- So với những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh thì hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế phải đối mặt với những rủi ro đa dạng, phức
tạp và có mức độ nghiêm trọng hơn.
- Qua đánh giá khái quát về tình hình mua bán hàng hóa quốc tế của
Việt Nam trong những năm gần đây thấy được những hạn chế trong hoạt động
này và nguy cơ rủi ro có thể xảy ra cho các doanh nghiệp ngày càng có xu
hướng gia tăng và phức tạp hơn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thông qua
phân tích một số ví dụ điển hình đã cho thấy hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế của Việt Nam là một lĩnh vực đầy bất trắc và có nhiều nguy cơ gây ra
rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6274 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế của các thương nhân Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên bắt buộc phải khởi kiện công ty X
ra trọng tài. Cuối cùng doanh nghiệp đã nhận được 195.380 USD tiền hàng và
hưởng lãi suất 5% (theo mức lãi suất tiền vay trung bình do Ngân hàng nhà
nước Việt Nam công bố vào thời gian đó) nhưng cũng đã mất rất nhiều thời
gian theo kiện.[6]
- 56 -
Khi ký vận dụng các điều kiện cơ sở giao hàng trong thực tế mua
bán hàng hóa, người bán còn phải chịu những rủi ro trong quá trình vận
chuyển hàng hóa. Ngay cả trong trường hợp xuất FOB nhưng khi giao hàng
vẫn tiếp tục tham gia giúp đỡ chuyển tải thì người bán cũng có thể gặp rủi ro.
Ví dụ 10: Ngày 28/07/1995, một doanh nghiệp của Việt Nam ký hợp
đồng mua bán số 28795/FIT với đối tác nước ngoài, theo đó doanh nghiệp
bán 10.000 MT±5% gạo 10% tấm mùa mới Việt Nam với đơn giá
310USD/MT FOB cảng Thành phố Hồ Chí Minh - Incoterms 1990. Người
mua ủy nhiệm cho công ty giao nhận A ký hợp đồng thuê tàu chở lô gạo.
Theo chỉ định của công ty A, doanh nghiệp giao hàng lên tàu FUGODEN và
nhận vận đơn hoàn hảo do thuyền trưởng cấp. Nhưng sau đó, tàu FUGODEN
đã bị tạm giữ theo lệnh của Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh. Người mua yêu
cầu chuyển tải sang tàu TAI YAN và đề nghị đổi lại 50% lô gạo có thể bị hư
hỏng (tương đương 4.871 MT). Doanh nghiệp đã chuyển tải với chi phí là
6585,45 USD phí giám định hầm tàu và 424.266.000 VND các khoản còn lại.
Tuy nhiên, đến khi đòi người mua chi phí này thì người mua không thanh
toán vì lỗi thuê tàu thuộc công ty A. Hơn nữa, khi doanh nghiệp nhận thấy
4.871 MT gạo không đạt phẩm chất quy định đã tự động giảm 33.000 USD để
bán hàng nhằm tránh gạo bị mất chất lượng. Hành động này không được
người mua yêu cầu nên người bán Việt Nam phải chịu toàn bộ khoản giảm
giá đó. Rõ ràng, trong trường hợp này, nếu doanh nghiệp chỉ giao hàng đúng
theo điều kiện FOB thì sẽ không gặp phải những rủi ro nêu trên.[6]
Khi sử dụng các phương thức thanh toán như chuyển tiền, nhờ thu,
hoặc L/C nhưng lại chuẩn bị chứng từ có nhiều sai lệch, người bán khó có thể
thu được tiền. Trong đó đặc biệt lưu ý phương thức thanh toán bằng thư tín
dụng là phương thức được lựa chọn nhiều nhất vì đây là phương thức an toàn
nhất và tương đối tin cậy trong buôn bán quốc tế (chiếm tới 70%), được coi là
- 57 -
sự lựa chọn đương nhiên trong các quan hệ giao dịch buôn bán giữa các
doanh nghiệp.
Thư tín dụng là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung
của L/C. Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng,
tức là phải căn cứ vào nội dung và yêu cầu của hợp đồng để bên khẩu làm đơn
yêu cầu mở L/C; sau khi được mở L/C tồn tại độc lập với hợp đồng mua bán
hàng hóa, có nghĩa là khi thanh toán, ngân hàng mở L/C sẽ chỉ căn cứ vào
L/C. Khi người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán thì ngân hàng chỉ
kiểm tra sự hợp lệ của chứng từ, xem có hợp lệ với L/C hay không. Nếu
người bán không căn cứ vào hợp đồng để kiểm tra L/C hoặc kiểm tra không
cẩn thận thì đôi khi chỉ mắc phải một sai sót nhỏ cũng gây khó khăn cho
doanh nghiệp xuất khẩu khi xuất trình chứng từ để nhận tiền thanh toán.
Những tiêu chuẩn của một bộ chứng từ thanh toán trong phương thức
thanh toán L/C là:
1. Chứng từ đầy đủ: Tùy theo quy định trong L/C mà yêu cầu loại chứng
từ và số lượng chứng từ phải nộp cho ngân hàng khi thanh toán là khác
nhau.
2. Hoàn chỉnh về mặt hình thức bề ngoài: Bộ chứng từ cần phải đáp ứng
được những yêu cầu nêu trong L/C, từ mô tả đặc điểm của hàng hóa
đến mô tả chất lượng, phương thức vận tải, giao nhận,…
3. Sự nghiêm ngặt về mặt chứng từ: Vì ngân hàng thanh toán tiền cho nhà
xuất khẩu dựa vào bộ chứng từ chứ không dựa vào hàng hóa hay hợp
đồng mua bán hàng hóa nên ngân hàng giám sát rất chặt chẽ nội dung
của từng loại chứng từ có phù hợp với quy định của L/C hay không.
Ngân hàng thanh toán có quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ nếu có
bất kỳ một sai sót nhỏ nào. Ví dụ như ngân hàng có thể từ chối thanh
- 58 -
toán với bộ chứng từ đề điều kiện giao hàng là CFR hoặc CF nếu trong
L/C quy định là C&F.
4. Không mâu thuẫn: Nội dung các chứng từ xuất trình không được mâu
thuẫn nhau. Các nhà xuất khẩu Việt Nam thường hay mắc phải lỗi này,
chủ yếu liên quan đến mô tả hàng hóa, ngày tháng lập chứng từ.
5. Bộ chứng từ phải được xuất trình trong đúng thời gian quy định của
L/C.
Dưới đây là một ví dụ mà một doanh nghiệp Việt Nam đã gặp phải khi
thanh toán theo phương thức L/C.
Ví dụ 11: Công ty Artexport Hà Nội ký hợp đồng bán hàng cho
Pierluigi E.C.SNG, Italy. L/C liên quan số 577CIM6646 quy định: “B/L
issued by SM Logistics Gruppo Serra Mrzario S.P.A” – “Vận đơn do công ty
SM… ký phát”, nhưng thực tế ở Việt Nam không có hãng tàu này nên việc
giao hàng được thực hiện qua hãng M&S Shipping Lines (một công ty con
của SM), dẫn đến ngân hàng nước ngoài bắt lỗi chứng từ vì vận đơn phát
hành không đúng theo quy định trong L/C.[2]
Rủi ro thường gặp khi doanh nghiệp Việt Nam là người mua:
Đã thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu nhưng lại không nhận
được hàng hoặc nhận được hàng nhưng bị thiếu, hoặc nhận được hàng nhưng
không đúng hạn, không đúng chủng loại hoặc chất lượng không phù hợp.
