MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU1
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.3
1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.3
1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển.3
1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển.4
1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển.5
1.2. Vốn và nguồn vốn.10
1.2.1 Khái niệm về vốn.10
1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản:10
2. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí.18
2.1. Đặc điểm của ngành dầu khí.18
2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.20
Chương II: Thực trạng tình hình huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.22
1. Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.22
1.1. Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.22
1.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.30
1.2.1. Huy động vốn đầu tư trong nước.30
1.2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài.32
2. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian qua.35
2.1. Những kết quả đạt được.35
2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu khí ở nước ta.37
Chương III: Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam.41
1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới.41
2. Những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển ngành
Dầu khí.44
3. Những yêu cầu đặt ra để huy động vốn có hiệu quả.47
4. Những giải pháp cơ bản để huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam.48
LỜI KẾT54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO55
LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu, sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không thể thoát khỏi những thách thức đầy cam go như các nước khác trong khu vực. Tuy vậy, Việt Nam trong những năm qua khép lại bằng những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh chóng. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Riêng với ngành Dầu khí Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày 11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan trọng của năng lượng Dầu khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước và khẳng định vị thế là ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sỹ Đinh Đào Ánh Thủy. Em xin chân thành cảm ơn cô.
58 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lan Đỏ có công suất khai thác 10.048.000 m3 khí/ngày đêm đã được cải hoán nâng công suất khai thác lên tới 15 triệu m3 / ngày đêm; Đường ống dẫn khí ngoài khơi dài 362km, đường khính 26 inch, công suất vận chuyển tối đa đạt 7 tỷ m3/năm; Trạm tiếp nhận xử lý khí tại Dinh Cố có công suất xử lý khí trong giai đoạn 1 là 10.048.000 m3 khí / ngày đêm đã được cải hoán công suất lên 15 triệu m3/ngày đêm và đang mở rộng dây chuyền 2 để nâng công suất tổng cồng lên 20 triệu m3/ngày đêm; Tuyến đường ống dẫn khí trên bờ với tổng chiều dài 38km, với 2 đoạn: khí cao áp từ Long Hải tới Dinh Cố có đường kính 26 inch, dài 9km và đoạn vận chuyển khí thành phẩm từ Dinh Cố tới Phú Mỹ với đường kính 30 inch, dài 29km; Trung tâm phân phối khí Phú Mỹ. Như vậy, cùng với hệ thống khí Bạch Hổ, sự hình thành hệ thống khí Nam Côn Sơn đang trở thành cột sống của nền công nghiệp khí Việt Nam, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, hứa hẹn đảm bảo khả năng cung cấp khí lên tới 6-10 tỷ m3/năm trong các năm 2006-2010 tại khu vực miền Đông Nam Bộ.
Các kết quả thăm dò khả quan ở thềm lục địa phía Nam và Tây Nam Bộ của Việt Nam cũng như tại các khu vực chống lấn giữa Việt Nam và Malaysia, đã cho phép Tập đoàn Dầu khí đầu tư và xây dựng các kế hoạch phát triển khu công nghiệp Khí - Điện - Đạm Cà Mau. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau dài 328km đường kính 18” có công suất vận chuyển 2 tỷ m3/năm và nhà máy điện Cà Mau I công suất 750 KW sẽ được đưa vào khai thác sử dụng vào năm 2007 và nhà máy điện Cà Mau II có công suất tương tự như Cà Mau I vào năm 2008. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cùng nhà thầu Chevron đang triển khai phát triển lô B, 52/97, 48/95. Dự kiến sẽ xây dựng tuyến đường ống dẫn khí nồi từ khu mỏ này đến Ô Môn và Cà Mau, đây sẽ là tuyến ống huyết mạch có thể dùng để kết nối mạng Đông Tây và Đường ống xuyên các nước Đông Nam Á.
Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Một loạt dự án chế biến dầu khí quan trọng đã và đang được Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam triển khai tích cực. Nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ - một trong những dự án hoá khí đầu tiên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trong lĩnh vực hạ nguồn – đã đi vào hoạt động chính thức từ đầu tháng 9/2004 cung cấp phân bón phục vụ nông nghiệp của đất nước. Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất – Quảng Ngãi có công suất 6.5 triệu tấn/năm đang trong giai đoạn xây dựng. Dự án Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn – Thanh Hoá đang trong giai đoạn lựa chọn đối tác tham gia. Dự án nhà máy lọc dầu phía Nam đang xúc tiến triển khai kêu gọi đầu tư. Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau (trong cụm Khí Điện - Đạm Cà Mau) đang trong giai đoạn lựa chọn nhà thầu EPC. Những công trình này sau khi xây dựng xong sẽ đáp ứng cơ bản nhu cầu của thị trường nội địa về sản phẩm lọc, hoá dầu và phục vụ cho xuất khẩu. Cùng với sự phát triển của công nghiệp lọc hoá dầu, các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là hoá dầu cũng phát triển. Trước mắt là ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên và khí đồng hành. Ngoài việc sử dụng cho sản xuất điện và các nhu cầu nhiên, nguyên liệu trong sinh hoạt và công nghiệp, khí thiên nhiên sẽ là nguồn nguyên liệu rất quý giá để sản xuất methanol, ethylen làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm hoá dầu và amoniac để sản xuất phân đạm. Công nghiệp hoá dầu là một ngành công nghiệp rất mới đang được hình thành ở Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và từng bước xây dựng ngành công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, hiện đại, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chủ chương phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng đi từ việc nhập monomer từ nước ngoài về để sản xuất các sản phẩm hoá dầu trong giai đoạn đầu, sau đó tiến tới sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước qua việc hình thành và phát triển các tổ hợp hoá dầu trên cơ sở nguyên liệu từ dầu và khí, tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc dầu đến khâu hoá dầu.
Tập đoàn Dầu khí đã và đang triển khai các dự án hoá dầu sau:
Các dự án đã đi vào hoạt động:
Dự án sản xuất nhựa PVC công suất 100.000 tấn/năm. Liên doanh giữa Petrovietnam (43%), Petronas (50%) và Tramatsuco (7%) đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2003. Hiện nay, Petrovietnam đang đàm phán bán phần góp vốn của Petrovietnam cho công ty Thai Plastic & Chemicals (Thái Lan).
Dự án sản xuất DOP, công suất 30.000 tấn/năm, liên doanh giữa Petrovietnam (15%), LG và tổng công ty Hoá chất Việt Nam đã đi vào sản xuất từ tháng 1/1997.
Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ công suất 740.000 tấn urê/năm đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng9/2004, đáp ứng khoảng 30% nhu cầu phân đạm trong nước, góp phần bình ổn thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Các dự án đang triển khai:
Dự án Nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, hiện đang trong giai đoạn đấu thầu EPC. Dự kiến đưa vào hoạt động cuối năm 2010.
Dự án Polypropylene, công suất 150.000 tấn/năm (tại Dung Quất). Dự án đầu tư hiệu chỉnh đã được phê duyệt, hiện đang đầu thầu EPC, với mục tiêu năm 2009 Nhà máy sẽ đi vào vận hành.
Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang cùng với Tập đoàn Sian Cement, Công ty Thai Platisc và Tổng công ty Hoá chất đang triển khai lập dự án đầu tư và chuẩn bị thành lập Công ty liên doanh.
