ngân sách.
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 25 luật NSNN.
Y Phòng tài chính huyện Triệu Phong : Thực hiện đầy đủ chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện về chuyên môn.
Y Kho bạc nhà nước: Trong thời gian qua kho bạc nhà nước huyện Triệu Phong đã thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán , quản lý NSNN và các quỹ tài chính khác.
Y Chi cục Thuế huyện đã thực hiện quản lý các khoản thu nội địa , bao gồm phí, lệ phí, thuế, và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi cục thuế đã làm tốt các công việc của mình như: Lập dự toán thu thuế năm 2007, hướng dẫn nghiệp vụ về kê khai, tính thuế, phát hành thông báo thuế cho các đơn vị. Tuyên truyền giáo dục, vận động thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế theo quy định. Đề nghị, quyết định theo thẩm quyền việc miễn,giảm, hoàn thuế, trưng thu thuế, quyết toán thuế và chấp hành luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế, tổ chức cá nhân quản lý thu thuế, giải quyết khiếu nại tố cáo về thuế. Quản lý hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế, lưu giữ các tài liệu liên quan đến công tác thu thuế của các đối tượng nộp thuế.
Về phân cấp quản lý ngân sách: Việc phân cấp quản lý ngân sách huyện do tỉnh Quảng trị quy định theo Luật NSNN đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngân sách huyện có những biện pháp tăng trưởng và tập trung nguồn thu cho ngân sách huyện.
Về điều hành ngân sách: Huyện đã triển khai chỉ đạo chấp hành tốt luật NSNN từ khâu lập; giao dự toán; chấp hành dự toán; kế toán và quyết toán ngân sách. Việc chấp hành luật NSNN và các chế độ tài chính hiện hành đã từng bước đi vào nề nếp, chất lượng ngày càng tăng, cụ thể:
Lập và giao dự toán ngân sách huyện: Trên cơ sở dự toán thu, chi được UBND tỉnh quyết định giao, phòng tài chính huyện Triệu Phong căn cứ và tham mưu cho UBND huyện Triệu Phong lập phương án xây dựng dự toán trình HĐND huyện quyết nghị với phương hướng phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi. Dự toán HĐND huyện quyết nghị có thêm một số chỉ tiêu phấn đấu tăng thu. Tỷ lệ này tăng ở các xã khác nhau, chủ yếu tăng nguồn thu phát sinh từ : thu tiền sử dụng đất, các khoản phí, lệ phí… Chẳng hạn như ở Thị Trấn Ái tử, xã Triệu đại, nguồn thu này đạt 3.450 triệu đồng, so với KH UBND tỉnh giao đạt 138%, so với Nghị quyết HĐND huyện đạt 104,5%.
Đối với việc lập và giao dự toán chi thường xuyên: Căn cứ vào dự toán của UBND tỉnh giao, phòng tài chính rà soát và cân đối lại các lĩnh vực chi cho các đơn vị dự toán thuộc ngân sách huyện như :Y tế, giáo dục, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…. từ đó tham mưu cho UBND huyện tổng hợp trình HĐND huyện xem xét và nghị quyết giao dự toán trên địa bàn hoàn thành được nhiệm vụ chính trị được giao.
Chấp hành dự toán thu ngân sách: Triệu phong là một huỵện có tỷ trọng thu trên địa bàn chiếm dưới 50%NSNN
Qua thực tiễn hoạt động cho thấy: địa phương quan tâm chỉ đạo thu đạt và vượt dự toán thu được giao. Nguồn thu hầu hết tập trung đầy đủ và kịp thời vào ngân sách theo quy định. Chẳng hạn như: Năm 2007 tại huyện đã thu 97,625 triệu đồng vượt so với dự toán HĐND huyện giao 66,482 triệu đồng.
Chấp hành dự toán chi ngân sách: có thể cụ thể chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên như sau:
+ Chi đầu tư phát triển: Hầu hết các công trình, dự án xây dựng do ngân sách huyện quản lý có giá trị và quy mô nhỏ vì vậy công tác chấp hành dự toán chi ngân sách đối với lĩnh vực này tại các ban quản lý dự án huyện thực hiện cơ bản đúng quy trình quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ công tác quy hoạch chuẩn bị đầu tư, công tác xây dựng và phân bổ kế hoạch vốn…đến công tác nghiệm thu khối lượng và thanh toán vốn đầu tư. Kho bạc nhà nước huyện Triệu Phong cũng đã kiểm soát và thanh toán vốn đầu tư đối với lĩnh vực này nhanh chóng, kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện.
+ Chi thường xuyên: Về cơ bản huyện đều chấp hành chi ngân sách theo dự toán của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao, việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách cấp được thực hiện một cách chặt chẽ, bám sát dự toán và chế độ, định mức chi ngân sách. Huyện ưu tiên chi về sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá xã hội, văn hoá và ổn định chính trị trên địa bàn,…..