Ví dụ 12: Ngày 08/04/1997, một doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng
số 12/97 mua của một công ty Malaysia 500 MT Sodium Tripoly Phosphate,
điều kiện CNF cảng Thành phố Hồ Chí Minh – Incoterms 1990, thanh toán
bằng L/C trả tiền ngay.
Doanh nghiệp Việt Nam đã mở L/C cho công ty Malaysia hưởng lợi
ngày 07/04/1997. Sau khi nhận được L/C, công ty Malaysia đã lần lượt giao
ba chuyến hàng 200 MT, 200 MT và 100 MT vào các ngày 21/04/1997,
08/05/1997, 10/05/1997. Do nhu cầu khẩn cấp, doanh nghiệp Việt Nam
- 59 -
không kịp giám định hàng đã đưa lô hàng thứ nhất vào sản xuất 1.500 MT bột
giặt xuất khẩu. Nhưng khi kiểm tra chất lượng bột giặt xuất khẩu, Vinacontrol
kết luận bột giặt không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nên đã không cấp giấy chứng
nhận chất lượng. Doanh nghiệp lúc này mới yêu cầu giám định chất lượng của
Sodium Tripoly Phosphate do phía Malaysia đã giao. Các kết quả giám định
đều kết luận rằng đó không phải là Sodium Tripoly Phosphate mà là Sodium
Phosphate.[6]
Trong mua bán hàng hóa quốc tế, người mua còn phải chịu nhiều rủi
ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa. Điều này có thể do các lỗi tự nhiên
của quá trình vận tải hoặc do phương tiện vận tải kém chất lượng, không phù
hợp với hàng hóa cần vận chuyển, hoặc do người vận tải thiếu trách nhiệm
hoặc có hành vi cố tình chiếm đoạt hàng hóa.
Ví dụ 13: Ngày 24/08/2000, công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
(TOCONTAP) mua 10.000 MT bột mỳ trị giá 1.755.840 USD (FOB Bombay
- Ấn Độ). TOCONTAP thuê tàu Romashka của Katsan Shipping Company
(Hồng Kông) để chở hàng về với giá cước 25 USD/MT.
Tàu Romaska thực chất đóng tại Ba Lan, hạ thủy năm 1970. Khi ký hợp
đồng thuê tàu, người nhân danh chủ tàu cam kết: “Tàu Romashka được xếp
hạng cao nhất của Loyds (đăng ký tại Anh) hoặc tương đương”. Tàu còn được
Hội bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu UK London trả lời bằng văn bản
xác nhận tàu đã được Hội nhận bảo hiểm.
Khi tàu bốc hàng xong và neo ở cảng Bombay chuẩn bị hành trình về
Hải Phòng thì gặp một trận gió mùa mạnh. Tàu bị đứt dây neo, trôi dạt vào bờ
cảng Worki và bị mắc cạn, nước biển ngập hầm hàng, làm ướt toàn bộ 9.125
MT bột mỳ đóng bao cùng 224 tấn dầu FO, gây ô nhiễm vùng biển. Chủ tàu
bị truy cứu trách nhiệm trước tòa án và tàu bị phong tỏa. TOCONTAP mất đi
cơ hội kinh doanh và phương án nhập bột mỳ không thực hiện được.[2]
- 60 -
Nhiều hợp đồng không quy định cụ thể các điều khoản hay các điều
khoản được quy định không rõ ràng, dẫn đến người bán không biết hoặc cố
tình lợi dụng điều đó để không thực hiện đẩy đủ nghĩa vụ của mình còn người
mua khó có thể yêu cầu người bán bồi thường thiệt hại hoặc khiếu nại người
bán.
Ví dụ 14: Một công ty dệt may xuất khẩu ở Thành phố Hồ Chí Minh
mua chỉ thêu của một công ty Đài Loan. Hai bên thống nhất quy định chất
lượng hàng căn cứ theo tiêu chuẩn của người bán là nhà sản xuất quy định và
được người mua Việt Nam chấp nhận nên trong hợp đồng không đề cập đến
chi tiết về chất lượng của hàng hóa mà chỉ ghi theo lần giao dịch trước. Do sự
đồng ý và tin cậy giữa hai bên nên khi mẫu hàng giao cho bên Việt Nam kiểm
tra đạt chất lượng, người bán Đài Loan đã tiến hành giao hàng mà không giữ
lại mẫu, không giữ lại chứng từ quy định về tiêu chuẩn chất lượng đã được
hai bên thống nhất. Khi người bán thay đổi trưởng bộ phận sản xuất, do đã
không lưu lại chứng từ quy định về tiêu chuẩn chất lượng đã ký kết, sản
phẩm sản xuất ra có chất lượng khác với chất lượng đã được đặt hàng. Vì thực
hiện nhiều thương vụ mua bán với công ty Đài Loan, tin tưởng vào chất lượng
hàng hóa trong các giao dịch lần trước, công ty Việt Nam vẫn tiến hành nhập
chỉ thêu này và đưa vào sản xuất bình thường. Sản phẩm của công ty bị đổi
màu sau khi giặt do màu chỉ thêu lem sang. Khách hàng của công ty khiếu nại
về chất lượng sản phẩm dẫn đến công ty mất uy tín. Trong hợp đồng không hề
quy định điều khoản phạt nên công ty Việt Nam đành chịu thiệt.[2]
Trong trường hợp này, tuy không phải là do sự cố tình của bên bán
nhưng do người nhập khẩu Việt Nam đã không cẩn trọng trong việc ký kết
hợp đồng cũng như kiểm tra chất lượng của các lô hàng khi được nhập khẩu
và đưa vào sản xuất dẫn đến công ty bị thiệt hại nghiêm trọng.
- 61 -
Một số rủi ro khác
Ngoài những rủi ro cơ bản nêu trên, trong quá trình thực hiện các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cả người bán và người mua còn có thể gặp
phải một số rủi ro sau:
Rủi ro khi mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam thường mua CIF, bán FOB nên chưa quan
tâm đúng mức đến việc mua bảo hiểm và thuê tàu. Vì vậy, khi giành được
quyền vận tải hoặc đảm nhận việc mua bảo hiểm cho hàng hóa, các doanh
nghiệp thường lúng túng, dễ gặp phải những rủi ro như: thuê phải tàu già,
mua bảo hiểm không đúng điều kiện. Việc mua bảo hiểm chủ yếu là do thư
tín dụng yêu cầu chứ không phải vì lý do để hạn chế rủi ro trong xuất nhập
khẩu. Đôi khi người xuất khẩu không mua đúng loại bảo hiểm mà thư tín
dụng yêu cầu và không đúng doanh nghiệp bảo hiểm cần ký kết trong hợp
đồng hoặc thời hạn bảo hiểm không đúng nên không được thanh toán do bộ
chứng từ thanh toán không phù hợp với L/C.