Một số dự án khác đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: LAB (nguyên liệu sản xuất chất tây rửa tổng hợp), PET (sơ sợi tổng hợp), Nhựa đường, sản xuất dung môi.
1.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.
1.2.1. Huy động vốn đầu tư trong nước.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn với số lượng lớn, đồng thời khắc phục những hạn chế của các kênh huy động vốn truyền thống, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp bắt đầu triển khai và thúc đẩy các kênh huy động vốn mới với tính chủ động cao.
Một trong những hình thức huy động vốn tốt nhất được Chính phủ cũng như các doanh nghiệp sử dụng là hình thức phát hành trái phiếu. Thông qua hình thức này, doanh nghiệp không những tạo tính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các nguồn vốn mà còn tạo ra một danh mục đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn 2005-2010 với chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động đa ngành đa lĩnh vực và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển ngành Dầu khí lên tới hàng chục tỷ USD. Một phần lớn nguồn vốn này được giao cho Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) thu xếp qua các kênh huy động vốn, trong đó bao gồm phát hành trái phiếu của PetroVietnam và PVFC. Với vai trò là một định chế tài chính của PetroVietnam, các hoạt động kinh doanh của PVFC như tín dụng, đầu tư, đặc biệt đối với các dự án dầu khí, năng lượng luôn đòi hỏi nguồn vốn dài hạn, ổn định. Khi quy mô hoạt động của PVFC ngày càng phát triển thì việc cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn một cách ổn định là một yêu cầu cấp thiết. Với chiến lược dài hạn từ nay đến 2015 và kế hoạch hoạt động kinh doanh năm 2008 đã được PVFC đề ra ngay từ đầu năm, với mục tiêu cấu trúc nguồn vốn của PVFC theo hướng bền vững, tăng dần tỷ trọng vốn trung dài hạn trong tổng nguồn vốn thì việc tăng cường huy động vốn trung dài hạn thông qua các hình thức huy động vốn trực tiếp và phát hành trái phiếu của PVFC là rất cần thiết. PVFC bắt đầu triển khai phát hành trái phiếu Tài chính Dầu khí từ năm 2006, từ đó thực hiện định kỳ hàng năm. Đến nay, PVFC phát hành được 3.290,6 tỷ đồng (quy đổi). Năm 2008, PVFC phát hành Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 với tổng mệnh giá là 1.600 tỷ đồng (quy đổi); thời hạn trái phiếu là 3 năm; phát hành theo hình thức ghi sổ; lãi suất năm đầu đối với VND là 17,5%/năm, USD là 6,2%/năm; lãi suất từ năm thứ 2 được xác định bằng bình quân lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng lãi trả cuối kỳ (VND hoặc USD tương ứng) của 4 ngân hàng (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank) + 0,3%/năm.
Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 có tính thanh khoản cao, được cầm cố, chiết khấu để vay vốn tại PVFC hoặc các tổ chức tín dụng khác và được tự do chuyển nhượng dưới các hình thức mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Cùng với kinh nghiệm phát hành và khả năng quản lý, sử dụng vốn hiệu quả từ việc phát hành trái phiếu nhiều năm qua của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 đã được các nhà đầu tư tin tưởng, gửi gắm vốn đầu tư của mình.
Chắc chắn rằng, cùng với bước tiến phát triển vững chắc và nhanh chóng của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí sẽ khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ. Đây cũng là một hình thức huy động vốn điển hình để các doanh nghiệp Việt Nam cùng học tập và phát huy trong bối cảnh thị trường nguồn vốn trong nước gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
1.2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài.
Theo thống kê thì năm 2006 Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế vào ngành dầu khí tăng khá nhanh 8 dự án với tổng vốn đăng kí lên tới 144.3 triệu $.
Số dự án
Tổng vốn đăng kí
Vốn cấp mới
Vốn tăng thêm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế
8
144.3
118.6
25.7
(Niên giám thống kê 2006)
Tính từ năm 1989-2006 cả nước có 15 dự án từ nguồn vốn FDI trong đó bên Việt Nam góp số vốn cũng tương đương với bên ngước ngoài.
Số dự án
Tổng số vốn đăng kí
Tổng vốn điều lệ
Nước ngoài góp
Việt Nam góp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 1989-2006 phân theo ngành kinh tế
15
379
376.3
210.8
168.5
( Đơn vị: Triệu $) (Niên giám thống kê 2006)
Nhiều tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Ngoài số hợp đồng thăm dò khai thác được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) ký với các nhà thầu nước ngoài từ đầu năm đến nay, hai tập đoàn dầu khí lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam là BP và ConocoPhillips cũng đang xúc tiến các kế hoạch mở rộng hoạt động.
Tổng giám đốc BP Việt Nam, nói với báo giới rằng BP muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để có thể triển khai hiệu quả một số dự án mới và mở rộng các dự án hiện hữu trong 10 năm tới. BP tính toán họ và các đối tác sẽ cần khoảng 2 tỉ Đôla Mỹ, trong đó phần đầu tư của BP ước tính sẽ chiếm khoảng 1 tỉ Đôla. Nguồn vốn này sẽ được đầu tư vào việc nâng công suất khai thác mỏ khí Lan Tây & Lan Đỏ (lô 6.1), phát triển thêm mỏ khí Hải Thạch & Mộc Tinh (lô 5.2 và 5.3) và xây dựng một nhà máy điện tiêu thụ khí tại Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện tại BP đang là nhà thầu điều hành dự án khí Nam Côn Sơn, có tổng vốn đầu tư 1,3 tỉ Đôla, và nắm 35% cổ phần khai thác tại lô 6.1 của dự án này. Lô 6.1 hiện có công suất khai thác là 3 tỉ mét khối khí/năm. Tổng giám đốc BP cho biết BP đang có kế hoạch đầu tư mở rộng giàn khoan khai thác để nâng công suất khai thác của lô 6.1 thêm 50% so với công suất thiết kế ban đầu vào giữa năm sau, nhằm tăng sản lượng cung cấp khí thiên nhiên cho các nhà máy điện vào năm 2010. Các đối tác đầu tư của BP tại lô 6.1 là ONGC (Ấn Độ) với 45% cổ phần và PetroVietnam với 20% cổ phần.
Ngoài ra, công ty cũng đang trong quá trình thảo luận để sớm triển khai dự án phát triển lô 5.2 và 5.3, nằm kế bên lô 6.1 với mục tiêu đưa khí vào bờ vào cuối thập kỷ này (2010). Mặc dù chưa xác định được số tiền đầu tư vào mỏ khí này nhưng BP cho biết đã đạt được sự nhất trí với các bên liên quan về lộ trình thực hiện cũng như những thỏa thuận cần được ký kết để có thể triển khai dự án.
Đầu năm 2007, BP, PetroVietnam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công nghiệp (MOI) đã ký một biên bản hợp tác để phát triển một trung tâm điện lực tại Nhơn Trạch sử dụng khí khai thác từ lô 5.2 và 5.3. Trung tâm điện lực Nhơn Trạch dự kiến sẽ tiêu thụ 2,5 tỉ mét khối khí/năm và có công suất là 2.640 MW.