Tuy đạt được những kết quả như trên , song qua thực tiễn hoạt động cho thấy địa phương vẫn còn những hạn chế, sai phạm sau:
Về phân cấp quản lý ngân sách: Trong phân cấp nguồn thu, hiện nay cấp tỉnh chưa mạnh dạn phân chia tối đa nguồn thu cho ngân sách huyện. Một số nguồn thu lớn, chủ lực trên địa bàn huyện tập trung vào ngân sách tỉnh Quảng Trị thí dụ : Công ty cổ phần Minh Trí thuộc huyện Triệu Phong hàng năm phải nộp thuế vào ngân sách tỉnh Quảng Trị. Huyện chủ yếu thu từ khu vực ngoài quốc doanh; phí- lệ phí;thu thuế của các doanh nghiệp tư nhân, thu cấp quyền sử dụng đất nhưng nguồn thu này không mang tính ổn định; một số khoản thu khác và các nguồn thu nhỏ lẻ, phân tán thuộc kinh tế ngoài quốc doanh. Thông qua cơ chế bổ sung từ ngân sách tỉnh để cân đối nhiệm vụ chi của huyện, gần như tái hiện cơ chế “xin- cho” trong quản lý, cấp phát ngân sách, hạn chế tính chủ động trong khai thác nguồn thu và điều hành ngân sách huyện.
Một số vấn đề chi cho các vấn đề xã hội như: xoá đói giảm nghèo, phát triển văn hoá, phòng chống tệ nạn xã hội do huyện chủ động còn quá hẹp.
Về chế độ quản lý ngân sách, tài chính:
+ Lập và giao dự toán ngân sách: công tác lập và giao dự toán ở một số xã chưa được quan tâm đúng mức.
+ Chấp hành dự toán ngân sách
Chấp hành dự toán thu ngân sách: Hầu hết các đơn vị quan tâm chỉ đạo thu vượt, đạt dự toán được giao. Nguồn thu cơ bản được huy động vào ngân sách. Tuy nhiên vẫn còn một vài đơn vị còn xảy ra hiện tượng giữ lại nguồn thu nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách năm sau. Một số khoản thu phí, lệ phí và thu khác được để lại chi tại các đơn vị dự toán chưa được lập, giao dự toán; việc quản lý sử dụng còn lãng phí, sai mục đích ví dụ: nhiều công trình vừa mới được tu sửa chưa đến một năm lại được cấp kinh phí để xây thêm, tu sửa lại trong năm nay như: Trụ sở UBND huyện Triệu phong, chi cục thuế…còn xảy ra tình trạng thất thu thuế tài nguyên, thuế môn bài. Các đơn vị thuộc huyện còn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào bổ sung của ngân sách cấp trên.
Chấp hành dự toán chi ngân sách: Việc cấp phát chi ngân sách được thực hiện theo 2 hình thức là dự toán kinh phí và lệnh chi tiền. Trên thực tế, cấp phát bằng lệnh chi tiền còn chiếm tỷ trọng lớn. Dự toán được giao không sát nên cấp phát còn tình trạng cấp thừa nhóm mục này nhưng lại cấp thiếu nhóm mục khác. Đến cuối năm, có trường hợp phòng tài chính tham mưu cho UBND huyện điều chỉnh nhóm mục này sang nhóm mục khác là không đúng với quy định của luật NSNN. Thí dụ Phòng Tài chính huyện Triệu Phong tham mưu cho UBND huyện Triệu Phong điều chỉnh nhóm mục chi dự phòng cho nhóm mục các ngày lễ lớn. Trong cấp phát ít chú ý đến việc giảm trừ các khoản thu hồi hoặc các khoản còn lại năm trước chuyển sang.
Trong tổng chi ngân sách huyện, việc bố trí kinh phí ngân sách cho chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng nhỏ. Chi đầu tư phát triển ở huyện có nhu cầu lớn nhưng chưa được đáp ứng.
Chi ngân sách huyện mới chỉ đáp ứng được chi thường xuyên. Thực tiễn cho thấy hầu hết các khoản chi cơ bản bám sát dự toán được duyệt.
Chi quản lý nhà nước, Đảng, Đoàn thể còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên của ngân sách huyện. Tại các đơn vị sử dụng ngân sách thì tìm mọi cách để chi hết kinh phí được cấp, chạy chi vào cuối niên độ tài chính.
Quyết toán ngân sách: Báo cáo quyết toán thu- chi ngân sách được thực hiện thống nhất theo biểu mẫu và các chỉ tiêu quy định. Tuy nhiên thời gian quyết toán ngân sách huyện thường kéo dài do quyết toán ngân sách xã, thị trấn và các đơn vị dự toán nộp chậm, khâu thẩm định quyết toán gặp khó khăn.
Chương 3 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU- CHI Ở HUYỆN TRIỆU PHONG TRONG THỜI GIAN ĐẾN
3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện triệu phong trong thời gian đến
Chịu ảnh hưởng của luật nhân sách nhà nước năm 2002, thông tư của bộ tài chính số 107/2006/TT-BTC ngày 20/11/2006
Quyết toán thực hiện theo thông tư số 59/2003/ TT-BTC ngày 23/6/2003 của bộ tài chính
Nghị định số 60/2003/NĐ- CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ
Quyết định số 139/2003/QĐ- TTg ngày 11/7/2003 của thủ tướng chính phủ
Nghị định số 73/2003/NĐ- CP ngày 23/6/2003 của chính phủ ban hành quy chế xem xét quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương.
