LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam gia nhập WTO thì cơ khí càng ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp cơ khí không chỉ cung cấp các sản phẩm tiêu dùng mà còn cung cấp các thiết bị máy móc cho nhiều ngành sản xuất khác. Đặc biệt, trong điều kiện khi đất nước tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì công nghiệp cơ khí càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngay từ khi mới ra đời, ngành công nghiệp cơ khí ở nước ta đã được Đảng và nhà nước xác định là ngành có vai trò then chốt và luôn được ưu tiên phát triển. Tuy nhiên, từ khi bước sang cơ chế thị trường, ngành cơ khí Việt Nam đã bộc lộ nhiều mặt yếu, nhất là về vấn đề khả năng cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành đã không đủ năng lực cạnh tranh với thị trường nước ngoài.
Vì vậy, để ngành cơ khí có thể tồn tại và phát triển để đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước không còn cách nào khác là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí không chỉ ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.
Do tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của ngành cơ khí, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập như hiện nay nên em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam”.
Kết cấu của đề án gồm 3 phần:
Phần I: Tồng quan về vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam trong cơ chế thị trường.
Phần II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam.
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần I: Tổng quan về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí 2
1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp 2
1.1. Thị trường là gì? 2
1.2. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường 2
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3
2. Sản phẩm công nghiệp và thị trường sản phẩm công nghiệp 4
2.1. Sản phẩm công nghiệp 4
2.2. Thị trường sản phẩm công nghiệp 5
3. Những nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh 5
3.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 5
3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành 6
3.3. Nhân tố trong doanh nghiệp 6
4. Một số vấn đề liên quan quản trị nâng cao năng lực cạnh tranh 7
4.1. Lĩnh vực sản xuất 7
4.2. Lĩnh vực Marketing 8
4.3. Lĩnh vực nhân sự 8
4.4. Lĩnh vực tài chính 8
Phần II: Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt Nam 9
1. Đặc điểm ngành cơ khí Việt Nam 9
1.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành cơ khí Việt Nam 9
1.2. Các đặc điểm ngành cơ khí Việt 9
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt 13
3. Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 19
4. Tồn tại và nguyên nhân 22
Phần III: Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cơ khí 24
Kết luận 31
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3110 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trăm doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao và ngược lại.
- Doanh thu: Dựa vào doanh thu có thể đánh giá được khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp là tốt hay không tốt.
- Tỷ suất lợi nhuận: Là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quy mô về vốn: Một doanh nghiệp có tổng vốn kinh doanh lớn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do có điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
- Năng suất lao động: Được đo bằng giá trị sản lượng / một công nhân. Năng suất lao động càng cao càng phản ánh doanh nghiệp có khả năng giảm chi phí, hạ giá thành, do đó có khả năng cạnh tranh càng cao trên thị trường.
- Giá thành sản xuất: Phản ánh khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Giá thành sản xuất càng thấp, giá bán càng giảm, do đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu định tính.
- An toàn trong kinh doanh: Chỉ tiêu chủ yếu về an toàn trong kinh doanh là đa dạng hóa đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chi tiêu này càng cao phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Vị thế doanh nghiệp trên thị trường: Các doanh nghiệp phải xây dựng nhãn hiệu riêng của mình de người tiêu dùng có thể nhan biệt được chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm.
2. Sản phẩm công nghiệp và thị trường sản phẩm công nghiệp.
2.1. Sản phẩm công nghiệp.
Theo quan niệm truyền thống, sản phẩm công nghiệp là tổng hợp các dạng đặc trưng vật ly, hóa học có thể quan sát và được tâp hợp trong một hình thức đồng nhất là vật mang giá trị sử dụng.
Theo quan điểm kinh tế hàng hóa, sản phẩm công nghiệp chứa đựng các thuộc tính hàng hóa. Nó không chỉ là sự tổng hợp các đặc trưng lý hóa và đặc trưng giá trị sử dụng, mà còn là vật mang giá trị trao đổi hay giá trị.
Theo quan điểm Marketing, sản phẩm công nghiệp là một tập hợp đặc trưng vật chất và đặc trưng phi vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường.
2.2. Thị trường sản phẩm công nghiệp.
Dựa vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp công nghiệp với các rhị trường, người ta chia ra thị trường sản phẩm công nghiệp với thị trường các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thực tế, việc phân định thị trường sản phẩm công nghiệp và thị trường các yếu tố sản xuất chỉ mang tính tương đối.
Nếu xem xét theo sự can thiệp của nguời bán đối với giá cả thị trường, thị trường sản phẩm công nghiệp được chia thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh có tính độc quyền, độc quyền nhóm và độc quyền.
Vì công nghiệp có tính điển hình cao, nên đặc điểm thị trường sản phẩm công nghiệp về cơ bản tương tự những đặc điểm của thị trường hàng hóa nói chung. Tuy nhiên, so với các thị trường hàng hóa cụ thể khác, thị trường sản phẩm công nghiệp cũng có một số nét khác biệt.
3. Những nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
3.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
Đây là nhóm nhân tô có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố sau:
- Các nhân tố về mặt kinh tế.
- Các nhân tố về chính trị, luật pháp.
- Các nhân tố về khoa học-công nghệ.
- Các yếu tố về văn hóa-xã hội.
- Các yếu tố tự nhiên.
3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường phức tạp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến cạnh tranh. Sự thay đổi thường diễn ra thường xuyên khó dự báo được và phụ thuộc vào các lực lượng sau đây:
- Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Khi đối thủ cạnh tranh
đông hoặc có nhiều đối thủ thống lĩnh thị trưòng thì cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn.
- Sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường.
- Sức ép của nhà cung ứng: Thông qua sức ép về giá nguyên vật liệu.
- Sức ép của khách hàng: Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp còn bị đe dọa bởi chính năng lực, trình độ nhận thức, khả năng của nguời tiêu dùng.
- Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế: Khi trên thị trường xuất hiện thêm sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất tất yếu sẽ giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
3.3. Nhân tố bên trong doanh nghiệp.
3.3.1. Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực bao gồm:
- Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phòng phó ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ quản lý trực tiếp phân xưởng sản xuất đòi hỏi phải có kinh nghiệm và khả năng hợp tác, ảnh hưởng tới tốc độ sản xuât và chất lượng sản phẩm.
- Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở và cán bộ công nhân viên trực tiếp sản xuất sản phẩm: Đội ngũ ảnh hưỏng trực tíêp đến chất lượng sản phẩm.
3.3.2. Nguồn lực vật chất.
Máy móc, thiết bị và công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến năng lực của doanh nghiệp, nó là nhân tố quan trọng nhất thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm, chất lượng của sản phẩm và giá thành của sản phẩm. Do vậy, khả năng cạnh tranh sẽ tốt hơn.