Tại đây, BP cũng có kế hoạch xây dựng một nhà máy điện với công suất gần tương đương với nhà máy điện Phú Mỹ 3 tại Bà Rịa - Vũng Tàu, để tạo thị trường tiêu thụ khí cho lô 5.2 và 5.3
Bên cạnh việc khai thác các mỏ khí và xây dựng nhà máy điện, BP cho biết họ cũng đang làm việc với các đối tác Việt Nam về khả năng đầu tư vào việc sản xuất khí hóa lỏng (LPG), một phân khúc thị trường rất có tiềm năng đối với chiến lược kinh doanh của công ty tại Việt Nam.
Tập đoàn Dầu khí ConocoPhillips (Mỹ), hiện nay đang là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng số vốn giải ngân trong 10 năm qua đã lên tới 1 tỉ Đôla Mỹ, gần đây cũng tuyên bố trong 10 năm tới sẽ đầu tư tiếp khoảng hơn 1 tỉ Đôla cho các dự án khai thác dầu tại Việt Nam.
ConocoPhillips cho biết trong năm nay, công ty sẽ đầu tư khoảng 115 triệu Đôla để phát triển lô 15.1 bao gồm các mỏ dầu Sư Tử Đen, Sư Tử Trắng, Sư Tử Vàng và Sư Tử Nâu. Hiện tại mỏ Sư Tử Đen có công suất khai thác 70.000 thùng dầu/ngày và là mỏ dầu có công suất khai thác lớn thứ ba tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, ConocoPhillips nắm giữ 23,25% cổ phần khai thác tại lô 15.1; 36% tại lô 15.2; 70% tại lô 133 và 134; 50% tại lô 5.3 và 16,33% tại dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn. Đại diện của ConocoPhillips tại Việt Nam cho biết khoản đầu tư trong 10 năm tới của tập đoàn này tại Việt Nam sẽ tập trung vào các dự án phát triển mỏ mà công ty có cổ phần khai thác.
Như vậy riêng vốn của hai tập đoàn dầu khí lớn là BP và ConocoPhillips đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí dự tính sẽ đạt hơn 2 tỉ Đôla trong vòng 10 năm tới. Các chuyên gia kinh tế nước ngoài dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí, một lĩnh vực sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn cả, sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Doanh thu từ ngành này hiện đang chiếm trên 25% tổng thu ngân sách của Việt Nam.
Hiện tại có khoảng 29 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực tại Việt Nam, bao gồm ba hợp đồng mới được ký kết cho bốn lô thuộc bể Phú Khánh trong nửa đầu năm nay, với sự góp mặt của hầu hết các tập đoàn dầu khí đứng đầu trên thế giới. PetroVietnam cho biết trong thời gian tới sẽ tiếp tục ký kết các hợp đồng đang mời thầu còn lại với các công ty nước ngoài.
Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu khí nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn vào ngành dầu khí.
2. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian qua.
2.1. Những kết quả đạt được.
Như vậy. bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí và nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước ngoài, công tác đào tạo cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá thuận lợi vào ngành dầu khí thế giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán luôn đạt được những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt mức kế hoạch đề ra. Theo báo cáo giữa nhiệm kỳ của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PV), từ năm 2006 đến 2008, PV đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó các mặt thăm dò tìm kiếm dầu khí đã phát hiện thêm 11 phát hiện dầu khí mới, ký 33 hợp đồng dầu khí trong nước và nước ngoài.
Về khai thác đưa thêm 7 mỏ vào khai thác mới, tổng sản lượng đạt 69,82 triệu tấn quy dầu. Về công nghiệp khí điện hoàn thành đưa vào vận hành đường ống dẫn khí PM3 Cà Mau, Phú Mỹ- Nhơn Trạch, điện Cà Mau 1-2, Nhơn Trạch… Công nghiệp chế biến dầu khí đạm Phú Mỹ vận hành ổn định, cung cấp 35% nhu cầu đạm cho sản xuất trong nước, đạt 45% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Lĩnh vực dịch vụ dầu khí như dịch vụ kỹ thuật, khoan, xây lắp, tài chính, bảo hiểm tốc độ tăng trưởng trên 20% năm đạt mục tiêu đề ra. Doanh thu của tập đoàn năm 2006-2008 đạt 689 ngàn tỷ đồng, bằng 134% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Xuất khẩu PV đạt 29 tỷ USD. Thời báo Tài Chính Việt Nam, 6/11/2008, Thế Hùng Petrovietnam không hoàn thành kế hoạch khai thác dầu khí. Thời tiết xấu, thị trường vật tư tăng cao, trạng thái khai thác ở một số mỏ phức tạp… là nguyên nhân khiến Petrovietnam không hoàn thành mục tiêu… Tại cuộc họp giữa kỳ mới đây đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giai đoạn 2006-2010, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã thừa nhận không hoàn thành mục tiêu kế hoạch khai thác dầu khí đề ra cho giai đoạn 2006-2008. Theo Petrovietnam, do trạng thái khai thác ở một số mỏ diễn biến hết sức phức tạp, thời tiết diễn biến xấu, sản lượng khai thác từ các giếng ở các mỏ mới đưa vào khai thác không đạt được mức như dự kiến; cùng với diễn biến nóng của thị trường vật tư, dịch vụ dầu khí trên thế giới đã làm ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch sản lượng.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác cũng làm ảnh hưởng tới mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2006-2008 chính là do công tác mua các mỏ dầu khí ở nước ngoài tuy đã có cố gắng nhưng cơ hội đầu tư không nhiều và khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao nên từ năm 2006 đến tháng 9/2008. Petrovietnam không mua được một mỏ dầu nào của nước ngoài. Tuy nhiên, do giá dầu thô trong những năm qua luôn giữ ở mức cao nên với tổng sản lượng khai thác đạt 69,82 triệu tấn dầu qui đổi trong giai đoạn 2006-2008 (thấp hơn 5,91 triệu tấn so với kế hoạch), kim ngạch xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước vẫn hoàn thành trước thời hạn 2 năm. Dự kiến, đến hết năm 2008, Petrovietnam đạt kim ngạch xuất khẩu 28,7 tỷ USD, bằng 137% kế hoạch 5 năm 2006-2010 và nộp ngân sách nhà nước trên 16,5 tỷ USD bằng 134% kế hoạch 5 năm đề ra.
2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu khí ở nước ta.
Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những kết quả to lớn mà ngành dầu khí đã làm được, vẫn tồn tại những sai sót hạn chế trong vấn đề huy động vốn vào ngành và đưa ra một số đánh giá sơ bộ về tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam. Được hình thành từ việc tổ chức lại Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, chỉ trong 2 năm, PVN đã nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức với 4 tổng công ty TNHH 1 thành viên, 9 tổng công ty cổ phần, 4 công ty TNHH, 5 công ty cổ phần, 1 công ty liên doanh, 1 viện nghiên cứu và 6 ban quản lý dự án. Với mô hình mới này, PVN đã cơ bản khắc phục được những tồn tại của mô hình tổng công ty trước đây. Quan hệ giữa tập đoàn với các đơn vị thành viên không còn mang tính hành chính, vai trò điều hành về chiến lược, công nghệ, thị trường của tập đoàn với các đơn vị thành viên được thực hiện sát sao hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, cơ chế tài chính mới cũng đã tạo điều kiện cho tập đoàn phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của ngành dầu khí…
Tuy nhiên, PVN hiện cũng gặp không ít những khó khăn và vướng mắc. Về cơ cấu tổ chức và quản lý, hiện nay, PVN đang thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động dầu khí, đầu tư tài chính vào các công ty thành viên, thực hiện việc điều tiết sản xuất, kinh doanh ở các đơn vị thông qua người đại diện phần vốn của nhà nước, còn các hoạt động sản xuất được giao cho đơn vị thành viên trực tiếp thực hiện. Cách làm này chỉ thực sự phù hợp cho giai đoạn đầu khi mới hình thành. Kinh nghiệm của các tập đoàn dầu khí thành công ở trong khu vực và trên thế giới cho thấy, để hoạt động hiệu quả và thành công thì về lâu dài tập đoàn (công ty mẹ) cần phải có hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.