Quyết định số 387/2003/NQ – UBTVQH ngày 17/3/2003 của UBTVQH đối với NSTW và NSNN
Nghị quyết số 68/2006/QH11 ngày 31/10/2006 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ mười về dự toán ngân sách nhà nước năm 2007;
Nghị quyết số 69/2006/QH11 ngày 3/11/2006 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ mười về phân bổ dự toán ngân sách trung ương năm 2007;
Nghị quyết số 1051/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 7/11/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phân chia các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Quyết định số 1506/2006/QĐ-TTg ngày 14/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2007;
Quyết định số 85/2006/QĐ – UBND ngày 22/12/2006 của UBND tỉnh Quảng trị
Nghị quyết số 7b/2006/NQ – HĐ ngày 22/12/2006 của Hội đồng nhân dân huyện Triệu Phong về dự toán thu chi và phân bổ ngân sách
Công tác quản lý ngân sách có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: Đội ngũ cán bộ tham gia quản lý ngân sách nhà nước, cách thức tổ chức quản lý của chính quyền địa phương, ý thức của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn….
3.2 Mục tiêu và phương hướng tăng cường công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện TP
Mục tiêu năm 2008 đến năm 2010 là huy động các nguồn lực, bảo đảm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế xã hội; quốc phòng an ninh; góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Huyện uỷ, HĐND huyện đã đề ra.
Dự toán thu chi ngân sách nhà nước được xây dựng dựa vào hệ thống tiêu chí và định mức phân bổ ngân sách nhà nước năm 2008. Quán triệt Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật chống tham nhũng; đảm bảo việc xây dựng dự toán ngân sách, bố trí và sử dụng ngân sách thực sự tập trung, chặt chẽ, chống lãng phí nhằm nâng cao chất lượng dự toán và hiệu quả ngân sách.
Trên cơ sở những nguyên tắc trên và số liệu giao kế hoạch thu chi của UBND tỉnh Quảng trị, UBND huyện lập dự toán thu, chi ngân sách năm 2008 với những nội dung như sau:
1/Thu ngân sách:
STT
NỘI DUNG
SS %
Dự toán năm 2008
T. Số
Huyện
Xã
TỔNG THU NSNN
146,8
82.595
79.897
2.698
A
TỔNG THU NS ĐỊA BÀN
114,5
14.473
11.775
2.698
1
Thu từ khu vực ngoài QD
140,2
4.670
4.234
436
Thuế VAT và TNDN
143,7
4.426
4.132
294
Thuế môn bài
102,9
244
102
142
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thu khác ngoài quốc doanh
-
2
Lệ phí trước bạ
124,4
1.100
1.051
49
3
Thuế sử dụng dất NN
101,7
131
131
4
Thuế nhà đất
89,7
332
99
233
5
Phí và lệ phí
83,6
1.040
40
1.000
6
Thuế chuyển quyền SDĐ
116,0
70
21
49
7
Thu tiền sử dụng đất
104,5
6.200
6.200
8
Tiền thuê đất
137,6
80
80
9
Thu từ quỹ đất 5% và HLCS
100,0
750
750
10
Thu khác
250,0
100
50
50
B
THU KẾT DƯ
-
C
THU CHUYỂN NGUỒN
D
THU TRỢ CẤP
125,8
68.052
68.052
1
Thu trợ cấp cân đối
100,0
68.052
68.052
Bảng 1.1
Tổng thu ngân sách Nhà nước: 82.595 triệu đồng
Trong đó thu trên địa bàn: 14.473 triệu đồng (tăng so với dự toán năm 2007: 5.348 triệu đồng). Bao gồm các khoản thu sau:
-Ngành thuế thực hiện: 7.423 triệu đồng
-Thu từ đấu giá QSD đất: 6.200 đồng
-Thu tại xã: 800 triệu đồng
-Thu khác ngân sách: 50 triệu đồng
-Thu bổ sung ngân sách cấp trên: 68.052 triệu đồng
-Thu chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang để thực hiện cải cách tiền lương: 70 triệu đồng.
Kế hoạch tỉnh giao thu ngân sách năm nay tăng so với năm 2007 trên tất cả các nguồn thu: thu từ khu vực ngoài quốc doanh 4.670 triệu đồng tăng so với dự toán năm 2007: 1.970 triệu đồng; lệ phí trước bạ tăng 400 triệu đồng.
Thu từ đấu giá QSD đất kế hoạch tỉnh giao 6.200 triệu đồng tăng so kế hoạch tỉnh giao năm 2007 là 3.700 triệu đồng, so với KH huyện năm 2007 là 2.900 triệu đồng, so với thực hiện năm 2007 là 2.750 triệu đồng. Nguồn thu này không cân đối vào việc chi ngân sách huyện mà thu đạt bao nhiêu thì được chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng, đây là nhiệm vụ quan trọng; các ngành, các xã thị trấn cần rà soát lại quỷ đất, điều chỉnh quy hoạch để thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
Thu tại xã năm nay được duy trì mức củ như năm 2007 là 800 triệu đồng, trong đó thu từ quỹ đất 5% và HLCS : 750 triệu đồng giảm so với năm 2007 là 50 triệu đồng là do quỹ đất 5 % của các xã giảm để bố trí xây dựng các công trình trên địa bàn, thu khác ngân sách 50 triệu đồng, chỉ tiêu này năm 2007 không ghi thu, do có sự phân cấp quản lý thu tiền phạt vi phạm hành chính do đó bố trí thêm khoản thu vào dự toán năm 2008.
