Đề tài Một số chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam

Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu 3 I/ Thương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 3 1. Các lý luận chung về thương mại quốc tế 3 2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 7 II/ Vị trí vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 8 1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá 8 2. Vai trò của xuất khẩu 13 III/ Chính sách thúc đẩy xuất khẩu 13 1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu 13 2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu 18 3. Kinh nghiệm của các nước khi áp dụng một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu 19 Chương II: Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam 23 I/ Chính sách khuyến khích đầu tư 23 1. Nội dung của chính sách khuyến khích đầu tư 23 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu 25 II/ Chính sách tài chính tín dụng 34 III/ Chính sách tự do hoá thương mại 36 1. Cải cách thủ tục kinh doanh xuất nhập khẩu 36 2. Hạn ngạch xuất nhập khẩu 38 3. Chính sách thuế 39 IV/ Chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 40 1. Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 40 2. Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua 43 V/ Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu 51 1. Một số thị trường chủ yếu của Việt Nam 52 2. Tác động của chính sách thị trường đối với hoạt động xuất khẩu 56 VI/ Tham gia các tổ chức kinh tế thế giới 62 VII/ Đào tạo nhân lực 63 Chương III: Một số biện pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam 64 I/ Kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam trong tươnglai 64 1. Kế hoạch xuất khẩu năm 2002 64 2. Kế hoạch dài hạn 65 II/ Một số biện pháp và kiến nghị nhằm đổi mới chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam 69 1. Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư 69 2. Các biện pháp về tài chính tín dụng 73 3. Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh 78 4. Các vấn đề chất lượng thị trường và xúc tiến thương mại 79 5. Cải cách thủ tục hành chính 82 Kết luận 85 Tài liệu tham khảo 86 Phụ lục 87

doc46 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5200 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tan rã quan hệ thương mại, đầu tư Việt nam vào EU được cải thiện. Đặc biệt sau những chuyến viếng thăm của các vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước ta. Quan hệ kinh tế giữa EU và Việt nam được tăng cường. Việt nam tiếp tục thúc đẩy chính sách xuất khẩu sang EU, các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sang EU bao gồm nông sản, thuỷ sản, hàng dệt may... Ta nhập khẩu về những nguyên liệu và máy móc thiết bị công nghệ cao. EU đang trở thành bạn hàng lớn của nước ta. Khối lượng buôn bán của Việt nam với EU từ năm 1994 đến nay đã tăng 71% - đây là một bước tiến mới. Tuy nhiên quy mô còn nhỏ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam vào EU mới đạt khoảng 2 tỷ USD. Hiện nay nước ta đang gặp những khó khăn là vấp phải sự cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc trên thị trường Châu Âu. Hơn nữa, Việt nam cũng chưa nằm trong mục tiêu đầu tư ưu tiên của EU. Vì vậy, với Châu Âu cần phải có những chính sách mới có tác dụng khai thác khả năng của Châu Âu về vốn, kỹ thuật, công nghệ. Các chính sách mới chủ yếu vẫn là tiếp tục đổi mới theo hướng thông thoáng, nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo nên sự thu hút mạnh mẽ về phía EU. 1.5 Thị trường Trung Đông Khu vực Trung Đông nằm giữa ba Châu: Châu á, Châu âu, Châu phi, không những có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với các nước lớn mà còn là một thị trường hàng năm nhập một khối lượng lớn hàng nông, lâm, hải sản, gia vị, hàng mỹ nghệ và các mặt hàng tiêu dùng khác. Khu vực này với dân số khoảng 250 triệu người. Trung Đông chiếm khoảng 60% trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Hầu hết các nước trong khu vực này đã có quan hệ ngoại giao với Việt nam ( trừ Saudi Arabi ). Một số nước đã có quan hệ kinh tế, thương mại, đã có ký kết hiệp định thương mại và thành lập uỷ ban hỗn hợp liên minh Chính phủ với Việt nam như irac, Libi, Aicập.. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam sang khu vực Trung Đông là gạo, chè đen. Để tăng kim ngạch của ta trong những năm tới, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu là cần thiết. Trung Đông - một thị trường có sức tiêu thụ lớn, các công ty xuất khẩu của ta cần thâm nhập hơn nữa vào thị trường này. 1.6 Thị trường Trung Quốc. Số liệu thống kê cho thấy nếu gộp cả hai bộ phận Trung Quốc lục địa và Hồng Kông thì năm 2001, khu vực thị trường này chiếm vị trí thứ tư về kim ngạch XNK và thứ sáu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Trong năm 2001, những mặt hàng chủ yếu mà Việt nam nhập khẩu từ thị trường này là phân bón, sắt thép, vật liệu xây dựng, sản phẩm dệt, xăng dầu, ô tô nguyên chiếc và linh kiện ô tô, xe máy, hoa quả đồ chơi trẻ em... Đồng thời Việt nam xuất khẩu sang khu vực này trên 1300 tấn cà phê, gần 900 ngàn tấn dầu thô, trên 110 triệu USD hàng hải sản, 26 triệu USD sản phẩm giầy