Một vấn đề nữa là việc đầu tư của các đơn vị thành viên. Nhiều đại biểu cho rằng, phần lớn đơn vị thành viên đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, lựa chọn mô hình kinh doanh đa ngành, do đó đã không tránh khỏi sự trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của mình, dẫn đến tình trạng việc đầu tư không hiệu quả. Một vướng mắc nữa là nguồn quỹ phúc lợi của tập đoàn bị hạn chế (do không có quỹ tập trung của toàn tập đoàn). Điều này khiến cho tập đoàn không có nguồn quỹ để động viên, khen thưởng, khích lệ tinh thần làm việc của người lao động, dễ dẫn đến tình trạng biến động lao động, nhất là đối với các nhân sự bậc cao… Nhiều đại biểu cho rằng, nhà nước nên sớm có quy định cụ thể về cơ chế tài chính đối với các tập đoàn kinh tế, nên để các tập đoàn hoạt động theo mô hình của một doanh nghiệp, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì hiệu quả mang lại sẽ cao hơn.
Trong vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành, mặc dù những năm gần đây Nhà nước rất quan tâm đến phát triển công nghiệp dầu khí và tích cực kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò khai thác, chế biến dầu khí. Song cần thẳng thắn thừa nhận rằng, môi trường đầu tư nước ta chưa có sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Trong số những mặt tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam có lẽ trước hết cần nhắc nhở tới sự thiếu quy hoạch dài hạn và rõ ràng về ngành và về sản phẩm. Từ đó dẫn tới những chính sách hạn chế và thay đổi trong một số lĩnh vực, rất khó lường trước đối với các nhà đầu tư. Thứ hai là chi phí đầu tư tại Việt Nam tuy đã có xu hướng giảm xuống, nhưng so với các nước trong khu vực thì tính cạnh tranh vẫn còn thấp. Thứ ba là việc hạn chế cho việc chấp hành luật pháp chưa nghiêm, vận dụng luật pháp chưa nhất quán giữa các ngành, các cấp. Đặc biệt trong bối cảnh đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế việc am hiểu và vận dụng các điều khoản của các hiệp định quốc tế song phương và đa phương còn không ít bất cập không chỉ có các cơ quan địa phương mà còn ở các cơ quan quản lý ở TW. Ngoài ra vẫn còn không ít vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, nhất là thuế tài nguyên và thuế lợi tức.
Bên cạnh những hạn chế trong môi trường đầu tư của Việt Nam, đã làm giảm các nhà đầu tư vào Việt Nam. Một hạn chế lớn trong vấn đề huy động vốn vào ngành dầu khí là: Giá dầu hiện nay đang biến động nên khiến các nhà đầu tư nước ngoài thường chú trọng đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm khai thác dầu thô ở Việt Nam rồi mang dầu thô ra nước ngoài tinh lọc hóa dầu. Ngành dầu khí là ngành cần đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị, đầu tư công nghệ thì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư. Còn nguồn vốn trong nước thì hạn hẹp nên vấn đề huy động vốn vào hệ thống công nghiệp lọc hoá dầu còn rất hạn chế.
Chính vì thiếu nguồn vốn, hơn nữa nguồn vốn huy động vào ngành sử dụng không còn phù hợp trong các lĩnh vực của ngành dầu khí, nên ngành dầu khí nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Một đất nước bán nguyên liệu để nhập thành phẩm là một nước lạc hậu và Việt Nam đang là nước bán dầu thô để nhập từng lít xăng. Mặc dù đề án lọc dầu ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm, trước cả khi thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Lợi nhuận biên của công nghiệp lọc dầu rất thấp nên việc huy động vốn nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, một liên doanh giữa PetroVietnam và Zarubeznheft (Nga) với tỷ lệ góp vốn 50/50 đã được Bộ Kế hoạch & Đầu tư cấp giấy phép và đi vào hoạt động từ 28/12/1998 nhưng trong điều hành triển khai gặp nhiều trắc trở nên chính phủ đã quyết định tự đầu tư từ cuối năm 2002. Vì vậy PetroVietnam phải phấn đấu nỗ lực rất cao mới hy vọng hoàn thành đúng tiến độ xây dựng do nhà nước quy định. Dự án khu liên hợp lọc hoá dầu số 2 ở Nghi Sơn-Thanh Hoá có công suất 7 triệu tấn/năm, báo cáo nghiên cứu khả thi đã được chính phủ phê duyệt trong tháng 8/2002 nhưng hình thức đầu tư còn chưa xác định PetroVietnam còn đang trong giai đoạn tìm kiếm đối tác. Do đó mục tiêu đưa nhà máy này vào hoạt động trong năm 2008 như trước đây đã công bố có chưa thực hiện được. Tất cả những điều nói trên có nghĩa là Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ 21 sẽ vẫn bán dầu thô và nhập sản phẩm xăng dầu.
Trong lĩnh vực hoá dầu cho đến nay mới có hai dự án sản xuất nhựa PVC công suất 100 000 tấn/ năm và dự án sản xuất DOP công suất 30 000 tấn/năm đã đi vào sản xuất. Còn tất cả các dự án khác, như chế biến Condensat thành xăng thương phẩm (công suất 270 000 tấn/năm), dự án đạm Cà Mau, các dự án polypropylen (m3), LAB (công suất 30 000 tấn/năm)... đều trong giai đoạn triển khai xây dựng hoặc đang lập báo cáo khả thi. Nói cách khác tất cả đều đang ở phía trước và đang cần nguồn vốn lớn để đầu tư vào ngành lọc hoá dầu, hy vọng ngành lọc hoá dầu sẽ vươn lên đúng với tầm vóc mà nó phải có để góp phần vào phát triển ngành dầu khí xứng đáng là ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Muốn vậy, Việt Nam cần có các giải pháp cơ bản để huy động vốn và có định hướng để phát triển ngành dầu khí trong thế kỷ 21 này.
Chương III: Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam.
1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới.
Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế, việc hội nhập thành công và phát triển đều tuỳ thuộc vào sự nổ lực vươn lên của từng quốc gia, từng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, ngành Dầu khí đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển của mình từ nay đến năm 2020 là: phấn đấu xây dựng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phát triển toàn diện, trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động đa chức năng, tham gia tích cực vào quá trình hợp tác khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu năng lượng, sản phẩm hoá dầu cho nền kinh tế trong thế kỷ 21, đồng thời góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Dựa trên nhu cầu thị trường, cân đối với nguồn nguyên liệu và khả năng phát triển của Tập đoàn Dầu Khí, các hoạt động trong lĩnh vực hoá dầu theo Chiến lược phát triển ngành Dầu khí sẽ được phát triển theo 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn tới 2010:
Xây dựng Cụm hoá dầu số 1 gắn với nguyên liệu từ NMLD Dung Quất, bao gồm nhà máy sản xuất PP (chất dẻo). Chuẩn bị để đầu tư xây dựng các nhà máy hoá dầu khác (như muội than, LAB) trong giai đoạn tiếp theo.