3.3.3. Nguồn lực tài chính.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp quyết định tới việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phố của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính sẽ có điều kiện để đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Như vậy, doanh nghiệp sẽ duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường.
4. Một số vấn đề liên quan đến hoạt động quản trị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
4.1. Đối với lĩnh vực sản xuất.
Sản xuất là việc sử dụng con người lao động để tác động lên các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để làm ra các sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường.
Lĩnh vực này gồm các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hoạch định chương trình
- Xây dựng kế hoạch sản xuất
- Điều khiển quá trình sản xuất
- Kiểm tra chất lượng
Lĩnh vực sản xuất có vai trò rất quan trọng. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ góp phần to lớn vào việc sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu, thiết bị, mày móc và sức lao động trong quá trình sản xuất. Từ đó, có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất.
4.2. Đối với lĩnh vực Marketing.
Nhiệm vụ chung của quản trị Marketing là: nghiên cứu khách hang và thị trưòng để trên cơ sở đó đề ra các chiến lược về thị trường, về sản phẩm, tiêu thụ … Cụ thể bao gồm những nội dung sau:
- Nghiên cứu các thông tin về thị trường
- Hoạch định chính sách sản phẩm
- Hoạch định chính sách giá cả
- Hoạch định chính sách phân phối
- Chính sách hỗ trợ tiêu thụ
4.3. Đối với lĩnh vực nhân sự.
Quản trị nhân sự là một tập hợp các biện pháp của chủ thể quản trị tác đông lên đối tượng bị quản trị nhằm thực hiện tốt nhất những nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải chú ý thỏa đáng đến lợi ích của người lao động cũng như đến sự phát triển mọi mặt của người lao động.
Nội dung của hoạt động quản trị nhân sự gồm:
- Tuyển dụng nguồn nhân sự
- Sử dụng nguồn nhân lực
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
4.4. Đối với lĩnh vực tài chính.
Quản trị tài chính là việc lập kế hoạch, điều khiển và kiểm tra các dòng lưu thông của các phương tiện tài chính của doanh nghiệp.
Nội dung của quản trị tài chính gồm:
- Huy động vốn
- Sử dụng vốn
- Quản lý vốn
Mục đích của quản trị tài chinh là nhằm sử dụng vốn một cách có hiệu quả để thu lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp, bảo đảm khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn, bảo đảm an toàn tài chính…
PHẦN II
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CƠ KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đặc điểm của ngành cơ khí Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển ngành cơ khí ở Việt Nam.
Ngành công nghiệp cơ khí ở nước ta có một lịch sử phát triển trên 50 năm và luôn được Đảng và nhà nước ta xác định là một ngành công nghiệp then chốt. Năm 1970, giá trị sản lượng cơ khí chiếm 12% giá trị sản lượng của toàn ngành công nghiệp. Từ sau năm 1985, ngành công nghiệp cơ khí chịu ảnh hưởng bởi chính sách đổi mới kinh tế. Các dòng hàng hóa và thương mại đã thay đổi và phương thức trợ cấp trực tiếp trước đây từ nhà nước cho ngành cơ khí đã giảm. Kết quả là, nhiều doanh nghiệp cấp huyện, cấp tỉnh bị tan rã hoặc hợp nhất hoặc giao lại cho trung ương quản lý. Số lượng các doanh nghiệp cơ khí quốc doanh giảm từ 610 doanh nghiệp năm 1985 còn 463 doanh nghiệp năm 1996.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê gần đây, cả nước có khoảng 53.000 cơ sở sản xuất cơ khí. Trong đó, có 50% là các cơ sở cơ khí chế tạo, lắp ráp, còn lại là các cơ sở sửa chữa. Có 450 doanh nghiệp quốc doanh, 1.250 cơ sở sản xuất tập thể và 156 xí nghiệp tư doanh, còn lại là cơ sở cá thể nhỏ lẻ. Tổng số vốn của ngành CK quốc doanh vào khoảng 360-380 triệu USD, tổng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài (FDI) vào ngành cơ khí vào khoảng 2,1 tỷ USD, trong đó hơn 50% tập trung vào lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy và các mặt hàng tiêu dùng khác. Khoảng 224000 lao động đang làm việc trong ngành cơ khí, trong đó có khoảng 10000 người có trình độ đại học và trên đại học.
Các đặc điểm của ngành cơ khí Việt Nam.
Đặc điểm về tổ chức ngành.
Hiện tại về mô hình tổ chức và lực lượng sản xuất ngành cơ khí Việt Nam được tập hợp và phân quyền theo quản lý chủ yếu trong 3 khu vực:
- Cơ khí quốc doanh: Theo quyết định số 90 và 91 của Thủ tướng chính phủ vào năm 1990 gồm có: 01 Tổng công ty 91 và 07 Tổng công ty 90 của các Bộ kinh tế và quốc phòng, hàng trăm công ty cơ khí thuộc các ngành than, điện, hóa chất, nông-lâm-ngư nghiệp… và các công ty, các nhà máy thuộc các cơ sở của thành phố và tỉnh.
- Cơ khí ngoài quốc doanh: Với quy mô vừa và nhỏ đang phát triển khá nhanh tại các thành phố lớn và một số tỉnh, song nhìn chung do vẫn chưa có tiềm lực tài chính mạnh và công nghệ cao nên chủ yếu làm phụ tùng, dịch vụ sửa chữa. Số doanh nghiệp tư nhân đầu tư công nghệ mới tiên tiến chưa xuất hiện nhiều.
- Cơ khí có vốn đầu tư nước ngoài: Có quy mô và sản lượng lớn chiếm lĩnh một số ngành hàng công nghiệp trong nước, chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy.
Đặc điểm về sản phẩm.
Theo quyết định số 186/2002/GĐ-TTg của Chính phủ thì mục tiêu Chuơng trình cơ khí trọng đỉêm đến năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020 là tập trung vào 8 nhóm chuyên ngành cơ khí lớn như: máy động lực, máy kéo và máy nông nghiệp, máy công cụ, thiết bị toàn bộ, cơ khí xây dựng, cơ khí tàu thủy, cơ khí ô tô và cơ khí giao thông vận tải, thiết bị điện… Ngành cơ khí Việt Nam sản xuất và cung cấp một phạm vi sản phẩm khá rộng nhưng hầu hết các sản phẩm này chất lượng chưa cao, chưa có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế.
Đặc điểm về thị trường.