2/Chi ngân sách:
Nội dung
Dự toán năm 2008
Tổng chi NS huyện
82.595
A/ Chi cân đối NSĐP
80.910
I/ Chi đầu tư phát triển
10.510
II/ Chi thường xuyên
70.400
1/ Sự nghiệp kinh tế
2.126
- Sự nghiệp nông nghiệp, thuỷ lợi, TS
528
- Sự nghiệp giao thông
270
- Kiến thiết thị chính
354
- Phòng chống bảo lụt
100
- Khắc phục thiên tai
- SN khoa học công nghệ và MT
365
- Sự nghiệp khác
509
2/ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo
43.649
- Sự nghiệp giáo dục
43.161
- Sự nghiệp đào tạo, dạy nghề
488
3/ Sự nghiệp y tế
2.384
4/ Sự nghiệp VHTT
200
5/ Sự nghiệp phát thanh
50
6/ Sự nghiệp TDTT
100
7/ Chi đảm bảo xã hội
1.245
8/ Chi quản lý hành chính
6.364
- Quản lý nhà nước
4.148
- Đảng
1.047
- Đoàn thể
1.124
- Hỗ trợ các hội
45
9/ An ninh - Quốc phòng
410
- An ninh
130
- Quốc phòng
280
10/ Chi ngân sách xã
13.872
Trong đó: chi chuyển giao
11.174
13/ Chi cải cách tiền lương
70
B/ Dự phòng
1.685
Tổng chi ngân sách: 82.595 triệu đồng giảm so với năm 2007: 15.030 triệu đồng chủ yếu là giảm nguồn thu trợ cấp có mục tiêu.
Chi đầu tư phát triển dự kiến giao 10.510 triệu đồng trong đó tỉnh phân cấp 4.100 triệu đồng, chi từ nguồn thu đấu giá QSD đất 6.200 triệu đồng, điều SN kinh tế xã: 210 triệu đồng
Chi thường xuyên: 71.400 triệu đồng. Trong đó:
- Chi sự nghiệp kinh tế: 2.126 triệu đồng (bảng phân tích số liệu kèm theo)
- Chi sự nghiệp giáo dục đã bao gồm các khoản chi cho giáo viên mầm non ngoài biên chế theo NQ số 3.5/2004/NQ-HĐ của HĐND tỉnh ( Bao gồm phần tỉnh, huyện, xã).
- Chi sự nghiệp đào tạo tăng so với năm 2007 là 88 triệu đồng đây là khoản tiền lương, các khoản đóng góp và hoạt động thường xuyên của trung tâm dạy nghề tổng hợp huyện mới thành lập.
- Chi sự nghiệp y tế chỉ tính phần lương, phụ cấp, các khoản đóng góp cho cán bộ trạm y tế xã.
- Chi sự nghiệp VHTT, ngoài định mức chi thường xuyên còn có định mức chi hoạt động sự nghiệp 150 triệu đồng và bố trí 50 triệu đồng thực hiện công tác công nhận làng, đơn vị văn hoá, Đài phát thanh truyền hình 50 triệu đồng, TDTT 100 triệu đồng.
- Chi đảm bảo xã hội kế hoạch giao: 1.245 triệu đồng bao gồm phân bổ theo đối tượng chính sách; trợ cấp người cao tuổi; trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, các đối tượng chính sách xã hội theo quy định Nghị định 07/NĐ-CP, kinh phí hoạt động cứu trợ xã hội 150 triệu đồng. Định mức trên đã bao gồm duy tu, sửa chữa nghĩa trang Liệt sĩ, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ cộng đồng dân cư khắc phục lũ lụt, thiên tai, phòng cháy, chữa cháy, cứu trợ xã hội với tổng số kinh phí 1.110 triệu số kinh phí này chưa tính việc truy lĩnh theo chế độ của Nghị định số 67/2007/NĐ – CP vì đây là nguồn kinh phí mà ngân sách TW bổ sung như vậy kinh phí còn thiếu chưa bố trí xấp xĩ 3.400 triệu đồng, chi thực hiện đề án làng không sinh con thứ 3: 25 triệu đồng, kinh phí xoá nhà tạm hộ nghèo: 50 triệu đồng, kinh phí xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm: 60 triệu đồng.
- Chi quản lý hành chính 6.364 triệu đồng thực hiện tiền lương theo NĐ 93,94/NĐ-CP.
- Chi an ninh quốc phòng phân bổ theo kế hoạch của tỉnh và huyện có tăng thêm 10 triệu để thực hiện nhiệm vụ của Ban chỉ đạo an toàn làm chủ và xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.