Khai thác Cụm hoá dầu số 2 tại Đông Nam Bộ từ các dự án Nhà máy sản xuất phân đạm, nhà máy sản xuất PVC, nhà máy sản xuất DOP…(đã đi vào hoạt động). Bắt đầu triển khai xây dựng tổ hợp hoá dầu sản xuất etylen từ condensat/naphtha trong Cụm hoá dầu số 2 để sản xuất olefin làm nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất PE, PP để có thể đưa vào hoạt động cuối năm 2011.
Xây dựng Nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau.
- Giai đoạn 2011-2015
Tiếp tục phát triển Cụm hoá dầu số 2 tại Đông Nam Bộ theo hướng: Đa dạng hoá sản phẩm Nhà máy đạm Phú Mỹ, dự án sản xuất xơ sợi tổng hợp (PET)
Xây dựng Cụm hóa dầu số 3 với Liên hợp LHD Nghi Sơn Thanh Hoá, bao gồm các nhà máy sản xuất chất dẻo (PP), xơ sợi tổng hợp (PET) và một số sản phẩm hóa dầu khác.
- Giai đoạn 2016-2025
Tiếp tục phát triển Cụm lọc hoá dầu số 2 và 3
Nghiên cứu khả năng mở rộng tổ hợp hoá dầu miền Nam hoặc xây dựng tổ hợp hoá dầu mới từ khí nếu có đủ nguồn nguyên liệu.
Trong thời gian tới, theo Chiến lược phát triển, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trong lĩnh vực hoá dầu với tư cách là người cung cấp nguyên liệu và chủ đầu tư chính.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò Dầu khí, nhằm sớm xác định tiềm năng Dầu khí của đất nước, làm cơ sở cho viẹc hoạch định, chiến lược phát triển ngành Dầu khí. Tích cực gia tăng sản lượng khai thác Dầu khí, góp phần đảm bảo ngân sách quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát triển toàn diện ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Đảm bảo thoả mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.
Phát triển ngành công ngiệp khí đầy tiềm năng của đất nước, khuyến khích để mở rộng thị trường tiêu thụ khí, xây dựng và vận hành hệ thống đường ống dẫn khí quốc gia, tham gia liên kết vào hệ thống đường ống đường ống dẫn khí khu vực, nhằm đảm bảo phát triển ổn định ngành công nghiệp khí, thoả mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.
Đẩy mạnh khâu chế biến Dầu khí, nhằm từng bước đảm bảo an ninh nhiên liệu cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho ngành công nghiệp dệt may, sản xuất phân đạm cho nông nghiệp, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác, dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp,...
Phát triển công tác thương mại, tài chính và dịch vụ Dầu khí. Tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường kinh doanh dầu thô và sản phảm dầu khí quốc tế. Đảm bảo cung cấp 60_70% dịch vụ cho nhu cầu công nghiệp Dầu khí. Song song với phát triển dịch vụ kỹ thuật trong ngành, tạo điều kiện hỗ trợ các đơn vị thuộc các Bộ, ngành, địa phương tham gia ngày càng nhiều vào cung cấp dịch vu cho Dầu khí.
Từng bước phát triển hoạt động ra nước ngoài cả về thăm dò, khai thác dịch vụ và thương mại, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp Dầu khí lâu dài cho đất nước.
Đẩy mạnh phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, sớm tiếp cận với trình độ chung của cộng đồng Dầu khí khu vực và thế giới.
Phát huy nội lực, kết hợp với tăng cường hợp tác đầu tư nước ngoài theo nhiều hình thức, hội nhập bình đẳng vào cộng đồng Dầu khí khu vực và quốc tế.
Phát triển các dự án dầu khí trọng điểm góp phần làm động lực phát triển cho những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước: Miền Bắc, miền Trung, khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, với tri thức kinh nghiệm và cơ sở vật chất đã tích luỹ được, Tập đoàn dầu khí Việt Nam tin tưởng sẽ hoàn thành những nhiệm vụ do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, góp phần tích cực trong quá trình CNH - HĐH nền kinh tế đất nước, hội nhập bình đẳng với ngành công nghiệp Dầu khí khu vực và thế giới trong thế kỷ 21.
2. Những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển ngành Dầu khí.
Mặc dù Đại hội IX đã đưa ra những định hướng cho phát triển ngành Dầu khí. Song để thực hiện được những định hướng đó, không phải là vấn đề một sớm một chiều. Vì vậy ta cần nắm bắt những cơ hội đồng thời phải vượt qua những thách thức, mới hy vọng đạt được những định hướng đề ra.
Những cơ hội mà ta cần nắm bắt đó là: hiện nay chưa có một nguồn năng lượng nào thay thế được nguồn năng lượng Dầu khí, cho nên phát triển ngành công nghiệp Dầu khí là vấn đề mà cả thế giới quan tâm, đặc biệt là các nước phát triển. Đối với Việt Nam có các mỏ lớn đã và đang khai thác, nếu ta có các biện pháp, chính sách kêu gọi các nhà đầu tư thì trong tương lai không xa sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào phát triển ngành Dầu khí tương xứng với tiềm năng của nó. Ngoài ra, như ta đã biết ngành Dầu khí là ngành cần sự đầu tư khoa học công nghệ, mà thế kỷ 21 này là thế kỷ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri trức, rất nhiều công nghệ mới ra đời, làm cho những điều trước đây 10 năm còn cho là viễn tưởng thì nay trở thành hịên thực. Nếu như trước đây vấn đề phát triển các lĩnh vực trong ngành Dầu khí là khó khăn do thiếu máy móc thiết bị thì ngày ngày nay vấn đề khó khăn đó đã được đáp ứng. Điều quan trọng là chúng ta làm thế nào để có được khoa học công nghệ đó và vận dụng như thế nào cho phù hợp với tình hình phát triển ngành Dầu khí hiện nay của đất nước.
Cơ hội là vậy, song thách thức cũng không nhỏ. Thực vậy, qua một quá trình tìm kiếm thăm dò, các mỏ Dầu khí ở vị trí địa lý thuận lợi hầu như đã phat hiện gần hết nên địa bàn thăm dò chuyển sang những vùng đầy khó khăn như vùng biển sâu, vùng hoang vu, hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Việc khai thác các mỏ hiện đang hoạt động ngày cũng càng khó khăn vì trữ lượng đi vạo cạn kiệt, đòi hỏi phải áp dụng công nghệ kỹ thuật phức tạp để tăng hệ số thu hồi dầu, tìm thêm các tầng Dầu khí mới thường là ở rất sâu hoặc kích thước bé.
Dầu khai thác được đưa đến các nhà máy lọc dầu để chế biến. Phần lớn các nhà máy này đã được xây dựng từ lây nên công nghệ trở thành lạc hậu, chi phí sửa chửa bảo dưỡng cũng tăng cao hoặc phải xây dựng nhà máy lọc dầu mới rất tốn kém.