Ngành cơ khí có một thị trưòng sản phẩm rộng lớn, đa dang. Bao gồm: thị trường máy móc-thiết bị phục vụ cho sản xuất công nghiệp và giao thông vận tải, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ xây dựng, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ tiêu dùng…
Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đô Hữu Hào, hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam đã đảm bào được 35% nhu cầu thị trường từ đóng tàu, sản xuất, lắp ráp ô tô đến sản xuất máy công cụ, thiết bị giao thông… Thứ trưởng nhấn mạnh: “Nếu có chinh sách, tạo cú húc ban đầu thì ngành cơ khí còn phát triển mạnh hơn nữa”. Thực tế cho thấy, thị trường cơ khí ở nước ta còn rất nhiều tiềm năng. Mỗi năm, chúng ta nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD thiết bị cơ khí. Do đó, khi ngành cơ khí trong nước phát triển, sẽ tạo được doanh thu lớn và giành được thị phần màu mỡ này. Được biết, ngành cơ khí đang có mức tăng trưởng đột biến, bình quân 40,7%/năm. Dự đoán trong vòng 3 năm nữa, ngành này có thể đáp ứng tối thiểu 45-50% nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia và doanh nghiệp cơ khí cho rằng, hiện nay sản phẩm CK mới chỉ ở mức “bằng bằng”, chưa chiếm được thị phần trong nước, xuất khẩu còn thấp. Nếu không có những chính sách kịp thời, tương lai Việt Nam sẽ trở thành “đại công trường” gia công cơ khí cho các nước.
Đặc điểm về công nghệ.
Theo Bộ Khoa học-Công nghệ và môi trường, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam chỉ tương đương với thòi kỳ cách đây 30-50 năm của các nước trung bình trên thế giới , lạc hậu hơn các nước tiên tiến từ 50-100 năm. Cơ khí tuy là ngành công nghiệp quan trọng, nhưng vốn đầu tư cho ngành tăng không đáng kể, các thiết bị được đầu tư từ thời bao cấp. Phần lớn là các thiết bị nhỏ lẻ, không đồng bộ và đã hết khấu hao. Trong khi đó các doanh nghiệp lại rất khó khăn về vốn đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ.
Đặc điểm về nguồn lực.
Ngành cơ khí có một lực lượng lao động khá lớn. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê, chưa kể khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, hiện nay có khoảng 224000 lao động đang làm việc trong ngành cơ khí, trong đó có khoảng 10000 người có trình đôj trên đại học. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực ngành cơ khí không cao. Phần lớn đội ngũ công nhân cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý chưa được trang bị các kiến thức mới để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cơ khí có công nghệ cao trong cơ chế thị trường.Mặt khác, ngành cơ khí còn thiếu lực lượng nghiên cứu phát triển, từ lực lượng tư vấn, thiết kế công nghệ và thiết kế chế tạo, đến các chuyên gia đầu ngành. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển thiếu, chưa có chiến lược thị trường, sản phẩm, trình độ quản lý doanh nghiệp thấp. Quản lý thị trường yếu kém để hàng cơ khí chất lượng thấp, giá rẻ tràn vào thị trường trong nước, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp làm sản phẩm CK chính xác.
Đặc điểm về vốn.
Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê, hiện nay cả nước có gần 500 doanh nghiệp cơ khí quốc doanh, tuy nhiên bình quân vốn của mỗi doanh nghiệp rất nhỏ chưa đầy 1 triệu USD. Hơn nữa, đầu tư vốn cho ngành cơ khí trong những năm gần đây rất nhỏ, khoảng dưới 2 triệu USD, chỉ chiếm khoảng 0,6% vốn đầu tư. Đây là một khó khăn cho ngành cơ khí nhất là trong việc mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ.
Mối quan hệ với các ngành khác.
Trong khi bản chất của ngành cơ khí là chuyên môn hóa rộng, hợp tác sâu thì các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam vẫn thiếu sự hợp tác với nhau. Việc tổ chức sản xuất còn khép kín, không sử dụng hết năng lực của thiết bị máy móc hiện có.
Một trong những yếu kém của ngành cơ khí là thiếu các ngành công nghiệp liên quan và công nghiệp phụ trợ. Phần lớn các loại nguyện liệu dùng để sản xuất các sản phẩm cơ khí có chất lượng đều phải nhập khẩu. Công nghiệp sản xuất thép trong nước không có khả năng đáp ứng đầu vào cho ngành cơ khí, chưa có công nghiệp luyện nhôm và đồng. Mặt khác, việc cung ứng các loại nguyên liệu khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào các nguồn nhiên liệu sẵn có trong nước đang gặp phải biến động thường xuyên do việc cưng ứng không ổn định.
Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam.
Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí Việt Nam hiện nay.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, hiện nay, ngành cơ khí có 1599 doanh nghiệp trong nước và gần 30000 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp cơ khí với giá trị tài sản gần 500 triệu USD, sản xuất khoảng 7000 tỷ đồng giá trị sản lượng với hơn 500 chủng loại sản phẩm như các máy công cụ, động cơ điện, động cơ xăng…
Năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam được đánh giá là không cao. Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, các hàng rào bảo hộ bị bãi bỏ thì ngành cơ khí sẽ gặp nhiều khó khăn. Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp cho biết, theo bảng xếp loại về khả năng cạnh tranh, chia làm 3 nhóm gồm: nhóm có khả năng cạnh tranh, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp, thì ngành cơ khí Việt Nam được xếp vào vị trí thứ 6 trong số 19 ngành hàng thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện.
Trong thời gian qua, ngành cơ khí cũng có nhiều khởi sắc, đạt được một số thành tựu lớn. Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đỗ Hữu Hào, hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu của thị trường. Tốc độ tăng trưởng của ngành cơ khí từ năm 1995 đến 2006 đạt trên 40,7%/năm. Hiện nay ngành cơ khí đã xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD/năm. Nhưng có lẽ do đi từ xuất phát điểm quá thấp, có giai đoạn bị thả nổi, được đầu tư quá ít nên khi bước vào hội nhập ngành cơ khí là ngành sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức nhất.
2.1.1. Thị trường trong nước.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu về sản phẩm cơ khí ngày càng tăng nhanh và đa dạng đặc biệt là nhu cầu về thiết bị đồng bộ để cải tạo đầu tư chiều sâu, xây dựng các nhà máy mới và các loại hàng tiêu dùng cao cấp. Các loại hàng này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kinh ngạch nhập khẩu của nước ta trong thời kỳ đổi mới. Theo số liệu của các cơ quan thẩm quyền hàng năm nước ta nhập khẩu khoảng 3,5 tỷ thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, phụ tùng… trong đó một nửa là thiết bị lẻ, dịch vụ, phụ tùng và một nửa là thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp khác nhau. Nếu coi lượng nhập khẩu này cộng với khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong nước là nhu cầu thực tế của thị trường thì nhu cầu hàng năm về sản phẩm cơ khí trong cả nước là vào khoảng 3,8 đến 4 tỷ USD. Đó là một nhu cầu rất lớn, là cơ hội cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam.
Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam rất yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nên kinh tế quốc dân. Trước hết, phải thừa nhận rằng trong 10 năm đổi mới vừa qua, ngành cơ khí cũng đã có những bước phát triển: Năm 2000 giá trị tổng sản lưọng của toàn ngành cơ khí đạt trên 19115 tỷ đồng, tăng gấp gần 2,26 lần chỉ tiêu này của năm 1995, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong giai đoạn 1996-2000 là 17,7%. Tuy nhiên so với nhu cầu thì con số đó còn quá nhỏ. Năm 1996, ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng được khoảng 8% nhu câu trong nước. Còn hiện nay, mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể, song ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu đó. Và giá trị sản lượng của toàn ngành cơ khí chỉ chiếm khoảng 9% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp, trong khi đó vốn đầu tư chiếm hơn 10% và số lao động chiếm khoảng 8,4%.
Thị trường sản phẩm cơ khí ở Việt Nam bị sản phẩm của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… xâm lấn hay nói một cách khác, các đối thủ chủ yếu của Việt Nam trong ngành cơ khí là Trung Quốc, Hàn Quốc. Nhật Bản.
+ Về thị phần: các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ Một số sản phẩm của ngành cơ khí đang bị mất dần thị trường tiêu thụ ngay trong nước, đặc biệt trong việc sản xuất và cung cấp thiết bị toàn bộ. Nhìn chung, ngành cơ khí Việt Nam chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu của thị trường.
Trên thị trường máy động lực và nông nghiệp: Theo con số thống kê của tổng cục thống kê, thị trường nước ta tiêu thụ khoảng 100000 máy động cơ diesel và 30000 máy kéo hai bánh loại nhỏ. Trong đó, hàng Trung Quốc chiếm khoảng 55% thị phần, 20% của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc…còn lại 15% thị phần là của hàng Việt Nam.
Thị trường máy bơm: Theo số liệu điều tra, máy bơm Trung Quốc chiếm tới 48%, Hàn Quốc chiếm 30%, ngoài ra là sản phẩm của Nhật Bản, Italia… Máy bơm Việt Nam chỉ chiếm thị phần nhỏ bé còn lại.
+Về doanh thu: Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2006 giá trị sản xuất toàn ngành cơ khí đạt 91.737 tỷ đồng và năm 2007 đạt 113.317 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng chung về giá trị sản xuất nông nghiệp của toàn ngành cơ khí trong giai đoạn 2001-2007 là 21,9%. Về xuất khẩu, năm 2006 giá trị xuất khẩu toàn ngành cơ khí đạt 1,174 tỷ USD. Trong khi đó, doanh thu của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc… gấp mấy lần như thế.
+ Về quy mô vốn: Hầu hết, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ (dưới 1 triệu USD). Phần lớn, các nguồn vốn đầu tư vào ngành cơ khí được huy động từ nước ngoài để đổi mới trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản với các trang thiết bị hiện đại cùng với tổng vốn đầu tư lớn đã cạnh tranh với các sản phẩm cơ khí của nước ta
+ Về giá thành sản phẩm: Theo số liệu của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), thị trường máy nông nghiệp Việt Nam đang bị máy Trung Quốc thao túng. Thông thường, máy nông nghiệp của Trung Quốc rẻ hơn máy Việt Nam từ 15-30%. Ví dụ, động cơ 15 mã lực của Trung Quốc hiện bán trên thị trường Việt Nam là 4,5-4,7 triệu đồng 1 chiếc, Việt Nam bán 500-600 USD 1 chiếc, Nhật Bản bán giá 1300 USD 1 chiếc. Hay máy nổ của Trung Quốc công suất 12 mã lực là 4 triệu đồng nhung Việt Nam bán với giá 6,6 triệu đồng.
2.1.2. Thị trường nước ngoài.
Khi Việt Nam gia nhập vào WTO, mọi bảo hộ và thuế quan bị dỡ bỏ, chỉ còn lại các rào cản kỹ thuật nhưng đến nay, chúng ta vẫn chưa có các rào cản kỹ thuật đủ mạnh để bảo vệ các sản phẩm cơ khí trọng điểm.
Nhiều năm qua, ngành cơ khí đã xuất khẩu nhiều sản phẩm của mình sang các nước Đông Âu, nhưng đó là những sản phẩm có trình độ công nghệ thấp như các loại kìm, cò lê, mỏ lết… theo sự phân công của khối SEV nên giá trị xuất khẩu thấp. Mấy năm gần đây, ngành đã xuất khẩu một số sản phẩm có trình độ cao, tuy nhiên giá trị xuất khẩu rất nhỏ chỉ chiếm khoảng 0,1% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.Gần đây, giá trị xuất khẩu có tăng lên song rât chậm chạp. Qua đó, có thể thấy các sản phẩm cơ khí của nước ta yếu trên thị trường quốc tế.
Phân tích về vấn đề này, ông Ngô Văn Trụ - Vụ cơ khí luyện kim và hóa chất Bộ Công Nghiệp cho biết: xét về khía cạnh thương mại thì các nước ASEAN tương đồng như ta về cơ cấu tài nguyên, nhưng họ có điều kiện vốn và công nghệ do đó khă năng cạnh tranh sẽ hơn ta. Các nước ASEAN cũng có chiến lược hướng đến xuất khẩu sớm hơn ta. Hiện nay việc buôn bán giữa các nước ASEAN đã tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2005 tỷ trọng buôn bán giữa các nước thành viên đã chiếm tỷ trọng lớn hơn kim ngạch buôn bán. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chiếm ¼ tổng kim ngạch xuất khẩu, còn nhập khẩu từ ASEAN chiếm 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy với ASEAN Việt Nam ở thế nhập siêu. Nếu ngành công nghiệp cơ khí không nhanh chóng tăng sức cạnh tranh thì các nước ASEAN sẽ lợi dụng CEPT để chiếm lấy thị phần lớn hơn ở Việt Nam.
2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Về chất lượng sản phẩm.
Trước hết, phải khẳng định rằng, trong những năm đổi mới vừa qua ngành cơ khí cũng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc đổi mới thiết bị, mở rộng chủng loại sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng nhu cầu thị trường song trên thực tế chất lượng sản phẩm nói chung của cả ngành cơ khí còn chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường. Từ đó dẫn đến sản phẩm có khả năng tiêu thụ kém và khó có khả năng xuất khẩu.
Đối với thiết bị toàn bộ: Thiết bị toàn bộ được hiểu là một dây chuyền công nghệ hoàn chỉnh liên hoàn nhằm sản xuất ra một hoặc là một số loại sản phẩm nhất định hoặc thực hiện một chức năng nhất định có giá trị lớn. Trong thời gian gần đây, ngành cơ khí Việt Nam đã cung cấp được khá nhiều thiết bị đồng bộ cho các ngành sản xuất vật chất trong nước. Trong lĩnh vực điện khí hóa, ngành cơ khí Việt Nam đã có thể tham gia chế tạo các công trình thủy điện lớn với công suất tổ máy đến 300 MW, có thể chế tạo được các loại kết cấu thép, hệ thống cấp nước, hệ thống ngưng tụ, các máy nghiền than, băng tải, hệ thống lọc bụi…
Như vậy, máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm đối với thiết bị ngoại nhập. Chính vì vậy mà nước ta phải nhập hầu hết các thiết bị toàn bộ, chiếm khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu của toàn ngành cơ khí. Dự đoán kế hoạch 5 năm này sẽ nhập khoảng 9-10 tỷ USD và kế hoach 5 năm tiếp theo sẽ nhập khoảng 15-17 tỷ USD. Lý do chính của tình trạng này là do thiết bị toang bộ của Việt Nam ít về chủng loại, nhỏ bé về khối lượng cung cấp. Hơn nữa, các nhà đầu tư chưa tin tưởng vào chất lượng cuả thiết bị toàn bộ trong nước.