- Chi ngân sách xã sẽ chi theo kế hoạch của tỉnh giao và trong chi hành chính vẫn tiếp tục trích 10% tiết kiệm chi thường xuyên để bổ sung chi cải cách tiền lương.
- Chi ngân sách xã 13.872 triệu đồng, được giao như KH tỉnh giao. Mặt khác năm nay chi quản lý hành chính vẫn giữ nguyên định mức như năm 2007. Chi hoạt động cho cấp uỷ, HĐND, UBND,UMMT xã 10 triệu đồng/xã; chi mua sắm trang thiết bị 5 triệu đồng/xã; chi đào tạo lại cán bộ xã 5 triệu đồng/xã; chi họp 2 kỳ họp HĐND 5 triệu đồng/xã; kinh phí của Ban thanh tra nhân dân: 2 triệu đồng/xã; hoạt động ban giám sát đầu tư cộng đồng theo Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT KH&ĐT-UBMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 2 triệu đồng/xã, ngoài ra hoạt động của Đảng theo QĐ số 84/QĐ – TW và Thông tư số 225/2005/TTLT BTCQTTW – BTC đều đã được cân đối chi NS xã.
Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu chi NSNN ở huyện Triệu Phong
Để nâng cao chất lượng lập, thẩm định, quyết định và quyết định dự toán, quyết toán ngân sách địa phương, cần tập trung giải quyết tất cả các vướng mắc ở tất cả các khâu trong quy trình lập, thẩm tra, quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán. Bản thân em có những đề xuất sau:
Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN, xác định rõ mối quan hệ giữa quốc hội và HĐND; giữa HĐND các cấp ở địa phương trong quy trình quản lý NSNN theo nguyên tắc phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm thông qua việc xoá bỏ cơ chế lồng ghép ngân sách.
Tỉnh Quảng Trị nên phân cấp mạnh hơn cho chính quyền địa phương huyện trong hoạt động quản lý chi tiêu công cộng. Huyện Triệu Phong là tổ chức đặc biệt thực hiện cung cấp các dịch vụ công phục vụ mọi cơ quan, tổ chức và công dân trong địa phương. Chất lượng dịch vụ công phải do huyện Triệu Phong chịu trách nhiệm.
Trong quản lý tài chính ngân sách cần phải tách bạch cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp ngân sách, theo hướng quốc hội quyết định dự toán ngân sách phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết toán NSTW. HĐND các cấp quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và phê chuẩn NSĐP cấp mình.
Hiện tại, Quốc hội quyết định dự toán NSNN (bao gồm cả NSĐP) theo lĩnh vực chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho địa phương đảm bảo đúng theo các chỉ tiêu do quốc hội quyết định. HĐND cấp tỉnh xem xét quyết định lại các chỉ tiêu đã được quốc hội quyết định. HĐND cấp dưới lại quyết định lại dự toán, phân bổ dự toán cấp trên đã giao.
Trong quy trình quyết định quyết toán, HĐND cấp dưới quyết định phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình lại được tổng hợp trình HĐND cấp trên phê chuẩn lại. HĐND tỉnh, thành phố phê chuẩn quyết toán NSĐP lại được Trung ương tổng hợp Trình Quốc hội phê chuẩn lại lần nữa. Việc phê chuẩn qua nhiều khâu sẽ không chỉ rõ được trách nhiệm thuộc về cấp nào trước tình trạng chi tiêu ngân sách kém hiệu quả.
Xây dựng thời gian biểu về xây dựng, thẩm định dự toán và phân bổ ngân sách hợp lý hơn.
Với cơ chế lồng ghép ngân sách như hiện nay thời gian biểu xây dựng dự toán cần được bắt đầu từ tháng 4 năm trước, việc quyết định dự toán NSNN của Quốc hội phải được thực hiện trước 1/10 hàng năm mới đảm bảo về thời gian cho việc quyết định ngân sách và phân bổ ngân sách giao cho các đơn vị sử dụng ngân sách trước 31/12 năm trước. Trường hợp bỏ cơ chế lồng ghép, thì thời gian biểu xây dựng dự toán bắt đầu từ tháng 6 như hiện nay là đảm bảo cho các cấp ngân sách thực hiện việc xem xét, thẩm tra và quyết định dự toán, phân bổ dự toán cho đơn vị sử dụng vào trước ngày 31/12 năm trước.
Trước mắt, cần tổ chức lại và kéo dài tổng thời gian làm dự toán NSNN; đẩy sớm thời hạn chuẩn bị dự toán lên một vài tháng; bố trí thời gian hợp lý cho các bước, các khâu của quy trình dự toán NSNN.
Sở dĩ phải kéo dài thời gian làm dự toán theo hướng đẩy sớm lên mà không kéo dài sang năm sau là vì nhiều lý do, trong đó:
+ Đảm bảo quỹ thời gian vật chất cần thiết để các Uỷ ban của Quốc hội, Quốc hội và HĐND các cấp có thể nghiên cứu, thẩm định, thảo luận kỹ về dự toán ngân sách. Điều này càng đúng với hệ thống ngân sách lồng ghép nhiều cấp ở Việt Nam.
