MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1: Khái quát về tín dụng và tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
4
1. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng 4
1.1 Khái niệm tín dụng 4
1.2 Chức năng và vai trò của tín dụng 5
1.3 Sự ra đời và phát triển của tín dụng 9
1.4 Các hình thức của tín dụng 11
2. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 14
2.1 Khái quát về tín dụng ngân hàng 14
2.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng 14
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
15
2.1.3 Quy trình tín dụng ngân hàng 17
2.2 Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
18
2.2.1 Khái quát về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam 18
a. Sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
ở Việt Nam
18
b. Các thành phần chủ yếu của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam hiện nay
20
c. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam
22
d. Một số khó khăn, thách thức đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam
26
d.1 Về mặt khách quan
26
d.2 Về mặt chủ quan 28
e. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam
30
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong những năm gần đây
33
1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam 33
2. Khái quát về thể chế tín dụng ngân hàng ở Việt Nam 36
2.1 Những thay đổi về thể chế tín dụng ngân hàng trong thời gian qua 36
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1994 36
2.1.2 Giai đoạn 1994-1997 37
2.1.3 Giai đoạn 1998 đến nay 39
2.2 Những quy định chung về cấp tín dụng ngân hàng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
40
2.2.1 Đối tượng áp dụng 40
2.2.2 Nguyên tắc vay vốn 41
2.2.3 Điều kiện vay vốn 41
2.2.4 Lãi suất cho vay 42
2.2.5 Phương thức cho vay 42
2.2.6 Biện pháp bảo đảm tiền vay 43
3. Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong những năm gần đây
44
3.1 Những kết quả đạt được trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng
và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
3.2 Những hạn chế trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
45
54
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
67
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm tới
67
2. Hướng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
68
2.1 Mở rộng đối tượng cho vay 68
2.2 Mở rộng quy mô khoản vay 69
2.3 Mở rộng phương thức cho vay 70
2.4 Mở rộng hình thức cho vay 71
3. Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam
72
3.1 Quan điểm mở rộng tín dụng ngân hàng 72
3.2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
73
3.2.1 Nâng cao hiệu quả huy động vốn, tạo cơ sở vững chắc cho
công tác cho vay của các ngân hàng
73
3.2.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh
75
4. Một số kiến nghị cá nhân 82
4.1 Kiến nghị đối với Nhà nước 82
4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 83
4.3 Kiến nghị đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 84
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CIEM Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HĐBT Hội đồng Bộ trưởng
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KVNQD Khu vực ngoài quốc doanh
KVQD Khu vực quốc doanh
MPDF Chương trình phát triển dự án Mekông
NHCT Ngân hàng Công thương
NHĐT&PT Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHNN&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NHNT Ngân hàng Ngoại thương
NHTM Ngân hàng thương mại
NSNN Ngân sách Nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
TPKT Thành phần kinh tế
WB Ngân hàng Thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, KHUNG
SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN
Các bảng sử dụng trong khóa luận Trang
Bảng 1: Quy trình tín dụng tổng quát 17
Bảng 2: Tổng lao động phân theo thành phần kinh tế 23
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước phân theo thành phần kinh tế 24
Bảng 4: Tín dụng của hệ thống ngân hàng giai đoạn 1997-2002 45
Bảng 5: Nguồn vốn huy động của một số ngân hàng năm 2000-2001 50
Bảng 6: Cơ cấu tín dụng phân theo kỳ hạn 52
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng phân theo thời hạn tín dụng 52
Bảng 8: Cơ cấu tín dụng cấp cho KVNQD phân theo thời hạn tại Sở giao
dịch I - NHĐT&PT Việt Nam
53
Bảng 9: Tình hình vốn vay của doanh nghiệp năm 2000 55
Bảng 10: Cơ cấu nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng phân theo thành phần
kinh tế 57
Bảng 11: Tỷ trọng nợ quá hạn trong dư nợ vay ngân hàng phân theo thành
phần kinh tế 58
Các biểu đồ sử dụng trong khóa luận
Biểu đồ 1: Thị phần cho vay phân theo loại hình tổ chức tín dụng 35
Biểu đồ 2: Vay vốn và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 62
Biểu đồ 3: Vay vốn và mức lãi 62
Các khung sử dụng trong khóa luận
Khung 1: Cỗ xe một ngựa 55
Khung 2: Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh 60
99 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2405 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng ưu đãi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh giải ngân qua hệ thống NHTM do vậy lại thường đổ vào các DNNN kém hiệu quả hơn nhưng có quan hệ tốt với nhân viên ngân hàng và cơ quan quản lý.
b. Về tín dụng ưu đãi của Nhà nước:
Hiện nay, thủ tục cấp tín dụng theo chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi của Nhà nước còn phức tạp vì vậy vẫn chưa thực sự tạo động lực để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn, cụ thể:
Đối với chính sách cho vay ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển, theo đánh giá ban đầu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, sau 2 năm thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi, phần lớn các doanh nghiệp thuộc diện được ưu đãi đầu tư chưa được tiếp cận với nguồn hỗ trợ ưu đãi đầu tư này của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là: các thủ tục về thế chấp tài sản còn khó khăn (do thiếu giấy tờ pháp lý); các DNNQD không có nhiều đất để thế chấp tài sản khi vay vốn; hình thức hỗ trợ của Nhà nước thông qua bảo lãnh tín dụng còn mới, chưa thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư... Bên cạnh đó, những quy định hiện hành của Quỹ hỗ trợ phát triển hiện đang hạn chế khả năng tiếp cận của các DNNQD, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chẳng hạn, theo Nghị định 43 của Chính phủ31 Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về quy chế hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển.
thì nếu chủ đầu tư không phải là DNNN thì khi vay vốn tín dụng của Nhà nước, ngoài việc phải dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo số tiền vay cần phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay. Điều này rõ ràng gây khó khăn cho doanh nghiệp cỡ nhỏ và vừa trong việc vay vốn do không có dủ tài sản thế chấp. Mặt khác, lãi suất ưu đãi đầu tư do Nhà nước quy định chứ không theo biến động của lãi suất trên thị trường. Chính những hạn chế này đã làm cho tính ưu đãi của Quỹ không còn hấp dẫn đối với doanh nghiệp.