dép.. Tuy nhiên, hàng hoá của Việt nam mới vươn tới một số tỉnh giáp biên giới Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Một điều đáng cảnh báo là tình trạng nhập siêu còn quá lớn. Đó là chưa tính đến giá trị buôn bán tiểu ngạch qua biên giới 2 nước ước vào khoảng vài trăm triệu USD. 1.7 Thị trường Nga và các nước SNG Thị trường Nga và các nước SNG đã từng là thị trường quan trọng nhất đối với Việt nam trong quá khứ. Nhờ có thị trường Liên Xô mà trong nhiều năm chúng ta nhập khẩu được những nguyên liệu thiết yếu như sắt thép, xăng dầu, phân bón, hoá chất.. phục vụ cho công cuộc bảo vệ đất nước và phát triển nước nhà. Đồng thời ta cũng xuất khẩu được nhiều sản phẩm sang thị trường SNG. Từ năm 1991 do sự tan dã của Liên xô. Các nước thuộc SNG bị khủng khoảng sâu sắc về kinh tế chính trị, nên quan hệ thương mại nói riêng và quan hệ kinh tế nói chung giữa Việt nam và các nước SNG bị giảm sút. Song về lâu dài và trong tương lai chúng ta phải khôi phục và phát triển quan hệ thương mại với các nước SNG vì các nước SNG là bạn hàng truyền thống dung lượng thị trường lớn, dân số đông, đất nước rộng, đang có nhu cầu lớn về nhiều loại hàng hoá mà Việt nam có thể đáp ứng được như gạo, thịt, cao su, chè, cà phê, may mặc, giầy dép, chất tẩy rửa và hàng thủ công mỹ nghệ cùng một số nông, thuỷ sản khác... Hơn nữa, các nước SGN là những nước giàu tài nguyên mà Việt nam đang cần nhập khẩu như xăng dầu hoá chất, bông, sắt thép phân bón... phục vụ cho CNH - HĐH. Ngoài các thị trường chính nói trên, các thị trường Úc, Ấn độ, Châu phi, Mỹ la tinh, Hàn Quốc, Đài Loan... Là những thị trường có khả năng tiêu thụ hàng xuất khẩu của ta. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục hợp tác, tìm kiếm thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này. 2. Tác động của chính sách thị trường đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam. Cùng với sự tăng trưởng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sự chuyển biến tích cực cơ cấu hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt nam thời kỳ 1994-1998 đã có sự phát triển mở rộng, cơ cấu các khu vực thị trường và nước “bạn hàng” đã có những thay đổi lớn, nhưng tới nay Việt nam vẫn chủ yếu buôn bán với các nước trong khu vực. 2.1 Về cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu Nếu năm 1994 thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thì năm 1997 giảm xuống còn 75,8 % và năm 2001 chỉ còn chiếm 61,3% (trong đó khu vực ASEAN chiếm 24,3%). Riêng thị trường Đông Bắc á, năm 1998 chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam nhưng đến năm 2000 chỉ còn chiếm 44%. Thị trường xuất khẩu Việt nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu âu, đặc biệt là Tây Bắc Âu, thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu năm 1994 thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt nam thì đến năm 1997 đã tăng lên gấp 2 đạt 17,16 % và năm 2000 tiếp tục tăng lên 21,5%. Năm 2001 là 27,7% ( trong đó EU là 22,5% ). Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt nam. Nếu năm 1994 Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch của Việt nam thì năm 1997 đã tăng lên 2,76% và năm 2000 chiếm tới 4,48%, năm 2001 chiếm 5%. Thị trướng xuất khẩu của Việt nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu úc hay Châu Đại Dương, đặc biệt là Ôxtrâylia. Năm 1994 thị trường này mới chiếm tỷ trọng 0,96% trong tổng kim ngạch của Việt nam, nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 2,78%, đến năm 2001 đạt 5,3%. Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt nam từ năm 1994 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng đồng thời Việt nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa ( Tây Bắc Mỹ, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương ). Việt nam đã chuyển dần cơ cấu từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại. Trong đó đáng chú ý là đã củng cố và mở rộng thị trường Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu đi vào thi trường Bắc Mỹ, Trung Cận Đông và Châu Phi. Mặc khác Việt nam không chỉ phát triển mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu tới toàn bộ các nước công nghiệp phát triển , các thị trường được coi là khó tính, khó len chân và có mật độ cạnh tranh cao. Thị trường xuất khẩu của Việt nam có sự chuyển dịch ngay trong nhóm các nước công nghiệp phát triển. Năm 1998, thị trường các nước G7 chiếm tỷ trọng 39,7% kim gạch xuất khẩu của Việt nam , riêng Nhật bản chiếm tỷ trọng 26,8%, Các nước còn lại chiếm 13%. Đến năm 2000, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 19,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam. Sáu nước G7 còn lại chiếm 14,1%. 