TÊN ĐỀ TÀI:Một số Giải pháp đẩy mạnh XK hàng VN vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1 (Trung Quốc)
MỤC LỤC
Lời cảm ơn 1
Lời nói đầu 2
Chương I: Lý thuyết khu vực mậu dịch tự do và khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc 4
1.1. Lý thuyết về khu vực mậu dịch tự do: 4
1.1.1. Tự do hoá thương mại: 4
1.1.2. Khu vực mậu dịch tự do 7
1.2 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc 8
1.2.1 Bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc 8
1.2.2 Nền tảng của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. 9
1.2.3 Nội dung hiệp định về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc 14
1.2.4 Chương trình thu hoạch sớm 17
Chương II: Thực trạng về quan hệ kinh tế, thương mại 21
Việt Nam – Trung Quốc 21
2.1 Thực trạng kinh tế thương mại Trung Quốc năm 2003 21
2.2 Những đánh giá về tình hình kinh tế, thương mại Trung Quốc năm 2003 24
2.2.1 Về cải cách thể chế kinh tế 24
2.2.2 Về mậu dịch đối ngoại trong năm có những đặc điểm chủ yếu sau: 25
2.2.3 Về kinh tế đối ngoại 26
2.2.4 Về đồng NDT 27
2.2.5 Về sức cạnh tranh Quốc tế của Trung Quốc. 27
2.3 Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam 29
2.3 Thực trạng xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. 31
2.4 Quan hệ buôn bán qua biên giới: 38
2.4.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu biên giới Việt Trung 39
2.4.2. Một số vấn đề về xuất nhập khẩu qua biên giới: 41
2.4.2 Cơ cấu hàng hoá XNK qua biên giới Việt – Trung 42
2.5.1 ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới 46
2.5.2 ảnh hưởng tới quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc 48
2.6 Nhận xét về quan hệ kinh tế, thương mại hai nước Việt Nam – Trung Quốc. 49
2.6.1 Đánh gái thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc. 49
2.6.2 Một số tác động tiêu cực trong thương mại hai nước 50
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN +1 52
3.1 Cơ hội và thách thức ACFTA đặt ra đối với các nước thành viên. 52
3.1.1 Cơ hội 52
3.1.2 Thách thức 53
3.2 Tiềm năng phát triển thương mại Việt Nam – Trung Quốc 54
3.2.1 Triển vọng quan hệ kinh tế thương mại hai nước: 54
3.2.2 Triển vọng quan hệ thương mại biên giới Việt – Trung 57
3.3 Những ảnh hưởng đến thương mại Việt Nam 58
3.3.2 Thách thức đối với thương mại Việt Nam 59
3.3.3 Phân tích theo từng ngành 59
3.4 Những ý kiến đề xuất: 63
3.4.1 Giải pháp từ phía nhà nước 64
3.4.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 72
Kết luận 79
Danh mục tài liệu tham khảo: 80
Danh mục chữ cái viết tắt 81
ACFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc 81
ACPT : Mô hình ưu đãi thuế quan ASEAN – Trung Quốc 81
EU : Liên minh Châu Âu 81
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2598 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1 (Trung Quốc), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
WTO và ACFTA thì nước này sẽ nổi nên là một đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn các nước ASEAN trên trường quốc tế.
Hơn nữa, ACFTA còn có thể dẫn đến sự phân hoá hai cực trong các nước thành viên, một số nước lạc hậu lo ngại rằng việc tham gia Khu vực mậu dịch tự do không những không nâng cao sức cạnh tranh của mình mà ngược lại còn lạc hậu hơn về kinh tế, những nước này cho rằng sức sản xuất trong nước này không cao, khi mở cửa thị trường thì thị trường nội địacó thể bị tràn ngập bởi khối lượng lớn hàng xuất khẩu của các nước phát triển có trình độ cao hơn dẫn đến việc trở thành thuộc địa kinh tế của các nước này. Do vậy, một số nước ASEAN sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc giảm thuế, cản trở tiến trình thúc đẩy nhất thể hoá kinh tế khu vực.
Ngoài ra, ACFTA còn có ảnh hưởng đáng kể đền tình hình đầu tư trong khu vực, phàn lớn các nước ASEAN trong 30 năm qua chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp từ bên ngoài, nhất là vốn đầu tư từ Nhật Bản, nếu ASEAN thiết lập Khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc thì các thế lực truyền thống như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản sẽ bị gạt ra ngoài. Do vậy trước hết các thành viên ACFTA sẽ phải chịu sức ép từ phía Nhật Bản. Đầu tư của Nhật Bản tại khu vực có thể sẽ bị giảm mạnh gây nên tổn thất trực tiếp về kinh tế. Đồng thời, việc Trung Quốc luôn có sức thu hút to lớn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản, Mỹ, Hồng Kông, và Đài Loan, vì vậy tạo nên một sức ép đáng kể đối với sự phát triển kinh tế và là một thách thức mới đối với ASEAN.
Thêm vào đó, trong số các nước ASEAN, không một nước nào có thực lực kinh tế bằng Trung Quốc, nhưng nếu coi ASEAN là một khối thì lại có thể so sánh được với Trung Quốc , vậy ai sẽ đóng vai trò chủ đạo ACFTA trong tương lai cũng là một vấn đề các nước cần quan tâm nghiên cứu.
Cuối cùng là vấn đề biển Nam Trung Hoa, tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa là trở ngại lớn nhất trong việc phát triẻn quan hệ ASEAN – Trung Quốc , chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc không được các nước ASEAN hữu quan hưởng ứng. Làm thế nào để duy trì hoà bình, ổn định và phi hạt nhân hoá tại biển Nam Trung Hoa đã trở thành vấn đề mà Trung Quốc và ASEAN phải đối mặt.
Tóm lại, tiềm năng và cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn, thay đổi cơ cấu và phát triển thông qua khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc đối với các nước thành viên là vô cùng to lớn, việc thiết lập ACFTA chắc chắn cũng tạo ra nhiều thách thức lớn đối với Trung Quốc và các nước ASEAN, do đó các nước này cần có nhận thức và những bước chuẩn bị tham gia đầy đủ và hiệu quả. Các mước cũng cần hết sức chú trọng tìm hiểu ý kiến của các doanh nghiệp, những người sẽ trực tíêp hưởng những cơ hội, cũng như phải đối phó với những thách thức của việc thành lập ACFTA. ở bất kỳ một quốc gia nào, hơn ai hết doanh ngiệp là người nhận thức rõ những tác động của sáng kiến ACFTA đối với nền kinh tế và hoạt động sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp mình.
3.2 TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
3.2.1 Triển vọng quan hệ kinh tế thương mại hai nước:
Triển vọng quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam – Trung Quốc là vô cùng to lớn. Mối quan hệ này sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và tiến từ hợp tác song phương đến hợp tác đa phương. Trong thời gian tới hai nước sẽ cố gắng làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể đã được vạch ra trong chiến lược phát triển kinh tế của hai nước.
Trong thời gian qua hai nước đã có những tiến triển về mở rộng giao lưu buôn bán, phát triển kinh tế, đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng với sự phát triển về quan hệ chính trị, tiềm năng to lớn của hai bên còn chưa được phát huy, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, chú trọng hiệu quả và chất lượng , hình thức đa dạng, quan hệ thương mại giữa hai nước nhất định sẽ có bước tiến mạnh mẽ, về lâu dài chúng ta cần phải xác định:
Trung Quốc là nước có thị trường trên 1,2 tỷ dân, tương lai sẽ trở thành cường quốc kinh tế, ta cần có chính sách phát triển quan hệ kinh tế thương mạilâu dài, ổn định, cùng có lợi.