Đối với thíêt bị lẻ, dụng cụ, phụ tùng: Đây là các sản phẩm mà sau khi sản xuất xong có thể được sử dụng một cách độc lập hoặc được bán ngay ra thị truờng mà không nhất thiết phải gắn kết với các sản phẩm cơ khí khác. So với thiết bị toàn bộ, nhóm này có khă năng cạnh tranh tốt hơn. Một số sản phẩm đã có thị truờng ổn định ở trong nước, một số sản phẩm đã có thể vươn ra xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam về chất lượng sản phẩm vẫn còn rất yếu kém. Đó chính là nguyên nhân khiến các sản phẩm cơ khí của Trung Quốc chiếm lĩnh hầu hết thị trưòng trong cả nước.
Trên thị trường động cơ diesel: Theo những nhà quản lý của VINAPRO thì công ty có thị phần chỉ khoảng 5% trong khi đó động cơ của Đài Loan, Trung Quốc và động cơ cũ nhập khẩu ( chủ yếu của Nhật Bản ) chiếm lĩnh hầu như 95% thị phần còn lại.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh bằng chất lượng của ngành cơ khí hiện nay rất thấp. Bên cạnh một số ít sản phẩm, một số ít doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh trong thị trường nội địa và hướng tới xuất khẩu, còn hầu hết các doanh nghiệp cơ khí không cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, đánh mất dần thị trường trong nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã là một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay.
Về giá cả.
Các sản phẩm cơ khí của Việt Nam hiện nay, nhìn chung sức cạnh tranh bằng giá cả rất thấp. Hầu hết, các sản phẩm cơ khí Việt Nam đều có giá cao hơn so Trung Quốc-đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường.
Theo số liệu của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), thị trường máy nông nghiệp Việt Nam đang bị máy Trung Quốc thao túng. Lý do máy Việt Nam phải rút khỏi sân nhà là hàng của ta không đủ sức cạnh tranh về gía so với hàng của Trung Quốc. Thông thường, máy nông nghiệp của Trung Quốc rẻ hơn máy Việt Nam từ 15-30%. Ví dụ, động cơ 15 mã lực của Trung Quốc hiện bán trên thị trường Việt Nam là 4,5-4,7 triệu đồng 1 chiếc, cùng loại động cơ này do Việt Nam sản xuất bán với giá 500-600 USD, trong khi đó động cơ chính hiệu của Nhật Bản có giá 1300 USD.Sở dĩ, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam không có năng lực cạnh tranh về giá cả là do chi phí sản xuất cao. Chi phí sản xuất cao có thể là do Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu, công nghệ lạc hậu cùng với trình độ quản lý yếu kém…
Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay.
3.1. Lực vực sản xuất.
Lĩnh vực sản xuất có vai trò rất quan trọng. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ góp phần to lớn vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực: nguyên nhiên vật liệu, thiết bị công nghệ và nguồn lực lao động để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Từ đó, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Tuy nhiên, tinh hình sản xuất của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay còn nhiều điểm yếu kém, thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, việc cung ứng nguyên vật liệu chưa đảm bảo yêu cầu: nước ta có một số các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho việc sản xuất các sản phẩm của ngành cơ khí, đặc biệt là các loại quặng và bôxit. Tuy nhiên, ngành công nghiệp kim loại cơ bản trong nước lại kém phát triển và vì thế phần lớn các vật tư cần thiết cho ngành cơ khí phải nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt khác, việc cung ứng các loại nguyên vật liệu khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước đang gặp phải biến cố thường xuyên do việc cung ứng không ồn định.
Thứ hai, năng lực công nghệ hạn chế: Việc sản xuất trong ngành cơ khí bị hạn chế bởi máy móc cũ kỹ và công nghệ thì lạc hậu. Theo Bộ Khoa học-Công nghệ và môi trường, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam chỉ tương đương với thời kỳ cách đây 30-50 năm của các nước trung bình trên thế giới, lạc hậu hơn các nước tiên tiến từ 50-100 năm.
Thứ ba, tổ chức quản lý sản xuất trong ngành cơ khí nhìn chung còn khép kín, thiếu tính chuyên môn hoá và mức độ hiệp tác hóa còn thấp: Cơ cấu sản phẩm không được điều chỉnh, tự phát, sản phẩm đơn giản đua nhau làm đến mức thừa, những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao thì không đủ sức sản xuất. Thêm vào đó, là công tác quản lý còn yếu kém và bất cập.
Có thể nói, cung ứng nguyên vật liệu không đảm bảo, trình độ công nghệ lạc hậu cộng với các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất yếu kém đã làm cho tình hình sản xuất ở các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường cạnh tranh khốc liệt
3.2. Lĩnh vực nhân sự.
Nguồn nhân lực luôn là một nguồn lực quan trọng đối với mọi ngành sản xuất. Đối với ngành cơ khí, nguồn nhân lực càng có vai trò quan trọng vì lao động trong ngành cơ khí phần lớn đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật, có tay nghề.
Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay, công tác quản trị lĩnh vực nhân sự đang có nhiều bất cập từ khâu tuyển chọn nguồn nhân lực cho đến sử dụng cũng như đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Về công tác tuyển chọn nguồn nhân lực: Mặc dù lực lượng lao động nước ta dồi dào, song lao động có trình độ kỹ thuật để đáp ứng đuợc yêu cầu cho ngành cơ khí thì không nhiều. Vì vậy, việc tuyển chọn được một lực lượng lao đông có tay nghề cao là một khó khăn đối với ngành cơ khí.
Hơn nữa, số lượng sinh viên theo học các ngành cơ khí ít, sau khi ra trường lại không muốn làm việc cho ngành cơ khí. Mấy năm gần đây, số lượng các học viên theo học các trường công nhân kỹ thuât có tăng đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành.
Về việc sử dụng nguồn nhân lực:Nguồn nhân lực có chất lưọng không cao nhưng lại được sử dụng không hợp lý. Trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, số lượng lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ cao gây mất hiệu quả trong quá trình sản xuất và tăng chi phí. Mặt khác, quá trình tổ chức sản xuất không hợp lý dẫn đến năng suất lao động của công nhân ngành cơ khí Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước khác.