2.2 Về cơ cấu nước bạn hàng xuất khẩu của Việt nam Cùng với sự mở rộng phạm vi khu vực thị trường, số nước bạn hàng xuất khẩu của Việt nam tăng nhanh từ năm 1990 đến nay. Năm 1986, Việt nam mới xuất khẩu tới 34 nước. Năm 1990 là 51 nước. Đến nay đã tăng lên 106 nước - trong đó có 10 nước bạn hàng lớn nhất chiếm tỷ trọng trên dưới 75% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt nam là Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Hông Kông, Hàn Quốc, Đức, Thụy Sĩ, Mỹ, Malaysia... Cơ cấu thị trường và bạn hàng đã có những thay đổi tích cực trong thời kỳ 1994 -1998, sang thời kỳ 1999 - 2001 thị trường xuất khẩu sang EU và Mỹ lại mở ra những triển vọng mới. Nhưng cho đến nay Việt nam vẫn buôn bán chủ yếu với các nước trong khu vực. Mức độ vươn tới các khu vực có nền công nghệ nguồn còn thấp. Điều bất lợi chủ yếu đối với đối với cơ cấu hiện tại là : + Khó thâm nhập thị trường vì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và hàng tiêu thụ của các nước trong khu vực tương tự như nhau. + Khó nhập được công nghệ tiên tiến. Một khi trình độ công nghệ không đủ cao thì sản phẩm không có sức cạnh tranh, khó xuất khẩu, không thu hồi được vốn ngoại tệ để đổi mới kỹ thuật. Chúng ta có thể tham khảo các số liệu sau: Trên 50% kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị của ta là từ các nước có “nền công nghiệp trung gian” như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc. Đối với thị trường Nhật Bản, Việt nam liên tục xuất siêu trong nhiều năm gần đây. Năm 1998 ta xuất siêu tới 770 triệu USD nhưng xuất siêu như vậy cũng không mang tính lành mạnh khi biết rằng xuất sang Nhật bản chủ yếu là nguyên liệu ( dầu thô, than, thuỷ sản...) còn hàng nhập từ Nhật Bản chỉ có 20% là các thiết bị công nghiệp. Như vậy trong quan hệ với Nhật Bản ta vẫn chưa khai thác được Nhật như một trong ba điểm công nghệ nguồn của thế giới ( Mỹ, Nhật, Tây Âu ). Trên góc độ địa lý - chính trị, cũng cần lưu ý các nước và khu vực thuộc “Kinh tế đại Trung Hoa ”, hiện nay buôn bán với Việt nam ở mức trên 1/3 tổng kim ngạch buôn bán của Việt nam với thế giới , trong đó có vấn đề “ buôn lậu ” với các lục địa đang còn nhiều vấn đề chưa giải quyết và cần có sự thống nhất xử lý. 2.3 Công tác xúc tiến thương mại phục vụ xuất khẩu. Trong chiến lược thị trường tổng thê nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của đất nước thì hoạt động xúc tiến thương mại đóng vai trò đòn bẩy quan trọng. Hoạt động này thể hiện ở nhiều lĩnh vực như thông tin quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại , hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Có thể thấy rằng, hoạt động xúc tiến việc làm ở nước ta tuy còn rất mới mẻ song ít nhiều đã tác động tích cực đến hoạt động thương mại nói chung và sự tăng trưởng của xuất khẩu nói riêng. Lĩnh vực rễ nhận thấy trong thời gian qua là sự tăng mạnh mẽ của hội chợ triển lãm. Nếu năm 1990 cả nước chỉ có chưa đầy 10 cuộc hội chợ triển lãm thì năm 1999 đã tổ chức tới 88 cuộc hội chợ triển lãm lớn nhỏ, trong đó có nhiều hội chợ quốc tế thu hút hàng trăm công ty nước ngoài từ nhiều nước tới tham gia. Bên cạnh đó chúng ta cũng tham gia 34 hội chợ triển lãm nước ngoài, nhiều hội chợ triển lãm có trên 50 doanh nghiệp Việt nam tham gia. Thông qua các hội chợ triển lãm này hàng chục mặt hàng mới xuất khẩu của Việt nam đã được bạn hàng quốc tế biết đến và có rất nhiều hợp đồng đã được ký trong và sau các cuộc hội chợ triễn lãm. Đi kèm với các hội chợ triển lãm là phải kể đến sự bùng nổ của hoạt động thông tin và quảng cáo thương mại. Sự ra đời của hơn 20 tờ báo kinh tế trong một thời gian ngắn với nhiều bản tin về giá cả thị trường trong nước và quốc tế với số lượng phát hành vạn bản mỗi ngày đã giúp cho cá doanh nghiệp có những thông tin cập nhập cũng như tạo ra các cơ hội tìm kiếm bạn hàng và thị trường mới. Song song với việc bùng nổ thông tin là sự bùng nổ của hoạt động quảng cáo thương mại. Hàng ngày có hàng trăm phương tiện thông tin đại chúng, hàng ngàn công ty với các sản phẩm trong nước và nước ngoài đã được giới thiệu thông qua quảng cáo, tác động của hoạt động quảng cáo là nhằm khuyếch trương hoạt động thương mại. Một lĩnh vực khác cũng cần được nói tới đó là các cơ quan làm nhiệm vụ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp. Từ những hoạt động xúc tiến thương mại nói trên, các đối tác nước ngoài đã hiểu rõ hơn tính hình kinh tế, thương mại cũng như khả năng xuất khẩu, nhu cầu nhập khẩu và chính sách ngoại thương của Việt nam. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của chúng ta đã được bán trực tiếp đến thị trường tiêu thụ, tránh được nhiều nấc trung gian vòng vèo làm ta bị thiệt thòi. Một số sản phẩm xuất khẩu đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nước ngoài như dệt may, giầy dép vào thị trường Nhật bản, EU, hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ vào thị trường Trung Quốc. Ngoài ra hoạt động xúc tiến thương mại còn góp phần vào việc thay đổi cơ cấu thị trường EU, Bắc Mỹ nên tỷ trọng kim ngạch buôn bán với khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã giảm về giá trị tương đối từ 80% năm 1998 xuống còn 61,3% năm 2001 và tăng tỷ trọng của khu vực Châu Âu lên 27,7%, Bắc Mỹ lên 6,2%. Những hạn chế về công tác xúc tiến thương mại phục vụ xuất khẩu Trong những năm qua, mặc du đã có những bước tiến lớn song hoạt động xúc tiến thương mại của ta còn rất manh mún mang tính tự phát, chưa tạo được nhiều thị trường. Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại mang tính tạm thời, chạy theo sự vụ trước mắt chứ chưa tính đến hiệu quả lâu dài. Hoạt động thương mại mới dừng lại ở mức đưa ra thông tin, chưa được nâng lên tầm phân tích và dự báo để đạt tới yêu cầu hướng dẫn các doanh nghiệp. Một yếu kém khác trong hoạt động thương mại là dù tham gia hàng chục cuộc hội chợ triển lãm ở nước ngoài mỗi năm nhưng những mục đích khuếch trương hàng xuất khẩu của ta ở thị trường đó vẫn chưa được coi là trọng yếu. Không ít công ty cử người tham gia hội chợ triển lãm với mục đích “ tham quan du lịch ” là chính chứ chưa khai thác đúng ý nghĩa của hội chợ triển lãm. Công tác xúc tiến thị trường của các doanh ghiệp Việt nam còn rất kém. Do vậy, hàng hoá làm ra khó thâm nhập vào thị trường các nước vì hàng hoá không phù hợp với phong tục tập quán và thị hiếu người tiêu dùng. Việt nam chưa có những trung tâm chuyên làm nhiệm vụ xúc tiến thương mại, tư vấn thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy các doanh nghiệp thường thiếu thông tin về loại hàng hoá cần sản xuất, hoặc nếu có được thông tin thì rất tốn kém. Trên đây là một số mặt còn tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của Việt nam. Những mặt hạn chế đó là những thách thức đối với chúng ta trong thời gian tới, tuy nhiên khó khăn bao giờ cũng đi kèm với thuận lợi. Do vậy điều cần làm là phải biết tận dụng cơ hội, giảm bớt khó khăn để đưa hoạt động xuất khẩu của Việt nam từng bước tiến lên. VI. THAM GIA CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ THẾ GIỚI. Trên thị trường thế giới đang diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa hai xu hướng tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch. Trong điều kiện đó, tham gia các tổ chức quốc tế có vai trò như một giải pháp trung hoà để tạo ra nên các khu vực thị trường tự do hoá cho các thành viên. Liên kết kinh tế quốc tế quốc tế nhằm thực hiện điều chỉnh có ý thức và phối hợp các chương trình phát triển kinh tế với những thoả thuận có đi có lại của các thành viên. Nó là bước quá độ trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hoá. Thông qua việc phối hợp các chương trtinhf phát triển mà khai thác triệt để lợi thế so sánh của mỗi bên, tạo nên một cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu có hiệu quả cao, thúc đẩy mở rộng trao đổi mậu dịch quốc tế cũng như kích thích đầu tư quốc tế và các hoạt động khác giữa các thành viên. Do vậy, Việt nam cần phải tích cực tham gia các tổ chức kinh tế ở khu vực và trên thế giới. Ngoài việc ký kết các hiệp định thương mại với các nước tạo thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt nam, chúng ta cũng đã tiến hành các cơ quan xúc tiến thương mại nhằn cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại Osaca và Roma. Hai trung tâm này chính là bước khởi đầu cho việc xây dựng một trung tâm tại Việt nam chuyên làm nhiệm vụ tư vấn cho các doanh nghiệp trong nước về thị trường xuất khẩu. VII . ĐÀO TẠO NHÂN LỰC Theo tiến trình tự do hoá thương mại, sắp tới Chính phủ sẽ bãi bỏ hai điều kiện cần có để các doanh nghiệp có thể xuất khẩu đó là các điều kiện về vốn và điều kiện về đội ngũ cán bộ ngoại thương. Sau một thời gian dài đi theo cơ chế quản lý tập trung bao cấp, nay mới chuyển sang cơ chế thị trường, lực lượng cán bộ kinh tế của ta, đặc biệt các cán bộ ngoại thương chưa có nhiều kinh nghiệm. Do vậy, khi tham gia buôn bán với nước ngoài chúng ta không thể tránh khỏi những mánh khoé của họ dẫn đến những thua thiệt. Để có thể thực hiện xoá bỏ điều kiện về cán bộ ngoại thương, đòi hỏi tự mỗi doanh nghiệp phải trang bị cho mình một đội ngũ cán bộ ngoại thương có trình độ hiểu biết và giàu kinh nghiệm đảm bảo thắng lợi trong quá trình giao dịch và đàm phán với nước ngoài. Nhà nước và Chính phủ cũng cần phải chú trọng khâu giáo dục và bồi dưỡng kiến thức và đạo đức cho cán bộ kinh tế, bởi thế giới đang thay đổi từng ngày với tiến bộ không ngừng. Nếu chúng ta không kịp thời đào tạo nhân lực thì dễ bị lạc hậu so với các nước khác. Muốn vậy, chúng ta phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, thường xuyên tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ cử các cán bộ đi học hỏi, đi thực tế nước ngoài. Với thái độ coi trọng nguồn nhân lực, hy vọng trong tương lai hoạt động xuất khẩu của nước ta sẽ thu được những kết quả cao hơn. CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM I. KẾ HOẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI. Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ: “... từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động máy móc, điện khí hoá toàn quốc cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều lần so với hiện nay. Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội ”. 1.1 Thời kỳ 2001 - 2010. Dự kiến mức tăng trưởng GDP hàng năm đạt 11 - 12%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 14%. Đến năm 2010, với dân số khoảng 95 triệu người, Mức GDP trên đầu người đạt 1600 USD. GDP cả nước đạt khoảng 152 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu đạt 740 USD, xuất khẩu đóng góp khoảng 46% GDP. Trong thời kỳ 2001 - 2010, Việt nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các ngành, mặt hàng công nghiệp sau: + Hàng công nghiệp chế biến sâu như hàng dệt, may mặc, hàng giày dép, sành sứ, đồ chơi trẻ em, hàng điện tử, ô tô, xe máy, máy bơm, máy cơ khí nhỏ, máy chế biến nông - lâm - thuỷ sản, máy biến thế điện, khí hoá lỏng.. + Hàng nông - lâm - thuỷ sản chế biến sâu như gạo, cà phê, sản phẩm cao su, chè, lạc nhân, hạt điều đóng gói, rau quả hộp, thuỷ sản, lâm sản... + Du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ phần mềm, dịch vụ du lịch, dịch vụ kho vận, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng... + Hàng khoán sản như dầu thô, than đá, thiếc... 