Từ axetylen người ta có thể sản xuất được một số loại muội. Muội
axetylen có tính chất hơi khác so với tất cả các loại muội khác.
Chẳng hạn kích thước của tinh thể hạt muội axetylen lớn hơn, có
chuỗi dài hơn và nhiều nhánh hơn các loại muội khác.
54 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3990 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Muội than, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo ra trên bề mặt các góc cạnh khác nhau, do vậy mà bề mặt
hạt muội nói chung không đồng nhất. Trên bề mặt của chúng có thể
còn tồn tại các hoá trị tự do của các nguyên tử cacbon mạch nhánh
của các hydrocacbon (no và không no) và của các hợp chất chứa oxy,
lưu huỳnh.
Độ lớn của hạt muội cũng như bề mặt riêng và mức độ cấu trúc
(nghĩa là mức độ phân nhánh của chuỗi hạt muội) phụ thuộc vào điều
kiện tạo thành nó. Tính chất của muội được quyết định chủ yếu bởi
các đặc điểm này.
Cần chú ý rằng các hạt muội có đặc tính không đồng đều và trong
một mẫu muội luôn chứa các dạng hạt khác nhau và kích thước khác
nhau. Kích thước của hạt muội có thể xác định nhờ kính hiển vi điện
tử hoặc bằng các phương pháp khác.
Đường kính trung bình đại số của hạt muội dn được tính theo công
thức sau
ΣniDi
dn = ----------------
ΣN
trong đó: SniDi - tổng tích số của các hạt có kích thước giống nhau ni
với đường kính Di ;
Sn - tổng số hạt được đo.
Đường kính trung bình của hạt muội có thể xác định nhờ phép đo bề
mặt riêng của muội bằng phương pháp hấp phụ hơi, khí, bằng phương
pháp hấp phụ các chất từ dung dịch và bằng phương pháp so màu.
Nếu biết bề mặt riêng của muội là A thì đường kính trung bình của
hạt muội sẽ được tính theo công thức:
60000
dA = -------------
ρ
dA - đường kính trung bình của hạt muội, Ã…;
ρ - mật độ tương đối của muội g/cm3;
A - bề mặt riêng, m2/g.
Đường kính trung bình hạt muội và bề mặt riêng ghi trong bảng 1.
Thành phần nguyên tố trung bình của các loại muội ghi trong bảng 2.
Bảng 1. Đường kính trung bình hạt muội và bề mặt riêng
Loại muội Đường kính trung
bình của hạt muội,
Ã…
Bề mặt riêng,
m2/g
Muội rãnh khí
- Dùng cho sơn và chất màu 9 ÷ 35 250 ÷ 100
- Dùng cho công nghệ cao su 32 ÷ 25 90 ÷ 110
Muội Antraxen 32 ÷ 39 85 ÷ 75
Muội Axetylen 35 ÷ 45 70 ÷ 60
Muội lò hoạt động
Loại SPF 35 75 ÷ 80
Loại SAF 18 ÷ 23 140 ÷ 130
Loại ISAF 25 ÷ 36 115 ÷ 105
Loại CRF 30 ÷ 35 80 ÷ 70
Loại ΠM - 70 và loại HAF 28 ÷ 35 85 ÷ 70
Muội lò nửa hoạt động
-ΠM - 50 và loại FEF 35 ÷ 40 50 ÷ 40
- ΠГ - 33, ΠГM - 33, ΠГM -
30 và loại GPF
70 ÷ 50 30 ÷ 40
Muội vòi phun 65 ÷ 80 35 ÷ 25
Muội đèn 150 ÷ 120 14 ÷ 18
Muội nhiệt phân nhẹ 140 ÷ 150 20 ÷ 16
Muội nhiệt phân 280 ÷ 320 10 ÷ 8
Bảng 2. Thành phần nguyên tố của các loại muội
Loại muội Hàm lượng các nguyên tố, % trọng lượng
C H O S
- Muội rãnh khí
- Dùng cho sơn và
chất màu
88,6 ÷
93,7
0,7 ÷
0,8
5,5 ÷
10,5
-
- Dùng cho cao su
94,5 ( 95
94,5 ÷
95
0,5 ÷
1,0
3 ÷ 4,5 0,0 ÷ 0,2
Muội antraxen 94,5 ÷
95,5
0,9 ÷
1,1
2,5 ÷
3,5
0,4 ÷ 0,6
Muội lò hoạt
động ΠM - 70
97,5 ÷
98,5
0,2 ÷
0,3
0,5 ÷
1,0
0,3÷ 0,9
Muội lò nửa hoạt
động
- ΠГ 50 và FEF 98,0 ÷ 0,4 ÷ 0,6 0,1
98,5 0,5
- ΠГM 33, ΠM 30 và
GPF
98,6 ÷
99,1
0,4 0,2 ÷
0,3
0,2 ÷ 0,5
Muội vòi phun 98,3 0,7 0,4 0,5
Muội đèn 99,0 0,5 0,1 0,3
Muội nhiệt phân
Muội axetylen
99,3 ÷
99,5
99,7 ÷
99,8
0,4 ÷
0,5
0,1
0,1
0,1
-
-
Khối lượng thể tích thực của các loại muội khác nhau nằm trong
phạm vi 1750 ÷ 2000 kg/m3, và khối lượng thể tích biểu kiến là 100
÷ 350 kg/m3. Điều đó có nghĩa là muội rất xốp và trong 1 m3 muội
chỉ có 0,05 ÷ 0,2 m3 cacbon, phần còn lại là thể tích của không khí.