Về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Hiện nay, chi phí đào tạo của các công ty thuộc ngành cơ khí đã giảm nghiêm trọng trong thập kỷ vừa qua, nhất là sau khi các chương trình hợp tác kỹ thuật với các nước khối Đông Âu bị ngừng trệ thì ngành cơ khí Việt Nam hầu như mất nguồn đầu vào về bí quyết công nghệ. Mặt khác, trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay thì hương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hầu như không có hoặc ít được chú trọng. Thực tế đó dẫn đến chất lượng lao động kém, không có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm do đó giảm năng lực canh tranh trên thương trường.
3.3. Lĩnh vực tài chính.
Lĩnh vực tài chính luôn là lĩnh vực quan trọng trong hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động của lĩnh vực này có ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Đặc điểm của ngành cơ khí là có vốn đầu tư ban đầu lớn, vòng quay vốn chậm, khả năng rủi ro cao, lợi nhuận thấp hơn các ngành khác, do đó việc thu hút vốn đầu tư còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp cơ khí nước ta đều là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ ( dưới 1 triệu USD ). Để phát triển mạnh ngành cơ khí nhất là trong điều kiện trang thiết bị cho ngành cơ khí còn lạc hậu thì vốn đầu tư để đổi mới trang thiết bị là một đòi hỏi tất yếu đặt ra với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, các nguồn vốn mà các doanh nghiệp cơ khí có thể thu hút được là: ODA, FDI, vốn vay nước ngoài, vốn từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn huy động trong nước.
3.4. Lĩnh vực Marketing.
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp cơ khí ít quan tâm đến lĩnh vực Marketing. Điều này đã gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam. Người tiêu dùng do thiếu các thông tin cần thiết nên nhiều khi không biết các sản phẩm để mua. Nhất là các sản phẩm cơ khí Việt Nam thường có giá cao hơn các sản phẩm của Trung Quốc nhưng có chất lượng tốt hơn, nhiều tính năng tác dụng hơn song hầu hết người tiêu dùng không được biết các thông tin đó.
Mặt khác, hệ thống phân phối bán hàng không rộng khắp. Do đó, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Về chính sách hỗ trợ tiêu thụ: gồm các hoạt động hỗ trợ trong quá trình mua hàng và các dịch vụ sau khi bán. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đã có chú trọng đến hoạt động này và đã đạt được một số thành công nhất định.
4. Tồn tại và nguyên nhân.
Trong những năm vừa qua, ngành cơ khí Việt Nam cũng đạt được một số thành tựu nhất định. Một số doanh nghiệp đã vươn lên tìm kiếm nguồn vốn, đầu tư thêm công nghệ-thiết bị mới, mở rộng mặt hàng, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Như vậy, so với tiềm năng và cơ sở vật chất còn quá nhỏ bé thì sự phát triển và thành quả của ngành cơ khí là đáng khịch lệ; tuy nhiên vẫn nhỏ bé trước nhu cầu to lớn của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Nhìn chung, năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam còn yếu kém.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bao gồm những nguyên nhân chủ quan và khách quan.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Do quy mô nhà máy không hợp lý.
+ Trình độ công nghệ và máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu.
+ Sử dụng lãng phí nguyên liệu và năng lượng.
+ Tổ chức sản xuất không hợp lý.
+ Ít quan tâm đến quản lý chất lượng.
+ Thiếu những kỹ năng tiếp thị và quản lý.
+ Quản lý tài chính còn yếu kém.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Thứ nhất, do cơ cấu ngành không hợp lý: Cơ cấu ngành thay đổi rất chậm. Ngành cơ khí chủ yếu dựa trên cơ sở các doanh nghiệp hướng vào mục tiêu có tỷ lệ tự cung tự cấp cao, sản xuất khép kín các loại phụ tụng và linh kiện cần thiết để lắp ráp sản phẩm cuối cũng. Kết quả là có ít các hợp đồng gia công, không hiệu quả kinh tế theo quy mô, và ít các nhà chế tạo chuyên môn hóa và có công nghệ tiên tiến. Vì tổ chức ngành có xu hướng chú trọng theo những quan hệ dọc, từ những nhà cung cấp nguyên liệu thô đến lắp ráp hoàn chỉnh, nên ít tồn tại những quan hệ ngang, ngoại trừ giữa nhưng doanh nghiệp đã được nhóm lại với nhau trong các tổng công ty hoặc các liên hiệp.
+ Thứ hai, do hệ thống quản lý phối hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành cơ khí yếu kém. Vì thế, các doanh nghiệp cơ khí thiếu sự phối kết hợp với nhau. Kết quả là không đủ năng lực sản xuất các sản phẩm có giá trị lớn, còn các sản phẩm nhỏ thì trùng lặp và cạnh tranh với nhau. Điều này đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của ngành so với các đối thủ trên thương trường.
+ Thứ ba, do thiếu các chính sách và quyết định kịp thời và đủ sức mạnh để bảo hộ và tạo thị trường cho ngành cơ khí trong nước.
PHẦN III
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CƠ KHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay.
Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rõ thực trạng năng lực canh tranh của ngành cơ khí, những điểm đã đạt được cũng như những tồn tại và nguyên nhân của chúng. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là khi đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới ngành cơ khí tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Nếu không, các doanh nghiệp trong ngành cơ khí sẽ bị thất bại trong cạnh tranh và sẽ bị l oại khỏi thị trường bởi cạnh tranh luôn là quy luật khắc nghiệt nhất trong cơ chế thị trường.
Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam, để có thể tồn tại và phát triển, theo em các doanh nghiệp cơ khí cần tập trung vào các phương hướng sau:
- Thứ nhất, phải nâng cao chất lượng sản phẩm: Đó là yếu tố quan trọng nhất bởi chỉ có nâng cao chất lưọng sản phẩm các doanh nghiệp mới có thể duy trì và mở rộng thị phần, tăng uy tín của doanh nghiệp … từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh so các đối thủ khác.
- Thứ hai, phải có giá cả phù hợp: giá cả cũng là một yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm có chất luợng cao với giá rẻ tưong đối so với các đối thủ khác thì doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường.
- Thứ ba, nâng cao chất lưọng các dịch vụ hỗ trợ bán hang: Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quyết định mua của khách hà
- Thứ tư, nâng cao năng lực về tài chính: Tiềm năng mạnh về tài chính sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng đứng vững trong những điều kiện thay đổi của thị trường, cũng như có khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất… nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay.
2.1. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp.
2.1.1. Các giải pháp về công nghệ.
Đối với sản phẩm mà không đòi hỏi trình độ sản xuất hiện đại, độ chính xác cao… cần khai thác, tận dụng hết tiềm năng công nghệ hiện có để nâng cao năng lực sản xuất, tận dụng quy mô để hạ giá thành sản phẩm cạnh tranh trên thị trường.