Nhiều khi chúng ta mua bảo hiểm với chi phí cao nhưng khi có tổn thất
xảy ra thì lại không được bồi thường do loại hình bảo hiểm không phù hợp.
Chính vì vậy mà khi mua bảo hiểm, ta không những phải xem xét lựa chọn
hãng bảo hiểm có năng lực tài chính và uy tín, mà còn phải xem xét đặc tính
hàng hóa mà mình xuất khẩu để mua loại bảo hiểm phù hợp sao cho chi phí
phải bỏ ra là thấp nhất nhưng khi gặp rủi ro tổn thất thì vẫn được bồi thường
đầy đủ. Và khi mua bảo hiểm, cũng cần chú ý rằng mỗi loại hàng hóa xuất
nhập khẩu có một đặc tính riêng dẫn đến những rủi ro tổn thất riêng, vì thế
không nên áp dụng một cách máy móc, áp đặt một loại bảo hiểm nào đó đối
với bất kỳ mặt hàng nào, người xuất khẩu cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi mua bảo hiểm để tránh tình trạng doanh nghiệp đã phải bỏ tiền ra để mua
bảo hiểm nhưng khi có tổn thất cho hàng hóa thì doanh nghiệp lại là người
phải chịu những tổn thất, thiệt hại đó.
- 62 -
Dưới đây là ví dụ minh họa:
Ví dụ 15: Ngày 20/04/1996, doanh nghiệp Y của Việt Nam ký hợp đồng
bán cho một công ty của Ucraina 6.000 MT gạo 5% tấm có trị giá 1.980.000
USD theo điều kiện CIF Odessa - Incoterms 1990, thời hạn giao hàng trước
ngày 05/08/1996. Người bán phải mua bảo hiểm hàng hóa theo điều kiện mọi
rủi ro, người hưởng lợi là người mua.
Doanh nghiệp Y đã mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm A cho lô hàng
theo điều kiện mọi rủi ro nhưng loại trừ rủi ro do “nước vào hầm hàng qua
nắp hầm tàu” mà không có sự đồng ý của công ty Ucraina.
Tàu dời cảng bốc hàng ngày 09/08/1996. Trên hành trình đi Odessa, tàu
ghé vào cảng Aden – Yemen để giao hàng cho người mua Yemen. Tại đây tàu
bị bắt giữ và hàng bị tổn thất 10,2% tổng giá trị do nước vào hầm hàng qua
nắp hầm tàu. Công ty bảo hiểm A đã từ chối bồi thường do rủi ro này đã được
loại trừ khỏi hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp Y Buộc phải bồi thường cho
người mua 88.240,75 USD.[6]
Như vậy để giảm bớt một chút ít phí bảo hiểm, doanh nghiệp Y đã loại
trừ bớt rủi ro, nhưng khi rủi ro đó lại gây ra tổn thất cho hàng hóa, doanh
nghiệp Y bị thiệt hại nặng nề.
Rủi ro về thương hiệu
Thương hiệu là một vấn đề rất đáng quan tâm đối với các doanh nghiệp
nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng vì thương hiệu
không những là biểu tượng hay hình ảnh mà còn là uy tín, là tài sản của doanh
nghiệp, là vũ khí cạnh tranh rất sắc bén. Rủi ro về thương hiệu gắn liền với
cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Nếu bị đánh cắp thương
hiệu, doanh nghiệp sẽ gặp những tổn thất khó có thể lường trước được về mặt
kinh tế, bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh, hạn chế sự phát triển, quảng
bá và thâm nhập thị trường xuất khẩu mới của doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam đã đã gặp phải những rủi ro loại này, trong đó phải kể đến
- 63 -
hãng cà phê Trung Nguyên, thuốc lá Vinataba, Petro Vietnam, bia Sài Gòn,
kẹo dừa Bến Tre, …
Dưới đây là trường hợp của hãng cà phê Trung Nguyên.
Ví dụ 16: Cà phê Trung Nguyên khi đăng ký thương hiệu tại Mỹ thì
phát hiện có một công ty của Mỹ đã nộp đơn đăng ký thương hiệu này và
đang trong giai đoạn chờ cấp phép. Sau khi tìm hiểu thì biết đó là một công ty
phân phối hàng thực phẩm nông nghiệp tại Mỹ, công ty đó đăng ký tên Trung
Nguyên với mục đích giành độc quyền phân phối sản phẩm tại nước này. Qua
nhiều lần đàm phán trao đổi, công ty đó đã đồng ý rút hồ sơ với điều kiện
Trung Nguyên đồng ý cho họ là nhà phân phối của hãng tại thị trường Mỹ
trong thời gian hai năm. Ngoài ra, tên miền trungnguyen.com cũng bị một
Việt kiều ở Tiệp Khắc đăng ký trước với mục đích đầu cơ và rao bán với giá
rất cao. Theo bà Võ Thị Hà Giang, phụ trách Quan hệ cộng đồng và Quảng
cáo của hãng cà phê Trung Nguyên, việc nhận thức thấp về thương hiệu sẽ
khiến doanh nghiệp phải trả giá cao.[6]
Rủi ro do trường hợp bất khả kháng
Ngoài các rủi ro kể trên, chúng ta còn gặp phải các rủi ro do trường hợp
bất khả kháng như: thiên tai, hạn hán, lũ lụt, động đất, dịch bệnh… Theo tập
quán mua bán hàng hóa quốc tế, khi xảy ra trường hợp bất khả kháng thì bên
đương sự có quyền hoãn thực hiện hợp đồng trong một khoảng thời gian xác
định. Do đó khi một trong hai bên gặp trường hợp bất khả kháng thì cả hai
bên đều phải chịu rủi ro. Ngoài ra, khi trường hợp bất khả kháng xảy ra thì nó
khiến cho doanh nghiệp không thực hiện được những hợp đồng đã ký đồng
thời còn khiến cho doanh nghiệp không có khả năng ký kết các hợp đồng mới
do không có hàng hóa, hàng hóa kém chất lượng, hàng hóa bị tẩy chay hoặc
bị cấm… Có thể lấy ví dụ như cơn bão số 5 năm 2001 đã tàn phá ngư trường
xuất khẩu chính của nước ta, làm cho các doanh nghiệp thủy hải sản điêu
đứng; hay hạn hán năm 1999 làm chết nhiều gốc tiêu, cà phê; trong năm
- 64 -
2005, cơn bão số 7 đã làm cho 223.300 ha lúa bị hư hại, trên 21.000 ha thủy
sản bị mất trắng và gần đây là đợt rét đậm, rét hại kéo dài đã ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động sản xuất nông ngư nghiệp …dẫn đến giá thành xuất
khẩu của sản phẩm Việt Nam cao hơn so với các nước khác. Tuy nhiên trong
thực tế, nhiều khi đối tác không muốn thực hiện hợp đồng do giá cả hàng hóa
trên thị trường thay đổi hoặc thực hiện hợp đồng không mang lại lợi nhuận
cho đối tác…các đối tác đã tạo ra những trường hợp bất khả kháng giả. Điều
này thường xảy ra khi trong hợp đồng điều khoản bất khả kháng không được
quy định chặt chẽ. Tất nhiên, khi các trường hợp bất khả kháng xảy ra thì
không thể có các biện pháp khắc phục.