+ Không kéo dài sang năm sau là để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc chấp hành: Dự toán NSNN phải được cơ quan lập pháp phê chuẩn và ban hành trước khi năm ngân sách được bắt đầu. Điều này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trong mô hình ngân sách lồng ghép ở nước ta, sau khi dự toán NSNN đã được Quốc hội quyết định, Chính phủ và HĐND cấp tỉnh còn phải giao dự toán cho cán bộ, ngành trung ương và các địa phương cấp dưới. Việc giao dự toán phải kết thúc trước 31/12 hàng năm. Với hệ thống ngân sách nhiều cấp(Trung ương, tỉnh , Huyện, xã) mỗi cấp đều có trách nhiệm và thẩm quyền về ngân sách thuộc phạm vi được quản lý, thì cần thiết phải có khoảng thời gian cần thiết để các cấp HĐND thảo luận, đi đến quyết định các vấn đề của địa phương.
Các cấp chính quyền địa phương, cả UBND và HĐND(tỉnh, huyện ,xã) hiện chỉ có 40 ngày (20/11 đến 31/12) để xem xét và cho ý kiến về định mức phân bổ ngân sách và các căn cứ xây dựng dự toán thì quãng thời gian đó là khá ngắn. Trong khi khối lượng công việc thẩm định hệ thống các định mức phân bổ ngân sách và những căn cứ xây dựng dự toán ngân sách cho niên độ mới không phải là ít và có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định tổng mức thu, chi, bội chi ngân sách, cũng như định hướng sử dụng và phân bổ ngân sách.
Tíêp theo đó, kể từ khi nhận được dự toán do chính phủ lập, Quốc hội nước ta cũng chỉ có gần 1 tháng(20/10 đến 15/11) để thảo luận, quyết định dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW. Như vậy, cho dù UBTVQH và các cơ quan của Quốc hội có tham gia từ trước vào quy trình dự toán NSNN, thì khoảng thời gian đó cũng là khá ngắn để Quốc hội thảo luận kỹ hoặc điều chỉnh định hướng các vấn đề về dự toán ngân sách.
Nếu giữ nguyên mô hình hệ thống NSNN lồng ghép như hiện nay thì nên tổ chức quy trình NSNN theo 2 bước:
Bước 1 Quốc hội quyết định các chỉ tiêu tổng hợp về NSNN như: (i) Tổng thu, tổng chi, tổng mức bội chi NSNN,(ii) Giới hạn trần chi tiêu của NSTW;(iii) Tổng giới hạn trần của NSĐP;(iv) Tổng số bổ sung từ NSTW cho NSĐP;(v) Định hướng các quyết sách lớn mà trung ương và địa phương phải triển khai; các ưu tiên chủ yếu phải được tổ chức thực hiện…
Bước một được hoàn tất tại kỳ họp đầu năm và được thể hiện bằng một Nghị quyết của Quốc hội. Những chỉ tiêu được quyết định trong bước một là những “số lớn”, mang tính “giới hạn trần”, tạo cơ sở cho các cấp, các ngành bên hành pháp xây dựng dự toán. Đồng thời, góp phần củng cố vị thế giám sát của Quốc hội, bảo đảm sự ổn định của tình hình tài chính của nhà nước.
Đồng thời với việc đẩy sớm thời gian bắt đầu làm dự toán, cần thiết phải củng cố tổ chức bộ máy phân tích dự báo, nâng cao trình độ và chất lượng dự báo kinh tế - tài chính nhằm tránh tình trạng phải thay đổi số liệu, hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào số ước thực hiện năm trước.
Bước 2, Quốc hội tập trung thảo luận về các quyết sách, các ưu tiên, các biện pháp lớn, cụ thể, có liên quan đến cả nước; thảo luận chi tiết và quyết định phương án phân bổ NSTW cho các Bộ, ngành.
Bước 2 có thể hoàn tất trong kỳ họp cuối năm của Quốc hội; kết quả được thể hiện bằng Nghị Quyết/Luật về dự toán ngân sách hàng năm. Quốc hội cũng có thể quyết định điều chỉnh một số chỉ tiêu đã xác định trong bước 1 nhưng phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và không nên hình thành như một cơ chế định sẵn.
Việc xem xét, quyết định ngân sách theo hai bước sẽ tạo ra một khoảng thời gian hợp lý cho cả Quốc hội và các HĐND địa phương chuẩn bị, thảo luận, quyết định và phân bổ dự toán ngân sách của thuộc thẩm quyền, sau khi những chỉ tiêu lớn, những định hướng lớn liên quan đến ngân sách đã được quyết định ở bước thứ nhất. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho việc chuẩn bị tốt hơn các phương án phân bổ NSTW.
Việc đề xuất quy trình 2 bước quyết định dự toán và kéo dài thời gian xây dựng dự toán ngân sách nằm trong phạm vi cho phép của pháp luật NSNN hiện hành nên nếu áp dụng thì cũng phải sửa đổi luật, chỉ cần điều chỉnh, hoặc ban hành các văn bản từ cấp nghị quyết của UBTVQH, Nghị định của Chính phủ trở xuống là đủ cơ sở pháp lý.