Đối với sản phẩm đòi hỏi trình độ sản xuất cao, cần phải đầu tư công nghệ hiện đại để tránh lạc hậu so với khu vực và trên thế giới. Trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ cần chú ý công tác điều tra, nghiên cứu… để mua được công nghệ phù hợp, tránh tình trạng nhập công nghệ cũ kỹ, lạc hậu từ nước ngoài.
Đổi mới công nghệ phải đi đôi với đào tạo, nâng cao trình độ của cán bộ kỹ thuật cũng như công nhân sản xuất để có thể làm chủ được công nghệ, khai thác triệt để công nghệ mới.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu triển khai trong doanh nghiệp để không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như cho ra đời những sản phẩm mới và công nghệ mới.
Đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ hoặc là đầu tư vốn để nghiên cứu, phát minh đưa vào ứng dụng công nghệ mới. Có thể nói, đổi mới công nghệ là con đường sống còn đối với các doanh nghiệp trong ngành cơ khí.
Các doanh nghiệp phải nhận thức được rằng, đổi mới công nghệ mới có thể giúp cho các doanh nghiệp cạnh tranh được với các mặt hàng của các nước khác như Trung Quốc, Hàn Quốc…để đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Đồng thời, các doanh nghiệp phải nhanh nhậy để nắm bắt được các công nghệ hiện đại trên thế giới.
Các doanh nghiệp phải tranh thủ thời cơ liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào doanh nghiệp mình để có thể học hỏi các giải pháp công nghệ và phương pháp quản lý khoa học.
2.1.2. Các giải pháp về vốn
Trước hết, cần tăng cường các hoạt động liên doanh, liên kết với nứoc ngoài để thu hút vốn đầu tư FDI. Để làm tốt việc này, một mặt các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam phải năng động, sáng tạo trong việc tìm kiếm đối tác, mặt khác phải không ngừng nâng cao năng lực sản xuất của mình để đáp ứng các yêu cầu thành lập các công ty liên doanh.
Thứ hai, tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp cơ khí để thu hút vốn đầu tư trong nước. Có thể nói, cổ phần hóa là một xu thế tất yếu không chỉ đối với các doanh nghiệp cơ khí mà đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam còn phải tranh thủ mọi cơ hội để có thể vay được vốn của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước.
Để có thể huy động được nguồn vốn lớn, các doanh nghiệp phải có chiến lược và kế hoạch kinh doanh khả thi và công việc kinh doanh luôn phát đạt để có thể vay vốn được các ngân hàng vì hiện nay hình thức vay vốn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp là phổ biến.
Các doanh nghiệp nên tạo môi trường làm việc thoải mái cho các công nhân viên trong công ty để thu hút họ đầu tư vốn vào trong doanh nghiệp mình.
Các doanh nghiệp nên tận dụng chính sách ưu đãi về vốn của nhà nước dành cho các doanh nghiệp trong ngành cơ khí vì ngành cơ khí mới phát triển ở Việt Nam nên nhà nước còn bảo hộ và ưu đãi rất nhiều.
2.1.3. Các giải pháp về nguồn nhân lực
Có thể nói, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu kém của ngành cơ khí. Vì thế, để nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành cơ khí phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp có thể tập trung vào những việc sau:
Tăng cường công tác đào tạo trong doanh nghiệp như: gửi đi học hay tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp…
Có các chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng để người lao động không ngừng tự nâng cao trình độ, tay nghề của mình.
Có các chính sách liên kết, hợp tác với các trường đại học, với các trung tâm dạy nghề để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành cơ khí.
Các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình kiểu quản lý phù hợp như cách đối xử với nhân viên, để nhân viên tự bày tỏ ý kiến của mình để phát huy sự sáng tạo của họ trong công việc, khuyến khích họ đóng góp để góp phần phát triển công ty.
Các doanh nghiệp phải có quá trình tuyển mộ và tuyển chọn phù hợp để chọn được những người giỏi đồng thời phải có chính sách để giữ người giỏi.
Các doanh nghiệp phải tạo ra được môi trường làm việc chuyên nghiệp, thoải mái để người lao động có thể phát huy hết khả năng của minh cống hiến cho công ty để nâng cao năng suất lao động, nâng cao vị thể của doanh nghiệp trên thương trường.
2.1.4. Các giải pháp về Marketing
Có thể nói, nâng cao chất lượng hoạt động Marketing cho ngành cơ khí là một hoạt động tất yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trước hết, các doanh nghiệp cơ khí cần tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu thị trường. Qua đó, các doanh nghiệp xác định được thị trường cần những sản phẩm gì, với giá cả bao nhiêu, chất lượng như thế nào… để từ đó có các chính sách sản phẩm phù hợp.
Không chỉ thế, các doanh nghiệp còn phải phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh để nhìn lại mình, xem mình có gì và thiếu gì để có chiến lược kinh doanh cho phù hợp với tiềm lực của mình.
Thứ hai, cần xây dựng một mạng lưới cung cấp sản phẩm rộng khắp với các phương pháp Marketing phù hợp để có thể thu hút được nhiều khách hàng.Hơn nữa là sản phẩm của doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng tương thích với giá cả, đảm bảo tiến độ giao hàng, phương pháp giao hàng…
Thứ ba, cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo xây dựng thương hiệu sản phẩm cho doanh nghiệp mình có uy tín và được khách hàng ưu chuộng trên thị trường.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần phải có dịch vụ tư vấn trước và sau bán, dịch vụ bảo hành và sửa chữa theo yêu cầu của khách hàng. Đồng thời, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình đội ngũ nhân viên năng nổ, nhiệt tình, hết mình vì công việc để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
2.2. Các giải pháp từ phía nhà nước
Trước hết, nhà nước phải tiến hành cơ cấu lại ngành cơ khí. Trong thời gian tới, nhà nước phải có các giải pháp quy hoạch, tổ chức lại hệ thống các nhà máy cơ khí trên phạm vi toàn quốc và từng vùng theo hướng hiện đại hóa, chuyên môn hóa, hiệp tác hóa. Lựa chọn trên bình diện quốc gia các sản phẩm, nhóm sản phẩm cơ khí chế tạo máy, sản phẩm cơ khí trọng điểm để cung cấp máy móc, trang thiết bị cho các công trình đầu tư xây dựng những nhà máy mới của các ngành kinh tế, những sản phẩm mà ngành cơ khí nước ta có năng lực cạnh tranh… được nhà nước ưu tiên bảo hộ để phát triển bền vững. Tránh tình trạng đầu tư dàn trải không đem lại hiệu quả chung cho toàn ngành.