2. SỬ DỤNG MUỘI TRONG CÔNG NGHIỆP
Muội được dùng chủ yếu trong công nghiệp cao su, đó là nguyên liệu
thứ hai sau cao su. Ngoài công nghiệp cao su ra, người ta còn dùng
muội trong công nghiệp dược, công nghiệp sơn chất dẻo, công
nghiệp in và các lĩnh vực khác.
Hơn 80% muội sản xuất ra được dùng trong công nghiệp cao su. Việc
đưa muội vào trong hỗn hợp cao su làm tăng độ bền cơ của sản phẩm
cao su, tất nhiên là làm tăng tuổi thọ làm việc của nó. Thí dụ độ bền
kéo của cao su tự nhiên không có muội là 200 kG/cm2, thì khi pha
thêm 30 ÷ 40 phần trăm muội thì độ bền kéo tăng lên đến 300
kG/cm2. Tương tự như vậy với cao su divinyl-stirol. Loại cao su này
không chứa muội có độ bền kéo là 14 kG/cm2, còn khi pha thêm 50
phần trăm muội thì độ bền kéo tăng lên đến 220 ÷ 240 kG/cm2,
nghĩa là 15 lần lớn hơn. Do đó muội được coi là chất làm tăng độ bền.
Cơ chế làm tăng độ bền của cao su pha muội (cũng như các chất độn
khác) hiện chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhưng người ta đã khẳng
định rằng khả năng tăng độ bền của cao su của muội phụ thuộc vào độ
lớn của hạt muội.
Đường kính trung bình của hạt muội càng nhỏ thì bề mặt riêng của
nó càng lớn và làm cho nó càng tăng tác dụng làm bền cao su.
Cơ chế của việc tăng cường độ bền cao su bằng muội có thể được
giải thích bằng khả năng chuyển cao su vào trạng thái liên kết (hấp
phụ hoặc tương tác hóa học) trong quá trình gia công.
Người ta cho rằng bình thường các phân tử cao su cuộn lại thành
dạng giống như hình cầu. Khi đưa muội vào thì phân tử cao su bị kéo
thẳng ra, tạo liên kết và tạo thành những tổ chức bền hơn.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra là khi đưa các hạt muội vào cao
su, sẽ hình thành các cấu trúc lưới và cấu trúc nhánh. Trong trường
hợp cao su chứa ít muội thì cấu trúc của muội trong cao su bị xa cách
nhau. Khi tăng hàm lượng muội trong cao su, cấu trúc muội thấm cao
su theo tất cả các hướng. Việc hình thành cấu trúc như thế kết hợp
với các mối liên kết bền giữa các hạt muội dẫn đến làm tăng độ bền
của tất cả hệ thống.
3. CÁC LOẠI MUỘI
Người ta có thể phân loại muội theo nguồn nguyên liệu tạo ra chúng:
- Các loại muội được sản xuất từ khí thiên nhiên và khí dầu mỏ.
- Các loại muội được sản xuất từ các nguyên liệu lỏng hoặc kết hợp
với khí đốt.
- Muội antraxen sản xuất từ hỗn hợp hơi hydrocacbon có nguồn gốc
từ than đá trong quá trình sản xuất cốc.
- Ngoài các loại muội kể trên, người ta còn sản xuất một lượng không
lớn muội axetylen và các loại muội đặc biệt dùng cho công nghiệp
sơn và các chất màu có chất lượng cao.