2.3. Hoạt động quản trị rủi ro trong mua bán hàng hóa quốc tế tại các
doanh nghiệp Việt Nam
2.3.1. Nhận thức của các doanh nghiệp về rủi ro
Rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế đang có xu hướng ngày càng
gia tăng về số lượng cũng như mức độ nghiêm trọng. Tuy nhiên các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự nhận thức đầy đủ về tính chất nghiêm
trọng cũng như sự cần thiết phải có các biện pháp phòng ngừa, né tránh
những rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp mình.
Trước những rủi ro mang tính vĩ mô, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tỏ
ra còn thụ động. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa cập nhật, tìm hiểu
các văn bản pháp lý cũng như quan tâm đến hoạt động tư vấn pháp lý. Hiện
nay, hầu như tất cả các công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài
đều có bộ phận hoặc nhân viên đảm trách việc liên quan đến chính sách, pháp
luật với chức năng là cầu nối của doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan
chức năng của Nhà nước giải quyết những sự vụ cụ thể liên quan đến công ty
về mặt hành chính. Ngoài ra, bộ phận này còn chịu trách nhiệm cập nhật mọi
thông tin liên quan đến các văn bản pháp luật và đưa đến các phòng ban khác
trong công ty. Nhưng với các công ty lớn của Việt Nam, sự đảm trách nhiệm
- 65 -
vụ này chưa được phân quyền, phân trách nhiệm cụ thể cho một bộ phận hoặc
một cá nhân nào. Các phòng ban thường tự thu thập và cập nhật thông tin theo
năng lực của mình, chưa mang tính chuyên nghiệp cao. Còn tại các công ty
nhỏ, công việc này thường dựa vào năng lực của lãnh đạo công ty, các phòng
ban thường bỏ qua việc này và chỉ tập trung vào chuyên môn.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp cũng chưa quen sử dụng hoặc khó tiếp
cận với một số dịch vụ phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Phần lớn các doanh
nghiệp Việt Nam khi đến kỳ hạn thanh toán thì liên hệ trực tiếp với ngân hàng
mua ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay. Đồng tiền thanh toán chủ yếu vẫn là USD
và tỷ giá được Nhà nước điều chỉnh khá ổn định. Tuy nhiên, dù lựa chọn đồng
tiền thanh toán nào thì vẫn tiềm ẩn những rủi ro về tỷ giá nhưng nhiều doanh
nghiệp vẫn tự phỏng đoán và tự tính mà không sử dụng các công cụ chuyên
nghiệp trên thị trường tiền tệ. Trong thực tế, chỉ có một vài doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ tư vấn nghiệp vụ hoán đổi tỷ giá, và gần đây mới bắt đầu có sử
dụng nghiệp vụ quyền chọn.
2.3.2. Thực trạng các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế tại Việt Nam.
Trước những rủi ro đang diễn ra trong hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế, những biện pháp cơ bản đang được áp dụng tại Việt Nam nhằm hạn
chế những rủi ro này bao gồm:
2.3.2.1. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
Nếu so với thế giới thì lịch sử bảo hiểm của Việt Nam còn khá non trẻ.
Trước năm 1954, hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia hệ thống bảo hiểm của
Pháp. Từ năm 1954 đến năm 1965, miền Bắc Việt Nam vẫn chưa có hệ thống,
quy tắc bảo hiểm riêng mà chỉ làm đại lý cho bảo hiểm hàng hải Trung Quốc
với ba loại hình bảo hiểm: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, tái bảo hiểm và
bảo hiểm thân tàu. Từ tháng 12/1965, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam được
thành lập (viết tắt là Bảo Việt) đã xây dựng và tiếp nhận dịch vụ bảo hiểm
- 66 -
dưới ba loại hình như đại lý bảo hiểm cho Trung Quốc. Sau khi hòa bình,
thống nhất cả nước, nhất là sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
bảo hiểm Việt Nam trong đó có bảo hiểm hàng hải phát triển nhanh chóng.
Sau đó, một loạt công ty bảo hiểm hàng đầu trên thế giới đã có mặt tại thị
trường bảo hiểm Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm được thành lập để thực
hiện kinh doanh bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm phát triển nhanh chóng đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong việc mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập của mình.
Trong những năm gần đây, số phí bảo hiểm mà các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu mua tại Việt Nam và chuyển ra nước ngoài tăng đáng kể, bình quân
khoảng trên 30 triệu USD/năm. Điều này cho thấy ngày càng nhiều doanh
nghiệp ý thức được tầm quan trọng của việc mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất
nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế cũng có doanh nghiệp chỉ mua bảo hiểm cho
đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng mà không biết lựa chọn loại hình bảo
hiểm phù hợp với loại hàng hóa, với phương thức chuyên chở. Các doanh
nghiệp Việt Nam cũng thường nhập CIF, bán FOB để hạn chế thấp nhất
những rủi ro trong quá trình giao nhận khi chưa thực sự am hiểu về các quy
tắc quốc tế.
2.3.2.2. Quản trị rủi ro hối đoái
Như đã phân tích trong mục 2.2.2.1.c, hiện nay tại các doanh nghiệp
Việt Nam việc thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối để hạn chế
những rủi ro do sự thay đổi tỷ giá hối đoái gây nên còn hạn chế, nguyên nhân
một phần là do nhận thức cũng như chuyên môn của những cán bộ tham gia
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế còn hạn chế, một phần là do thị trường
hối đoái tại Việt Nam chưa thực sự phát triển, các ngân hàng thương mại chưa
cung cấp và tư vấn các dịch vụ liên quan đến việc hạn chế những rủi ro này.
- 67 -
2.3.2.3. Một số biện pháp khác
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng đã áp dụng một số biện pháp
nhằm đảm bảo an toàn trong khâu sản xuất, phòng ngừa những rủi ro có thể
xảy ra trong khâu này (những rủi ro mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ
động phòng tránh). Những biện pháp có thể kể đến như áp dụng các tiêu
chuẩn về an toàn hệ thống trong thiết kế, xây dựng và vận hành các khu nhà
xưởng sản xuất; ban hành các quy định về an toàn trong phòng chống cháy
nổ, trong khâu vận chuyển, trong quá trình sản xuất cũng như những quy định
an toàn về vệ sinh môi trường.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đã quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ
cán bộ ngoại thương cũng như người lao động. Có như vậy doanh nghiệp mới
có thể chủ động phòng chống cũng như hạn chế được những rủi ro có thể gặp
phải trong quá trình kinh doanh của mình.