Từng bước quy phạm hoá hoạt động buôn bánbiên giới, làm cho buôn bán biên giới phát triển lành mạnh, có trật tự, áp dụng những biện pháp phù hợp trong thị trường nội địa để ngăn chặn buôn lậu, hàng kém phẩm chất tràn vào.
Bằng nhiều biện pháp thúc đẩy quan hệ buôn bán lớn giữa hai nước theo thông lệ quốc tế, nâng cao kim ngạch buôn bán hai chiều, đa dạng hoá phương thức buôn bán bao gồm mua bán thông thường, đổi hàng, chuyển khẩu, quá cảnh…
Tăng cường đầu tư chiều sâu trong sản xuất, gia công, nâng dần giá trị các mặt hàng xuất khẩu.
Thế giới ngày nay đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, thị trường hoá thống nhất nền kinh tế thế giới, phát triển kinh tế đã trở thành trào lưu chung của thời đai, thành nhân tố chủ đạo trong quan hệ giữa các nước với nhau. Do đó đẩy mạnh hợp tác kinh tế nhằm khai thác triệt để lợi thế của hai nước láng giềng Việt Nam – Trung Quốc , làm cho cả hai nước đều thịnh vượng, đều phát triển là hợp lòng dân, hợp với xu thế của thời đại và là cơ sở quan trọng nhất cho quan hệ Việt – Trung đời đời bền vững. Muốn hợp tác kinh tế phát triển xứng tầm với tiềm năng của hai nước trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần đồng thời làm cả ba việc lớn sau đây:
Một là cả hai nước đều cần đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế vùng biên giới bao gồm cả vùng biên giới đất liền và vùng trên biển, ở đây muốn nói đến nền kinh tế vịnh Bắc Bộ.
Hai là cả hai nước phải cùng nhau nghiên cứu, tìm ra những lĩnh vực kinh tế có khả năng phát huy lợi thế của cả hai bên để hợp tác cùng phát triển. Phải chăng có phải là lĩnh vực sản xuất cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp, lĩnh vực chế biến nông sản phẩm, các lĩnh vực có khả năng tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới trên cơ sở kỹ thuật thích hợp và lao động rẻ.
Ba là cả hai nước đều phải đẩy mạnh, đi sâu vào cải cách, đổi mới kinh tế. Vì nếu như không có thị trường hoàn hảo, không có các doanh nghiệp năng động, làm ăn có hiệu quả thì mọi kế hoạch hợp tác kinh tế chỉ dừng trên giấy, trong các ý tưởng tốt đẹp mà thôi. Do vạy hai nước phải cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, đẩy nhanh tiến độ, đi sâu vào cải cách, đổi mới kinh tế.
Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam. Tuy vậy, 3 tỷ USD năm 2002 là một con số khiêm tốn so với chỉ tiêu 5 tỷ USD năm 2005 mà Đảng và chính phủ hai nước đề ra. để đạt mục tiêu, trong thời gian tới hai bên sẽ tiếp tục đưa ra nhiều biện pháp thúc đẩy quan hệ thương mại song phương theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá phương thức buôn bán,…
Hai chính pủ sẽ đôn đốc các ngành ngân hàng, hải quan, giao thông vận tải hợp tác, tháo gỡ khó khăn, trở ngại trong thanh toán, thủ tục, vận chuyển hàng hoá, nâng cấp cơ sở hạ tầng các cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nước dễ dàng trong trao đổi hàng hoá.
Trước thực tế diện mặt hàng trao đổi chưa vững chắc, khối lượng chưa lớn, Việt Nam và Trung Quốc sẽ thoả thuận thống nhất một số danh mục hàng hoá trao đổi, để định hướng cho các doanh nghiệp hai nước hợp tác sản xuất và kí kết hợp đồng. Hai bên sẽ chỉ định các doanh nghiệp lớn, uy tín, có sản phẩm nằm trong danh mục trên ký kết các hợp đồng thương mại dài hạn. Sau đó, Bộ Thương mại Việt Nam và Bộ kinh Mậu Trung Quốc có trách nhiệm đôn đốc và giám sát việc thi hành hợp đồng.
Việt Nam cũng đề nghị Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu một số sản phẩm của Việt Nam như than đá, dầu thực vật, và rau quả nhiệt đới… và hợp tác gia công hàng xuất khảu, sản xuất chế biến nông – lâm – hải sản. Sự xuất hiện của nhóm công tác nhằm phối hợp nghiên cứu , đề xuất một số định hướng và vận động các doanh nghiệp triển khai là cần thiết.
Ngoài ra, hàng năm, cơ quan xúc tiến thương mại Trung Quốc sẽ tổ chức cho nhiều doanh nghiệp Trung Quốc tham gia các hội chợ thương mại quốc tế do Bộ Thương Mại Việt Nam chủ trì. Cục xúc tiến thương mại Việt Nam cũng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia những hội chợ lớn của Trung Quốc.
"Để đạt được kim ngạch thương mại 5 tỷ USD, chúng ta sẽ phải phối hợp hiệu quả hơn. Trung Quốc luôn ủng hộ mong muốn của Việt Nam là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) càng sớm càng tốt.”
3.2.2 Triển vọng quan hệ thương mại biên giới Việt – Trung
Người tiêu dùng Việt Nam hầu như mới chỉ biết đến hàng tiêu dùng chất lượng loại bình thường của Trung Quốc, chủ yếu do các cơ sở sản xuất ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, mặt bằng giá cả trên thị trường Trung Quốc có thể thấp hơn, khi đó nhiều hàng hoá tiêu dùng cao cấp sản xuất ở Thượng Hải, Thẩm Quyến…hoặc những hàng hoá của các nước công nghiệp phát triển với ưu thế về chất lượng và giá cả khi đã vào thị trường Trung Quốc sẽ dễ dàng xâm nhập thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên không phải mặt hàng nào của Trung Quốc cũng cạnh tranh được với hàng Việt Nam trên thị trường nội địa và thị trường Trung Quốc. Thậm chí nhiều hàng hoá của Việt Nam được khách hàng Trung Quốc ưa chuộng như giầy thể thao , bánh kẹo, xà phòng. Theo ước tính, nếu không có những nhân tố đột biến tác động, tổng kim ngạch xuất khẩu qua biên giới Việt – Trung năm 2005 đạt khoảng 1.745,81 triệu USD tính theo giá năm 1994. Tuy nhiên lộ trình thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc với chương trình thu hoạch sớm sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại qua biên giới Việt – Trung lên một bước phát triển cao hơn và thương mại biên giới có thể vượt con số trên. Chúng ta có thể tham khảo số liệu trong biểu đò dưới đây về dự báo xu hướng thương mại Việt - Trung.
Biểu 3.1
Xu hướng biến động kim ngạch thương mại biên giới Việt Trung giai đoạn 1991 -2005
Nguồn: Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc sau khi bình thường hoá, tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6 năm 2002 và tính toán theo phương pháp dự báo xu hướng biến động phương thức biến động chính ngạch và tiểu ngạch.
3.3 NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Là một thành viên ASEAN thì Việt Nam cũng có những cơ hội và phải đối mặt với những thách thức đã phân tích ở trên, song với tư cách quan hệ độc lập với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay thì Việt Nam lại có những cơ hội và thách thức riêng và to lớn hơn, thậm chí chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của ACFTA nên từng lĩnh vực cụ thể của thương mại để có những chính sách phát triển thích hợp và bền vững.