Trong khi đó, theo số liệu thống kê, vốn vay ngân hàng hiện nay của hầu hết các DNNN chiếm tới 70-85% tổng nguồn vốn hoạt động trong khi con số này ở các DNNQD chỉ vào khoảng 20-30%32 CIEM, Phân tích những thay đổi về thể chế tài chính đối với doanh nghiệp Việt Nam kể từ năm 1991 trở lại đây-Một số vấn đề thực tiễn và kiến nghị chính sách, Đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2002, trang 55.
. Đáng chú ý là phần lớn vốn vay nói trên của các DNNN là từ nguồn vay tín dụng ưu đãi. Sở dĩ có tình hình này là do các DNNN được vay ưu đãi của Nhà nước mà không cần thế chấp. Tuy chính sách này có tác động đáp ứng nhu cầu về vốn của DNNN trong bối cảnh tình hình tài chính của họ gặp nhiều khó khăn, nhưng lại tạo ra tâm lý ỷ lại, chỉ dựa vào nguồn vay ưu đãi cũng như rủi ro cao đối với những khoản vay được đầu tư vào lĩnh vực kém hiệu quả, dẫn đến mất khả năng hoàn trả vốn cho Quỹ.
Như vậy, những hạn chế trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan. Vì vậy, muốn mở rộng tín dụng đối với khu vực này, trước hết cần tìm ra những giải pháp đúng đắn, hữu hiệu loại bỏ những nguyên nhân đó nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và KVNQD để vốn tín dụng gần gũi hơn, hiệu quả hơn đối với quá trình sản xuất kinh doanh của KVNQD.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm tới:
Nhận thức được vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển bình đẳng với kinh tế quốc doanh. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh...”33 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 95.
.
Bên cạnh chủ trương trên, Nghị quyết cũng vạch ra kế hoạch phát triển KVNQD, cụ thể trong giai đoạn 2001-2005, “ kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển mạnh; thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất; sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế; xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm cơ hội và khả năng lựa chọn bình đẳng của các thành phần kinh tế trong tiếp cận về vốn, đất đai, lao động, công nghệ; tiếp tục phát huy những tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một luật áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc các thành phần kinh tế; hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại”34 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 320.
.
Khác với kinh tế tập thể, thành phần kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước nhìn nhận là “cùng với kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”35 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 96.
, kinh tế tư nhân trên thực tế đến gần đây mới được chính thức thừa nhận. Lần đầu tiên Đảng dành một Nghị quyết (Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX) về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định “phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa...”
Như vậy, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã cởi trói cho KVNQD. Khu vực kinh tế này giờ đây đang đứng nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết để phát huy những thế mạnh của bản thân, từ đó đóng góp tích cực hơn nữa vào quá trình phát triển của đất nước.
2. Hướng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam:
Nhìn chung, mở rộng tín dụng ngân hàng có thể được thực hiện theo nhiều hướng khác nhau và căn cứ vào nhiều yếu tố. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các ngân hàng có thể mở rộng tín dụng theo những hướng sau:
2.1 Mở rộng đối tượng cho vay:
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm nhiều TPKT khác nhau: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân và các hình thức liên kết khác. Căn cứ vào từng loại hình mà ngân hàng sẽ có chính sách phù hợp.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ: nhu cầu vốn vay của loại hình này thường không nhiều, chủ yếu vay ngắn hạn để bổ sung lượng tiền mặt thiếu hụt tạm thời. Đứng trên giác độ quản lý ngân hàng, khoản chi phí tính trên mỗi món vay mà ngân hàng bỏ ra thực hiện cho vay những đối tượng này thường lớn hơn so với việc cho các doanh nghiệp vay, do đó bên cạnh việc trực tiếp cho từng cá nhân vay vốn, đối với những khách hàng có cùng hoạt động sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể hướng dẫn họ tập hợp lại thành nhóm khoảng từ 5 đến 6 người để thực hiện việc cho vay. Cán bộ tín dụng chỉ cần làm việc với 1 hoặc 2 người đại diện cả nhóm. Người này sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm trước ngân hàng về việc sử dụng vốn vay của tất cả các thành viên trong nhóm cũng như chuyển khoản vay từ ngân hàng tới các thành viên khác. Bằng cách này, ngân hàng giảm được chi phí cho vay, khách hàng bớt được các thủ tục rườm rà.
Đối với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân: đây là những đơn vị kinh tế được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp, ngân hàng nên căn cứ vào đặc trưng của từng loại hình mà áp dụng các chính sách tín dụng cho phù hợp. Ví dụ, bên cạnh việc cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động, ngân hàng có thể cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện dự án trung và dài hạn. Dựa trên đơn yêu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng có thể cho vay để mua vật tư, hàng hoá... và các nhu cầu tài chính khác theo quy định của NHNN. Việc cho vay có bảo đảm hay không bảo đảm phải căn cứ vào tính pháp lý của từng loại hình doanh nghiệp.
Tóm lại, việc mở rộng đối tượng cho vay không những giúp ngân hàng có thể thiết lập quan hệ với nhiều khách hàng mà còn giúp đa dạng hoá được các khoản đầu tư của mình. Nhờ vậy, ngân hàng hạn chế được rủi ro thông qua việc phân tán chúng đồng thời vẫn thực hiện được nhiệm vụ cung ứng vốn cho nền kinh tế.
2.2 Mở rộng quy mô khoản vay:
Các đơn vị kinh tế thường có nhu cầu vốn không giống nhau do đặc điểm sản xuất kinh doanh khác nhau. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu khách hàng, ngân hàng có thể mở rộng việc cho vay theo số lượng và kỳ hạn khác nhau.