1.2 Thời kỳ 2011 - 2020. Dự kiến tăng trưởng GDP hàng năm đạt 9 - 10%, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm khoảng 12%. Đến năm 2020, với dân số khoảng 110 triệu người, GDP cả nước khoảng 440 tỷ USD mức GDP trên đầu người đạt 1800 USD, xuất khẩu sẽ đóng góp khoảng 45% GDP. Trong thời kỳ 2011 - 2020, Việt nam tiếp tục phát triển xuất khẩu các ngành hàng, mặt hàng như.. + Hàng công nghiệp chế biến sâu, có giá trị cao như hàng điện tử, ô tô, xe máy, máy bơm, máy cơ khí, các loại máy chế biến nông - lâm - thuỷ sản, động cơ điện, máy biến thế điện, khí hoá lỏng, sản phẩm hoá dầu, phân bón, hoá chất, thuốc trừ sâu, xà phòng, pin đèn, bóng đèn điện, dây điện, cáp điện, thiết bị bưu chính viễn thông, sắt thép, xi măng, hàng thuỷ tinh, sành sứ, hàng dệt may, hàng giầy dép, đồ chơi trẻ em, trang trí nội thất, bánh kẹo, đường, sữa.. + Hàng nông - lâm - thuỷ sản chế biến sâu có giá trị cao như cà phê, cao su, gạo, hạt điều đóng gói, rau quả hộp, lạc nhân, chè, thuỷ sản, lam sản.. + Dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ phần mềm dịch vụ du lịch, dịch vụ kho vận, dịch vụ bảo hiểm, tài chính, ngân hàng.. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM. 1. Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư. 1.1 Các biện pháp khuyến khích đầu tư trong nước. Chủ trương khuyến khích phát triển hàng xuất khẩu cần được thể hiện đầy đủ và rõ nét hơn trong luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc “sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu ”. Do vậy, cần đưa đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu về nhóm ưu tiên một. Bên cạnh đó cũng cần xem xét tới sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế lợi tức 25 - 35 - 45%, trong khi doanh nghiệp nước ngoài chỉ chịu tối đa 25%. một doanh nghiệp may của Việt nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải chịu thuế lợi tức 32%, trong khi xí nghiệp may liên doanh sản phẩm xuất khẩu đạt 80% trở lên chỉ phải nộp có 15%. Do vậy, cần xem xét việc dành ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là nên điều chỉnh những ưu đãi dành cho doanh nghiệp trong sản xuất hàng xuất khẩu và tiến tới hợp nhất luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước thành luật đầu tư. Nhằm mục đích khuyến khích mạnh mẽ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và thay đổi tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, xin kiến nghị việc sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước làm cho tính định hướng xuất khẩu rõ nét hơn và khuyến khích việc xuất khẩu hơn, có tỷ trọng chế biến cao. 1. 2 Các biện pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1 Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài. Nghiên cứu để đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài với các điều kiện thích hợp nhằm mở thêm các kênh mới thu hút vốn nước ngoài. + Thí điểm việc cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước hoặc cùng với doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần với tỷ lệ khống chế nhất định. + Nghiên cứu và sửa đổi cơ chế cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát hành cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn và mở rộng quy mô đầu tư. + Cần cân nhắc việc tham gia thị trường trái phiếu quốc tế để cải thiện tình hình nợ của đất nước, khuyến khích từng bước như đầu tư chứng khoán ở thị trường chứng khoán trong nước với mức độ bảo hiểm nhất định để tránh đổ vỡ tiềm tàng. + Sớm ban hành các quy chế về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư. 1.2.2 Tiếp tục ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. a. Tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung: - Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh hoàn thiện, sớm ban hành các luật về ngân hàng, hải quan, chống độc quyền, luật kinh doanh bất động sản.. - Nghiên cứu xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Tiến tới thực hiện chính sách thống nhất đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.Trước mắt rà soát tất cả các loại giá dịch vụ, lệ phí.. để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước với giá cả các nước trong khu vực, giá giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. b. Nghiên cứu sửa đổi, bổ xung luật pháp, chính sách và thủ tục, tạo thận lợi cho hoạt động FDI. - Nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật cho phép khu vực dân doanh được góp vốn liên doanh trong những khu vực không cấm khu vực tư nhân đầu tư. - Nghiên cứu xem xét việc điều chỉnh các quy định về thuế như: thuế thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận về nước, xây dựng chính sách thuế khuyến khích nội địa hoá và đẩy mạnh sản xuất phụ tùng ở Việt