Bên cạnh những cơ hội to lớn mà khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đem lại cho Việt Nam như một thị trường rộng lớn với dân số đông, thu nhập cao. Ngoài ra việc tham gai của Việt Nam vào ACFTA sẽ giu0ps Việt Nam có thêm kinh nghiệm trong đàm phán thương mạivà cho phép Việt Nam ảnh hưởng lớn hơn trong chương trình nghị sự quốc tếnói chung và việc đàm phán thương mại đa biên nói riêng.
3.3.2 Thách thức đối với thương mại Việt Nam
Thứ nhất, tình trạng mất cân đối trong quan hệ thương mại giữa hai nước, Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc, bên cạnh đó tình trạng nhập siêu của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng.
Thứ hai, sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ thêm nặng nề, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam thì nhìn chung các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn Việt Nam trong các ngành Việt Nam tương đối có lợi thế cạnh tranh như: dệt may, da giầy, sản xuất hàng tiêu dùng…
Nếu các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được hạ xuống như trong cơ chế AFTA thì các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng xâm nhập thị trường Việt Nam, và doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn để đứng vững được trên thị trường nội địa, còn những ngành kinh tế khác sẽ không có cơ hội để phát triển.
Thứ ba, là sức cạnh tranh trên thị trường nước thứ ba của Việt Nam cũng chịu áp lực vì hàng hoá Trung Quốc có sức cạnh tranh rất lớn về mẫu mã và giá cả.
3.3.3 Phân tích theo từng ngành
3.3.3.1. Đối với ngành công nghiệp:
Chủ yếu phải kể đến là cạnh tranh giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc về hàng dệt may ở khu vực Châu á, trong tương lai là ở thị trường EU, Trung Quốc có khả năng cạnh tranh cao về giá cả hàng hoá, dung lượng thị trường trở thành nguy cơ đối với Việt Nam.
3.3.3.2 Đối với ngành nông nghiệp
Khả năng ảnh hưởng của ACFTA đến nông nghiệp trong lĩnh vực thương mại phụ thuộc nhiều vào khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta, và không chỉ so sánh với Trung Quốc mà còn phải so sánh với hàng hoá của các nước ASEAN khác cùng xuát khẩu hàng hoá vào thị trường Trung Quốc, cho thấy một mặt Việt Nam có nhiều lợi thế về giá thành sản xuất nông nghiệp đối với nhiều mặt hàng nông sản nhờ vào điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, nhân công rẻ…, các mặt hàng đó là gạo, cà phê, hồ tiêu, điều, thuỷ sản, rau quả, cao su…
Trong khuôn khổ ACFTA thì những nhóm hàng trên đây cạnh tranh gay gắt với hàng hoá của các nước ASEAN khác tại thị trường Trung Quốc.
Rau quả chế biến, nông lâm sản thực phẩm chế biến khác.
Đối với loại quả tươi ôn đới mà Việt Nam không sản xuất được, thuế suất thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu nhiều hơn vào nước ta cũng gián tiếp làm giảm tiêu thụ những sản phẩm rau quả sản xuất trong nước.
Những mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, ngô, lúa mỳ, … sẽ không chịu ảnh hưởng nhiều lắm do thuế MFN của Việt Nam đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc không cao.
Biểu 3.2
Thuế nhập khẩu MFN đối với các nhóm hàng mà nước ta
nhập từ Trung Quốc :
Mặt hàng
Thuế nhập khẩu MFN(%)
Giống cây trồng các loại
0
Rau tươi
30
Quả (lê, táo, cam, quýt…)
40
Rau quả, thịt chế biến
50
Ngô
5
Lúa mỳ
0
Phân bón
0
Thuốc bảo vệ thực vật
0 -1
Thuốc thú y
0
Da các loại
5
Nguồn: Bộ kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nhìn vào số liệu trong bảng ta thấy:
Thuế MFN của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc là rất cao đối với các mặt hàng như rau quả, thịt chế biến, … và chính những nhóm hàng này sẽ chịu tác động rất lớn theo hướng bất lợi khi tham gia tự do hoá thương mại vì khi đó thuế xuất nhập khẩu từ Trung Quốc giảm xuống, điều này đồng nghĩa với việc một khối lượng lớn hơn rau quả chế biến, thịt chế biến,… sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước.
Ngược lại, như đã nêu trên thì đối với những nhóm hàng như lúa mỳ, phân bón, thuốc thú y,…dường như không hoặc chịu rất ít ảnh hưởng từ tự do hoá thương mại vì mức thuế MFN không bị giảm so với trước tự do hoá.
đối với các nước ASEAN thì có những quy định riêng về thuế, trong điều kiện ngày nay, để thúc đẩy và khuyến khích các công ty trong khối tham gia cơ cấu AICA hơn nữa, từ 1/1/2003 có quy định:
Brunây, Campuchia, Inđonêxia, Lào, Malayxia, Singapore sẽ áp dụng mức thuế suất 0% cho các sản phẩm tham gia cơ cấu AICA, Philipine thì mức thuế này là 0 –1%, Thái Lan là 0 – 3%, Myanmar và Việt Nam, mức thuế suất này là 0 – 5%
3.3.3.3 Đối với dịch vụ
Thực tế tại Việt Nam hàng loạt dịch vụ hiện nay hầu như chưa tồn tại như một dịch vụ thương mại , hoặc chưa có tỷ trọng tương xứng như dịch vụ nghiên cứu thị trường, tiếp thị, dịch vụ kế toán qua mạng,.. cần được phát triển gấp, nếu không sẽ bị doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh. Dịch vụ bất động sản phải được hình thành với khung pháp luật thích hợp, hiện nay dịch vụ đang chịu sự can thiệp quá nhiều của các cơ quan hành chính, bị biến dạng làm cho giá cả, luật lệ kinh doanh rất thất thường, năng lực cạnh tranh thấp, đối với dịch vụ môi giới lao động chưa được phát triển.
Về du lịch, Việt Nam đang có tiềm năngnhưng còn dựa vào ưu thế thiên nhiên, truyền thống văn hoá lịch sử song về lâu dài các sản phẩm du lịch còn thiếu đa dạng, chất lượng phục vụ chưa cao, giá cả chưa hấp dẫn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ khách quay lại lần hai rất ít so với các nước khác như Thái Lan, Trung Quốc.
Biểu 3.3
Khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam
Đơn vị: nghìn người
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng
1781,8
2140,1
2330,8
2627,988
2428,755
Khách Trung Quốc
484,0
492,0
675,8
724,385
693,423
Tỷ trọng(%)
27,2
23,0
29,0
27,6
28,5
Nguồn: GSO và www. vietnamtourism.com
Như vậy, tổng lượng khách du lịch trên thế giới nói chung và khách từ Trung Quốc nói riêng đến Việt Nam vẫn tăng liên tục trong những năm gần đây, nhưng đến năm 2003 cả lượng khách du lịch quốc tế nói chung và khách du lịch Trung Quốc nói riêng đến Việt Nam đã giảm, điều này xảy ra do dịch SARS xuất hiện ở Trung Quốc, Việt Nam cũng như khu vực Dông Nam Á, Song 4 tháng đầu năm 2004, lượng khách du lịch vào Việt Nam lại tiếp tục tăng, con số này đạt 933.800 khách, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2003, dự kiến số khách ở năm 2004 sẽ là 2,7 đến 2,8 triệu người, điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh rất mạnh mẽ trong lĩnh vực du lịch của vn, tuy nhiên bên cạnh đó cũng luôn có những chính sách ưu đãi và cải tạo môi trường sao cho lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó là những loại hình dịch vụ như: Ngân hàng, tư vấn pháp lý, kế toán, kiểm toán, mặc dù có nhiều tiềm năng phát triển song cũng cần được quan tâm thích đáng từ phía nhà nước về chính sách khích lệ cũng như những dịch vụ bảo hiểm.