Để có thể thực hiện việc mở rộng theo hướng này, trước hết, ngân hàng phải căn cứ vào tiềm lực vốn của mình. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động được có thể từ nhiều nguồn khác nhau: từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân..., gắn liền với kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng... và quy mô không giống nhau (có người chỉ gửi vài ba trăm nghìn, có người lại gửi đến hàng trăm triệu). Trong khi đó, khách hàng vay vốn cũng có yêu cầu khác nhau về số lượng, thời hạn cũng như phương thức vay, tuỳ theo mục đích sử dụng vốn, có người vay vài triệu trong 3 tháng hoặc 6 tháng nhưng cũng có người vay đến hàng tỷ đồng để đầu tư những dự án lớn. Như vậy, kỳ hạn cũng như quy mô của các khoản cho vay và huy động không phải lúc nào cũng khớp với nhau, vì thế các ngân hàng phải kế hoạch hoá được nguồn vốn của mình để có sự chủ động, linh hoạt khi cho vay.
2.3 Mở rộng phương thức cho vay:
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn của khách hàng, mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận để lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Xuất phát từ điều này, Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo các phương thức như:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiêp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
Việc mở rộng, cung ứng các phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm, tính chất kinh doanh của khách hàng sẽ giúp ngân hàng dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc kiểm tra, giám sát và thu hồi vốn vay. Qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của khách hàng cũng như ngân hàng, kéo theo mối quan hệ hai bên được tăng cường, từ đó tạo điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động của ngân hàng.
2.4 Mở rộng hình thức cho vay:
Theo hướng này, các ngân hàng có thể cho khách hàng vay có bảo đảm hoặc không bảo đảm.
Thông thường khi vay vốn ngân hàng, khách hàng thuộc KVNQD phải có tài sản thế chấp. Mặc dù vậy, các ngân hàng có thể căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng để quyết định hình thức cho vay phù hợp: cho vay đảm bảo bằng tài sản của người vay, bằng bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bằng tài sản hình thành từ chính vốn vay. Đối với những khách hàng mới hoặc có độ tin cậy không cao, việc bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm là cần thiết để nguồn vốn cho vay được an toàn.
Tuy nhiên, ngân hàng có thể cho vay không cần các biện pháp đảm bảo. Hình thức cho vay này nên được áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có hoạt động kinh doanh tốt, có uy tín với ngân hàng. Cụ thể, các ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mở L/C trả chậm cho hoạt động xuất nhập khẩu hoặc cho khách hàng vay thông qua việc mua lại các chứng từ có giá trong thời hạn thanh toán, bao gồm việc chiết khấu các loại thương phiếu và mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp.
Như vậy, ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay của mình theo nhiều hướng khác nhau. Các dịch vụ, phương thức cho vay của ngân hàng càng nhiều, càng đa dạng thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Nhờ đó, doanh nghiệp có thêm vốn để phát triển hoạt động kinh doanh còn ngân hàng cũng mở rộng hoạt động của mình.
3. Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam:
3.1 Quan điểm mở rộng tín dụng ngân hàng:
Trong cơ chế thị trường, đối với các NHTM, mở rộng tín dụng là một vấn đề cấp bách bởi hoạt động này không chỉ giúp các ngân hàng tăng cường cung ứng vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế mà còn quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng. Do vậy, bất cứ một ngân hàng nào cũng đều cố gắng tìm ra những giải pháp nhằm mở rộng quy mô tín dụng. Tuỳ theo đặc điểm riêng của từng ngân hàng, mục tiêu theo đuổi riêng và tình hình phát triển của nền kinh tế ở từng thời kỳ mà mỗi ngân hàng có quan điểm về mở rộng tín dụng riêng và cố gắng tìm ra giải pháp thích hợp cho mình. Tuy nhiên tựu chung lại, mở rộng tín dụng ngân hàng nên theo những quan điểm sau:
- Mở rộng tín dụng luôn đi đôi với việc bảo đảm chất lượng tín dụng, bởi vì chỉ có như vậy hoạt động tín dụng mới thực sự hiệu quả và hoạt động tín dụng có hiệu quả mới tạo điều kiện để các ngân hàng tiến hành mở rộng tín dụng ở quy mô lớn hơn.
- Mở rộng tín dụng nhưng phải đúng pháp luật, bởi vì chỉ khi nào thực hiện theo đúng những quy định của luật pháp, hoạt động kinh tế mới được Nhà nước thừa nhận.
- Mở rộng tín dụng phải luôn đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng, bởi ngày nay họ mới chính là “thượng đế” của các ngân hàng.
- Mở rộng tín dụng phải luôn đảm bảo lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng, bởi đây luôn là mục tiêu cuối cùng của mọi ngân hàng.
3.2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam:
Sau khi nghiên cứu thực trạng quan hệ tín dụng giữa các NHTM và KVNQD, nhất là sau khi tìm hiểu những hạn chế trong quan hệ tín dụng trên và những nguyên nhân làm phát sinh những hạn chế đó, người viết mạnh dạn đưa ra những giải pháp củng cố, tăng cường, mở rộng tín dụng đối với KVNQD của các NHTM ở nước ta hiện nay như sau:
3.2.1 Nâng cao hiệu quả huy động vốn, tạo cơ sở vững chắc cho công tác cho vay của các ngân hàng:
a. Hoàn thiện dịch vụ tiền gửi:
Có thể khẳng định, tiền gửi chính là nền tảng cho sự thịnh vượng của ngân hàng, đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Đối với tất cả các ngân hàng, tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó chính là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Trong hoạt động ngân hàng tiền gửi được phân ra làm hai loại, đó là tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao dịch. Ở nước ta, dịch vụ tiền gửi phi giao dịch dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm đã khá quen thuộc với mọi người. Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho mục tiêu hay một nhu cầu về tài chính dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch, trong khi đó chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm nói chung lại thấp, đó là lý do vì sao tiền gửi tiết kiệm thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng. Chẳng hạn, trong năm 2002 vừa qua, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm bằng cả nội tệ và ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương chiếm 46,74% tổng tiền gửi của khách hàng, tăng 9,95% về tỷ trọng so với năm 200136 Ngân hàng Ngoại thương, Báo cáo thường niên năm 2002.
.