nam. - Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cơ sở cho việc hướng dẫn, tuyên truyền luật pháp, chính sách sâu rộng, trong các doanh nghiệp và các địa bàn vận động đầu tư. Bên cạnh đó, kịp thời phát hiện các mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản để điều chỉnh kịp thời, bãi bỏ những quy định không cần thiết gây ra các thủ tục phiền hà, cản trở hoạt động đầu tư. 1.2.3 Nâng cao hiệu quả và năng lực điều hành hoạt động FDI. 1.2.3.1 Đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư. - Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm, hướng mạnh vào các đối tác Châu âu, Bắc mỹ, Mỹ.. Chú trọng các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. - Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại để thường xuyên trao đổi thông tin, tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế. Trước hết là hợp tác trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN và Châu âu, hợp tác với các cơ quan của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc tế khác. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam. Tăng cương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xúc tiến đầu tư thương mại của các nước ở Việt nam để giới thiệu chính sách, luật pháp, quảng bá các chương trình, dự án đầu tư. Tổ chức định kỳ các cuộc gặp gỡ cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trọ cho các doanh nghiệp có FDI đang đầu tư tại Việt nam. 1.2.3.2 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch liên quan đến công tác FDI. - Xây dựng quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạm vi về hoạt động của FDI và của đầu tư trong nước làm cơ sở cho việc định kỳ công bố danh mục các dự án kêu gọi đầu tư, đặc biệt là các ngành như điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia.. - Nghiên cứu đánh giá để có quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế mang tính khả thi phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương và vùng lãnh thổ. Trước mắt, cần tập trung vào các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thật - xã hội và thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất đã phê duyệt. Đồng thời, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của khu vực này, Chính phủ nên cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa ” cho KCN -KCX. 1.2.3.3 Xử lý kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình xem xét cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án. - Nghiên cứu xác lập các chủ trương rõ ràng về các vấn đề có tính chất nguyên tắc làm cơ sở cho việc xử lý đúng đắn các trường hợp cụ thể như các vấn đề: bảo hộ sản xuất trong nước, về tư nhân hoá, hợp tác với nước ngoài, về nợ của khu vực FDI, về máy móc thiết bị đã qua sử dụng, về hình thức 100% vốn nước ngoài và tỷ lệ góp vốn của Việt nam trong liên doanh. - Rà soát lại tất cả các danh mục các dự án đang chuẩn bị đầu tư để xử lý các vướng mắc, thúc đẩy dự án sớm hoàn thiện hỗ trợ để cấp phép. - Rà soát củng cố lại các công cụ tài chính kế toán để tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động tài chính doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục các cơ sở gây thiệt hại đến lợi ích Việt nam. 1.2.3.4 Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI. - Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trên cơ sở tổ chức hợp lý hoá từ Trung ương tới địa phương, mạnh dạn phân cấp, uỷ quyền cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn để đơn giản hoá thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. - Rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng tinh giảm đầu mối, công khai quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý. 2. Các biện pháp về tài chính tín dụng. 2.1 Khuyến khích các vệ tinh của các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu qua thuế. Hiện nay việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm cho các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu. Họ cũng có quyền được hưởng ưu đãi. Vì lí do đó, nên mở rộng định nghĩa về “ cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ” trong luật thuế doanh thu. Cụ thể, các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể được coi là cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và cũng được miễn thuế doanh thu. Nhiều nước đã dành ưu đãi cho các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi để dệt vải cho may áo xuất khẩu. Đối với nước ta, chúng ta chưa đủ khả năng miễn thuế nhiều tầng thì có thể áp dụng cho các tầng thứ nhất hay các xí nghiệp có liên quan trực tiếp đến sản xuất hàng xuất khẩu. Như trong ví dụ trên là các xí nghiệp dệt, xí nghiệp sản xuất cúc, bao bì... Nếu làm như vậy, thì sự phát triển của một ngành hàng xuất khẩu nào đó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác, tất cả đều hướng về xuất khẩu. Điều này dẫn tới việc vừa đẩy mạnh xuất khẩu giá trị gia tăng ( không phải nhập nguyên liệu và nhập thành phẩm theo kiểu gia công), vừa tạo điều kiện thu hút được các nguồn nhân lực và vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả. 2.2 Giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu sản phẩm trí tuệ còn là việc mới, nhưng trên thực tế kim ngạch