Khu vực mậu dịch tự do ACFTA sẽ mở ra thị trường rộng lớn về du lịch song sẽ cạnh tranh gay gắt, trong đó Trung Quốc sẽ là một đối thủ cạnh tranh trên hầu hết các loại hình dịch vụ, nếu không có sự chuẩn bị tốt và năng động, có hệ thống, đồng bộ cho từng loại hình dịch vụ thì sức ép cạnh tranh từ các nước sẽ làm cho các loại dịch vụ của Việt Nam rất khó cạnh tranh trên thị trường dịch vụ.
3.4 NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Qua việc phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc chúng ta thấy tiềm năng của mối quan hệ Trung Quốc với ASEAN nói chung và với Việt Nam nói riêng là vô cùng to lớn, tuy nhiên cũng còn phải kể đến những tồn tại cần phải tháo gỡ và khắc phục. Trong tương lai gần xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt phải kể đến quan hệ ASEAN – Trung Quốc còn tạo ra nhiều cơ hội và thách thức lớn đối với hoạt động xuất nhập khẩu của ta và Trung Quốc, như vậy cần có những biện pháp, những chủ trương, chính sách cụ thể tư phía nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động này tăng nhanh và có hiệu quả, tạo mối quan hệ láng giềng ngày càng gần gũi và cùng phát triển.
3.4.1 Giải pháp từ phía nhà nước
3.4.1.1 Củng cố và tăng cường môi quan hệ toàn diện Việt Nam – Trung Quốc
Quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước chỉ có thể phát triển thuận lợi khi mối quan hệ giữa hai đảng và hai chính phủ được gắn kết, hợp tác, thân thiện trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh…
Mối quan hệ này dễ dàng được thiết lập hơn trong mối quan hệ ASEAN – Trung Quốc. Đó sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại song phương giữa hai chính phủ cũng như giữa các doanh nghiệp hai nước với nhau, hợp tác giúp đỡ, cùng thảo luận để đi đến lộ trình quan hệ thương mại song phương trong từng giai đoạn. Đến nay hai nước đã ký hơn 20 hiệp định và văn bản về thương mại nói chung và buôn bán biên giới nói riêng
Chính phủ hai nước cũng cần đẩy mạnh hợp tác toàn diện hơn nữa quan hệ hai nước và quan hệ đa phương với các nước khác trong các tổ chức quốc tế và khu vực như APEC, WTO, AFTA… Là thành viên của ASEAN, Việt Nam nhận đươc sự ưu đãi hơn từ phía Trung Quốc trong việc tham gia đàm phán cũng như ký kết các hiệp định ngày càng củng cố mối quan hệ thương mại giưa hai nước.
Việc tổ chức các đoàn cán bộ cấp cao của hai nước, các tổ chức kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội khác ngày càng nhiều là cơ hội để phát triển quan hệ thương mại hai nước.
3.4.1.2 Chính phủ cần vạch ra các chiến lược trung và dài hạn để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Trung Quốc.
Mối quan hệ thương mại hợp tác giữa ASEAN đang và sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường Trung Quốc, nhưng để đứng vững được tại thị trường Trung Quốc thì cần phải vạch ra những chiến lược cụ thể, nhà nước cần xây dựng danh mục các mặt hàng có tính ổn định và lâu dài nhằm tạo ra những sản phẩm có tầm chiến lược, có khối lượng và giá trị lớn phù hợp với ưu thế, tiềm năng nổi trội của các tỉnh biên giới phía Bắc và phù hợp với thị trường Trung Quốc , đó là những mặt hàng như cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thuỷ sản, than đá, rau quả nhiệt đới…
Nhà nước cũng phải chú ý đến đầu tư công nghiệp, khoa học kỹ thuật trong nước để tạo ra những mặt hàng có thể canh tranh với hàng hoá trung quốc với những thế mạnh riêng để có thể giảm tình trạng mất cân đối trong cán cân thương mại giữa hai nước.
Nhà nước cũng cần xúc tiến công tác nghiên cứu các tiềm năng của Việt Nam, đồng thời là xu thế kinh tế Trung Quốc và toàn cầu để đưa ra được những kế hoạch trung và dài hạn, cụ thể là 5 năm, 10 năm…và các kế hoạch dài hạn khác nhằm định hướng cho các doanh nghiệp, bộ, ngành thực hiện chuyển hướng đầu tư hoặc tập trung sản xuất những hàng hoá mà ta có thế mạnh hoặc những mặt hàng phù hợp với thị trường Trung Quốc hoặc những hàng hoá mà các nước khác sẽ mua lại tại thị trường Trung Quốc . Nhờ đó, sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc một cách ổn định và lâu dài.
Đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập và trong bối cảnh quan hệ ASEAN – Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh thì việc nghiên cứu và vạch kế hoạch được đánh giá là rất có ý nghĩa và mang tính quyết định vì các chính sách ưu đãi và bảo hộ thương mại là khác nhau ở mỗi quốc gia và mỗi giai đoạn phát triển.
Ở Trung Quốc hiện nay đang thực hiện hợp tác một cách toàn diện với ASEAN nói chung và đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam nói riêng, có sự thay đổi chính sách sâu sắc, đặc biệt là theo hướng ngày càng mở cửa, giảm thiểu các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam theo chương trình thu hoạch sớm được thực hiện từ đầu năm 2004. Hiểu được sự thay đổi này chúng ta có thể tận dụng cơ hội này để có những kế hoạch phát triển phù hợp hơn.
Trên cơ sở có chiến lược phát triển, có kế hoạch cụ thể, các doanh nghiệp cần tăng cường tiếp xúc, đặt mối quan hệ phát triển thương mại hai nước.
3.4.1.3 Cần đổi mới và hoàn thiện hệ thống văn bản có liên quan đến xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc
Một trong những tồn tại của chính sách Việt Nam hiện nay là hệ thống chính sách văn bản còn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm bất cập và yếu kém, chính vì vậy cần được rà soát, kiểm tra, sửa đổi bổ sung một cách liên tục sao cho phù hợp với quan hệ kinh tế thương mại đang ngày càng phát triển giữa hai nước, ổn định quy chế hoạt động khu thương mại tự do giữa hai nước.
Việc phát triển quan hệ Trung Quốc với ASEAN nói chung và với Việt Nam nói riêng dẫn đến những thoả thuận mà chúng ta phải thực hiện cắt giảm thuế quan hay những hàng rào phi thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc hay thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc, mặc dù đây là cơ hội vô cùng to lớn nhưng bên cạnh việc đơn giản hoá hệ thống văn bản cũng phải chú ý đến tính đồng bộ và đầy đủ để các công ty xuất khẩu Việt Nam ngày càng chú ý hơn đến thị trường Trung Quốc là đẩy mạnh hơn việc xuất khẩu vào thị trường này.