Trong khi đó, dịch vụ tiền gửi giao dịch ở nước ta lại chưa mấy phát triển. Dịch vụ này thực chất là việc ngân hàng nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Sở dĩ dịch vụ này ở nước ta chưa mấy phát triển là do nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế “tiền mặt”, người dân Việt Nam, thậm chí cả một số doanh nghiệp vẫn chưa có thói quen thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Theo IMF 2002a, ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền được lưu hành bên ngoài hệ thống ngân hàng, khá cao so với tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ ở Trung Quốc, tỷ lệ này vào khoảng 13% trong năm 2001 - IMF 2002b). Mặc dù trong thời gian qua các NHTM đã có nhiều cố gắng giảm sự phụ thuộc vào tiền mặt của người dân cũng như của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng kết quả đạt được còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, đây lại là khoảng trống để các NHTM hướng tới bởi vì thông qua chiến lược này, các NHTM có thể huy động được một lượng vốn huy động tương đối lớn.
Để đi theo hướng này, các NHTM trước hết phải hoàn thiện hệ thống rút tiền tự động của mình theo hướng hợp tác hơn bởi vì, các NHTM trong nước đang thực hiện chiến lược này theo kiểu “ mạnh ai người đó làm”, vừa tốn kém, vừa không tiện ích đối với khách hàng. Hiện nay, mỗi NHTM có một hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) của riêng mình, khách hàng tham gia dịch vụ của ngân hàng nào chỉ có thể rút tiền của ngân hàng ấy, vấn đề là ở chỗ không phải ngân hàng cũng trang bị nhiều máy, bố trí ở nhiều nơi bởi vì giá một máy là khá cao (30.000 USD). Vì vậy, hiệu quả nhất là các ngân hàng liên kết các máy ATM lại, khi đó người làm thẻ ATM tại bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể thực hiện giao dịch tai ATM của các ngân hàng khác tại nhiều điểm giao dịch hơn. Bên cạnh đó, các NHTM cần tích cực phát triển hơn dịch vụ trả tiền lương, điện thoại, điện, nước qua tài khoản. Điều này không những thu hút thêm được một khoản tiền nhàn rỗi tạm thời mà còn giúp giảm chi phí cho xã hội.
b. Nâng cao tỷ trọng nguồn vốn huy động dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động:
Theo một số nhà phân tích, mức hợp lý của nguồn vốn ngân hàng trong đầu tư cho nền kinh tế ở các nước phát triển là khoảng 30% bên cạnh các kênh huy động khác là thị trường chứng khoán, trái phiếu chính phủ..., trong khi đó ở nước ta hiện nay, tỷ lệ này quá cao (lên đến trên 70%37 Thời báo ngân hàng, số 58, ngày 18/7/2003, trang 3.
). Đây vừa là gánh nặng, vừa dễ gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Vì vậy, có thể khẳng định biện pháp này chỉ manh tính chất tình thế, khi mà nền kinh tế nói chung và thị trường vốn nói riêng chưa phát triển như mong muốn.
Thực hiện mục tiêu này, các NHTM nên quan tâm hơn đến các dịch vụ tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất hợp lý. Đây sẽ là nguồn bổ sung vốn trung - dài hạn lớn cho các ngân hàng bởi vẫn còn nhiều lượng tiền nhàn rỗi ổn định trong nền kinh tế, hơn nữa từ trước đến nay khi một khách hàng đã chọn ngân hàng nào để gửi tiền thì hầu như ít thay đổi trong thời gian gửi. Các khoản tiền gửi dù có thời hạn là 1 năm, nhưng khi hết hạn thường được duy trì, tức là người gửi tiền tiếp tục gửi tại ngân hàng đó, vì vậy, nguồn tiền gửi này là khá ổn định, ngân hàng có thể sử dụng để cho vay thời hạn dài hơn. Bên cạnh đó, các công cụ huy động vốn dài hạn như trái phiếu, kỳ phiếu cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác huy động vốn trung - dài hạn của các ngân hàng do có đặc điểm là kỳ hạn dài, tạo sự ổn định cho nguồn vốn. Hiện tại, mặt bằng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ thấp hơn lãi suất tiết kiệm nội tệ cho nên biện pháp huy động vốn bằng ngoại tệ cũng là một hướng đầu tư với chi phí thấp đối với các ngân hàng.
3.2.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
a. Chính sách tín dụng:
- Về lãi suất:
+ Chính sách lãi suất của các NH cần phải phản ánh tốt hơn mức độ rủi ro của dự án kinh doanh. Trên thực tế, lãi suất mà các HNTM áp dụng cho các DNNQD thường cao hơn các DNNN mặc dù chưa hẳn KVQD có dự án kinh doanh khả thi hơn KVNQD nên đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các TPKT. Vì vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng, có dự án kinh doanh khả thi cao nên được hưởng mức lãi suất ưu đãi, điều đó vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với ngân hàng, vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
+ Các NHTM cần phải đa dạng hoá các hình thức lãi suất sao cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng hình thức lãi suất và từng kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.
- Về chính sách bảo đảm tiền vay:
Từ trước đến nay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các NHTM thường yêu cầu khu vực kinh tế này phải có tài sản thế chấp, trong đó phổ biến nhất là đất đai. Tuy nhiên, vấn đề này không phải lúc nào cũng thực hiện được do việc chứng nhận của cơ quan công quyền hay Uỷ ban Nhân dân cấp quận, huyện đối với tài sản thế chấp còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Do đó, bên cạnh việc cho vay theo hình thức này, ngân hàng có thể nghiên cứu cho vay theo các hình thức khác như kết hợp linh hoạt các hình thức bảo đảm bằng tín chấp, tín chấp và thế chấp, tín chấp, thế chấp và bảo lãnh.
Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì việc cho vay bằng tín chấp có nhiều khả năng phát triển. Tuy nhiên, cho vay bằng tín chấp không có nghĩa là ngân hàng có thể bỏ qua những thủ tục cần thiết. Khách hàng vẫn cần phải có số liệu chứng minh tình hình tài chính lành mạnh, phải có tài sản cố định, tài sản lưu động đủ lớn và đối tượng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường.
Bên cạnh đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay đều phải lập thành văn bản, nhưng lập chung với hợp đồng tín dụng hay lập thành văn bản riêng là do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất của của tài sản, không bắt buộc phải có hợp đồng riêng như trước đây. Như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục cho các hộ gia đình vay món nhỏ, hoặc khi khách hàng cầm cố các chứng từ có giá, vàng bạc thì chỉ cần ghi vào hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng mà không nhất thiết phải có hợp đồng riêng về thế chấp, cầm cố. Đối với các loại thế chấp bất động sản hoặc cầm cố các loại tài sản lớn, phức tạp thì các bên có thể thoả thuận lập hợp đồng riêng để thuận cho việc quản lý và xử lý sau này.
- Về phương thức cho vay:
Phương thức cho vay phải đảm bảo thực hiện tốt cơ chế tín dụng và đảm bảo cho KVNQD sử dụng vốn vay nhanh và tiết kiệm. Hiện nay, các ngân hàng thường sử dụng phổ biến cho vay theo món, coi đó là biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn vay và tạo sự chủ động về mình. Nhưng phương thức cho vay theo món đòi hỏi mỗi lần vay doanh nghiệp phải lập đơn và khế ước xin vay, trình các chứng từ. Trong khi đó nhu cầu vốn hoạt động của các DNNQD làm ăn có hiệu quả lại cần bổ sung thường xuyên, nên họ rất ngại vay theo phương thức này. Do đó, ngân hàng cần áp dụng phương thức cho vay một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm chu chuyển vốn và độ tin cậy của khách hàng. Phương thức cho vay theo món nên áp dụng với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn không thường xuyên, chu chuyển vốn chậm, quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ hay từng thương vụ hoặc thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay-trả với ngân hàng. Ngân hàng cần vận dụng triệt để phương thức cho vay luân chuyển vì đây là phương thức cho vay rất phù hợp với tính năng động với tính nhanh nhạy của cơ chế thị trường. Phương thức này rất thuận lợi cho KVNQD có số vòng quay thường xuyên, hàng ngày, tạo điều kiện để vốn tín dụng luân chuyển đều đặn qua ngân hàng, qua đó tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong quá trình sử dụng vốn vay.
b. Chính sách đối với khách hàng:
Thực tế hiện nay cho thấy các NHTM mới bắt đầu chú trọng tới công tác marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng chưa mang tính nghiệp vụ cao và hiệu quả rõ nét. Để thực hiện công tác marketing khách hàng, các ngân hàng nên có những chính sách sau:
- Trong giao tiếp, thiết lập quan hệ với khách hàng, cán bộ tín dụng phải có nghệ thuật giao tiếp để làm sao lôi kéo được khách hàng. Muốn vậy, cán bộ tín dụng phải hiểu được nhu cầu và mong muốn của khách hàng là gì và khả năng có thể đáp ứng được những nhu cầu đó. Hơn nữa, trong giao tiếp rất cần sự mềm mỏng, nhã nhặn, lịch sự, tế nhị.
- Trong quá trình cấp tín dụng, các ngân hàng cần phải tư vấn cho khách hàng cách thức đầu tư , thời điểm hiệu quả, những rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải để khách hàng sớm ngăn chặn và tìm biện pháp khắc phục. Khi khách hàng gặp khó khăn về vốn, ngân hàng phải tìm cách giúp đỡ khách hàng để khách hàng không bị tổn thất và có thể tiếp tục hoạt động của mình.
- Hiện nay, một số DNNQD chưa hiểu đầy đủ về ngành ngân hàng do đó nhiều khi đã hội đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng nhưng các doanh nghiệp này vẫn còn nhiều e ngại trong việc thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng. Một phần của nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do ấn tượng về người cán bộ tín dụng thời bao cấp còn để lại trong tâm trí họ: thái độ hách dịch, cửa quyền...Vì vậy, các ngân hàng cần có những chính sách giúp KVNQD nắm bắt được chính xác, cụ thể những thông tin chính sách của mình để khách hàng tìm đến ngân hàng ngày càng nhiều hơn. Trong khi đó, về phía mình các ngân hàng cần phải chủ động nắm bắt thông tin khách hàng một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời để tư vấn, chăm sóc khách hàng đồng thời phát hiện những biểu hiện không bình thường của khách hàng để kịp thời xử lý. Theo hướng này, hội nghị khách hàng nên được tổ chức thường xuyên để quan điểm của hai bên phù hợp với nhau hơn.
- Bên cạnh đó, thực tế cho thấy khách hàng thuộc KVNQD đến với các ngân hàng gồm nhiều đối tượng khác nhau, để duy trì mối quan hệ với khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới, các ngân hàng cần phải có chính sách ưu đãi riêng đối với từng loại khách hàng. Muốn làm được điều đó, các ngân hàng cần phải phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại đơn vị kinh tế theo các mức sau:
+ Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa chuộng hoặc trong tương lai được thị trương ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với ngân hàng. Nếu doanh nghiệp loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào đó thì có thể cho vay bằng tín chấp.
+ Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng chữ tín. Đối với đơn vị này thì cho vay trên trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba.
+ Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì ngân hàng phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn.
Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng, điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh doanh nếu thực sự khả thi thì các ngân hàng có thể nới lỏng điều kiện cho vay ở mức độ nào đó trong điều kiện cho phép.
c. Về sản phẩm, hình thức tín dụng:
Trong thời gian tới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực có tính đa dạng về quy mô, ngành nghề kinh doanh, với nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi là không giống nhau. Chính vì vậy, ngân hàng cần đưa ra các loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay truyền thống thông qua việc cầm cố tài sản thế chấp, các ngân hàng nên tiến hành các hình thức cho vay mới như:
- Chiết khấu các chứng từ có giá
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường sử dụng các giấy tờ có giá như hối phiếu, tín phiếu, trái phiếu ngân hàng. Khi chưa đến hạn thanh toán nhưng do các doanh nghiệp này lại có nhu cầu đột xuất về chi tiêu, họ có thể đem những từ này đến ngân hàng chiết khấu. Đây là nghiệp vụ trong đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng trước khi đến hạn thanh toán của thương phiếu sau khi đã trừ đi khoản lãi phải trả tức là tiền chiết khấu và các khoản chi phí chiết khấu.
- Hùn vốn đầu tư, liên doanh liên kết với khách hàng:
Đây là hình thức giúp ngân hàng khi muốn mở rộng tín dụng không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong KVNQD đơn vị kinh tế làm ăn có hiệu quả tốt, từ đó ngân hàng thoả thuận ký kết hợp đồng liên doanh, liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy, không những ngân hàng mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện thâm nhập vào thị trường để tìm ra mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, vừa trực tiếp giám sát quản lý vốn vay và có thu nhập cao vì là người trực tiếp đầu tư vốn vào kinh doanh. Hơn nữa, do được sự cộng tác của các chuyên gia ngân hàng chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn.
- Nghiệp vụ bảo lãnh:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh có những đơn vị kinh tế ngoài quốc donah thiếu vốn nhưng không đủ điều kiện vay vốn theo quy định của ngân hàng thì ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho món vay. Khi áp dụng hình thức này, ngân hàng phải yêu cầu tổ chức bảo lãnh xuất trình đẩy đủ các giấy tờ cần thiết, việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản và phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
- Cho vay bảo đảm bằng các khoản sẽ thu:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu, điều này làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu vốn tức thời bằng cách cho vay theo một tỷ lệ nào đó của các khoản sẽ thu.
- Phát triển hình thức tín dụng thuê mua
Có thể nói đây là hình thức rất phù hợp với KVNQD bởi vì đơn vị kinh tế thuộc KVNQD nhiều khi có dự án khả thi nhưng không có đủ khả năng tài chính, hoặc nếu có đủ cũng không muốn vay tiền ngân hàng để mua sắm tài sản cố định lớn dùng cho dự án (vì chi phí cơ hội quá cao); hay nhiều DNNQD mới thành lập vài ba năm muốn vay vốn trung - dài hạn để hiện đại hoá máy móc, thiết bị nhưng ngân hàng không thể cho vay vì chưa đủ cơ sở để đánh giá và xác định mức độ tín nhiệm, khi đó các đơn vị này sẽ được đáp ứng nhu cầu về vốn thông qua hình thức thuê mua. Về phía ngân hàng, loại hình tín dụng này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích trong đó đáng kể hơn cac là nâng cao khả năng thanh khoản của ngân hàng bởi lẽ tín dụng thuê mua tuy mang tính chất dài hạn nhưng việc thanh toán tiền thuê lại theo định kỳ. Hơn nữa, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu và giám sát của ngân hàng, do đó không bị thất thoát, sử dụng sai mục đích, dẫn tới không thu hồi được, ngân hàng mất cả vốn lẫn lãi.
Để phát triển tín dụng thuê mua, các ngân hàng cần đưa thêm nhiều dịch vụ thu hút khách hàng như tư vấn miễn phí, giới thiệu thị trường tiêu thụ sản phẩm...; thực hiện thêm các phương thức thuê mua đơn thuần như tái thuê mua, thuê mua hợp tác, thuê mua giáp lưng, thuê mua trả góp, thuê mua trợ bán...Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng, đồng thời tăng cường hiệu quả giám sát sau khi doanh nghiệp thuê nhằm đề phòng và hạn chế những mặt yếu của tín dụng thuê mua - đó là tài sản thuê mua không được bảo quản, tu dưỡng cẩn thận trong quá trình sử dụng, dẫn đến hư hỏng, mất mát, thiệt hại mà khi ấy doanh nghiệp không có năng lực tài chính để bồi thường.
d. Về công tác cán bộ:
Thực tế, do trình độ thẩm định thấp, cán bộ ngân hàng có thể biến món nợ vay trở thành nợ khó đòi ngay từ khâu xét duyệt và thẩm định dự án sản xuất kinh doanh. Do đó không thể thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng nếu không nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng về năng lực thẩm định và hiểu biết về lĩnh vực đầu tư,.
Các NHTM nên phối hợp với nhau và với các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức các hội thảo về phương pháp đánh giá tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng, các thông số thẩm định kết quả tài chính, kết quả hoạt động của NDNQD, vấn đề về thông tin phòng chống rủi ro. Bên cạnh đó, các NHTM cũng nên thường xuyên tổ chức cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng học hỏi kinh nghiệm từ các ngân hàng bạn đồng thời cập nhật những thông tin mới từ phía Chính phủ.
Trong công tác cán bộ, các ngân hàng cũng cần có chế độ khen thưởng thích đáng cùng với chế lý nghiêm minh đối với từng cán bộ. Với những cán bộ vượt kế hoạch trong công tác tín dụng, cho vay an toàn cần có khen thưởng cả về vật chất cũng như tinh thần nhằm khuyến khích động viên sự nhiệt tình trong công tác, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân cho mỗi cán bộ.
4. Một số kiến nghị cá nhân:
4.1 Kiến nghị đối với Nhà nước:
- Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo tiền đề và cơ sở cho các doanh nghiệp, nhất là các DNNQD tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng thuận lợi.
- Từng bước tách bạch hệ thống NHTM và ngân hàng chính sách có tính chất hỗ trợ của Nhà nước. Theo đó, mở rộng hơn nữa tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Đối với tín dụng ưu đãi của Nhà nước, có thể hình thành hệ thống ngân hàng chính sách từ trung ương tới địa phương, dưới dạng các quỹ hỗ trợ khác nhau. Vấn đề quan trọng để hoạt động của quỹ hiệu quả tốt là việc quy định rõ ràng đối tượng, thủ tục và quy trình vay vốn từ các loại quỹ, bảo đảm thực sự bình đẳng về cơ hội được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi đối với mọi doanh nghiệp nếu thoả mãn điều kiện vay ưu đãi theo quy định.
- Mở rộng, phát triển thị trường thuê mua tài chính. Tín dụng thuê mua là một hình thức của đầu tư cơ bản, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng, nhưng vì tài sản sử dụng thuộc quyền sử dụng của công ty thuê mua nên trong thực tế các doanh nghiệp thuê quyền sử dụng đó đã mang tính thế chấp trong vay mượn. Điểm thuận lợi này giúp cho các doanh nghiệp ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam đã bước đầu hình thành thị trường này nhưng hoạt động còn hạn chế và còn ít doanh nghiệp tiếp cận được loại tín dụng này. Vì vậy, cần cung cấp thông tin về loại tín dụng này để các doanh nghiệp có thể nhận thức và sớm tiếp cận với nguồn vốn tín dụng này.
- Cần nhanh chóng tạo điều kiện để Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và vận hành hiệu quả, giúp DNNQD có khả năng tiếp cận và vay vốn. Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước, cần tích cực huy động thêm các nguồn vốn góp khác như: vốn của các tổ chức tín dụng, nguồn đóng góp của các doanh nghiệp, vốn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...
- Hoàn thiện các văn bản về quy chế tín dụng theo hướng đơn giản hoá các thủ tục vay, đồng thời tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng các phương án kinh doanh khả thi làm cơ sở để vay vốn; cải tiến các quy định về điều kiện cho vay trên tinh thần tạo sự chủ động hơn cho các TCTD.
- Cho phép kinh tế tư nhân tham gia hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các DNNN, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế.
- Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế- dân sự trong quan hệ vay vốn giữa ngân hàng với doanh nghiệp xảy ra các tranh chấp hoặc khi doanh nghiệp không trả nợ được cho ngân hàng .
- Nhà nước tăng cường kiểm tra các DNNQD, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê. Song cũng tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,...gây khó khăn cho doanh nghiệp.
4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Thu hút dự án, chương trình của quốc tế, các nước phát triển, hỗ trợ các NHTM về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng.
- Nghiên cứu, xem xét trong vài năm tới cổ phần hoá 1-2 NHTM quốc doanh nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% vốn cổ phần, trong tổng số 6 NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét các yếu tố khác như trong cơ cấu hiện tại, số lượng NHTM cổ phần quá đông trong khi thị phần còn nhỏ.
- Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động cho các ngân hàng nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động các ngân hàng nước ngoài ở Việt nam theo cam kết trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA như cho phép các ngân hàng của Nhật, Mỹ, EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
- Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển.
4.3 Kiến nghị đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, mọi quyết định đưa ra của doanh nghiệp đều có tác động quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Do vậy, để đứng vững trên thị trường, mỗi doanh nghiệp nói chung phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường. DNNQD luôn phàn nàn về sự bất bình đẳng nhưng cũng phải tự nhìn nhận lại chính bản thân hoạt động của mình để các quan điểm của ngân hàng và của doanh nghiệp gặp gỡ nhau, đó là: doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, có hiệu quả, đáp ứng được những điều kiện tối thiểu của ngân hàng và ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay bởi lẽ ngân hàng cũng là một doanh nghiệp đặc biệt, cũng hoạt động kinh doanh để sinh lời và đảm bảo an toàn cho mình. Vì vậy đứng trên một góc độ nào đấy cả ngân hàng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải "hiểu rõ" nhau hơn, khi đó ngân hàng vừa có thể cho vay thời doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có đủ vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp, ngân hàng cùng phát triển. Theo hướng này, DNNQD cần đạt một số chỉ tiêu sau:
- Có khả năng phát triển ổn định và lâu dài;
- Có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh;
- Không có biểu hiện làm ăn nhất thời, chụp giật, lừa đảo;
- Có cơ sở vật chất tốt;
- Có sản phẩm có chất lượng, uy tín cao trên thị trường.
Do đó:
Thứ nhất, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải tự nâng cao năng lực của mình trong kinh doanh, chú trọng tới việc xây dựng và hoạch định phương án sản xuất kinh doanh, kể cả mời chuyên gia tư vấn.
Thứ hai, trung thực trong việc sử dụng vốn cũng như các điều kiện liên quan đến cho vay, tránh tình trạng làm qua loa, gây thất thoát vốn khiến việc trả nợ ngân hàng gặp khó khăn.
Thứ ba, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho ngân hàng; thực hiện công tác hạch toán kế toán theo đúng chế độ hiện hành.
KẾT LUẬN
Hơn mười lăm năm qua, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã được phục hồi, phát triển và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, khi mà thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng ở nước ta còn kém phát triển, chưa phát huy được vai trò vốn có của nó thì các ngân hàng vẫn là nơi cung cấp vốn quan trọng cho cả nền kinh tế cũng như khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, trước sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế này là hết sức cần thiết.
Trên thực tế, hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được tiếp cận vốn ngân hàng ngày càng dễ dàng và bình đẳng hơn với khu vực kinh tế quốc doanh. Mặc dù vậy, hoạt động mở rộng tín dụng ngân hàng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế và phát sinh nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Xuất phát từ thực tiễn đó, khoá luận này đã đi từ những vấn đề cơ bản về tín dụng và tín dụng ngân hàng, đi sâu tìm hiểu về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam với đặc điểm vốn có cũng như những khó khăn, thách thức mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang gặp phải, để từ đó làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực này; đã phân tích thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thông qua nêu rõ những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại cần khắc phục, giải quyết; và cuối cùng đưa ra một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng như một số kiến nghị với các cấp, các ngành có liên quan.
Tuy nhiên, do trình độ cũng như kinh nghiệm của một sinh viên sắp tốt nghiệp còn nhiều hạn chế, khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót, người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy, các cô, bè bạn và những ai quan tâm tới lĩnh vực này để khóa luận có điều kiện được bổ sung, hoàn chỉnh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tiếng Việt:
Sách:
- Công ty Tài chính quốc tế, Ngân hàng Thế Giới, Chương trình phát triển dự án Mekong, “Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Thông tấn, năm 2003.
- Đảng cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ”, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, năm 2001.
- “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi)”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2002.
- Học viện Ngân hàng, giáo trình “Tín dụng ngân hàng”, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2002.
- Ngô Văn Quế, tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, “Quản lý và phát triển tài chính - tiền tệ - tín dụng - ngân hàng”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, năm 2003.
- Peter S.Rose, “Quản trị ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Tài chính, năm 2001.
- Tổng cục Thống kê, “Tình hình kinh tế - xã hội 10 năm 1991-2000”, năm 2001.
- Tổng cục Thống kê, “Niên giám thống kê năm 2002”.
Báo, tạp chí:
- Tài chính, các số năm 2002, 2003.
- Tạp chí Kinh tế và Phát triển, các số năm 2002, 2003.
- Tạp chí Ngân hàng, các số năm 2002, 2003.
- Thời báo Kinh tế Việt Nam, các số năm 2002, 2003.
- Thời báo Ngân hàng, các số năm 2002, 2003.
- Phát triển Kinh tế, các số năm 2002, 2003.
Nguồn khác:
- Chương trình phát triển dự án Mekong, “Báo cáo về dịch vụ hỗ trợ kinh doanh ở Việt Nam”, số 3 năm 2000.
- Chương trình phát triển dự án Mekong, “Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Trên đường tiến đến phồn vinh”, số 10, năm 1999.
- Ngân hàng Công thương, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Báo cáo “Kiểm điểm đánh giá thực hiện kế hoạch kinh doanh 10 tháng đầu năm 2003”.
- Ngân hàng Kỹ thương, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Ngân hàng Ngoại thương, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Ngân hàng Thương mại Á Châu, “Báo cáo thường niên” năm 2001, 2002.
- Nguyễn Thạc Hoát, “Những giải pháp chủ yếu để mở rộng hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh”, luận án phó tiến sĩ kinh tế, năm 1996.
- Nguyễn Xuân Sinh, “Vấn đề tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Nội”, luận án phó tiến sĩ kinh tế, năm 1996.
- Phạm Thị Thu Hiền, “Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi chiến lược khách hàng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”, khóa luận tốt nghiệp, Học viện Ngân hàng, năm 2002.
- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 2001, 2002”.
- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, “Phân tích những thay đổi về thể lệ tài chính đối với doanh nghiệp Việt Nam kể từ năm 1991 trở lại đây - Một số vấn đề thực tiễn và kiến nghị chính sách”, Đề tài khoa học cấp Bộ, 2/2002.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài:
- Ngân hàng Thế giới, “Banking Sector Review”, tháng 6 năm 2002.
- Quỹ Tiền tệ Quốc tế, “Vietnam: Selected Issues and Stastistical Appendix”, IMF Country Report No. 02/5, tháng 1 năm 2002.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1
Chương 1: Khái quát về tín dụng và tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
4
1. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng
4
1.1 Khái niệm tín dụng
4
1.2 Chức năng và vai trò của tín dụng
5
1.3 Sự ra đời và phát triển của tín dụng
9
1.4 Các hình thức của tín dụng
11
2. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
14
2.1 Khái quát về tín dụng ngân hàng
14
2.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
14
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
15
2.1.3 Quy trình tín dụng ngân hàng
17
2.2 Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
18
2.2.1 Khái quát về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
18
a. Sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
ở Việt Nam
18
b. Các thành phần chủ yếu của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam hiện nay
20
c. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam
22
d. Một số khó khăn, thách thức đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam
26
d.1 Về mặt khách quan
26
d.2 Về mặt chủ quan
28
e. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Việt Nam
30
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong những năm gần đây
33
1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam
33
2. Khái quát về thể chế tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
36
2.1 Những thay đổi về thể chế tín dụng ngân hàng trong thời gian qua
36
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1994
36
2.1.2 Giai đoạn 1994-1997
37
2.1.3 Giai đoạn 1998 đến nay
39
2.2 Những quy định chung về cấp tín dụng ngân hàng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
40
2.2.1 Đối tượng áp dụng
40
2.2.2 Nguyên tắc vay vốn
41
2.2.3 Điều kiện vay vốn
41
2.2.4 Lãi suất cho vay
42
2.2.5 Phương thức cho vay
42
2.2.6 Biện pháp bảo đảm tiền vay
43
3. Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam trong những năm gần đây
44
3.1 Những kết quả đạt được trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng
và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
3.2 Những hạn chế trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
45
54
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
67
1. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm tới
67
2. Hướng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
68
2.1 Mở rộng đối tượng cho vay
68
2.2 Mở rộng quy mô khoản vay
69
2.3 Mở rộng phương thức cho vay
70
2.4 Mở rộng hình thức cho vay
71
3. Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam
72
3.1 Quan điểm mở rộng tín dụng ngân hàng
72
3.2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
73
3.2.1 Nâng cao hiệu quả huy động vốn, tạo cơ sở vững chắc cho
công tác cho vay của các ngân hàng
73
3.2.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh
75
4. Một số kiến nghị cá nhân
82
4.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
82
4.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
83
4.3 Kiến nghị đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
84
KẾT LUẬN
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CIEM
Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DNNQD
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
HĐBT
Hội đồng Bộ trưởng
IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KVNQD
Khu vực ngoài quốc doanh
KVQD
Khu vực quốc doanh
MPDF
Chương trình phát triển dự án Mekông
NHCT
Ngân hàng Công thương
NHĐT&PT
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHNN&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NHNT
Ngân hàng Ngoại thương
NHTM
Ngân hàng thương mại
NSNN
Ngân sách Nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng
TPKT
Thành phần kinh tế
WB
Ngân hàng Thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, KHUNG
SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN
Các bảng sử dụng trong khóa luận
Trang
Bảng 1: Quy trình tín dụng tổng quát
17
Bảng 2: Tổng lao động phân theo thành phần kinh tế
23
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước phân theo thành phần kinh tế
24
Bảng 4: Tín dụng của hệ thống ngân hàng giai đoạn 1997-2002
45
Bảng 5: Nguồn vốn huy động của một số ngân hàng năm 2000-2001
50
Bảng 6: Cơ cấu tín dụng phân theo kỳ hạn
52
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng phân theo thời hạn tín dụng
52
Bảng 8: Cơ cấu tín dụng cấp cho KVNQD phân theo thời hạn tại Sở giao
dịch I - NHĐT&PT Việt Nam
53
Bảng 9: Tình hình vốn vay của doanh nghiệp năm 2000
55
Bảng 10: Cơ cấu nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng phân theo thành phần
kinh tế
57
Bảng 11: Tỷ trọng nợ quá hạn trong dư nợ vay ngân hàng phân theo thành
phần kinh tế
58
Các biểu đồ sử dụng trong khóa luận
Biểu đồ 1: Thị phần cho vay phân theo loại hình tổ chức tín dụng
35
Biểu đồ 2: Vay vốn và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
62
Biểu đồ 3: Vay vốn và mức lãi
62
Các khung sử dụng trong khóa luận
Khung 1: Cỗ xe một ngựa
55
Khung 2: Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
60
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở việt nam.doc