Qua nghiên cứu hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam
cũng như những rủi ro mà các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải khi
tiến hành xuất nhập khẩu hàng hóa, có thể rút ra kết luận: hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế tại Việt Nam trong những năm gần đây phát triển nhanh
chóng, giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân tuy vậy hoạt
động này cũng chứa đựng không ít rủi ro. Trong khi đó, những biện pháp các
doanh nghiệp Việt Nam áp dụng nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro chưa thực
sự phát huy hiệu quả cũng như các biện pháp hiệu quả chưa được áp dụng
rộng rãi nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do vậy, nhà nước cũng như
các doanh nghiệp phải quan tâm hơn nữa đến hoạt động quản trị rủi ro nhằm
nâng cao hiệu quả trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
- 68 -
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
3.1. Tính chất và mức độ rủi ro trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Một sự thật đã chứng minh rằng mọi quốc gia không thể đứng một mình
cô lập mà có thể giàu có , đầy đủ được. Sự phụ thuộc và hội nhập kinh tế quốc
tế là xu hướng khó có thể đảo ngược. Không nằm ngoài quy luật đó, Đảng
cộng sản Việt Nam đã xác định quan điểm, đường lối phát triển kinh tế của
Việt Nam trong giai đoạn mới là: cùng với sự chuyển đổi quản lý kinh tế theo
cơ chế thị trường là từng bước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Hội nhập
kinh tế tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng gây ra chúng ta
nhiều nguy cơ rủi ro mới. Hội nhập kinh tế tức là xóa bỏ hàng rào phi thuế
quan và giảm thuế nhập khẩu làm cho giá cả trong nước và quốc tế cân bằng,
kinh doanh nhập khẩu không còn hấp dẫn như trước nữa. Hội nhập kinh tế
làm cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu bị cạnh tranh khốc liệt hơn, có
nguy cơ bị loại bỏ thương trường.
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, Việt Nam đã tăng cường
phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới và khu vực.
Khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nguy cơ rủi ro cho
nền kinh tế như sau:
- Nhập siêu có xu hướng tăng
- Lịch trình giảm thuế quan và phi thuế quan diễn ra nhanh chóng trong
các quốc gia trên thế giới sẽ tác động trực tiếp đến thị trường Việt Nam, là
một sức ép lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, hầu như các
doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được những thách thức, nguy cơ trong tiến
trình hội nhập. Hầu như các doanh nghiệp chưa có một chiến lược hoặc kế
- 69 -
hoạch, giải pháp nhằm từng bước thích nghi với điều kiện, môi trường kinh
doanh quốc tế mang tính cạnh tranh cao hơn.
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, những mặt hàng công nghiệp
chế biến được kích thích xuất khẩu với nhiều chính sách ưu đãi trong khi đó,
xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng nông sản, dầu thô, hải sản
chưa qua chế biến. Như vậy, Việt Nam sẽ không có lợi nhiều nếu chúng ta
không đẩy nhanh đầu tư vào công nghiệp chế biến để có những sản phẩm qua
chế biến xuất khẩu.
- Với chất lượng thấp hơn, giá cả hàng hóa cao, các mặt hàng của Việt
Nam không có ưu thế cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới nếu chỉ
dựa vào sự độc đáo của mẫu mã, chủng loại. Nếu không có những cải tiến cơ
bản về công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm thì hàng hóa
Việt Nam khó lòng có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
- Sự chênh lệch về trình độ khoa học công nghệ, thiếu kinh nghiệm kinh
doanh, cạnh tranh quốc tế, thiếu một mạng thông tin cập nhật về tình hình thị
trường, thua kém về trình độ quản lý kinh doanh… cũng là những nguyên
nhân gây ra những rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam khi hội nhập mà
chưa ai có thể lường trước được mức độ nghiêm trọng của nó như thế nào.
Đó là những rủi ro chung đối với nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, riêng đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, những
rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải sẽ gia tăng về cả tính chất cũng như
mức độ nghiêm trọng do một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Đối tác trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam ngày càng đa dạng, hoạt động tại nhiều quốc gia khác nhau,
do vậy việc tìm hiểu kỹ các đối tác cũng như môi trường kinh doanh tại các
quốc gia gặp không ít khó khăn.
- Trình độ khoa học công nghệ trên thế giới ngày càng cao cũng là
nguyên nhân làm gia tăng gian lận thương mại, những gian lận này ngày càng
- 70 -
mang tính tinh vi, phức tạp hơn khiến các nhà xuất nhập khẩu khó nhận biết
được những hành vi này mặc dù có sự tìm hiểu chu đáo trước khi tiến hành
hoạt động kinh doanh mua bán hàng hóa của mình.
- Cùng với sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế thì các
nghiệp vụ xuất nhập khẩu cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Điều này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên có kế hoạch nâng cao nghiệp vụ
cho các cán bộ của mình, đáp ứng được những thay đổi của điều kiện kinh
doanh.
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy rằng một khi Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì tính chất và mức độ của
những rủi ro mà các doanh nghiệp tham gia hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế có thể gặp phải ngày càng gia tăng. Do vậy, các doanh nghiệp cần
phải nhận thức được những vấn đề này và quan tâm hơn nữa về hoạt động
quản trị rủi ro trong quá trình kinh doanh của mình.
3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế
3.2.1. Giải pháp vĩ mô
3.2.1.1.Ổn định và minh bạch hóa chính sách kinh tế vĩ mô, hoàn thiện hệ
thống pháp lý, chính sách tài chính – tiền tệ
Mọi hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng đều gắn bó, phụ thuộc chặt chẽ vào chính
sách kinh tế vĩ mô và cơ chế điều hành của Nhà nước. Tuy nhiên các chính
sách kinh tế vĩ mô hiện nay của Việt Nam còn nhiều bất cập gây nên rủi ro
cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính sách kinh doanh thương mại của
nước ta còn chưa rõ ràng, nhiều khi đề ra mục tiêu còn xa rời thực tế, việc
triển khai chính sách chưa không đồng bộ, thiếu nhất quán và chậm chạp. Do
vậy, việc ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách ngoại
thương, chính sách tỉ giá hối đoái… là vô cùng cần thiết. Đồng thời, Nhà
nước cùng các Bộ, ngành cũng cần có những giải pháp tích cực, tạo điều kiện
- 71 -
thuận lợi cho các doanh nghiệp thông qua cơ chế xuất nhập khẩu linh động,
cải tiến các thủ tục rờm rà gây trở ngại cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế. Chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính- tiền tệ cần được cải thiện
theo các hướng sau:
- Đề ra các chiến lược, các mục tiêu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong
thời gian trước mắt, có các kế hoạch 5 năm, 10 năm một cách hợp lý cùng
những phương hướng, biện pháp để thực hiện được những mục tiêu đó. Các
mục tiêu đặt ra không được xa rời thực tế, phải xét đến bối cảnh kinh tế quốc
tế, nhân tố ảnh hưởng đến các quan hệ thương mại của Việt Nam, phù hợp với
khả năng, năng lực của nền kinh tế, trình độ phát triển cũng như tốc độ tăng
trưởng thương mại của Việt Nam. Trên cơ sở các mục tiêu chiến lược đã đề
ra, xây dựng các phương án, các biện pháp nhằm thúc đẩy thực hiện kế hoạch
xuất nhập khẩu như tăng cường đầu tư tạo nguồn hàng xuất khẩu, phát triển
thị trường, xúc tiến thương mại… đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát
hoạt động thực hiện chiến lược ở tầm vĩ mô nhằm điều chỉnh kịp thời nội
dung chiến lược cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân trong
bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều thay đổi.
- Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách quản lý hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế. Muốn vậy chúng ta phải xây dựng hệ thống
pháp lý, chính sách quản lý kinh tế trên cơ sở khoa học, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn sản xuất kinh doanh và thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy sự tăng
trưởng và hạn chế những khiếm khuyết làm cản trở đến hoạt động mua bán
quốc tế của các doanh nghiệp. Các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng cần
phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng trước khi được áp dụng, tránh tình
trạng nóng vội dẫn đến “sai đâu sửa đó”, gây ra rủi ro cho một số doanh
nghiệp xuất nhập khẩu khi xây dựng phương án kinh doanh không lường
trước được những khó khăn hoặc chi phí phát sinh.
- 72 -
- Chính sách kinh tế Việt Nam còn hay thay đổi, thủ tục chưa thuận tiện
cho doanh nghiệp. Do đó cần ổn định, minh bạch hóa các chính sách này, đặc
biệt là chính sách ngoại thương như chính sách phát triển nguồn hàng xuất
khẩu, chính sách thuế xuất nhập khẩu, chính sách quản lý và điều hành xuất
nhập khẩu, chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển xuất nhập khẩu…
Việc đổi mới công tác thuế thông qua phương thức thu thuế cũng sẽ giúp làm
giảm rủi ro cho doanh nghiệp.
- Từng bước xây dựng và hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ, xác lập
cơ chế tỷ giá hối đoái hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu khuyến khích, đẩy mạnh
xuất nhập khẩu, vừa hạn chế tối đa rủi ro về hối đoái cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động
xuất nhập khẩu. Thực tế, từ năm 1989 đến nay nước ta đã áp dụng các chính
sách tỷ giá khác nhau. Từ tháng 3/1989, chính sách tỷ giá thả nổi được áp
dụng nhưng chính sách này đã gây nhiều hệ quả không tốt cho nền kinh tế, vì
vậy nhà nước đã can thiệp vào thị trường ngoại tệ, chính sách tỷ giá cố định
được áp dụng. Nhưng do yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà
nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước.
Từ năm 2001- nay, tác động của chính sách tỷ giá tới xuất khẩu có
nhiều thay đổi do chính sách đồng USD yếu của Mỹ. Trong quá trình hội
nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang có nhiều thay đổi về mặt chính
sách. Riêng đối với chính sách quản lý ngoại hối, hiện nay, Việt Nam đã ban
hành Pháp lệnh về ngoại hối trên nguyên tắc tự do hóa trao đổi các giao dịch
vãng lai, từng bước nới lỏng quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn, tạo
điều kiện cho thị trường ngoại hối phát triển phong phú, đa dạng hơn. Điều đó
có nghĩa là chính sách tỷ giá sẽ theo hướng ngày càng trở nên linh hoạt. Tuy
nhiên, đồng USD vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong các giao dịch về thương
mại và về vốn của nền kinh tế Việt Nam nên chính sách tỷ giá của nước ta
- 73 -
cũng cần phải theo hướng tách rời sự neo buộc vào đồng USD để gắn kết vào
một số ngoại tệ khác. Cần lựa chọn nhiều ngoại tệ, qua đó tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại cung ứng dịch vụ bảo hiểm rủi ro về lãi xuất, tỷ giá
hối đoái, cho phép các ngoại tệ mạnh được tự do chuyển đổi. Như vậy vai trò
của đồng USD sẽ dần dần được hạn chế hơn và thị trường có thể sử dụng
nhiều đồng tiền trên nền tảng các đồng tiền đó được bảo hiểm bằng các dịch
vụ hối đoái do các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại cung ứng.
Có thể thấy việc ổn định kinh tế vĩ mô là vô cùng cần thiết để tạo môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Nhưng thay
đổi một nền tảng suy nghĩ lạc hậu là một việc làm khó khăn, cần có những
bước đột phá trong tư tưởng và nhìn nhận một cách khoa học, cân nhắc đến
điều kiện thực tế của đất nước. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của
các cán bộ ngành hữu quan để có được những chính sách đúng đắn và hợp lý
cho môi trường kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam.
3.2.1.2. Tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Gần hai mươi năm qua, Việt Nam đã lần lượt gia nhập các tổ chức quốc
tế và khu vực, khôi phục quan hệ bình thường với các nước, các tổ chức như:
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB), gia nhập ASEAN, APEC, thực hiện chương trình CEPT, đồng
sáng lập ASEM, Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…
Hội nhập là yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế thế giới. Sự minh
chứng về thành công khi tham gia hội nhập quốc tế là không thể phủ nhận
được. Bản thân mỗi quốc gia khi tham gia vào quá trình hội nhập đều gặp
phải những khó khăn cũng như thuận lợi, do đó các nước phải tự hoàn thiện
môi trường kinh tế - chính trị pháp lý của mình cho phù hợp với xu thế chung.
Tham gia các tổ chức này, các doanh nghiệp Việt Nam tuy trước mắt gặp
nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với nhiều đối thủ mạnh nhưng xét về lâu
- 74 -
dài, chúng ta sẽ có điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, những tranh chấp
thương mại sẽ được điều chỉnh, giải quyết bởi luật của các tổ chức đó.
3.2.1.3. Phát huy vai trò của các hiệp hội
Hiện nay, các hiệp hội có vai trò còn rất hạn chế, chưa có khả năng
tham vấn cho các cơ quan Nhà nước về chính sách cũng như chưa phối hợp
với các cơ quan này trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến phát
triển ngành. Các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có nhiều
kinh nghiệm, chưa phát huy được vai trò và chức năng của mình một cách
hiệu quả.
Tại thị trường trong nước, nhiều mặt hàng nhập lậu tràn lan, đánh bật
nhiều hàng hóa của các doanh nghiệp nội địa cũng như gây ra nhiều khó khăn,
tổn thất cho các doanh nghiệp nhập khẩu làm ăn chân chính. Do đó, phải phát
huy vai trò của các hiệp hội. Bản thân các hiệp hội sẽ phải là cầu nối, đại diện
cho lợi ích ngành, phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước, doanh nghiệp với quan hệ kinh tế
thế giới…
3.2.1.4. Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp về mặt thông tin
Thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời góp phần quan trọng vào sự thành
công của doanh nghiệp. Do vậy, muốn hỗ trợ các doanh nghiệp một cách có
hiệu quả nhất, Nhà nước cần giúp các doanh nghiệp tiếp cận với những nguồn
thông tin như vậy.
Trong vài năm gần đây, Nhà nước ta đã quan tâm hơn đến vấn đề hỗ trợ
các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thông tin, điều này được thể hiện rõ nét
nhất qua việc thành lập cổng thương mại điện tử Việt Nam (ECVN). Điều này
đã giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động của
mình, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập, đang cần tìm hiểu về các
thị trường khác nhau cũng như quảng bá về chính doanh nghiệp của mình,
giúp các doanh nghiệp có thể tìm đối tác làm ăn nhanh chóng, thuận tiện hơn.
- 75 -
Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp
nhanh chóng tiếp cận với hệ thống pháp luật, chính sách do nhà nước mới ban
hành cũng như những thay đổi cơ bản trong chính sách ngoại thương của một
số quốc gia trên thế giới để các doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình kinh
doanh của mình. Nhà nước có thể thực hiện vấn đề này dưới các hình thức
như thường xuyên mở các lớp đào tạo, huấn luyện, nâng cao kỹ năng nghiệp
vụ cho cán bộ của các doanh nghiệp; thường xuyên cập nhật thông tin lên các
website của Nhà nước và Chính phủ, tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho các
doanh nghiệp.