xuất khẩu của loại hình này theo những con số không chính thức ngày càng tăng. Các chuyên gia của bộ thương mại đã tính toán và dự đoán khả năng phát triển loại hình này trong tương lai là hiện thực, dự đoán lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dịch vụ và sản phẩm trí tuệ vào năm 2003 có thể lên tới 1,5 tỷ USD nếu như Việt nam có các biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động này ngay từ bây giờ. Do vậy, cần có các văn bản cụ thể được công bố và giao cho các bộ cùng các cơ quan có chức năng thực hiện chính sách phát triển và khuyến khích đúng đắn để khả năng này trở thành hiện thực. Trước mắt cần có sự thay đổi về thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp gia công, sản xuất phần mềm tin học. Những bất hợp lý trong lĩnh vực này có thể nhìn thấy rất rõ như: thuế doanh thu phần mềm là 2% ( thuế dịch vụ) trong khi thuế doanh thu buôn bán phần cứng chỉ là 1%, hoặc thuế lợi tức phần mềm lên tới 45%. Đây là những bất hợp lý mà nên được điều chỉnh sớm. Các loại hình dịch vụ và các sản phẩm trí tuệ khác, nếu xuất khẩu thu được ngoại tệ thì cũng nên xem xét cho miễn giảm các loại thuế như đối với hàng hoá thông thường. 2.3 Quỹ bảo hiểm ( hay quỹ phòng ngừa rủi do). Nhà nước khuyến khích các hiệp hội ngày hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo hiểm ( phòng ngừa rủi do) cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Các quỹ này sẽ không lấy nguồn từ ngân sách Nhà nước để tránh các quy định không thuận lợi của WTO về vấn đề trợ giá. Quỹ bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên của hiệp hội khi giá cả của thị trường biến động thất thường, cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định, nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm cho người sản xuất thu hồi được vốn đầu tư, trang trải được chi phí và có lợi nhuận thoả đáng. Khi thị trường thế giới thuận lợi, có thể xuất khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội sẽ áp dụng biện pháp thu một phần chênh lệch đưa vào quỹ bảo hiểm ( chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá bảo hiểm). Ngược lại khi thị trường thế giới không thuận lợi, giá xuất khẩu xuống thấp hơn giá bảo hiểm thì quỹ sẽ trích tiền ra hỗ trợ lại cho các thành viên. Về hình thức, có thể các thành viên hiệp hội thống nhất thành lập một pháp nhân được Nhà nước cho hưởng quy chế kinh doanh như các quỹ tín dụng thông thường nhằm mục đích phát triển nguồn vốn. Hoặc đơn thuần chỉ góp tiền về quỹ và giao cho một nhân hàng điều hành và kinh doanh quỹ này theo quy định của hiệp hội. 2.4 Các ưu đãi về tín dụng. Mặc dù Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn cho vay đối với các đơn vị sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và cụ thể chỉ nói chung chung “ khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn ”. Do vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận nguồn vốn tí dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu dễ dàng hơn, tránh gây mập mờ dễ gây tiêu cực. 2.5 Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh chồng chéo. 2.6 Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam. Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có chiến lược xuất khẩu, có chính sách trợ giá, tạo lợi nhuận khuyến khích các nhà sản xuất có sự “ đầu cơ ”, bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần phải có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt nam phát huy được vai trò “bà đỡ” cho nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đã có ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại cổ phần XNK EXIMBANK, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, trình độ công nghệ, nghiệp vụ, chưa phục vụ đắc lực được cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam. Trong tương lai gần, Việt nam chúng ta cũng nên thành lập một ngân hàng chuyên doanh mang tên là ngân hàng XNK Việt nam. Có như vậy chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp CNH hướng về xuất khẩu phát huy được lợi thế so sánh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.7 Về hỗ trợ tài chính. Để giảm nhẹ gánh nặng hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua trợ cấp, trợ giá Chính phủ nên tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính gián tiếp. 2.8 Chính sách tỷ giá hối đoái. Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định thì sẽ gây ra một số ảnh hưởng sau. Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng do lạm phát. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi. Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới. 2.9 Chính sách đa lãi suất. Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế ). 2.10 Chính sách bán ngoại tệ. Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán, doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi. Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển nhượng tự do hoá đơn này cho người khác. Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu. Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn. 3. Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh. Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực.. còn các thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau. Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng. Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh. Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4. Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại. 4.1 Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện.. ISO 9000 đã được chấp nhận ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn. ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi, vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế. Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Từ nay đến năm 2003, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao... cùng với dự thiếu vắng của các tổ chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc. 4.2 Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam. Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước. Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO, Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với các tổ chức này còn yếu. 4.3 Quỹ khen thưởng xuất khẩu. Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan, ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm, chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm nay. 4.4 Thương mại cân bằng qua thương lượng. Chính phủ phải có các phương án đàm phán với một số nước hiện đang xuất siêu vào Việt nam để đòi mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt nam tương ứng với việc Việt nam nhập hàng của họ. 5. Cải cách thủ tục hành chính. 5.1 Khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, bằng thủ tục và dịch vụ một cửa. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung với lợi thế về công nghiệp và tài nguyên sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, việc đơn giản hoá thủ tục hành chính sẽ giúp cho khu vực này có sức hấp dẫn hơn không chỉ nvowis đầu tư nước ngoài mà cả đối với đầu tư trong nước. Đề nghị Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một khu chế xuất hay một khu công nghiệp tập trung. Nếu thành công sẽ áp dụng cho các KCX, KCN khác. 5.2 Đơn giản hoá thủ tục gia công. Để khuyến khích việc gia công hàng xuất khẩu nên bãi bỏ việc hạn chế chủng loại, số lượng, mặt hàng gia công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt, may mặc, giầy dép, đồ chơi trẻ em.. xoá bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa. Những trường hợp gia công theo phương thức mua đứt bán đoạn thì được coi như đầu tư chế biến sẽ được hưởng các chính sách đối với đầu tư chế biến. 5.3 Công khai hoá các văn bản pháp luật. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Có nhiều trường hợp cả luật sư cũng không có được văn bản mới của nhà nước. Ngay cả các chuyên viên của Bộ Thương mại, nếu không chịu khó sưu tầm thì cũng khó có thể có được các quy định của các ngành khác về quản lý XNK. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc đăng công báo mọi văn bản có liên quan đến quản lý của các cơ quan nhà nước ( trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành). Đề nghị Chính phủ có chỉ thị nhắc nhở việc này và chỉ đạo các cơ quan hữu quan giúp văn phòng Chính phủ ra công báo nhanh hơn, cập nhật hơn. 5.4 Rà soát các thủ tục hành chính. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thực hiện cấp giấy phép đầu tư, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hưởng các chính sách ưu đãi.. mà luật đã quy định, thủ tục khai báo và kiểm hàng hoá xuất khẩu tại các cửa khẩu để bảo đảm thông thoáng, kịp thời, nhanh chóng... Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó khăn phiền hà, chậm trễ đối với hoạt động kinh doanh, nghiên cứu áp dụng cơ chế bồi thường, bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp nếu các cơ quan quản lý, kiểm tra, kiểm soát thi hành sai luật gây ra. 5.5 Quyền khiếu kiện. Đề nghị Chính phủ cho ban hành nghị định cho phép mọi công dân và tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định của tất cả các cơ quan tham gia quản lý xuất nhập khẩu trước toà hành chính ( hiện nay họ chỉ mới được quyền khiếu kiện các quyết định về thuế của Hải quan). Họ cũng được quyền khiếu kiện trong trường hợp bị gây phiền hà, chậm trễ, được quyền đòi bồi thường, bù đắp thiệt hại nếu chứng minh thiệt hại đó là do các cơ quan quản lý kiểm tra, kiểm soát sai luật gây ra. 5.6 Mã hàng hoá thuộc diện quản lý Hiện nay có sự bất đồng giữa cơ quan Hải quan và các doanh nghiệp về biểu thuế xuất nhập khẩu vì việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu không thống nhất theo tên gọi và mã số của chúng tại danh mục hàng hoá XNK Việt nam hoặc tên gọi và mã số trong biểu thuế xuất nhập khẩu. Việc không đồng nhất về mã số này đã được các cơ quan biết đến. Tuy nhiên, các cơ quan này thi hành việc giải quyết sự không đồng nhất này rất chậm trễ và sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ dẫn tới việc chưa giải quyết được vấn đề trên 5.7 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing. Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. KẾT LUẬN Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư.. Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số chính sách & biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan