Đề tài Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 1. Định nghĩa lạm phát: Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. 2. Đo lườngLạm phát: được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm: Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra). CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2008 Tình hình biến động giá cả giai đoạn 1995 – 2005 Số liệu của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 1996 đến năm 2005, nhìn trên đồ thị giống như như đường cong có đáy là năm 2000 và 2 đỉnh lần lượt là 1996 và 2005. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT HIỆN NAY 1. Dự báo xu hướng lạm phát trong thời gian tới Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 tăng 9,19% là quý có mức tăng cao nhất tính từ năm 1995 trở lại đây, và đã vượt xa chỉ tiêu của cả năm. Theo kế hoạch tăng trưởng xã hội năm 2008, Việt Nam đạt mục tiêu tăng GDP 8,5-9% và giữ CPI thấp hơn mức này. Với tình hình này, CPI cả năm có thể chạm mức 15%; độ trễ của các chính sách tiền tệ nhắm kiểm soát lạm phát quá dài.Hiện Việt Nam cùng lúc đối mặt với 4 dạng lạm phát, gồm lạm phát tiền tệ do cung tiền trong lưu thông lớn; lạm phát cầu kéo do cung hàng hóa giảm sút; lạm phát chi phí đẩy do các sản phẩm đầu vào như giá xăng dầu, sắt thép, thiết bị tăng giá; và lạm phát ngoại nhập do giá các sản phẩm trên thị trường thế giới tăng. Ngoài ra còn yếu tố tâm lý “té nước theo mưa” nâng giá trong bối cảnh lạm phát.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4300 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến động giá của các nhóm mặt hàng với quyền số tương ứng, theo kỳ gốc cố định (thường là 5 năm). Công thức tổng quát: = = (1) Trong đó: : chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc 0; : giá mặt hàng i kỳ báo cáo t; : giá mặt hàng i kỳ gốc; : quyền số cố định năm 2005. Công thức (1) tính chỉ số giá dài hạn (kỳ báo cáo so với kỳ gốc). Công thức này đã được áp dụng nhiều năm và có nhiều ưu điểm như cách tính dễ hiểu, ngắn gọn; nhưng cũng có một số nhược điểm khi giải quyết vấn đề chọn mặt àhng mới thay thế mặt hàng cũ không còn bán trên thị trường, hàng thời vụ hoặc hàng thay đổi chất lượng. Tuy nhiên, khi tính chỉ số theo phương pháp này, mọi so sánh phải thông qua một kỳ gốc đã chọn (ví dụ kỳ gốc năm 2000). Do đó, có một số hạn chế khi phải xử lý những thay đổi về mặt hàng, về điều chỉnh chất lượng mặt hàng… qua các kỳ điều tra. Để khắc phục nhược điểm trên, chỉ số giá tiêu dùng sẽ được tính theo công thức Laspeyres chuyển đổi – hay phương pháp so sánh với kỳ gốc ngắn hạn. Công thức này hoàn toàn tương thích với công thức Laspeyres gốc và có dạng tổng quát như sau: = (2) Trong đó: = Điểm mới trong công thức (2) là thay cho việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ báo cáo so trực tiếp với kỳ gốc bằng việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ báo cáo so với kỳ trước sau đó nhân với chỉ số cá thể mặt hàng đó kỳ trước so với năm gốc. = … Đẳng thức trên có thể viết như sau: = (3) Trong đó: : chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với kỳ gốc 0; : chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ gốc 0; : chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước; Công thức (2) có thể viết như sau: = (4) Trong đó: : chỉ số giá tiêu dùng tháng báo cáo t so với kỳ gốc 0; : chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước; : chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ gốc 0; : quyền số cố định năm 2005. Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các vùng và cả nước: Tính chỉ số giá các vùng kinh tế: Tính chỉ số giá khu vực nông thôn của cá vùng (8 vùng) từ báo cáo chỉ số giá khu vực nông thôn của các tình trong vùng. Tính chỉ số giá khu vực thành thị của các vùng (8 vùng) từ báo cáo chỉ số giá khu vực thành thị của các tình trong vùng. Tính chỉ số giá vùng chung cho cả hai khu vực (8 vùng). Tính chỉ số giá cả nước: Tính chỉ số giá khu vực nông thôn cả nước, từ chỉ số giá khu vực nông thôn của 8 vùng. Tính chỉ số giá khu vực thành thị cả nước, từ chỉ số giá khu vực thành thị của 8 vùng. Tính chỉ số giá chung cả nước. Công thức tổng quát như sau: = (5) Trong đó: : chỉ số giá cả nước kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc; : chỉ số giá vùng 1 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc; : chỉ số giá vùng 2 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc; k : tỉnh tham gia tính chỉ số, m: số tỉnh tham gia tính chỉ số giá; : quyền số cố định của tỉnh k; : chỉ số kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc; Cấp tỉnh, thành phố tính chỉ số giá tiêu dùng từ giá bình quân hàng tháng Cấp vùng và trung ương tính chỉ số giá tiêu dùng từ chỉ số giá của các địa phương, không tính trực tiếp từ giá bình quân vùng hoặc trung ương. CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995 - 2008 Tình hình biến động giá cả giai đoạn 1995 – 2005 Số liệu của Tổng cục Thống kê về chỉ số giá tiêu dùng các năm từ 1996 đến năm 2005, nhìn trên đồ thị giống như như đường cong có đáy là năm 2000 và 2 đỉnh lần lượt là 1996 và 2005. Hình 1: Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Hình 2: Biểu đồ so sánh lạm phát 1995-2005 Trong giai đọan 1996 đến 2005, giá tiêu dùng chung đã tăng 51%. Như vậy, sau 10 năm giá tiêu dùng tăng 51% thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình; theo số liệu Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân đầu người năm 2004 (484,4 nghìn đồng) tăng 64,2% so với năm 1999 (295,0 nghìn đồng). Điều đó chứng tỏ đời sống của người dân được cải thiện. Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 1995 đến 2005 ( nguồn: Tổng cục Thống kê) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 96-05 Chỉ số giá tiêu dùng 1,127 1,045 1,036 1,092 1,001 0,994 1,008 1,04 1,03 1,095 1,084 1,51 Lương thực 1,206 1,002 1,004 1,231 0,921 0,921 1,060 1,026 1,029 1,143 1,078 1,45 Thực phẩm 1,193 1,163 1,021 1,086 1,005 0,993 1,002 1,079 1,029 1,171 1,12 1,88 Đồ uống và thuốc lá 1,193 1,160 1,021 1,053 1,026 1,003 1,011 1,036 1,035 1,036 1,049 1,51 May mặc, giày dép, mũ nón 1,078 1,032 1,032 1,023 1,019 1,004 1,008 1,011 1,034 1,041 1,05 1,28 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,167 0,963 1,028 1,017 1,025 1,047 1,008 1,071 1,041 1,074 1,098 1,43 Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,053 1,012 1,042 1,025 1,035 1,023 1,009 1,008 1,019 1,036 1,048 1,29 Dược phẩm, y tế 1,011 0,998 1,016 1,087 1,041 1,036 0,998 1,005 1,209 1,091 1,049 1,65 Phương tiện đi lại, bưu điện 1,05 1,032 1,08 1,03 1,016 1,019 0,953 1,017 0,98 1,059 1,091 1,30 Giáo dục 1,117 0,993 1,027 1,096 1,038 1,041 1,036 1,012 1,049 0,982 1,05 1,37 Văn hóa, thể, giải trí 1,117 0,993 1,027 1,013 1,019 1,009 1,002 0,99 0,987 1,022 1,027 1,09 Hàng hóa và dịch vụ khác 1,098 1,085 1,087 1,04 1,031 1,041 1,014 1,02 1,043 1,052 1,06 1,58 Chỉ số giá vàng 0,976 1,025 0,934 1,007 0,998 0,983 1,050 1,194 1,266 1,117 1,113 1,87 Chỉ số giá đô la Mỹ 0,994 1,012 1,142 1,096 1,011 1,034 1,038 1,021 1,202 1,004 1,009 1,71 Phân tích biến động giá cả theo 10 nhóm hàng xếp theo thứ tự nhóm có tốc độ tăng giá cao nhất đến thấp nhất như sau: - Nhóm thực phẩm tăng 88%, - Nhóm dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 65%, - Đồ ướng và thuốc lá tăng 51%, - Lương thực tăng 45%, - Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 43%, - Giáo dục tăng 37%, - Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 30%, - Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 29%, - May mặc, giày dép, mũ nón tăng 28%, - Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 58% Ta nhận thấy trong 10 nhóm hàng trên, nhóm hàng thực phẩm và nhóm hàng dược phẩm và dịch vụ y tế có tốc độ tăng cao nhất; điều này có nghĩa là đời sống của nhóm người nghèo mà thu nhập của họ chủ yếu dùng mua thực phẩm không được cải thiện bao nhiêu. Về mối quan hệ giữa ngọai thương và lạm phát: qua kinh nghiệm các nước và khu vực lãnh thổ NIC (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore) cho thấy rằng các nước xây dựng chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu thường trải qua các giai đọan lạm phát theo chu kỳ với các giai đọan sau: - Giai đọan 1 xuất khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên khóang sản, khi tích lũy một lượng lớn ngọai tệ (đất nước bớt đi một lượng hàng hóa, thêm một lượng tiền) thì chuyển qua lạm phát cùng với nhập siêu (bớt đi một lương tiền, thêm lượng hàng hóa chủ yếu là máy móc, nguyên liệu để chuyển sang giai đọan 2 xuất khẩu dựa vào thâm dụng lao động. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 % tăng BQ 1 năm (96-05) Kim ngạch xuất khẩu HH (tỷ USD) 5,45 7,25 9,19 9,36 11,54 14,48 15,03 16,71 20,15 26,49 32,45 20,1 % tăng so với năm trước 133,0 126,8 101,8 123,3 125,5 103,8 111,2 120,6 131,5 122,5 Kim ngạch nhập khẩu HH(tỷ USD) 8,16 11,14 11,60 11,52 11,62 15,64 16,22 19,75 25,26 31,97 36,76 19,9 Qua biểu số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu, người viết cho rằng nhập siêu giai đọan 1995 đến 1998 kèm với nó là chỉ số giá tiêu dùng hơi cao, chủ yếu là nhập tư liệu sản xuất, giúp cho những năm sau tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu: 1999 (23%), 2000 (25,4%); cùng với đó là tỷ lệ nhập siêu rất thấp; đây chính lúc kết thúc giai đọan xuất khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên và khóang sản. Và bắt đầu từ năm 2001, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dựa vào các ngành thâm dụng lao động đó là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với kim ngạch xuất khẩu tăng với tỷ lệ cao, cùng với nó là chỉ số gía tiêu dùng cũng có tăng cao. Bảng 3: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Hàng công nghiệp nặng và khóang sản (%) 25,3 28,7 28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8 Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN (%) 28,5 28,9 36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3 Bảng 4: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 1995-2005 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tư liệu sản xuất chiếm (%) 84,8 89,9 91,5 93,6 94,7 93,8 92,1 92,1 92,2 93,3 94,3 Xét yếu tố giá hàng nhập khẩu ảnh hưởng đến tình hình lạm phát, ta thấy các năm 1998, 1999, 2001, 2002 giá hàng nhập khẩu giảm trùng với tình hình thiểu phát các năm 1999, 2000. Các năm sau giá nhập khẩu tăng lên thì chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng tương ứng. Như vậy, mối tương quan giữa chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng là khá chắc chắn. Trong giai đọan 1996 đến 2005, chỉ số giá nhập khẩu tăng 18,8%; trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng tăng 51%. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng tăng, ngòai yếu tố do giá hàng nhập khẩu, còn do xuất khẩu, do cung tiền và các yếu tố khác… Bảng 5: Chỉ số giá hàng nhập khẩu từ 1995 đến 2005 ( nguồn: Tổng cục Thống kê) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 96-05 Chỉ số chung 1,073 1,048 1,035 0,98 0,901 1,034 0,983 0,999 1,034 1,096 1,078 1,188 Hàng tiêu dùng nhập khẩu 1,065 1,025 1,031 0,973 0,953 0,965 0,976 0,978 1,011 1,008 1,022 0,94 Tư liệu sản xuất nhập khẩu 1,075 1,054 1,036 0,982 0,901 1,049 0,984 1,002 1,038 1,126 1,095 1,279 2. Tình hình biến động giá cả giai đoạn 2006 đến nay 2.1. Thực trạng: Trong giai đọan 2006 đến tháng 3/2008 (27 tháng), chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 31,1%; trong đó: - Lương thực tăng 55,3%, - Thực phẩm tăng 44,5%, - Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 49,5%, - Phương tiện đi lại tăng 27,6%,… Chỉ số giá đã tăng với 2 con số từ giữa năm 2007 đến nay. Bảng 6: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008 ( nguồn: Tổng cục Thống kê) 2005 2006 2007 3/2008 So 12/2007 Chỉ số giá quý I năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 Tháng 3/08 So Tháng 12/05 Chỉ số giá tiêu dùng 1,084 1,066 1,1263 1,0919 1,1637 1,311 Lương thực 1,078 1,141 1,1540 1,1791 1,2152 1,553 Thực phẩm 1,120 1,055 1,2116 1,1308 1,2840 1,445 Đồ uống và thuốc lá 1,049 1,052 1,0678 1,0773 1,0696 1,210 May mặc, giày dép, mũ nón 1,050 1,058 1,0670 1,0842 1,0757 1,224 Nhà ở và Vật liệu xây dựng 1,098 1,059 1,1712 1,2061 1,1794 1,496 Thiết bị và đồ dùng gia đình 1,048 1,062 1,0515 1,0663 1,0578 1,191 Dược phẩm, y tế 1,049 1,043 1,0705 1,0806 1,0773 1,207 Phương tiện đi lại, bưu điện 1,091 1,040 1,0727 1,1434 1,1004 1,276 Giáo dục 1,050 1,036 1,0197 1,0212 1,0199 1,079 Văn hóa, thể, giải trí 1,027 1,035 1,0169 1,0438 1,0261 1,099 Hàng hóa và dịch vụ khác 1,060 1,065 1,0902 1,1283 1,1193 1,310 Chỉ số giá vàng 1,113 1,272 1,2735 1,1846 1,4042 1,919 Chỉ số giá đô la Mỹ 1,009 1,010 0,9997 0,9812 0,9942 0,991 Gía tăng chóng mặt, trong đó lương thực và thực phẩm tăng cao nhất, đã thực sự làm cho đời sống của tầng lớp dân cư cận nghèo và nghèo thực sự khốn đốn. 3.2. Nguyên nhân 3.1.1. Nguyên nhân khách quan: Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng từ đầu năm 2008 đến nay, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng 81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%... mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao. Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ của các nước trong khu vực... Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm... dẫn đến nguồn cung thực phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao.  Quan hệ cung cầu về hàng hóa, dịch vụ ở trong nước có diễn biến khác với các năm trước. Sản lượng lương thực bị giảm do thời tiết, sâu bệnh, bão lũ, trong khi dân số vẫn tăng trên 1 triệu người; giá cả thế giới tăng khá nhanh, xuất khẩu lại vẫn giữ khối lượng như năm trước nên giá lương thực tăng cao là khó tránh khỏi. Đàn gia cầm chưa phục hồi so với đỉnh cao cách đây mấy năm, nay lại thường xuyên bị các dịch đe dọa; đàn gia súc tăng thấp, nay lại bị dịch lở mồm long móng rồi đến dịch lợn tai xanh... rình rập, trong khi giá thức ăn thì đắt lên gấp bội... Nhiều làng thuần nông mà có đến một nửa số hộ không nuôi lợn, bởi chăn nuôi lợn trong nhiều năm chỉ "lấy công làm lãi" hoặc như đem tiền bỏ ống mà thôi. Nguyên nhân chủ quan: Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia... cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam (trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%). Về nguyên nhân chủ quan, đại diện các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài chính đều thừa nhận công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu. Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép tăng giá. Tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh và ở mức cao- tăng cao hơn so với kế hoạch đề ra khoảng 10%-14%. Tổng dư nợ cho vay năm 2007 ước tăng khoảng 10%-14% so với kế hoạch đề ra từ đầu năm.   Từ đầu năm 2007, về chính sách tiền tệ có hai biểu hiện đã làm tăng sức ép lạm phát. Thứ nhất, một lượng tiền lớn được cung ứng cho thị trường chứng khoán khi chỉ số giá chứng khoán "phi mã" hồi đầu năm để đạt đỉnh điểm vào 12/3 (1.170 điểm), đã vượt qua đỉnh sang dốc bên kia, hiện nay chỉ còn 940 điểm và đang có dự đoán sẽ còn giảm xuống nữa! Một phần tiền sẽ được quay về sau chỉ thị 03, một phần được đưa ra tham gia khi các đại gia IPO, một phần đưa ra mua vàng, mua bất động sản... và đưa vào lưu thông hàng hóa, dịch vụ thông thường, tạo sức ép tăng giá tiêu dùng. Thứ hai, nguồn vốn từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh. Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh. Về nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát tăng cao là điều không thể tránh khỏi. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào đột biến, từ đó buộc Ngân hàng phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm này có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền cảu Việt Nam đã ngày một giãn rộng trong 3 năm qua. Trong khỏang hai năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 đến tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hầu như không đáng kể. Hình 3: So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) (Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.) Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, trung Quốc và Thái Lan là không thể khác nhau nhiều. Sau đó Việt Nam lại sử dụng các biện pháp hút tiền từ lưu thông về ngân hàng (sau khi đưa tiền ra mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối), khống chế tỷ lệ cho vay chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc... đưa ra rất chậm; lại chưa tạo được sự đồng thuận của các ngân hàng, các nhà đầu tư, các chuyên gia và một số phương tiện thông tin đại chúng.  Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã dồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ. Ðể thực hiện mục tiêu tăng trưởng, từ những năm sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á (1997 - 1998), chúng ta đã thực hiện chính sách kích cầu bằng việc nới lỏng tín dụng, tăng chi tiêu ngân sách cho đầu tư... Chính sách này đã có tác dụng tích cực trong thời kỳ "thiểu phát", nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời khi tình hình trong nước và thế giới đã thay đổi, nước ta gia nhập WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có dấu hiệu tăng cao dần. + Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ nới lỏng liên tục trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng mạnh. Năng lực kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước chậm được tăng cường, không theo kịp tình hình khi các tổ chức tín dụng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, không kiểm soát có hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc cho vay kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến bất thường nhưng việc phát hiện và cảnh báo còn chưa kịp thời. Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu và chưa đủ độ chuẩn xác. Chính sách tỷ giá thấp để khuyến khích xuất khẩu trong nhiều năm không kịp điều chỉnh phù hợp khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy giảm, đồng USD giảm giá mạnh. Việc đồng VND được giữ giá trị cao so với đồng USD cùng với lãi suất trong nước cao... đã khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào khá lớn nhưng chưa có biện pháp hấp thụ có hiệu quả. Khi có tình hình xảy ra, việc ngân hàng nhà nước thực hiện đồng thời các giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm: Tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tỷ lệ nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản, tăng lãi suất chỉ đạo, phát hành tín phiếu bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại, hạn chế mua, bán USD của tổ chức và cá nhân có nhu cầu... nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác,... tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho ngân hàng thương mại, tạo ra việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội. Nhờ thực hiện một số biện pháp điều chỉnh, những ảnh hưởng tiêu cực này đã được khắc phục một phần. + Chính sách tài chính: Chi tiêu ngân sách chưa thực sự tiết kiệm, bội chi còn cao, hiệu quả đầu tư từ khu vực nhà nước còn thấp. Bội chi ngân sách trong nhiều năm liền liên tục giữ ở mức 5% GDP trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng lớn. Tỷ lệ chi đầu tư từ khu vực nhà nước (ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước) lớn, nhưng hiệu quả thấp. Tình trạng đầu tư dàn trải, để nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác, sử dụng, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả khá phổ biến đã kéo dài nhiều năm ở cả trung ương và địa phương chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế có xu hướng ngày càng cao. Chủ trương thí điểm thành lập tập đoàn đa ngành chưa được nhận thức thống nhất để thực hiện tốt. Bên cạnh những kết quả đạt được về nhiều mặt, một số tập đoàn đã đầu tư rộng sang nhiều ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc chuyên ngành, thế mạnh của mình, nhất là vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán... Những hoạt động đầu tư này đã gây khó khăn cho quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tập đoàn, khó khăn cho ngân hàng nhà nước trong quản lý lưu thông tiền tệ, nếu không được khắc phục sẽ làm tăng tính đầu cơ trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, góp phần tăng thêm tình hình lạm phát nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế, chưa có biện pháp điều chỉnh hợp lý. + Quản lý thị trường, giá cả, việc dự báo, điều hòa cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống trên thị trường chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu quả, dẫn tới tình trạng đầu cơ tăng giá. + Những hạn chế, yếu kém trong cơ cấu, chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam (chủ yếu xuất nguyên liệu, nông sản chưa qua chế biến sâu; sản phẩm công nghiệp phần lớn là gia công, lắp ráp trên cơ sở nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp) chậm được khắc phục, bộc lộ sự yếu kém rõ hơn khi nền kinh tế thế giới có biến động, đồng USD mất giá, lãi suất cho vay trong nước cao... + Trong điều kiện phải thực hiện giảm thuế, mở cửa thị trường theo cam kết với WTO, nhưng cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu chậm được thay đổi, chưa có chính sách hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, chưa tận dụng đầy đủ các hàng rào kỹ thuật và các công cụ thị trường cần thiết để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần phải hạn chế, đã làm tăng thêm nhập siêu. Hoạt động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản còn nhiều hạn chế, vướng mắc. + Thị trường chứng khoán phát triển thiếu bền vững; số lượng doanh nghiệp niêm yết chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ, nhưng mức vốn hóa quá lớn, không phản ánh đúng giá trị thật của doanh nghiệp, đem lại những khoản lợi rất lớn cho công ty phát hành và nhà đầu tư chứng khoán lớn, đồng thời gây thiệt hại cho nhà đầu tư chứng khoán nhỏ, không chuyên nghiệp (chiếm số đông). Các biện pháp can thiệp để khắc phục đà tụt điểm sau thời kỳ tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán chậm phát huy tác dụng và chưa đem lại kết quả vững chắc. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII) đổ vào rất lớn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ. + Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng và sự tham gia vào đầu tư bất động sản của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn khá lớn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự phát triển lành mạnh thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao, vượt xa hơn nhiều giá trị thực, gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần đẩy chỉ số giá tăng cao. 4. Tác động Lạm phát đang lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Từ những khu vực yếu kém phát triển nhất thế giới như Châu Phi, tới những nền kinh tế đầu tầu như Nhật Bản và Mỹ, “cơn lốc” lạm phát đang thỏa sức hoành hành. Cùng với bối cảnh nền kinh tế bất ổn như vậy, kết hợp những yếu kém của nền kinh tế nước ta, tình trạng lạm phát ngày càng trở nên trầm trọng và ảnh hưởng đến nhiều mặt của nền kinh tế nước ta. 4.1. Mục tiêu “dân giàu” có giữ vững được trong tình hình hiện nay không? Năm 2000 là thời điểm mà nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát. Trước tình hình đó, từ năm 2004, chính phủ đã liên tục gia tăng cung tiền bằng cách in tiền.. Một lượng tiền lớn nhất trong vòng 12 năm qua được chính phủ “bơm” vào nền kinh tế cuối năm 2007 có thể coi như là một cái “ngưỡng” để các loại giá cả thi nhau leo thang. Những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như vừa qua của kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước với mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và so với nhiều nước khác. Có nhiều người không nghĩ rằng lạm phát là một loại thuế. Thực tế, chẳng có ai nhận được chứng từ yêu cầu phải nộp loại thuế này từ chính phủ. Vậy ai là người nộp loại thuế lạm phát này? Chính người giữ tiền phải nộp thuế này. Việc in tiền để tạo nguồn thu cũng giống như việc áp dụng thuế lạm phát. Khi giá cả tăng, giá trị thực tế của số tiền trong túi bạn giảm xuống, sức mua của đồng tiền trong tay bạn bị giảm xuống. Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây được cải thiện đáng kể và được ngân hàng phát triển Châu Á đánh giá, tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực. Không chỉ riêng tăng trưởng kinh tế đạt mức kỷ lục trong nhiều năm qua mà chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng ở mức chưa từng có. Năm 2007, chỉ số tăng trưởng 8,48% so với chỉ số giá tiêu dùng 12,63% quả là có sự khập khiễng quá lớn. Điều này lý giải vì sao, mặc dù chính phủ đã không ngừng tăng lương trong thời gian trở lại đây, nhưng người làm công ăn lương vẫn cảm thấy chất lượng đời sống của mình ngày càng giảm sút ngay trong chi tiêu và sinh hoạt hàng ngày. Mấy tháng gần đây, hàng nghìn công nhâncác nhà máy dệt may ở ngoại vi thành phố HCM, nơi có vốn đầu tư của Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan, đã đình công đòi tăng lương cho kịp với tốc độ lạm phát. Với tỷ lệ 80% dân số làm nghề nông thì nông dân là lực lượng đông nhất, nghèo nhất, nên tác động của lạm phát lên lực lượng này là lớn nhất, đặc biệt là ở những vùng bị thiên tai, dịch bệnh. Có một câu hỏi đặt ra là: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt? Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn. Giá đầu ra tăng như thế, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán cho người tiêu dùng mà còn phải chia cho thương lái, người nông dân chỉ được một phần nhỏ trong số đó. Nếu vừa được mùa, vừa được giá thì mới có lợi, còn  nếu được giá nhưng mất mùa thì có khi nhiều nông dân còn khổ hơn. 4. 2. Những biến động trong hoạt động sản xuất, môi trường đầu tư, cán cân thương mại và ổn định kinh tế vĩ mô Đối với hoạt động sản xuất Giá cả của nguyên nhiên vật liệu, chi phí đầu vào như giá xăng dầu, giá phân bón, giá than, vật liệu xây dựng… tăng khá cao khiến các doanh nghiệp phải nâng giá sản phẩm đầu ra để đảm bảo lợi nhuận. Giá cả tăng cao có tác động tiêu cực đến sức tiêu dùng của người dân đối với các mặt hàng thiết yếu. Chẳng hạn người dân sẽ giảm bớt hoặc thay thế các sản phẩm thịt cá bằng các loại rau củ, việc xây tòa nhà 4 lầu sẽ thay thế cho kế hoạch 5 lầu để giảm bớt các chi phí vật liệu xây dựng. Khi nhu cầu giảm mạnh thì trong thời gian dài sẽ làm cho lượng cung trên thị trường giảm theo, tức là khối lượng sản phẩm đầu ra không thể tăng lên. Hơn nữa, khi có lạm phát, doanh nghiệp có thể tăng lương cho công nhân do giá sản phẩm đầu ra tăng lên nhưng thực tế đã cho thấy tốc độ tăng lượng không bao giờ đuổi kịp tốc độ lạm phát, người công nhân cảm thấy họ cần được hưởng mức lương cao hơn để đảm bảo đời sống. Đòi hỏi tăng lương không được đáp ứng tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng nghỉ việc, thất nghiệp. Như vậy, lạm phát không chỉ tác động đến hoạt động sản xuất mà về mặt lâu dài sẽ kéo theo tỷ lệ thất nghiệp, đe dọa sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Hơn thế nữa, chính sách cắt giảm chi tiêu của chính phủ sẽ phần nào đó làm giảm các hoạt động đầu tư công. Nếu không có những điều chỉnh kịp thời thì về trong tương lai nền kinh tế dễ bị đẩy vào tình trạng suy thoái. Đối với môi trường đầu tư: Về bản chất, lãi suất chính là chi phí của việc vay tiền. Nhà kinh tế Fisher cho rằng: tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ tiếp tục làm lãi suất danh nghĩa tăng 1%. Tuy nhiên, ông Fisher mới chỉ xét quan hệ này về mặt lý thuyết còn trên thực tế thì sự gia tăng lãi suất danh nghĩa vẫn chưa “đuổi kịp” được tốc độ lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng của năm 2007 là 12.6% thế nhưng đến tháng 1/2008 lãi suất danh nghĩa của các ngân hàng mới tăng lên 12%/năm và hiện tại giới hạn ở lãi suất trần 11%/năm. Vì vậy khi mức lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm thì tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế phải chạy đi tìm những cơ hội đầu tư có suất sinh lời cao như địa ốc, bất động sản, hậu quả tất yếu là tình trạng đầu cơ trong những ngành siêu lợi nhuận. Như trên đã trình bày, giá cả tăng cao dẫn đến cả mức tiêu dùng của người dân lẫn khối lượng sản xuất sẽ giảm. Sự mất cân bằng giữa giá trị thực tế của đồng tiền với khối lượng hàng hóa được sản xuất có nguy cơ gây ra một nền kinh tế bong bóng. Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng cùng với những yếu kém trong việc bảo đảm tính thanh khoản, huy động và cho vay nên vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại thiếu, đặc biệt ở một số thời điểm đã để xảy ra tình trạng chạy đua lãi suất trên thị trường. Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đã sử dụng vốn vay ngắn hạn để cho vay dài hạn quá lớn. Điều này gây ra những rủi ro rất lớn trong việc đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cũng như tính thanh khoản của ngân hàng. Các khoản cho vay của ngân hàng sẽ trở thành những khoản nợ khó đòi và kéo theo đó là sự phá sản của các doanh nghiệp, sự sụp đổ của các tổ chức tài chính. Đối với cán cân thương mại: Ở Việt Nam, xuất khẩu chiếm 60% GDP của cả nước. Trong tình hình lạm phát bùng nổ như thế này thì hoạt động xuất khẩu bị ảnh hưởng như thế nào. Thông thường, để đối phó với lạm phát, ngân hàng thường áp dụng những biện pháp thắt chặt tiền tệ, cụ thể là thông qua việc tăng lãi suất, hạn chế các hoạt động cho vay. Tuy nhiên ảnh hưởng của các chính sách này có thể dẫn dến “ách tắc” các khoản tín dụng cho các nhà xuất khẩu, hoạt động sản xuất các ngành hàng xuất khẩu bị ứ đọng. Khi hoạt động xuất khẩu giảm, kết hợp với việc neo giữ quá lâu giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ trên thị trường ngoại tệ. thì tình trạng nhập siêu, mất cân bằng trong cán cân thương mại là tất yếu. Chính vì tác động tiêu cực của lạm phát như vậy mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng “Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi.” CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT HIỆN NAY 1. Dự báo xu hướng lạm phát trong thời gian tới Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008 tăng 9,19% là quý có mức tăng cao nhất tính từ năm 1995 trở lại đây, và đã vượt xa chỉ tiêu của cả năm. Theo kế hoạch tăng trưởng xã hội năm 2008, Việt Nam đạt mục tiêu tăng GDP 8,5-9% và giữ CPI thấp hơn mức này. Với tình hình này, CPI cả năm có thể chạm mức 15%; độ trễ của các chính sách tiền tệ nhắm kiểm soát lạm phát quá dài. Hiện Việt Nam cùng lúc đối mặt với 4 dạng lạm phát, gồm lạm phát tiền tệ do cung tiền trong lưu thông lớn; lạm phát cầu kéo do cung hàng hóa giảm sút; lạm phát chi phí đẩy do các sản phẩm đầu vào như giá xăng dầu, sắt thép, thiết bị tăng giá; và lạm phát ngoại nhập do giá các sản phẩm trên thị trường thế giới tăng. Ngoài ra còn yếu tố tâm lý “té nước theo mưa” nâng giá trong bối cảnh lạm phát. Các biện pháp chống lạm phát đã có kết quả rõ rệt nên bắt đầu có đề xuất nới lỏng chính sách tiền tệ, trong đó đáng lưu ý có đề xuất hạ trần lãi suất huy động xuống còn 11%; nếu tính theo năm còn có thể cao hơn. Theo dự báo trên, tốc độ tăng giá cả năm thấp cũng ở mức 11,8%, mức cao hơn là 14%, nhưng có khả năng cao hơn nếu nới lỏng chính sách tiền tệ. Điều đó có nghĩa là lãi suất huy động vẫn thấp hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng, hay lãi suất tiết kiệm thực vẫn mang dấu âm, trái với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Một số đơn vị kinh doanh mặt hàng thuộc độc quyền nhà nước hoặc chiếm trên 30% thị phần vẫn đang đòi tăng giá, đòi được quyền định giá, trong đó có một số mặt hàng Thủ tướng đã chỉ đạo chưa tăng giá, nhưng cũng có một số mặt hàng vẫn đòi tăng giá như nước chẳng hạn. Chưa thể chủ quan thỏa mãn với kết quả bước đầu của công cuộc chống lạm phát; khả năng tăng 2 chữ số, thậm chí còn cao hơn năm 2007. Năm 2008, lạm phát vẫn sẽ là vấn đề đáng lo ngại, vì chúng ta có quá trình lạm phát ngày càng tăng trong những năm qua. Cộng với giảm thuế, nông dân không có chuẩn bị sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong năm 2008. Năm 2007, khu vực nông nghiệp, nông thôn bị tụt lại đằng sau. Người nông dân hiện phải đối mặt với nhiều rủi ro như thị trường, thời tiết, dịch bệnh nhưng không có sự bảo vệ, hỗ trợ nào tương xứng. Đất nước gia nhập WTO, người nông dân đã nhập cuộc với hành trang quá đơn sơ trong khi nông dân các nước được chuẩn bị tốt về kết cấu hạ tầng, thông tin thị trường và những hỗ trợ để đẩy mạnh sản xuất. Trong điều kiện giá dầu thế giới đã tới mức 119 USD/thùng, giá gạo xuất khẩu đạt mức 1.000 USD/tấn; cộng với độ trễ của chính sách. Chúng tôi dự báo chỉ số giá tiêu dùng bình quân của năm 2008 so năm 2007 là 16,8%; chỉ sồ giá tiêu dùng tháng 12/2008 so với tháng 12/2007 là 13.2%. Một số giải pháp: Chính sách tài khóa: Cùng với các biện pháp để tăng thu cho ngân sách nhà nước, cần thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phầnkinh tế, đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay tiềm năng phát triển của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa không gây phản ứng phụ. Kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu: đây là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến họat động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta, để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Về lâu dài phải nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước, làm thế nào để người dân sử dụng sản phẩm nội nhiều hơn; cần có một hệ thống rào cản kỹ thuật nhằm quản lý các sản phẩm nhập khẩu; nâng cao năng lực của khu vực phân phối trong nước, làm sao để chiến lược quảng bá sản phẩm đến được với người tiêu dùng, giúp họ nhận thức được chất lượng của hàng hóa nội. Hướng tới thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu: không thể dựa mãi vào xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô, một trong những yếu tố quan trọng nhất là thay đổi cơ cấu sản xuất của Việt Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô chiếm tỷ trọng lớn, tức là phần giá trị gia tăng thấp. Muốn tăng phần này lên thì phần nguyên liệu phải ít đi để tăng phần giá trị gia tăng do con người Việt Nam tạo ra thì mới thay đổi được tương quan giữa xuất và nhập khẩu. Điều này đòi hỏi phải có một chiến lược rất căn bản, tức chuyển dịch cơ cấu đầu tư sang phía những ngành dựa trên lợi thế của Việt Nam cộng với giá trị gia tăng cao. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng: hiện nay tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiềm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Cần rà soát các khoản chi nhằm hạ giá thành và chi phí lưu thông, tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội. Tăng thuế xuất khẩu ở mức phù hợp đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản, thuế nhập khẩu và thuế nội địa một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu, xa xỉ; chống thất thu thuế. Chính sách tiền tệ: Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngân hàng nhà nước thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được các yêu cầu: chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Bên cạnh đó, cần đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa và xuất khẩu phát triển. Về tốc độ cung tiền: dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam tăng đột biến buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngọai tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông làm cho mức cung tiền vượt nhiều lần GDP dẫn đến lạm phát cao. Giải pháp: mở tài khoản cho ký gửi ngoại tệ, mở một tài khoản tiền Việt cho họ sử dụng khi cần, đây là biện pháp khuyến khích giảm lưu thông tiền mặt. Tăng tỷ lệ dự trữ tiền đồng và ngoại tệ, khống chế tỷ lệ dự trữ cho vay chứng khoán. Ngân hàng nhà nước cần nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ khác. Ðiều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng hợp lý dư nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác giám sát các tổ chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát theo cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn những biến động trên thị trường tín dụng, tiền tệ. Quản lý chặt chẽ việc thành lập mới, việc phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bất động sản, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước, các ngân hàng thương mại theo hướng đề ra những yêu cầu, tiêu chí theo thông lệ của nền kinh tế thị trường để các chủ thể kinh doanh tiền tệ phải thật sự lành mạnh, bảo đảm lợi ích của mình và của cả nền kinh tế. Nâng cao lãi suất tiết kiệm lên, lãi cao người dân sẽ gửi tiền nhiều, ngân hàng khi đó sẽ tìm cách cho vay lượng tiền huy động được, tiền sẽ được sử dụng hợp lý và được điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý. Kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài và tỷ giá. Ðiều hành tỷ giá giữa VND với USD và các loại ngoại tệ nói chung với biên độ hợp lý. Sớm áp dụng các biện pháp quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) như nhiều nước đã áp dụng thành công. Tiếp tục có giải pháp tích cực, có hiệu quả, chống đô-la hóa nền kinh tế. Điều chỉnh về chính sách cho phép tiền đồng lên giá một chút so với USD: điều này có thể giúp kiềm chế lạm phát, bởi các chuyên gia cho rằng “cứ 1% lên giá của tiền đồng so với đôla Mỹ thì sẽ giảm được 1 – 1,5 điểm phần trăm lạm phát trong thời gian 12 tháng”. Chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh mối quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, đảm bảo việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Ngân hàng nhà nước phải đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể. Về công tác quản lý: Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm sóat việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá: Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng như: xăng dầu, sắt thép, ximăng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là xăng dầu, khoáng sản. Đối với công tác quản lý giá cả và điều tiết thị trường cần phải mạnh tay và thống nhất, cần sự nhất quán từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý vĩ mô cho đến các trung tâm, xí nghiệp nhỏ trong cả nước. Về cơ chế điều chỉnh giá cả, khuyến khích cạnh tranh về giá theo pháp luật để tăng hiệu quả, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế về giá, tiến tới hệ thống giá cả phản ánh giá cả thị trường (cả trong nước và quốc tế), phấn đấu kiểm soát chỉ số tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ đó, các cơ chế điều hành cần tập trung vào việc tiếp tục áp dụng hoàn thiện môi trường pháp lý, kiên trì cơ chế giá thị trường, khuyến khích cạnh tranh theo pháp luật đối với đại bộ phận hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế như: xăng, xi măng, sắt thép, phân bón, giấy, hàng điện tử, điện lạnh, hàng may mặc, hàng nông sản thực phẩm, các dịch vụ phục vụ du lịch, văn hóa, vui chơi, giải trí, giá đất... Tiếp tục thực hiện, tiến tới lộ trình giá thị trường vào thời điểm thích hợp đối với các loại dầu, than bán cho các hộ tiêu dùng lớn (xi măng, phân bón, giấy, nước sạch). Có kế hoạch chủ động nhập khẩu bù đắp thiếu hụt. Có cơ chế, chính sách để các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn kinh doanh các mặt hàng chủ lực của nền kinh tế được hình thành quỹ bảo hiểm rủi ro theo nguyên tắc thị trường, lấy lãi bù lỗ. Có biện pháp ngăn ngừa việc kinh doanh chồng chéo của những đơn vị này để tránh dẫn đến tăng cung, cầu giả tạo, cạnh tranh không lành mạnh, đẩy giá thị trường lên cao, sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả. cần có chính sách và tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, duy trì và thúc đẩy được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: nghiên cứu việc giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp xuất khẩu; điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chủ động, linh hoạt, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có hợp đồng sản xuất, xuất khẩu có hiệu quả, đa dạng các hình thức thanh toán... Về lâu dài, cần có chiến lược, kế hoạch, cơ chế, chính sách để cơ cấu lại việc sản xuất hàng xuất khẩu, giảm nhanh xuất khẩu khoáng sản và giảm dần xuất khẩu sản phẩm nguyên liệu thô, hàng gia công lắp ráp, tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao; mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác mới, các thị trường mới... Quản lý chặt chẽ, có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Sử dụng các biện pháp không trái với các quy định của WTO để hạn chế nhập khẩu các sản phẩm không nhất thiết phải nhập khẩu, nhất là việc nhập các mặt hàng xa xỉ (ô-tô, rượu ngoại đắt tiền...), giảm tối đa việc nhập siêu. Thực hiện các biện pháp tổng hợp, nghiêm ngặt, đủ mạnh để chống nhập lậu, gian lận thương mại. Quản lý thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản: Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn vay ngân hàng của các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; từng bước lành mạnh hóa hai loại thị trường này, khắc phục tình trạng đầu cơ, đẩy giá lên cao như thời gian qua. Chỉ đạo, rà soát để những đơn vị có đủ điều kiện và năng lực kinh doanh chứng khoán hoạt động lành mạnh; kiên quyết không cho thành lập, hoạt động đối với những đơn vị không đủ điều kiện kinh doanh. Tiếp tục thực hiện tốt chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cung cấp hàng hóa có chất lượng cho thị trường. Sớm ban hành chính sách thuế chống đầu cơ bất động sản; các chính sách và thủ tục hành chính thông thoáng để thị trường chứng khoán và bất động sản phát triển một cách lành mạnh. Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội: Điều chỉnh mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc khối cơ quan, nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động. Điều chỉnh mức lương, trợ cấp cho những người về hưu, người có công và những người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Ban hànhc ác chính sách hỗ trợ đồng bào dan tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Giữ ổn định mức thu học phí, viện phí; tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Cần phải chú ý xây dựng cơ chế kiểm tra việc thực thi, đảm bảo nguồn hỗ trợ của nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng… 3. Kiến nghị - Tăng cường năng lực thông tin kinh tế - xã hội: Hiện nay thông tin về chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu, chỉ số giá người sản xuất (PPI)do Tổng cục Thống kê thu thập, tính toán. Nhưng việc công bố rộng rải chỉ có chỉ số giá tiêu dùng (CPI), còn các chỉ số còn lại chỉ công bố trong Niên giám Thống kê vào tháng 9 năm sau. Để có đủ thông tin nhằm phục vụ việc chống lạm phát cũng như thiểu phát cần phải có đủ các thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chánh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,... Vì vậy cần phải đầu tư hơn nữa về kinh phí và con người trong công việc thu thập và xử lý, công bố thông tin kinh tế xã hội. - Nâng cao sức sản xuất các sản phẩm mang tính chiến lược liên quan đến an ninh lương thực, an ninh năng lượng, sản xuất công nghiệp,.. Cần hổ trợ nông thôn, nông nghiệp và nông dân thông qua đầu tư cho nghiên cứu giống cây trồng, thủy lợi, điện, đường, trường , trạm, thú y, khuyến nông và cho vay tín dụng ưu đãi,.. đặc biệt cho chăn nuôi. Không nên phát triển tràn lan các khu công nghiệp mà thu hẹp diện tích đất nông nghiệp nhằm đảm bảo lượng lương thực, thực phẩm cho dân số hiện tại và đang tăng thêm hàng năm; nhằm giữ nguyên là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới với khoảng 4 triệu tấn hàng năm. Để đảm bảo an ninh năng lượng, góp phần chống lạm phát cao có thể gây bất ổn xã hội; cần đẩy mạnh việc xây dựng các nhà máy lọc dầu và hóa dầu nhằm sử dụng nguồn dầu thô do ta khai thác được bảo đảm nguồn cung cho sản xuất và tiêu dùng trong nước ( năm 2007 nước ta xuất khẩu dầu thô đạt hơn 8 tỷ USD, nhưng nhập khẩu sản phẩm từ dầu mỏ 7,7 tỷ USD). - Cần hạ thấp thuế nhập khẩu các sản phẩm nhập khẩu mà cung trong nước không đủ, nhằm giảm bớt một lượng tiền, lại thêm nguồn cung góp phần chống lạm phát. - Nâng cao năng lực của khu vực phân phối trong nước, giảm các tầng nấp trung gian. Cần tập trung xây dựng các trung tâm bán lẻ lớn. - Luôn duy trì lãi suất thực dương, nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. - Tiết kiệm: cần có chiến dịch kêu gọi mọi người hạn chế sử dụng hàng xa xỉ phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, như: xe hơi đắt tiền, điện thoại di động loại đắt tiền, trong xây dựng chỉ nên xây dựng đủ ở không nên phô trương; sử dụng xe phân khối nhỏ trong nội thành nhằm tiết kiệm nhiên liệu, giảm ô nhiễm môi trường. - Giảm đầu tư công đối với công trình chưa thật sự cần thiết như trụ sở, hợi trường,...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn liên quan