3.4.1.4 Đơn giản hoá các thủ tục hải quan
Những năm qua, các thủ tục Hải quan đã một mặ góp phần quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu nhưng mặt khác lại tạo ra không ít phiền hà, trở ngại cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu. Hệ thống thủ tục hải quan hiện nay của Việt Nam đã tinh giản nhiều hơn trước song vẫn còn nhiều khâu cồng kềnh, phức tạp, tổ chức làm việc chưa khoa học và tình trạng “ nhiều cửa” rất không phù hợp với xu hướng đơn giản hoá thủ tục hải quan trong điều kiện hội nhập hiện nay. Chúng ta cũng phải nhận thấy rằng nếu không đơn giản hoá thủ tục hải quan sẽ dễ dẫn đến việc các doanh nghiệp không muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc thu lợi nhuận và ngày càng trở nên lạc hậu, kém nhanh nhạy khó có thể vươn ra và đứng vững thị trường thế giới không thể phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá ngày nay.
Các chính sách hải quan cần:
Sớm ra đời luật hải quan và hệ thống các văn bản dưới luật dưới hình thức đồng bộ và quy định chặt chẽ.
Tổ chức sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản hải quan hiện hành
Đầu tư trang thiết bị cho hải quan khu vực biên giới Việt – Trung
Đảm bảo thủ tục kiểm tra nhanh chóng, giải phóng hàng nahnh ở khu vực cửa khẩu.
Kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ hải quan, tạo môi trường đầu tư và thương mại ngày càng thông thoáng và hợp lý hơn.
Vì Trung Quốc là thị trường gần nên thủ tục hải quan càng phải nhanh gọn hơn nữa so với các thị trường xuất khẩu khác.
3.4.1.5 Về việc quản lý hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc
Mặc dù hưởng nhiều ưu đãi trong việc xuất khẩu sang Trung Quốc sau khi thực hiện chương trình thu hoạch sớm, song không thể thực hiện xuất khẩu một cách ồ ạt sang thị trường Trung Quốc , mà nhà nước vẫn cần quản lý từ khâu tìm kiếm lựa chọn đầu vào cho sản xuất đến khâu sản xuất và tiêu thụ của các sản phẩm sẽ được đem sang tiêu thụ ở thị trường Trung Quốc.
Nhà nước cần đưa ra các bịên pháp và hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn để kiểm tra chất lượng, mẫu mã hàng xuất khẩu trước khi làm thủ tục hải quan để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo uy tín cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là đối với những thị trường mà rào cản kỹ thuật còn thấp như ở Trung Quốc, đay có thể là một bước chuẩn bị, tạo thế chủ động hơn cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc trong tương lai với mong muốn thâm nhập sâu hơn, đấp ứng những nhóm tiêu dùng có thu nhập cao bằng chất lượng, giá cả, và mẫu mã hàng hoá.
3.4.1.6 Kiên trì thực hiện thanh toán qua ngân hàng
Mặc dù hiệp định thanh toán và hợp tác đã được ký kết nhưng trị giá hàng hoá thanh toán qua ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Trung Quốc. Đến nay các ngân hàng thương mại chưa thực hiện được chức năng thanh toán chủ yếu trong giao dịch kinh tế tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân đặc biệt là gian lận thương mại. Phấn đấu để thanh toán qua ngân hàng giữ được vai trò quan trọng.
Trước mắt, các NHTM tiếp tục mở rộng hoạt động thông qua đại lý với các NHTM Trung Quốc, có kế hoạch phối hợp các cơ quan hữu quan ở các tỉnh biên giới để quản lý các hoạt động tiền tệ, tích cực phòng chống gian lận thương mại, thanh toán không qua ngân hàng để trốn lậu thuế. Vì vậy cần cho phép các thành phần kinh tế được tham gia vào hoạt động đổi tiền song phải quản lý thông qua giấy phép và tổ chức hệ thống đổi tiền của ngân hàng tại các cửa khẩu, chợ biên giới để hoạt đọng thanh toán được thuận tiện.
NHNN Việt Nam cần tiếp tục đàm phán với NHTW Trung Quốc để thực hiện hiệp định thanh toán và hợp tác theo thông lệ quốc tế đối với những lô hàng có giá trị lớn hoặc lô hàng xuất nhập khẩu theo phương thức chính ngạch.
3.4.1.7 Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường Trung Quốc
Tăng cường tổ chức các đoàn doanh ngiệp dưới sự bảo trợ của nhà nước sang Trung Quốc để tìm kiếm cơ hội thâm nhập và mở rộng thị trường Trung Quốc. Thành viên của đoàn bao gồm các bộ, ngành có liên quan, các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp. Trong đó các bộ ngành có nhiệm vụ phát hiện các rào cản từ phía Trung Quốc để chủ động đề nghị bạn tháo gỡ, sau chuyến công tác cần có những đề xuất về chính sách để đạt mục tiêu thâm nhập và mở rộng thị trường Trung Quốc.
Nhà nước cần triển khai các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm bao gồm thường xuyên cung cấp thông tin thương mại Việt Nam – Trung Quốc thông qua sách báo, tạp chí chuyên ngành, phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội thảo, mở hội nghị tư vấn các nhà xuất nhập khẩu, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng Việt Nam và Trung Quốc tại các thành phố lớn, các địa phương biên giới của Việt Nam đồng thời phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp,…để giúp các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm tại Trung Quốc.
Hiện nay, để hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại, nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp 0,2% kim ngạch xuất khẩu đã thực hiện, trường hợp mở chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch tại nước ngoài thì có thể xem xét, hỗ trợ thêm 0,1%. Cơ chế này đã dẫn đến tình trạng “nước chảy chỗ trũng”. Nhiều ngành hàng xuất khẩu sang Trung Quốc có kim ngạch kớn, hệ thống bạn hàng tương đối ổn định như hạt điều, hạt tiêu,… thì được hưởng nhiều. Trong khi đó, những ngành hàng mới, kim ngạch còn nhỏ như sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí, thực phẩm chế biến,… rất cần sự trợ giúp của nhà nước thì lại được thưởng ít. Với cơ chế hỗ trợ dàn trải như vậy thì sẽ đem lại hiệu quả không cao.
Vì vậy nhà nước nên dành một tỷ lệ thưởng thích đáng cho các chương trình trọng điểm của nhà nước, nhất là chương trình khuếch trương mặt hàng mới như linh kiện vi tính, giày dép,…hoặc thâm nhập những thị trường mới như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Phố Đông….
Bộ thương mại phải phát huy vai trò đầu mối phát động chương trình xây dựng, quảng bá và bảo vệ thương hiệu trong cộng đòng doanh nghiệp, tổ chức các hội thảo về thương hiệu , phối hợp với các ngành và địa phương để xây dựng danh mục sản phẩm cần có chỉ dẫn địa lý và xuất xứ.
Ngoài ra việc phát triển cơ quan thương vụ ở Trung Quốc cũng giúp doanh nghiệp thúc đẩy xuất khảu hàng hoá sang quốc gia này. Cơ quan thương vụ cần cung cấp thông tin về pháp luật, thị trường Trung Quốc cho các doanh nghiệp như thông tin về chính sách, luật pháp kinh tế Trung Quốc, chính sách mậu dịch biên giới, xu hướng của người tiêu dùng Trung Quốc để các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác các thế mạnh của mình nhằm mở rộng có hiệu quả mối quan hệ Việt – Trung.
3.4.1.8 Phát huy có hiệu quả vai trò của các hiệp hội ngành hàng
Các hiệp hội ngành hàng ở đây đóng vai trò rất quan trọng giúp đỡ các thành viên tiếp cận tìm hiểu thông tin về thị trường Trung Quốc, đặc biệt là khi thực hiện chương trình thu hoạch sứm, điều này có ảnh hưởng rất tích cực đối với một số ngành nghề như ngành rau quă, hay ngành thuỷ sản…, cụ thể:
Đối với ngành rau quả, hiệp hội trái cây Việt Nam cần tổ chức ngay một buổi thảo luận với các chủ đề liên quan đến chương trình thi hoạch sớm, qua đó có thể định hướng cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Trước hết, hiệp hội cần chấn chỉnh lại hoạt động của các hội viên để chấm dứt tình trạng kinh doanh tự phát, manh mún, sau đó khi Trung Quốc cắt giảm thuế quancho hàng rau quả Việt Nam theo chương trình thu hoạch sớm nhưng có thể tăng dần việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để bảo hộ ngành nông sản trong nước, hiệp hội cần thống nhất tiêu chuẩn một số hàng hoá về kích cỡ, màu sắc, hương vị, tiêu chuẩn… mà Việt Nam có lợi thế.
Đối với ngành thuỷ sản, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cần tăng cường giúp đỡ các doanh nghiệp tham dự các hội chợ để giới thiệu và tiếp thị các mặt hàng thuỷ sản trên thị trường Trung Quốc, tranh thủ sự giúp đỡ về kinh phí của nhà nước để các công ty có thể thiết lập văn phòng đại diện tại Trung Quốc. Đồng thời, hiệp hội cũng cần phối hợp với bộ thuỷ sản, trung tâm kiểm tra an toàn thực phẩm thuỷ sản của các địa phương nuôi trồng thuỷ sản, tăng cường quản lý việc sử dụng thuốc kháng sinh hoá chất trong sản xuất kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc động vật và cấm đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Chỉ khi chất lượng được nâng cao thì hàng thuỷ sản của Việt Nam mới có thể thâm nhập sâu, rộng vào thị trường Trung Quốc và thực sự tận dụng được cơ hội mà ACFTA mang lại.
3.4.1.9 Thường xuyên tổ chức các hội chợ triển lãm Trung Quốc – Việt Nam cũng như tích cực tham gia hội chợ, triển lãm ASEAN –Trung Quốc.
Việc tổ chức các hội chợ, triển lãm này thực sự có ý nghĩa đối với việc quảng bá sản phẩm truyền thống cũng như sản phẩm mới của mỗi nước.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ đơn thuần là Hội chợ triển lãm Trung Quốc – ASEAN (Caexpo) sẽ diễn ra vào tháng 11/2004 là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đưa hàng vào Trung Quốc, đặc biệt là khu vực Quảng Tây. Đây là hội chợ đầu tiên về thương mại, đầu tư va du lịch giữa các thành viên trong khối ASEAN và Trung Quốc.
Hội chợ sẽ diễn ra tại trung tâm hội nghị triển lãm quốc tế Nam Ninh, trưng bày các sản phẩm thương mại của các nước ASEAN và Trung Quốc. Trong khuôn khổ hội chợ, các nước tham gia có thể có cơ hội kêu gọi đầu tư, phát triển thương mại và du lịch, cũng như với Trung Quốc, thông qua các chương trình hội thảo và giới thiệu triển lãm.
Chính phủ Trung Quốc muốn tổ chưcsự kiện này nhằm tạo mối quan hệ sâu hơn về thương mại với ASEAN – khu vực được xem là rất tiềm năng về thị trường và cơ hội đầu tư tiến tới hình thành Khu vực tự do thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc.
3.4.1.10 Đối với hoạt động buôn bán qua biên giới:
Do tính chất quan trọng của hoạt động buôn bán qua biên giới, nhà nước ta đã có quy chế quản lý và tìm các biện pháp để phát triển và quản lý hoạt động buôn bán này theo hướng có hiệu quả nhằm phát huy mặt tích cực, bảo vệ nền sản xuất và thị trường trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sang nước bạn. Ngoài ra còn xúc tiến công tác đàm phán ký kết các hiệp định và thoả thuận ở nhiều cấp, nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng để xây dựng chính sách, cơ chế quản lý, tạo điều kiện cho phương thức trao đổi này phát triển ổn định và lâu dài. Đồng thời, nhà nước cũng cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các dịch vụ bưu chính viễn thông và các dịch vụ thông tin khác, thực hiện tốt công tác xã hội, an ninh quốc phòng….
Bên cạnh đó thì cũng cần sự cố gắng, nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu, những chủ thể chịu tác động trực tiếp của các chính sách hay sự thay đổi trong môi trường xuất nhập khẩu.
3.4.2 Giải pháp từ phía các doanh nghiệp
Bên cạnh những giải pháp thực hiện từ phía nhà nước chủ yếu nhằm tạo môi trường thông thoáng, tạo cơ chế chính sách ổn định để thúc đẩy xuất khẩu thì bản thân các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cũng phải có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp mình sản xuất và kinh doanh. Trong tình hình thị trường thế giới đang có nhiều chuyển biến sâu sắc, trong khi quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN đang ngày càng phát triển, các cơ chế chính sách mới của Trung Quốc cũng như các nước ASEAN đang được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mới, các doanh nghiệp phải thường xuyên cập nhật các cơ chế mới đó để kịp thời điều chỉnh các thủ tục cần thiếtcho hoạt động xuất khẩu của mình.
Hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên cơ sở chiến lược sản xuất xuất khẩu tổng thể của nhà nước, các doanh nghiệp cần xem xét một cách có tầm nhìn chiến lược, căn cứ vào quan hệ thương mại ASEAN – Trung Quốc và triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam–Trung Quốc để hoạch định chiến lược kinh doanh riêng cho doanh nghiệp mình.
Các chiến lược này gồm có chiến lược về mặ hàng, thị trường, giá cả và lĩnh vực kinh doanh. Chiến lược này được hoạch định sau khi đã nghiên cứu về môi trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là môi trường Trung Quốc, về thực trạng và xu hướng biến động của thị trường kinh doanh trong tương lai.
Đưa ra một ví dụ cụ thể là đối với thị trường Trung Quốc, Quảng Tây nói riêng và miền tây Trung Quốc nói chung là miền đất có trình độ phát triển kém hơn miền Đông Trung Quốc, và đang được chính phủ Trung Quốc quan tâm đẩy mạnh phát triển để tạo cân bằngvề phát triển kinh tế giữa hai vùng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đến thị trường xuất khẩu miền Tây Trung Quốc , vì trình độ phát triển và các yêu cầu về hàng hoá của miền này là tương đương với Việt Nam.
Giải pháp về chất lượng sản phẩm:
Chúng ta phải hiểu rằng trong quá trình thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc thì song song với việc cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam thì Trung Quốc cũng thực hiện ở một mức độ tương đương với các nước bạn bè trong khối, như vậy chúng ta phải đối mặt với một thách thức to lớn là phải cạnh tranh với rất nhiều chủng loại hàng hoá của các nước trong khối có điều kiện sản xuất và các loại mặt hàng tương đồng với nước ta.
Trong đó phải chú ý đến những sản phẩm có đặc tính nổi bật của Thái Lan, Singapore…có tính kỹ thuật và công nghệ cao, vì vậy bên cạnh việc sản xuất những mặt hàng tận dụng lợi thế so sánh của mình thì các doanh nghiệp Việt Nam cần có những chính sách đầu tư mạnh, có tính đột phá để đổi mới công nghệ, tiếp cận và đưa nhanh các kỹ thuật mới vào sản xuất, tăng cường cải tiến để làm ra hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá vì ngày nay thị hiếu của người tiêu dùng Trung Quốc đã thay đổi nhiều, nhất là từ sau khi gia nhập WTO.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải dành sự quan tâm thích đáng đến khâu vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là trong chế biến và xuất khẩu nông lâm thuỷ sản- một ngành đang được coi là có lợi thế của Việt Nam để xuất khẩu sang Trung Quốc.