Tương tự như vậy, việc vận chuyển dầu thô hoặc các sản phẩm lọc dầu trong bối cảnh những yêu cầu về an toàn và bảo vệ môi trường ngày càng nghiêm ngặt, đòi hỏi phải hoán cải hoặc đóng mới các phương tiện vận tải và xây dựng lại kho tàng.
Tất cả những điều đó đòi hỏi phải sử dụng công nghệ ngày càng hiện đại hơn, đầu tư lớn hơn, bao gồm cả đầu tư phát triển hạ tầng, cho nên giá thành sẽ cao.
Những yếu tố nói trên cộng thêm vói các yếu tố thời tiết, đầu cơ hoặc chính trị càng làm cho giá dầu khí chao đảo, biến thiên không thể kiểm soát được, tác động xấu đến quá trình phát triển kinh tế bình thường.
Thách thức lớn nhất đối với các mục tiêu đã nêu trên là làm sao thông qua công tác thăm dò có thể gia tăng trữ lượng xác minh trong lúc vốn đầu tư cho nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò hạn hẹp và cấu trúc địa chất của ta phức tạp làm cho tiềm năng Dầu khí tích tụ thành mỏ có giá trị thương mại không cao.
Như vậy, nước ta cần có những chính sách, luật lệ và cách thức làm ăn hấp dẫn hơn các nước trong khu vực thì mới có thể thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
Một vấn đề hết sức cấp thiết nữa được đặt ra là phải đầu tư cho các đơn vị nghiên cứu, các cộng ty thăm dò khai thác của Việt Nam để họ có thể tiếp thu, sử dụng công nghệ tiên tiến và luôn đổi mới đẻ tự lực phần lớn trong công tác thuộc phạm trù điều tra cơ bản này mới có thể chủ đọng đưa mục tiêu, ước mơ thành hiện thực.
Công nghệ khai thác của ta cần phải nâng cấp toàn diện để đưa hệ số thu hồi dầu lên mức 40-50% hoặc cao hơn như ở các nước khác. Điều này lại càng đặc biệt có ý nghĩa đối với lượng dầu khổng lồ còn nằm trong móng nứt nẻ, một đối tượng mà sự hiểu biết của chúnh ta còn rất hạn hep, cũng như các mỏ nhỏ, mỏ biên mà sắp tới sẽ đưa vào khai thác.
Đối với khí đốt, chúng ta có may mắn là trữ lượng đã xác minh khá dồi dào. Như thế trong tương lai gần như thách thức lớn không phải ở phía công nghệ mà là thị trường tiêu thụ và vốn đầu tư, đặc biệt cho cơ sở hạ tầng không phải chỉ cho bản thân công nghiệp khí đốt mà cả cho các ngành công nghiệp sử dụng khí đót làm nhiên liệu và nguyên liệu.
Trong 10 năm tới, hàng loạt mỏ mới sẽ đưa vào khai thác, nhiều đường ống dãn khí từ các bể Nam Côn Sơn, Cửa Long, Mã lai-Thổ Chu. Cũng như đường ống liên ASEAN sẽ được xây dựng. Điều này có thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào vấn đề thị trường tiêu thụ có được giải quyết hay không. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có quyền hy vọng vì tốc độ phát triển kinh tế nếu giữ được ở mức 5-7% thì áp lực đó sẽ trở thành động lực để phát triển công nghiệp khí đốt Việt Nam đúng tầm cỡ mong muốn.
Trong lĩnh vực lọc dầu, hoá dầu, dịch vụ, thương mại, cũng như đã đề cập đến ở trên, thach thức lớn nhất vẫn là vốn đầu tư. Tuy nhiên, với sự quan tâm của Chính phủ cùng với việc thành lập công ty Tài chính Dầu khí cũng như chủ trương cổ phần hoá, thách thức này chắc chắn sẽ được vượt qua và các mục tiêu sẽ thành hiện thực.
3. Những yêu cầu đặt ra để huy động vốn có hiệu quả.
Huy động vốn đã khó, sử dụng nguồn vốn huy động được sao cho hiệu quả lại càng khó hơn. Vì vậy tính hiệu quả trong huy động vốn là rất quan trọng. Ta có thể xác định tính hiệu quả của việc huy động vốn qua những tiêu thức sau:
Mức độ đáp ứng mục tiêu của việc huy động vốn: có thể đạt được mục tiêu đã đề ra ở mức độ nào.
Mức độ chi phí cho nguồn vốn huy động: chi phí sử dụng nguồn vốn huy động (kể cả chi phí giao dịch để huy động vốn).
Để việc huy động vốn đạt được hiệu quả cao, cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời. Thông thường, khi có nhu cầu về vốn bổ sung, tìm nguồn vốn để giải quyết nhu cầu đó, tuy nhiên, nếu việc cung ứng vốn không đúng thời điểm, thời cơ đầu tư thì nguồn vốn đó sẽ mất ý nghĩa, hoặc làm giảm khả năng thu lợi ích từ các hoạt động đầu tư kinh doanh. Vì vậy, cải tiến các thủ tục hành chính phức tạp trong các quy trình giao dịch về vốn là mong muốn của các ngành kinh tế nói chung. Nhiều khi một số ngành phải chấp nhần một tỷ lệ lãi suất cao hơn rất nhiều trên thị trường tài chính phi chính thức để có được nguồn vốn kịp thời vì nếu không vay kịp vốn thì nguồn vốn “rẻ” trở nên “đắt”, có thể làm cho các kết quả dự tính trong các phương án kinh doanh giảm đi dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ.
Thứ hai, cần lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả cao nhất trong những điều kiện nhất định. Như trên đã trình bày, trong điều kiện thị trường tài chính càng phát triển thì càng có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn vốn khác nhau để phục vụ sản xuất kinh doanh, do đó cần lựa chọn nguồn vốn phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn. Hiệu quả của việc sử dụng các hình thức huy động vốn không chỉ thể hiện ở hiệu quả đầu tư mà nguồn vốn mang lại, mà còn thể hiền ở khả năng dễ dàng tiếp cận và huy động các nguồn vốn, như khả năng làm tăng lời nhuận ròng và lợi nhuận tích luỹ.
Thứ ba, việc huy động vốn cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời gian: Một ý đồ đầu tư, kinh doanh sẽ không thực hiện được nếu không có đủ một lượng vốn nhất định theo nhu cầu được tính toán, do đó khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và tính tương thích về thời gian.
Thứ tư, huy động vốn cần bảo đảm giảm thiểu chi phí giao dịch: Một nguồn vốn lãi suất thấp đôi khi trở nên quá đắt, do chi phí liên quan đến giao dịch về vốn quá cao. Nguyên nhân chi phí giao dịch cao có thể là: thủ tục hành chính phức tạp, quy trình giải ngân phiền toái, chi phí tư vấn cao hoặc đôi khi do quy mô không thích hợp. Vì vậy, các ngành kinh tế cần tuỳ theo lượng vốn cần vay để chọn nguồn vốn phù hợp, vì những nguồn vốn phức tạp sẽ làm cho chi phí giao dịch trên một đồng vốn huy động cao hơn nếu lượng vốn huy động nhỏ. Ngược lại, những dự án lớn có thể có lợi về chi phí cho vốn nếu tìm đến những nguồn vốn có thủ tục phức tạp hơn nhưng lại phải chịu lãi suất thấp hơn.
Riêng đối với ngành Dầu khí, là ngành cần huy động lượng vốn lớn thì hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được càng cần thiết. Sử dụng vốn hiệu quả, càng làm tăng khả năng huy động vốn. Hay nói cách khác, huy động vốn và sử dụng hiệu quả các nguồn huy động được là một trong những biện pháp để huy động vốn mà ta sẽ trình bày sau đây.
4. Những giải pháp cơ bản để huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam.
Như đã trình bày ở trên, một trong những trở ngại lớn nhất đối với vấn đề huy động vốn là môi trường đầu tư Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy việc cải thiện môi trường đầu tư vừa phải tốt hơn trước đây, vừa phải tốt hơn các nước khác trong khu vực là điều cần phải làm. Theo hướng này, một biện pháp quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, đặc biệt liên quan đến FDI nhằm tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, tiến tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Xây dựng cơ chế chính sách mới phù hợp với tình hình trong nước. Với luật FDI đã được sửa đổi và các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam để cải thiện môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư làm ăn có hiệu quả. Từ đó các thủ tục cấp phép đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ đơn giản hoá, các quy định các giấy phép không hợp lý đang cản trở hoạt động của các nhà đầu tư sẽ được bãi bỏ hoặc điều chỉnh.
Cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, đồng thời phải đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của địa phương để giải quyết kịp thời các vướng mắc cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, thông tin,... cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật công nghệ,... là yếu tố quan trọng để tăng tính cạnh tranh của môi trường đầu tư.
Ngoài ra Việt Nam cần phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vệ tinh để kêu gọi đầu tư vào các ngành công nghiệp chính, đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao. Nhất là ngành Dầu khí lại rất cần điều đó.
Nguồn nhân lực chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất kinh doanh , vì vậy cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng làm chủ các công nghệ hiện đại, đáp ứng các yêu cầu của chủ đầu tư, đẩy mạnh công tác đầu tư hướng vào các lĩnh vực trọng điểm, tăng cường cung cấp các thông tin cho các nhà đầu tư.
Những giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư chung là như vậy. Riêng đối với ngành Dầu khí, tuy việc huy động vốn đầu tư còn gặp nhiều trở ngại do chính sách thuế suất và tình hình biến động giá dầu hiện nay. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với việc huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở nước ta là làm sao để vừa khuyến khích các nhà đầu tư, đồng thời giữ vững chủ quyền và không bị thua thiệt.
Trên cơ sở phân tích và trình bày ở trên, nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy đầu tư vào các hoạt động Dầu khí, em xin đề xuất một số giải pháp sau:
Về thuế suất thuế tài nguyên:
Nghị định 84/CP ngày 17/12/1996 của chính phủ quy định chi tiết việc thi hành luật Dầu khí có ghi: “thuế tài nguyên đối với dầu thô được tính trên cơ sở luỹ tiến từng phần của tổng sản lượng dầu thô thực, khai thác trong mỗi kỳ nộp thuế dựa theo sản lượng bình quân mỗi ngày dầu thô khai thác trên toàn bộ diện tích hợp đồng Dầu khí“ và được phân thành hai mức khác nhau tuỳ theo mực nước biển đến 200m và trên 200m. Việc quy định như vậy đã đảm bảo sự hợp lý phân chia quyền lợi giữa các bên. Tuy vậy, thuế suất tài nguyên của Việt Nam còn cao hơn so với các nước trong khu vực và chưa đề cập đến vùng xa khó khăn hay những vùng cần khuyến khích. Mặc dù thời gian gần đây các bộ, ngành đã trình Chính phủ thông qua một số điểm khuyến khích các nhà thầu, nhưng vẫn cần có các quy định bổ sung vào luật Dầu khí hoặc trong các hợp đồng phân chia sản phẩm như:
Đối với mỏ được đánh giá là có trữ lượng lớn thì thuế tài nguyên cần tính theo thang sản lượng khai thác và tỷ suất thuế tài nguyên tăng phần thu của nước chủ nhà.
Đối với phần Dầu khí trả cho Chính phủ dưới hình thức thuế tài nguyên, nếu xuất khẩu thì không phải trả thuế xuất khẩu.
Đối với các mỏ vừa và nhỏ và những mỏ hoạt động trong điều kiện xa bờ thì khi tính tỷ lệ thuế tài nguyên, ngoài việc xác định theo thang bậc, cũng cần bổ sung khung hình tính thuế tài nguyên riêng, nhằm khuyến khích và hấp dẫn nhà đầu tư.
Cho phép các nhà thầu Dầu khí được kéo dài thời hạn hơn trong các hoạt động thăm dò và khai thác tại các khu vực nước sâu, xa bờ, vùng và lô liền kề vùng tranh chấp.
* Về thuế suất thuế lợi tức:
So với các nước đã nói trên thì thuế suất thuế lợi tức quy định trong luật Dầu khí có cao hơn, trong thực tế tuỳ từng hợp đồng phân chia sản phẩm, hay thoả thuận Dầu khí có các tỷ lệ ưu đãi thấp hơn.
Trong hoạt động Dầu khí cả nước chủ nhà và nhà đầu tư đều quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh với những góc độ khác nhau. Các tranh chấp quyền lợi thường xẩy ra, mà quyền lợi tuỳ thuộc vào: các loại thuế, chi phí dầu thu hồi, các chi phí khác... Nếu chi phí cao, trong đó một phần do các loại thuế cao, thì lợi nhuận các bên sẽ thấp. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của quá trình hoạt động Dầu khí, các quy định tài chính và chính sách thuế cũng khác nhau, như trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò sẽ được miễn giảm loại thuế nào, khi khai thác dầu thì các chi phí nào không được tính vào chi phí được thu hồi….
Mục tiêu của đầu tư là mang lại doanh lợi, trong lĩnh vực Dầu khí, để thăm dò và khai thác Dầu khí đòi hỏi lượng đầu tư khá lớn. Thông thường những mỏ vừa và nhỏ cũng phải đầu tư vài trăm triều đô la Mỹ, những mỏ phải hàng tỷ đô la Mỹ. Nhà đầu tư chỉ ứng vốn trong giai đọan tìm kiếm và thăm dò, khi phát hiện ra dầu và đi vào khai thác thương mại thì lúc đó chi phí trang trải hàng năm là từ phần dầu để lại. Việc tính lợi tức của nhà đầu tư là tính lợi tức sau thuế. Cách đánh thuế theo một tỷ lệ cố định như trong luật Dầu khí hay hiệp định Dầu khí hiện nay có những mặt hạn chế nhất định. Theo luật Dầu khí thì thuế suất thuế lợi tức là 50%. Nên chăng để khuyến khích đầu tư thăm dò và khai thác những mỏ nhỏ, hoặc những mỏ xa bờ, có nhiều khó khăn cần điều chỉnh và bổ sung luật Dầu khí và nên áp dụng cách đánh thuế luỹ tiến, làm đòn bẩy kinh tế khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn vào những cấu tạo được coi là khó khăn tại thềm lục địa Việt Nam .
Cuối cùng, em xin đưa ra một số giải pháp chung để chúng ta cùng nhau xem xét:
Một là: Vấn đề chuyển nhượng vốn hay cổ phần, theo điều 34 Luật đầu tư nước ngoài quy định đối với các nhà đầu tư nước ngoài cần đặt ra một cách cụ thể hơn.
Hai là: Chi phí đào tạo trong các hợp đồng Dầu khí cần được chú trọng hơn.
Ba là: Cần có cơ chế đầu tư trong điều kiện biến động của giá dầu. Cụ thể:
Kịp thời bổ sung luật Dầu khí cho phù hợp, nhằm thu hút vốn đầu tư đảm bảo lợi ích nhà đầu tư đồng thời đảm bảo chủ quyền lợi ích quốc gia ở mức quốc gia ở mức cao nhất.
Hoàn thiện các mô hình phân chia sản phẩm và các định chế kinh tế tài chính trong các hoạt động thăm dò và khai thác Dầu khí. Theo thông lệ quốc tế thì trước khi ký kết hợp đồng hay hiệp định nước chủ nhà và các nhà đầu tư phải tính toán kỹ càng đưa ra những quyết định chấp nhận phân chia quyền lợi các bên và khi tính dự án đầu tư, phía đầu tư phải tính thời gian thu hồi vốn, lợi nhuận thu được... vì vậy họ phải tính giá dầu bình quân và dự kiến cho suốt quá trình thăm dò và khai thác.
Cần có qui định bổ sung trong hợp đồng hay hiệp định là khi giá dầu xuống thấp, chi phí duy trì và đầu tư cho các hoạt động Dầu khí vẫn được đảm bảo theo mức kế hoạch của chương trình công tác và ngân sách đã được chấp thuận hàng năm để đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường.
Đối với Vietsovpetro và các nhà thầu khác tuỳ theo giai đoạn phát triển cũng phải để lại tỷ lệ hợp lý và cố định trong một số năm, thường là đi đôi với kế hoạch 5 năm để có kế hoạch kịp thời.
Petro Vietnam có thể hình thành và quỹ bình ổn để bù đắp thiếu hụt khi có biến động của giá dầu. Nguồn hình thành quỹ này có thể trích từ nguồn của các công ty dầu hàng năm hoặc từ lợi nhuận thu được từ các hoạt động Dầu khí khi giá dầu lên cao.
Bốn là: Trên cơ sở vận dụng linh hoạt Luật đầu tư nước ngoài và Luật Dầu khí cần có những quy định phù hợp để có những liên doanh Dầu khí theo hướng như Pertro Vieetnam đã làm thời gian gần đây.
Năm là: Nhà nước cần cho Pertro Vietnam một cơ chế đấu thầu phù hợp với đặc thù của ngành trong việc mua sắm vật tư thiết bị và lắp đặt nhằm đưa nhanh các mỏ vào phát triển và khai thác.
Sáu là: Các luật và nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ và liên bộ cần được thông báo kịp thời để các bên cùng thực hiện nghiêm chỉnh.
Bảy là: Quan tâm hơn đến được kiến nghị của các nhà đầu tư Dầu khí.
Có thể thấy rằng, Việt Nam hịên nay được coi như vùng đất còn mới mẽ cho sự đầu tư cả về địa lý cũng như môi trường pháp lý, cung cách làm ăn, kỹ thuật công nghệ và cơ sở hạ tầng, nhất là trong ngành Dầu khí. Vì vậy, việc khuyến khích và dẫn các nhà đầu tư đang là yêu cầu bức bách đối với chúng ta.
LỜI KẾT
Dầu khí đang và sẽ đóng vai trò nổi bật trong các cân năng lượng. Đối với Việt Nam, là đất nước ổn định về chính trị, an ninh xã hội, được thiên nhiên ưu đãi có nguồn tài nguyên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi. Đặc biệt trong nguồn tài nguyên phong phú ấy các mỏ Dầu khí chiếm một vị trí lớn. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ngành Dầu khí trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để đưa ngành Dầu khí là ngành đầu tàu trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã thực hiện các biện pháp huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí, đặc biệt sự thông thoáng rõ ràng của luật đầu tư nói chung và luật Dầu khí nói riêng đã thu hút nhiều vốn và công nghệ từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực trong phát triển ngành Dầu khí từ thăm dò, tìm kiếm, khai thác đến tinh lọc dầu.
Đương nhiên trên bước đường trưởng thành và hội nhập, ngành Dầu khí là một ngành công nghiệp mang tính tầm cỡ, đòi hỏi vốn lớn công nghệ hiện đại. Nên trong quá trình phát triển, ngành Dầu khí Việt Nam không thể tránh khỏi những vấp váp, yếu kém, thậm chí tiêu cực. Tuy nhiên, như ta đã thấy, những kết quả đã đạt được của ngành trong vấn đề huy động vốn và sự phát triển của ngành những năm gần đây, cộng với những đường lối đúng đắn, những đổi mới trong tư duy, những tiến bộ trong công nghệ và quản lý. Ngành Dầu khí Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển ngày càng nhanh hơn trước và quá trình hội nhập quốc tế sẽ nhanh chóng, để trở thành một ngành công nghiệp hiện đại ngang tầm khu vực.
Với những gì đã đạt được, cùng với những phương hướng giải pháp cho những năm tới như trên, em tin chắc rằng, ngành Dầu khí Việt Nam sẽ phát triển tương xứng với tiềm năng mà nó phải có trong một tương lai không xa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ kế hoạch & đầu tư & Tổng cục thống kê: Kết quả điều tra vốn đầu tư năm 2005. NXB thống kê 2007.
Bộ kế hoạch & đầu tư: - trang web: www.mpi.gov.vn.
Bộ ngoại giao: Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2007
Chính phủ Việt Nam: Tình hinh kinh tế xã hội năm 2006 và nhiệm vụ năm 2007, Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI ngày 17 – 10 – 2006.
Diễn đàn doanh nghiệp – Trang Web:
Kiểm toán Nhà nước: Báo cáo công khai báo cáo kiểm toán 2005 và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước 2006.
Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật doanh nghiệp năm 2003: Nhà xuất bản thống kê.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Báo cáo thường niên 2005, 2006.
Ngô Văn Vượng:Vốn trong quan hệ kinh doanh của doanh nghiệp. Tạp chí kinh tế và dự báo Tháng 6 – 2006.
Niên giám thống kê 2006: Tổng cục thống kê.
PGS.TS Từ Quang Phương: LATS - Hiệu quả đầu tư và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
PGS.TS. Nguyễn Bạch Tuyết, PGS.TS. Từ Quang Phương: Giáo Trình Kinh tế đầu tư. NXBĐHKTQD 2007
PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh: Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển. NXB Chính trị Quốc gia.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (Trích trong bài: “Nhìn lại năm năm sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước”). Năm 2006
Tô Huy Rứa: Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nưởctong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Cộng sản Số 1 (122) năm 2007.
Tổng cục Thống kê, số liệu điều tra 7.580 doanh nghiệp công nghiệp 2005.
Tổng kết kinh tế Việt nam 2001 – 2005: Lý luận và thực tiễn. NXB Đại học kinh tế quốc dân – 2006. Trang 140
Trung tâm Thông tin & Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia. Về năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam, tháng 8.2005.
Viện nghiên cứu kinh tế quản lý Trung ương (CIEM): Kinh tế Việt Nam 2005. NXB Lý luận chính trị.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6379.DOC