3.2.1.5. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại
Thời gian vừa qua Chính phủ Việt Nam đã chú ý nhiều hơn đến những
hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp bằng cách đưa các đoàn
đại biểu của các doanh nghiệp theo cùng đoàn Chính phủ khi sang đặt quan hệ
với các nước hay cho phép các doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào các hội
chợ triển lãm quốc tế… để quảng bá hàng hóa Việt Nam với thị trường nước
ngoài. Đây là một việc làm hiệu quả giúp cho hàng hóa nước ta có chỗ đứng
trên thị trường nước ngoài.
Trong thời gian tới, Chính phủ cần chú trọng hơn nữa tới hoạt động xúc
tiến thương mại cho các doanh nghiệp, trong đó các cơ quan thương vụ của
Việt Nam ở nước ngoài là cầu nối quan trọng nhất để cung cấp thông tin cho
các doanh nghiệp, đồng thời quảng bá thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam.
Đặc biệt, ở các thị trường mới, các doanh nghiệp sẽ gặp phải nguy cơ rủi ro
cao do các đối tác nước ngoài chưa quen với mặt hàng cũng như phương thức
kinh doanh của ta nên các hoạt động xúc tiến thương mại của chính phủ là
yếu tố quyết định giúp các doanh nghiệp nước ngoài thiết lập quan hệ buôn
bán với doanh nghiệp Việt Nam.
- 76 -
Bên cạnh đó, các thành phố, hiệp hội doanh nghiệp của từng vùng, từng
ngành cần thành lập các văn phòng đại diện thương mại tại các nước, các khu
vực thị trường trọng điểm mang hình thức và nội dung hoạt động mới.
Các văn phòng đại diện thương mại có chức năng trực tiếp nghiên cứu
thị trường sở tại, thực hiện các chiến dịch quảng cáo, khuếch trương thương
hiệu của hàng hóa Việt Nam nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh và
xuất khẩu của nhóm, ngành hàng mình đảm trách, có nghĩa là không chỉ tạo
điều kiện cho các tổng công ty, các công ty lớn mà cả những công ty nhỏ
cũng có khả năng tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế, hạn chế các
khâu trung gian mà nhiều doanh nghiệp dệt may và nông sản đã sử dụng để
thâm nhập thị trường xuất khẩu hàng hóa trong thời gian qua.
3.2.2. Giải pháp vi mô
3.2.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại thương
Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại trong
mọi hoạt đông, đặc biệt là hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp xuất khẩu có đội ngũ cán bộ ngoại thương giỏi về nghiệp
vụ, năng động, sáng tạo, am hiểu thị trường trong và ngoài nước sẽ hoạt động
hiệu quả hơn và có khả năng phòng ngừa rủi ro tốt hơn so với những doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, tình trạng chung của đội ngũ cán bộ làm công tác
ngoại thương hiện nay là đa số còn thiếu kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế.
Số cán bộ tinh thông nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, thông thạo luật pháp quốc tế
chưa nhiều. Vì thế, để hạn chế rủi ro, doanh nghiệp cần phải đào tạo đội ngũ
cán bộ của mình thông qua việc nâng cao năng lực giao dịch, đàm phán, ký
kết hợp đồng từ nhận thức đến lý luận; đồng thời tổ chức vận hành, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về
luật pháp, tập quán thương mại quốc tế, các kiến thức về văn hóa, xã hội,
phong tục tập quán của các nước đối tác cũng như về phẩm chất đạo đức của
các cán bộ trong doanh nghiệp. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cần có chế
- 77 -
đô đãi ngộ xứng đáng cho những cán bộ có thành tích để thu hút người có tài,
có năng lực vào làm cho mình.
Các doanh nghiệp nên thường xuyên có chính sách đào tạo và chú
trọng đến đào tạo nâng cao năng lực cán bộ làm công tác ngoại thương trong
điều kiện bùng nổ thông tin, xu hướng hội nhập như hiện nay. Chính sách
nâng cao năng lực không chỉ là tạo điều kiện, hỗ trợ tài chính để các nhân
viên tham gia các khóa học mà phải có cơ chế khuyến khích họ tham gia vào
các diễn đàn, hội thảo về kinh tế, hỗ trợ họ trong việc cập nhật các thông tin
chuyên sâu.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý
giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, năng động, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm,
biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia,
thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những biện
pháp quan trọng có ý nghĩa then chốt nhằm hạn chế và ngăn ngừa có hiệu quả
các rủi ro phát sinh trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
3.2.2.2. Chú trọng đến hoạt động quản trị rủi ro
Những rủi ro trong mua bán hàng hóa quốc tế phát sinh ngày càng nhiều
hơn và phức tạp hơn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những biện pháp thích
hợp để hạn chế tổn thất hoặc chấp nhận rủi ro đến một mức độ nhất định.
Muốn có được những biện pháp như vậy, doanh nghiệp cần chú trọng đến
hoạt động quản trị rủi ro, trong đó bao gồm:
- Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác ngoại thương (như đã
phân tích ở trên) để tìm hiểu, đánh giá và phân tích những nguy cơ rủi ro, từ
đó đề xuất ra những biện pháp khả thi và thích hợp với những rủi ro dự báo có
thể xảy ra cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp nên lập quỹ dự phòng, tài trợ cho hoạt động quản trị rủi
ro. Quỹ này có thể được sử dụng trong quá trình nhận dạng, đo lường rủi ro
cũng như dùng để tài trợ rủi ro khi những rủi ro đã xuất hiện và gây tổn thất,
- 78 -
thiệt hại cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tài trợ không kịp thời có thể
dẫn đến khả năng rủi ro này xảy ra dẫn đến rủi ro khác xuất hiện, gây ra
những tổn thất liên tiếp cho hoạt động kinh doanh.
3.2.2.3. Chủ động khai thác và cập nhật thông tin
Hiện nay tình trạng phổ biến là doanh nghiệp có mối quan hệ thì tìm
cách moi thông tin từ các cơ quan chức năng, làm ăn theo hình thức chụp giật.
Còn các doanh nghiệp làm ăn chân chính thì luôn phải chịu nhiều rủi ro do
thiếu thông tin. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa quan tâm
đúng mức đến các thông tin kinh doanh. Đa số các doanh nghiệp còn rất yếu
khâu cập nhật thông tin, ngay cả với những thông tin công khai mà một số
doanh nghiệp vẫn không biết. Vì vậy giải pháp hạn chế rủi ro là doanh nghiệp
cần chủ động trong việc tìm kiếm và khai thác thông tin, không nên phụ thuộc
quá nhiều vào các thông tin chính thống của nhà nước mà doanh nghiệp cần
chủ động liên hệ với các cơ quan thương vụ của Việt Nam ở nước sở tại để có
những thông tin cần thiết, cập nhật về đối tác và thị trường trong khi doanh
nghiệp chưa có điều kiện mở văn phòng đại diện của mình. Còn với những thị
trường lớn thì nên lập các văn phòng đại diện, có sự cập nhật nhanh chóng để
có thể đáp ứng nhanh nhất những thay đổi. Ngoài ra, cần phải bố trí các cán
bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông thạo vi tính, thường xuyên cập
nhật các thay đổi về giá cả trên mạng Internet và trên các thị trường lớn. Tăng
cường công tác của bộ phận Marketing, theo dõi các báo cáo kinh tế, báo cáo
về sự thay đổi chính sách thuế, nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm
thông tin, nên có cơ chế mua tin để có thể chủ động hơn, tính chi phí cho
thông tin là một chi phí của giá thành sản xuất.