Đồng thời các doanh nghiệp cũng phải phấn đấu đạt các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, khẳng định chỗ đứng của mình trên trường quốc tế. Trên bao bì hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc cũng nên sử dụng tiếng Trung kết hợp với tiếng Anh.
Chiến lược về chất lượng sản phẩm là chiến lược mang tính lâu dài nhưng cần phải được thực hiện ngay ở các doanh nghiệp.
3.4.2.3 Giải pháp đối với giá cả hàng hoá.
Khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay cần phải chú ý rằng không phải chỉ Việt Nam được cắt giảm thuế xuất khẩu mà Trung Quốc áp dụng với hầu hết các quốc gia có tham gia hiệp định, nên giá cả hàng hoá của các nước khác nói chung và của các nước ASEAN nói riêng đều giảm trên thị trường này, đó vừa tạo cơ hội nhưng cũng chính là thách thức đối với hàng hoá Việt Nam trên thị trường Trung Quốc, vì vậy chúng ta cần phải tận dụng cơ hội này để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam về khía cạnh giá cả.
Giá cả hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, giá xuất khẩu thường hướng vào các mục tiêu thâm nhập thị trường, mở rộng thị phần nhằm đạt mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Thông thường các doanh nghiệp Việt Nam định giá xuất khẩu dựa vào giá thành sản phẩm. Tuy nhiên việc xây dựng giá cần hết sức mềm dẻo và linh hoạt, ngoài căn cứ vào giá thành việc định giá không thể thoát ly quan hệ cung cầu về sản phẩm trên thị trường Trung Quốc hay đặc điểm của sản phẩm….
Hầu hết người tiêu dùng Trung Quốc rất nhạy cảm với giá cả và thường chọn sản phẩm rẻ hơn, trừ khi họ chịu tác động bởi các hoạt động hậu mãi tốt hơn hay chất lượng cao hơn hẳn, chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là làm sao giảm giá thành sản phẩm mà chất lượng vẫn không thay đổi, thậm chí phải nâng cao hơn nữa.
Một đặc điểm của thị trường Trung Quốc là có nhiều tâng lớp người tiêu dùng khác nhau đặc biệt là trong điều kiện hàng háo nước ngoài tràn vào Trung Quốc nhiều như hiện nay, do vậy cần thực hiện chiến lược giá bán sao cho hợp lý trên từng thị trường và từng khu vực để đạt được lợi nhuận cao nhất hoặc thâm nhập thị trường sâu rộng hơn. Trong khâu sản xuất các doanh nghiệp cần chú trọng từ yếu tố đầu vào sản xuất tốt để đảm bảo chất lượng sản xuất tốt với nhiều loại hàng hoá, và ứng với nhiều mức giá khác nhau để phục vụ hầu hết nhu cầu người tiêu dùng Trung Quốc, từ người có thu nhập thấp đến người có thu nhập cao trong từng khu vực thị trường ở Trung Quốc.
Đối với các hoạt động xúc tiến thương mại
Trong khi hàng hoá nước ngoài ồ ạt tràn vào thị trường Trung Quốc tạo nên môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn cho các sản phẩm của Việt Nam, rất nhiều nước có những lợi thế sản xuất hàng xuất khẩu so với Việt Nam. Đặc biệt là các nước ASEAN có rất nhiều mặt hàng xuất khẩu tương đồng thì việc xác định rõ và đầy đủ nhu cầu từng khu vực thị trường là hết sức cần thiết, các doanh nghiệp cần sự trợ giúp thông tin về thị trường, về chính sách ưu đãi của nhà nước Trung Quốc từ các tổ chức, công ty có khả năng thu thập, đánh giá thông tin có mặt tại Việt Nam hoặc ở các quốc gia khác. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần tự mình thực hiện hoạt động xúc tiến thương mạicanf thiết khác trên thị trường Trung Quốc để nắm bắt đầy đủ thông tin hơn, các giải pháp để phát triển thị trường là:
Thứ nhất, củng cố thị trường truyền thống ở các tỉnh có chung đường biên giới với Việt Nam (Vân Nam, Quảng Tây), tìm cách để thâm nhập sâu vào những tỉnh ven biển như Phúc Kiến, Hải Nam, các đặc khu kinh tế như Thâm Quyến, Phố Đông, Thượng Hải…
Thứ hai, doanh nghiệp nên thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu chính sách nhập khẩu của Trung Quốc, bộ phận này có nhiệm vụ thu thập thông tin liên quan đến chính sách nhập khẩu của Trung Quốc như thuế suất, giá tính thuế của các mặt hàng mà doanh nghiệp xuất khẩu, những mặt hàng mà doanh nghiệp đang cần xuất khẩu sẽ được hưởng ưu đãi về thuế, những mặt hàng được dỡ bỏ hạn ngạch hoặc áp dụng hạn ngạch…
Thứ ba, một trong những vấn đề phát triển thị trường tại Trung Quốc mà các doanh nghiệp cần quan tâm là ngoài việc đăng kí thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp tại Việt Nam, doanh nghiệp cần đăng ký thương hiệu sản phẩm tại cơ quan quản lý thương hiệu của Trung Quốc để trành tình trạng một số doanh nghiệp tại Trung Quốc “đánh cắp” thương hiệu hàng hoá. Hơn nữa, khi Trung Quốc đã là thành viên của WTO, một số thị trường Trung Quốc sẽ dần đạt đến trình độ chuẩn mực về những vấn đề quan trọng như sở hữu công nghiệp, bảo hộ thương hiệu,….Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc và kinh doanh lâu dài tại thị trường này cần chú trọng đến việc đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu tại Trung Quốc, chính sách Marketing đối với người tiêu dùng Trung Quốc là một trong những công cụ đắc lực để đạt mục đích. Các vấn đề của chính sách Marketing bao gồm sản phẩm, giá cả, hình thức quảng cáo…Quảng cáo là một công cụ quan trọng của chính sách marketing, tuy nhiên công việc đầu tiên cần làm là điều tra, tìm hiểunhu cầu, thị hiếu của thị trường Trung Quốc từ đó quyết định chiến lược quảng cáo ở mức độ, hình thức, quy mô phù hợp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cần xúc tiến việc quảng cáo cho bạn hàng Trung Quốc thông qua báo, tạp chí, panô, catalog,…, những thông tin liên lạc như điện thoại, email, website, địa chỉ,…cũng cần được in trên các tài liệu quảng cáo.
Cuối cùng, trong sự bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ tin học, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng một trang Web riêng giúp cho việc phục vụ mỗi khách hàng được tốt hơn, liên tục hơn, để quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường Trung Quốc.
Giải pháp về nguồn vốn
Một trong những nguyên nhân gây nên hạn chế trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài là nguồn vốn còn hạn hẹp, điều này cản trở việc xây dựng chiến lược dài hạn, đổi mới trang thiết bị…
Vì vậy, trước hết doanh nghiệp phải biết sử dụng nguồn vốn tự có một cách có hiệu quả nhất, và tìm cách tháo gỡ, tự huy động vốn như huy động vốn của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp hay huy động vốn thông qua tín dung thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua, tín dụng quốc tế…Tuy nhiên nếu sử dụng không có hiệu quả nguồn vốn tín dụng sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản.
Doanh nghiệp cũng có thể bổ sung lợi nhuận hằng năm vào nguồn vốn kinh doanh, công việc này giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, giảm chi phí kinh doanh và đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các doamh nghiệp Trung Quốc.