Về lâu dài, cần nghiên cứu thay đổi hoặc giảm nhẹ tính lồng ghép của hệ thống NSNN.
Lý do cơ bản là khi tính lồng ghép giữa các cấp ngân sách càng giảm thì một mặt sẽ giảm bớt các nấc thang trung gian, tăng quyền chủ động thực sự của các cấp ngân sách thống nhất trong hệ thống NSNN. Việc chi phối cấp thấp hơn nhằm kiểm soát tình hình, đảm bảo công bằng giữa các vùng lãnh thổ hoặc để thực hiện các mục tiêu chính trị khác, nên được thực hiện qua cơ chế giám sát, cơ chế điều hoà thu, chi hoặc cấp bổ sung ngân sách; không nên kiểm soát qua quy trình ngân sách lồng ghép. Đồng thời, làm như vậy cũng là để tạo ra một khoảng thời gian cần thiết, hợp lý, giảm tính tuần tự, chồng chéo về công việc cho các cấp chính quyền địa phương, mỗi cấp có đủ và đủ chủ động hơn về thời gian để bàn sâu về dự toán và phân bổ NSĐP
Dù thiết kế hoàn thiện theo hướng nào thì điều quan trọng là cần tiến tới một quy trình ngân sách được công bố công khai và Dự toán NSNN, sau khi được cơ quan lập pháp phê duyệt, gồm dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, dự toán NSĐP và phương án phân bổ NSĐP các cấp, cũng được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một hình thức dân chủ hoá trong quy trình NSNN nói chung và NSĐP nói riêng. Điều đó, vừa đảm bảo được phát huy tinh dân chủ ở cơ sở, vừa góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan đến quyết định phân bổ ngân sách, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN. Đồng thời, cũng tạo điều kiện cho công chúng có thể hiểu biết và góp ý về ngân sách với cơ quan đại diện cho Nhà nước và nhân dân.
1.3.3 Cải tiến chế độ cung cấp thông tin, các mẫu biểu báo cáo gửi HĐND, qua đó giảm số lượng biểu mẫu không cần thiết, đồng thời bổ sung các căn cứ, cơ sở của các cấp báo cáo ngân sách trình trước HĐND; sớm tiến hành nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu ngân sách thích ứng với cơ chế thị trường, đảm bảo xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách và quyết toán ngân sách theo cơ chế”ngân sách theo kết quả đầu ra” từ đó xây dựng biểu mẫu phục vụ cho HĐND, các cơ quan chuyên môn của HĐND thực hiện việc xem xét, thẩm tra các báo cáo ngân sách theo cơ chế này.
1.3.4 Một số biện pháp chủ yếu để thực hiện tốt dự toán thu chi ngân sách năm 2008:
1.3.4.1 Thu ngân sách:
- Tiếp tục phân cấp nhiệm vụ thu cho các xã, thị trấn để nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong quản lý nguồn thu phát sinh trên địa bàn. .
- Tăng cường các biện pháp tăng thu, chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành Luật thuế, tạo sự bình đẳng gia các thành phần kinh tế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
-Đối với khu vực ngoài quốc doanh; phân loại để có biện pháp quản lý thích hợp. Tăng cường triển khai uỷ nhiệm thu thuế cho xã, thị trấn; thường xuyên tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh công tác uỷ nhiệm thu nhằm tháo gở khó khăn, vướng mắc, gắn trách nhiệm của chính quyền xã, thị trấn trong việc chăm lo khai thác và quản lý nguồn thu ngân sách, chống thất thu để đáp ứng nhiệm vụ chi cho cấp xã, thị trấn.
-Đối với thu tiền thuê đất, thuê cơ sở hạ tầng: Tiến hành rà soát lại diện tích đã lập bộ quản lý thu, đánh giá tình hình triển khai quản lý tiền cho thuê đất và diện tích thuộc diện nộp tiền thuê đất.
1.3.4.2 Chi ngân sách:
Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao trong điều kiện khả năng ngân sách có hạn, các ngành, các cấp, đơn vị cần tập trung một số biện pháp trong điều hành chi ngân sách như sau:
-Trước hết các ngành, các xã, thị trấn cần quán triệt đầy đủ Luật NSNN, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước.
-Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng trong chi tiêu ngân sách, thường xuyên kiểm tra hướng dẫn đôn đốc, thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan đơn vị không để xảy ra những vi phạm, thất thoát, lãng phí ngân sách.
-Các đơn vị dự toán căn cứ vào kế hoạch huyện giao, tự chủ động cân đối trong nguồn được phân bổ và chi tiêu trong định mức chế độ, thực hiện triệt để tinh thần Nghị định 130 và ND 43 của Chính phủ về tự chủ tài chính và biên chế.
-Các xã, thị trấn cần rà soát lại các nguồn thu trên địa bàn đồng thời chủ động cân đối ngân sách địa phương mình. Tuyệt đối không để mất cân đối, trong trường hợp có vướng mắc phải làm việc với các ngành liên quan để tháo gở.
-Để tập trung thực hiện cải cách tiền lương, các đơn vị, xã, thị trấn chủ động huy động và quản lý các nguồn thu sau:
+10% tiết kiệm chi thường xuyên của các đơn vị, xã, thị trấn
+40% nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp có thu
+50% tăng thu ngân sách của các xã, thị trấn.
1.3.5 Tổ chức thời gian kiểm toán ngân sách huyện phù hợp với quy định của luật NSNN.
Thời gian kiểm toán chưa phù hợp làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm toán cũng như việc cung cấp thông tin kịp thời để hỗ trợ cho HĐND huyện phê chuẩn quyết toán ngân sách. Cụ thể là KTNN phải kịp thời điều chỉnh, bố trí thời gian kiểm toán trước khi HĐND phê chuẩn quyết toán, vì rõ ràng cách thức tổ chức kiểm toán ngân sách như hiện nay hoàn toàn không phù hợp với tiến trình quyết toán ngân sách địa phương mà nếu tiếp tục thực hiện sẽ gặp nhiều vướng mắc về mặt pháp lý. Giải pháp để khắc phục khó khăn nêu trên đó là việc tổ chức kiểm toán ngân sách huyện nên cải tiến theo hướng triển khai song song, đồng loạt tất cả các cuộc kiểm toán và tại mỗi địa phương sẽ tiến hành kiểm toán thành nhiều đợt phù hợp với thời gian quyết toán của từng cấp ngân sách cụ thể:
- Đợt 1( từ tháng 4 đến tháng 6): tập trung kiểm toán ngân sách cấp huyện, xã.
- Đợt 2( từ tháng 7 đến tháng 9) tập trung kiểm toán các đơn vị dự toán, các ban quản lý dự án và các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tỉnh được chọn mẫu kiểm toán
- Đợt 3( từ tháng 10 đến tháng 11) tập trung kiểm toán tại các cơ quan quản lý tổng hợp như: sở tài chính, kho bạc nhà nước, cục thuế,cục hải quan, sở kế hoạch đầu tư; hoàn thành việc lập, xét duyệt báo cáo kiểm toán và thông báo kết quả kiểm toán cho các địa phương được kiểm toán trước 31 tháng 12.
Để thực hiện kiểm toán ngân sách địa phương theo hướng này cần thông báo từ đầu năm cho các đơn vị được kiểm toán.
Tăng cường tổ chức công tác kiểm soát chất lượng của lãnh đạo đoàn kiểm toán trong kiểm toán ngân sách huyện.
Kiểm toán chất lượng kiểm toán được xem là khâu quan trọng không thể thiếu trong quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm toán ngân sách huyện. Trong thực tế công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của trưởng đoàn kiểm toán đã đem lại một số kết quả góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán ngân sách huyện. Tuy nhiên việc kiểm soát chất lượng kiểm toán vẫn chưa được tổ chức thực hiện một cách thường xuyên liên tục để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm toán của các cuộc kiểm toán. Chính vì vậy, việc tăng cường tổ chức công tác kiểm soát chất lượng của trưởng đoàn kiểm toán là một trong những yêu cầu bức bách nhằm góp phần giúp cho trưởng đoàn kiểm toán hoàn thành nhiệm vụ của mình và quan trọng góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán.
Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Hội đồng nhân dân và kiểm toán nhà nước trong việc thẩm tra, quyết định và giám sát ngân sách huyện.
Theo quy định hiện hành, KTNN và HĐND là hai cơ quan nhà nước có chức năng và nhiệm vụ, thẩm quyền riêng nhưng có điểm chung trong việc xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách huyện; xem xét tính tuân thủ pháp luật; tính hiệu quả trong việc sử dụng ngân sách huyện. KTNN là cơ quan chuyên môn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp giúp HĐND huyện trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình chính xác và trung thực; quyết định sử dụng kinh phí NSNN đúng quy định và phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương.
Do vậy cần tăng cường phối hợp giữa Hội đồng nhân dân huyện Triệu Phong và kiểm toán nhà nước
Ngoài ra, theo em nên nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên,các cán bộ liên quan trong việc quản lý thu- chi ngân sách.
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và dự toán NSNN năm 2008, các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, cơ quan đơn vị trong huyện phải nổ lực phấn đấu với quyết tâm cao.
KẾT LUẬN
Ngân sách huyện là cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nói chung. Việc tổ chức quản lý, sử dụng lành mạnh và có hiệu quả ngân sách huyện Triệu Phong sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị của huyện Triệu Phong.
Thực tiễn qua việc khảo sát việc quản lý ngân sách huyện Triệu Phong cho thấy việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách của cấp huyện còn nhiều hạn chế cần được khắc phục và chấn chỉnh. Điều đó đòi hỏi công tác quản lý NSNN huyện Triệu Phong cần được quan tâm và tăng cường.
Kết quả nghiên cứu của đề tài với những giải pháp đề cập trong luận văn nếu được áp dụng trong thực tiễn trong công tác quản lý thu, chi hy vọng sẽ góp phần cho công tác quản lý thu chi ở huyện Triệu Phong ngày càng được hiệu quả hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động thu chi ở huyện triệu phong- qt.doc