3.2.2.4. Xây dựng mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp khác, với các ngân
hàng và tổ chức tài chính
Để có mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp nên
tham gia vào các hiệp hội, ngành hàng. Các hiệp hội là những liên kết của các
- 79 -
doanh nghiệp cùng kinh doanh một mặt hàng, có chức năng hòa giải khi xảy
ra tình trạng mua tranh, bán tranh, có chức năng điều tiết thị trường. Thêm
vào đó, hiệp hội có vai trò khuyến cáo, điều hành các doanh nghiệp kinh
doanh, tránh tình trạng bán phá giá, bán tháo làm cho những doanh nghiệp
còn lại bị ép giá, có thể dẫn đến những thua thiệt không đáng có. Thêm vào
đó, việc tham gia vào các hiệp hội có thể đem lại nhiều cơ hội kinh doanh cho
doanh nghiệp. Qua việc tham gia này, doanh nghiệp có thể nắm bắt những
thông tin cần thiết và tăng cường sức mạnh đoàn kết trong ngành hàng của
mình. Sau đó, các doanh nghiệp phải tích cực xây dựng hiệp hội, ngành hàng
của mình sao cho các doanh nghiệp là thành viên của hiệp hội có cùng tiếng
nói, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế nếu không trực tiếp sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì cần xây dựng mối
quan hệ tốt với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu để giảm thiểu
những rủi ro trong quá trình chuẩn bị nguồn hàng cho xuất khẩu cũng như
trong quá trình giao nhận, vận chuyển hàng hóa và thanh toán.
Bên cạnh việc tạo mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp khác trong
ngành, các doanh nghiệp cũng cần liên kết với các tổ chức tài chính, các ngân
hàng để chủ động hơn về vốn trong kinh doanh và hoạt động mua bán của
mình. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều là những doanh nghiệp
vừa và nhỏ, tiềm lực về tài chính còn hạn chế, hầu hết số vốn các doanh
nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình đều là vốn vay từ ngân
hàng hay các tổ chức tài chính, tín dụng. Nếu không chủ động về vốn thì khi
doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng lớn sẽ gặp phải nhiều khó khăn, sự liên
kết này sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn về vốn và các ngân hàng cũng
yên tâm hơn do tránh được rủi ro không đủ khả năng thanh toán từ phía các
doanh nghiệp.
- 80 -
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, nguy cơ rủi ro trong hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam gia tăng cả về tính chất phức
tạp cũng như mức độ nghiêm trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần áp dụng
các biện pháp cần thiết nhằm phòng ngừa, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra
một cách hiệu quả, trong đó bao gồm trách nhiệm thuộc về Nhà nước và đồng
thời là trách nhiệm thuộc về chính bản thân các doanh nghiệp.
- 81 -
KẾT LUẬN
Từ nội dung nghiên cứu của đề tài, có thể rút ra một số kết luận sau:
- So với những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh thì hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế phải đối mặt với những rủi ro đa dạng, phức
tạp và có mức độ nghiêm trọng hơn.
- Qua đánh giá khái quát về tình hình mua bán hàng hóa quốc tế của
Việt Nam trong những năm gần đây thấy được những hạn chế trong hoạt động
này và nguy cơ rủi ro có thể xảy ra cho các doanh nghiệp ngày càng có xu
hướng gia tăng và phức tạp hơn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thông qua
phân tích một số ví dụ điển hình đã cho thấy hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế của Việt Nam là một lĩnh vực đầy bất trắc và có nhiều nguy cơ gây ra
rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
- Khóa luận có điểm lại một số biện pháp mà các doanh nghiệp Việt
Nam áp dụng nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro. Qua nghiên cứu cho thấy
những biện pháp được áp dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả, hoạt động
quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
- Sau quá trình nghiên cứu và phân tích, khóa luận đã đề ra một số biện
pháp cần thiết nhằm phòng ngừa, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra một cách
có hiệu quả hơn. Trong đó, nhà nước cần chú trọng đến khâu tổ chức, lập kế
hoạch, ban hành các chính sách hợp lý tạo môi trường pháp lý ổn định, thuận
lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh đồng thời
có các biện pháp thích hợp hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt trong kênh thông
tin. Về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động trong hoạt động kinh doanh
của mình, dự đoán những rủi ro có thể gặp phải từ đó có những biện pháp cụ
thể để phòng tránh và hạn chế rủi ro.
- 82 -
Hy vọng rằng cùng với sự phát triển, Việt Nam sẽ tích lũy nhiều hơn
nữa những kinh nghiệm trên thương trường quốc tế về hoạt động kinh doanh
cũng như các biện pháp hạn chế rủi ro.
Trong khuôn khổ một bài khóa luận và do kiến thức còn hạn hẹp, dù đã
cố gắng nhưng bài viết vẫn còn những thiếu sót, hạn chế nhất định. Vì vậy,
một lần nữa, tôi hy vọng sẽ nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các
bạn.
- 83 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] GS.TS. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh,
NXB Lao động xã hội.
[2] TS. Ngô Thị Ngọc Huyền – Th.S. Nguyễn Thị Hồng Thu – TS. Lê Tấn
Bửu – Th.S. Bùi Thanh Tráng (2003), Rủi ro trong kinh doanh, NXB Thống kê.
[3] Nguyễn Minh Phong (1998), Tác động của khủng hoảng tài chính – tiền tệ
Châu Á với Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (241 – 6/1998).
[4] Nguyễn Hữu Thân (1991), Phương pháp mạo hiểm và phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh, NXB thông tin Hà Nội.
[5] ThS Nguyễn Văn Thoan, ThS Lê Thu Hương, ThS Nguyễn Quan Trung,
Bài giảng thương mại điện tử 2007, trường ĐH Ngoại thương.
[6] PSG.TS. Hoàng Ngọc Thiết (2002), Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập
khẩu – Án lệ trọng tài và kinh nghiệm, NXB Chính trị quốc gia.
[7]GS.TS. Vũ Hữu Tửu (2006), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương,
NXB Giáo dục.
[8] PGS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân (2005), Quản trị rủi ro và khủng hoảng,
NXB Thống kê.
[9] CƯ Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
[10] Bộ tài chính (1998), Nhật ký khủng hoảng, tạp chí tài chính(7-1998).
[11] Kinh tế và dự báo, số 7/2005 (387).
- 84 -
[12] Tạp chí khoa học, Đại học Huế, số 26, 2005.
[13] Tạp chí Thuế Nhà nước, số 9/2003.
[14]
[15]
[16]
[17]
[18]
[19]
[20] Brealey – Myers – Marcus (2001), Fundamentals of Corporate Finance.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4055_059.pdf