Giải pháp đối với nguồn nhân lực
Để việc xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc đạt kết quả mong muốn đòi hỏi mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải có một đội ngũ các nhà quản lý và kinh doanh giỏi, có khả năng phân tích, nắm bắt được thời cơ một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Trong bối cảnh ASEAN +Trung Quốc, cơ hội mở ra cho Việt Nam là rất nhiều và to lớn, nhưng với điều kiện là các nhà xuất khẩu cũng như đọi ngũ nhà kinh doanh phải có khả năng cũng như trình độ nghiệp vụ am hiểu sâu thị trường thế giới nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng.
Trước hết doanh nghiệp cần khuyến khích cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp học tập nghiên cứu để năng cao trình độ kinh doanh xuất nhập khẩu bằng các chế độ ưu đãi thoả đáng về vật chất và tinh thần. Mục tiêu đặt ra là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngoại thương giỏi về nghiệp vụ, am hiểu về thị trường trong nước, thị trường Trung Quốc cũng như văn hoá Trung Quốc, giỏi ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Trung và tiếng Anh, biết cách đàm phàn thương thuyết, có tinh thần hợp tác, có đầu óc thực tiễn, có tầm nhìn rộng,….
Có thể gửi một số cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi sang Trung Quốc để học tập, nghiên cứu tại các trường bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh doanh có uy tín của Trung Quốc.
Các doanh nghiệp cũng cần tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng nhận thức của các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Tóm lại, Trung Quốc là một thị trường xuất khẩu tiềm năng rất lớn của Việt Nam đặc biệt là trong bối cảnh quan hệ rất tốt đẹp giữa ASEAN và Trung Quốc, chúng ta phải tranh thủ tận dụng thời cơ này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng sang Trung Quốc, tuy nhiên cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức mà nhà nước và bản thâm các doanh nghiệp phải tìm cách phối hợp và tận dụng mối quan hệ với thị trường tiềm năng này.
KẾT LUẬN
Việc thành lập ACFTA không chỉ nhằm làm giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan hiện nay giữa hai bên mà nó phải tạo nên một khuôn khổ hoàn chỉnh bao gồm những chính sách hội nhập thị trường, ví dụ như khuyến khích xuất khẩu, tạo thuận lợi cho thương mại,… và nếu thành lập một cơ chế bổ trợ cùng với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc thì cơ chế này sẽ tăng cường khả năng đối phó với các rủi ro kinh tế bên ngoài, giảm mức độ lệ thuộc quá nhiều vào thị trường của các nước phát triển, và như vậy ACFTA sẽ trở thành một khuôn mẫu mới cho việc hợp tác giữa các nước đang phát triển.
Là một thành viên của ASEAN, của ACFTA và đang xúc tiến gia nhập AFTA trong năm 2005, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đang ngày càng được mở rộng và tăng cường, tuy nhiên bên cạnh những cơ hội phát triển Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức to lớn, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải thực sự nỗ lực trong công tác nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thị trường, có chiến lược mặt hàng và phương pháp tiếp cận, có tổ chức chặt chẽ và rất cần ngoại ngữ,…
Chính vì những lý do đó, chúng ta phải chủ động có những bước chuẩn bị tốt, sẵn sàng hội nhập, nâng cao vị thế trên trường quốc tế và tạo bước đột phá về kinh tế trong thời gian tới.
Bài viết của em đã được hoàn thành song trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi một số hạn chế do kinh nghiệm chưa nhiều và thời gian nghiên cứu còn ít, rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc và sự chỉ dẫn của thầy cô giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo trình kinh tế Quốc tế – Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Tự do hoá thương mại quốc tế, những xu hướng và chính sách – Nhà xuất bản quốc gia
Khu vực mậu dịch tự do và doanh nghiệp Việt Nam – NXB chính trị quốc gia
Một số biện pháp đẩy mạnh quan hệ thương mại biên giới Việt – Trung trong điều kiện hội nhập quốc tế – NXB Quốc gia
Tự do hoá thương mại và hợp tác kinh tế ở ASEAN – NXB thế giới/2003
Trung Quốc cải cách và mở cửa, những bài học kinh nghiệm – NXB thế giới/2003
7. Tạp chí thương mại số 14/4/2003-Phấn đấu đưa kim ngạch buôn bán Việt – Trung tăng nhanh và ổn định (Hồng Châu)
Tạp chí thương mại số 3,4,5/2004 – Nhìn lại quan hệ hợp tác Việt – Trung thời gian qua (Vân Khanh)
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 6/2001- ảnh hưởng của việc trung quốc gia nhập WTO đến thương mại Việt Nam – Trung Quốc. (Nguyễn Xuân Thắng - Đào Việt Hưng)
Tạp chí kinh tế đối ngoại số 4/2003 - Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc: Cơ hội và thách thức (Trương Mai Hương)
Báo cáo tóm tắt về những vấn đề liên quan đến thương mại Việt Nam – Trung Quốc và các giải pháp xử lý những vấn đề đặt ra đối với hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới Việt – Trung (Bộ Thương Mại)
Báo cáo tổng kết năm 2003, phần về kinh tế Thương mại Trung Quốc (Bộ Thương mại)
Các trang web
www.kitra.com.vn- xuất nhập khẩu Việt Nam 11 tháng đầu năm 2003
www.vietnamtourism.com -du lịch Việt Nam
www.vnn.vn/kinhte
www.mot.gov.com.vn
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ACFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ACPT : Mô hình ưu đãi thuế quan ASEAN – Trung Quốc
AFTA : Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEAN4 : Campuchia, Lào, Việt Nam, Mianma
ASEAN6 : Singapore, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Bruney, và Philipine
CEPT : Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
FAACCEC : Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
MFN : Đối xử tối huệ Quốc
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
EU : Liên minh Châu Âu
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
CKD :Linh kiện nguyên chiếc (Complete Knock Down)
IKD : Linh kiện bán nguyên chiếc (Incomplete Knock Down)
NHNN : Ngân hàng nhà nước
MỤC LỤC
Biểu 2.4
Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
giai đoạn 1991 -2003
Đơn vị tính: Triệu USD
Tên hàng
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Hạt điều
3,48
16,88
1,20
1,13
87,21
58,60
54,47
53,29
26,72
20,14
36.05
Hải sản
2,93
8,29
12,00
0,09
32,81
51,54
51,65
222,97
205,63
555,44
458,80
Cà phê
1,70
0,11
10,00
27,31
3,55
2,02
3,68
3,06
2,06
3,20
4,40
Chè
0,80
0,30
0,19
0,10
0,31
0,83
0,57
0,27
Cao su
72,63
41,87
10,75
14,78
60,10
92,38
64,82
51,83
66,39
40,69
73,5
096,66
Than
0,99
0,87
5,77
28,69
19,11
5,22
3,61
7,86
9,44
48,50
44,10
Dầu thô
31,72
7,60
106,4
16,67
87,77
86,71
331,66
749,02
541,66
544,10
558,00
Rau quả
5,09
24,84
10,45
35,68
120,35
127,41
54,53
44,25
Gạo
24,05
3,17
0,33
5,51
0,49
0,49
0,95
0,86
Hạt tiêu
5,0
11,60
7,88
0,64
0,66
Lạc nhân
0,20
3,50
0,32
0,40
0,36
LK máy tính
3,50
5,76
57,11
36,50
Dệt may
0,12
2,59
0,63
0,57
2,61
13,50
48,90
25,42
Giày dép
1,89
2,14
3,24
4,44
53,92
9,57
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh ASEAN + 1 (Trung Quốc).doc