Thứ hai, nhà nước phải cải tiến công tác quản lý trong ngành cơ khí. Một trong những tồn tại chính của ngành cơ khí là tình trạng quản lý kém hiệu quả, chồng chéo lên nhau. Một doanh nghiệp cơ khí vừa phải chịu quản lý của cơ quan quản lý trực tiếp cấp trên, vừa phải chịu quản lý của cơ quan chủ quản ở địa phương, rồi các cơ quan quản lý ngành. Chính vì thế đã gây nhiều khó khăn cho việc quản lý doanh nghiệp. Do vậy, nhà nước cần có những biện pháp cải tiến quản lý chấm dứt tình trạng quản lý chồng chéo lên nhau giữa cơ quan chủ quản ở trung ương và cơ quan quản lý ở địa phương, xóa bỏ ranh giới, bộ, ngành, địa phương, tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực cơ khí.
Thứ ba, nhà nước phải có các chính sách kịp thời và đủ mạnh để bảo hộ và tạo điều kiện cho ngành cơ khí trong nước phát triển. Đó là chính sách bảo hộ sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm, hạn chế nhập khẩu những sản phẩm cơ khí mà trong nước đã có năng lực sản xuất tốt, bổ sung hoàn chỉnh các quy chế đấu thầu, chỉ định thầu đối với việc chế tạo trong nước các dây chuyền thiết bị toàn bộ để tạo thị trưòng cho sản phẩm cơ khí, khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng thiết bị trong nước để đạt hiệu quả kinh tế cao…
Thứ tư, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho ngành cơ khí: nhà nước phải có các chính sách ưu đãi đối với việc đầu tư vào ngành cơ khí như cho các doanh nghiệp cơ khí vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi…
Thứ năm, nhà nước cần có các chính sách để đẩy mạnh công tác nghiên cứu trong lĩnh vực cơ khí như đầu tư cho các viện nghiên cứu, các dự án nghiên cứu quan trọng…
Thứ sáu, nhà nước cần có các chính sách phát triển nguồn nhân lực như đầu tư cho các cơ sở đào tạo kỹ sư cơ khí và công nhân kỹ thuật, có các chính sách khuyến khích sinh viên theo học chuyên ngành cơ khí…
Thứ bảy, nhà nước phải có chính sách thúc đẩy những ngành cung cấp nguyên vật liệu và những ngành hỗ trợ cho ngành cơ khí phát triển.
Thứ tám, nhà nước cần tinh giảm cơ cấu quản lý hành chính để các thủ tục hành chính được đơn giản, gọn nhẹ để thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào trong nước.
Thứ chín, nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ cùng với nền chính trị ổn định để các doanh nghiệp có thể kinh doanh một cách thuận lợi trong nước. Nhà nước phải là người định hướng và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp như là đầu tư vốn để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Thứ mười, nhà nước phải thiết lập các cơ sở nghiên cứu khoa học, khuyến khích nghiên cứu để có thể đổi mới công nghệ cho ngành cơ khí như là nhà nước đầu tư cho nghiên cứu khoa học, có các bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Nhà nước phải đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng để thuận tiện cho đi lại, chuyên chở hoặc là điện, nước để giúp cho các doanh nghiệp tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh thông suốt, tránh sự ngừng trệ, tránh sự tổn thất cho các doanh nghiệp.
Nhà nước là người định hướng, cung cấp các thông tin cho các doanh nghiệp như là thông tin về các vấn đề đầu tư, các giải pháp công nghệ từ nước ngoài để các doanh nghiệp biết một cách kịp thời để tận dụng, để nắm bắt để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí. Để đạt mục tiêu phát triển bền vững, từng bước giành lại thị trường trong nước, vươn ra thị trường thế giới cần rất nhiều nỗ lực không chỉ riêng ngành cơ khí mà còn cần sự phối hợp của các ngành sản xuất khác và các chính sách của nhà nước.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, nâng cao năng lực cạnh tranh là một nhu cầu tất yếu của mọi doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển trên thương trường kinh doanh khốc liệt, nhất là khi Việt Nam vừa mới gia nhập tổ chức WTO. Có thể nói, nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn và nóng bỏng đối với mọi doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp cơ khí.
Ngành cơ khí là một ngành công nghiệp vừa mới phát triển ở Việt Nam nên khả năng cạnh tranh còn yếu. Chính vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí là một vấn để hết sức quan trọng và cần thiết để các doanh nghiệp cơ khí đứng vững trên thị trường trong nước và quốc tế. Không chỉ có thế, đó còn là do yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Ngành cơ khí phải vận động, phải chuyển mình để xứng đáng với vai trò và niềm tin của Đảng, của nhà nước và của mọi người dành cho mình.
Chúng ta hãy mong rằng, trong tương lai không xa, ngành cơ khí sẽ phát triển mạnh mẽ đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước và trở thành ngành
công nghiệp then chốt, chủ đạo trong phát triển công nghiệp và định hướng cho các ngành công nghiệp khác để góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, để đưa đất nước Việt Nam tiến lên một quá trình phát triển mới, sánh bước cùng với các nước phát triển ở trong khu vực và trên thể giới như lòng Bác Hồ vẫn hằng mong muốn.
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần I: Tổng quan về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí 2
1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp 2
1.1. Thị trường là gì? 2
1.2. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường 2
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3
2. Sản phẩm công nghiệp và thị trường sản phẩm công nghiệp 4
2.1. Sản phẩm công nghiệp 4
2.2. Thị trường sản phẩm công nghiệp 5
3. Những nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh 5
3.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 5
3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành 6
3.3. Nhân tố trong doanh nghiệp 6
4. Một số vấn đề liên quan quản trị nâng cao năng lực cạnh tranh 7
4.1. Lĩnh vực sản xuất 7
4.2. Lĩnh vực Marketing 8
4.3. Lĩnh vực nhân sự 8
4.4. Lĩnh vực tài chính 8
Phần II: Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt Nam 9
1. Đặc điểm ngành cơ khí Việt Nam 9
1.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành cơ khí Việt Nam 9
1.2. Các đặc điểm ngành cơ khí Việt 9
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt 13
3. Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 19
4. Tồn tại và nguyên nhân 22
Phần III: Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cơ khí 24
Kết luận 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Đình Phan và GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn, Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp, NXB Đại học kinh tế quốc dân, 2007
2. Theo Quyết định số 186/2002/GĐ-TTg của Chính phủ
3. Các trang Web: www.cokhivietnam.vn, www.nangcaonangluccanhtranhnganhcokhivietnam.vn, www.cacgiaiphapnganhcokhi.vn, www.cokhivietnamtrentruongquocte.vn...
4. ThS. Nguyễn Vân Điềm và PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quân, Giáo trình quản trị nhân lực, NXB Đại học kinh tế quốc dân, 2007
5. Các tạp chí và các tờ báo có liên quan đến ngành cơ khí và đổi mới năng lực cạnh tranh của ngành cơ khi
6. Các văn bản pháp quy về cách tổ chức và quản lý ngành cơ khí hiện hành ở Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam.DOC