Mỗi một loại muội có các tính chất hoá lý nhất định. Tính chất hoá lý
quan trọng nhất của muội là mức độ phân tán, đặc tính cấu tạo của
muội (chuỗi) và thành phần nguyên tố của hạt muội.
Mức độ phân tán của muội thường được đặc trưng bởi giá trị đường
kính trung bình đại số của các hạt muội. Nhưng cũng cần phải chú ý
là muội từ các công nghệ sản xuất khác nhau có kích thước hạt muội
khác nhau.
Bề mặt riêng của muội cũng có liên hệ trực tiếp đến mức độ phân tán.
Kích thước hạt muội càng nhỏ thì bề mặt riêng của nó càng lớn.
Mức độ phân tán của muội ảnh hưởng mạnh nhất đến tính chất tăng
độ bền của cao su do lực tương tác của muội với cao su phụ thuộc
vào giá trị của bề mặt riêng của hạt muội.
Khi dùng muội trong công nghệ cao su thì tính chất tăng độ bền cao
su được dùng làm cơ sở chính để phân loại muội. Theo đó có thể chia
muội làm 3 loại:
- Loại hoạt tính
- Loại nửa hoạt tính
- Loại kém hoạt tính.
Loại muội hoạt tính liên kết với cao su divinyl-styren có giới hạn bền
kéo lớn hơn 200 kG/cm2, loại muội nửa hoạt tính có giới hạn bền kéo
140 ÷ 180 kG/cm2 và loại kém hoạt tính có giới hạn bền nhỏ hơn
140 kG/cm2.
Mức độ phân tán của muội có ảnh hưởng đến màu sắc, khả năng
nhuộm màu và độ phủ khi dùng muội làm bột màu. Muội phân tán cao
có màu đen hơn và có khả năng nhuộm màu đen cao hơn. Tính chất hoá
lý của một loại muội của Liên Xô (cũ) ghi trong bảng 3.
Bảng 3. Một số tính chất hoá lý của các loại muội
Chất bốc, %
Loại
muội
Đường
kính trung
bình hạt,
mmm
Bề mặt
riêng,
m2/g
Độ pH của
nước rửa
qua muội
Độ pH
của nước
rửa qua
muội
đến
105oC
đến
800oC
Độ
hút
ẩm, %
Độ hấp
phụ dầu,
cm3/g
Muội
rãnh khí
- Cho
công
nghệ
sơn và
chất
14÷16 180÷150 3 4 15 6 1,1÷1,3
màu
- Cho
công
nghệ
cao su
25÷35 125÷85 3,5÷4,5 2,5 6¸8 5 0,85÷0,9
Muội lò
hoạt
động
ΠM-70 30÷36 80÷70 8÷9 1 1,6 3 1
Muội
antraxen
34÷38 90÷80 3,5÷4,5 2,5 6¸7 4 0,95÷1,0
Muội
axetylen
40÷45 70÷65 7÷7,5 0,3 0,5 0,4 2,4
Muội lò
nửa
hoạt
động
ΠM-50 40÷45 60÷65 8÷9 0,3 0,9 1 1÷1,2
Muội
khí lò
ΠГM-
33, ΠГ-
33
60÷70 38÷33 8,5÷9 0,1 1,2 0,4 0,65
ΠГM-
30
50÷60 40÷30 8÷9 0,1 1 0,4 1÷1,2
Muội
vòi
phun
80÷100 32÷20 8÷5 0,1 2 0,3 1,2÷1,3
Muội
đèn
120÷140 18÷14 8 0,1 1,6 0,3 1,0
Muội
nhiệt
phân
190÷210 11÷10 8 0,1 1 1,4 0,3
Có một số loại muội, trong quá trình hình thành các hạt muội đã liên
kết thành chuỗi hoặc thành các cấu trúc phân nhánh phức tạp hơn.
Có hai dạng cấu trúc muội:
Loại thứ nhất: Rất bền, trong đó các hạt muội liên kết với nhau bởi
liên kết hoá trị các mạch chuỗi của muội khó bị phá hủy.
Loại thứ hai: Các hạt muội liên kết với nhau bởi các lực hấp phụ, loại
này kém bền hơn loại thứ nhất.
Mức độ phức tạp của cấu trúc muội phụ thuộc chủ yếu vào phương
pháp sản xuất muội, và trong một mức độ nào đó, phụ thuộc vào tính
chất của nguyên liệu sản xuất.
Muội sản xuất từ hydrocacbon, đặc biệt từ các loại dầu có nguồn gốc
than đá, có cấu trúc phức tạp hơn muội từ khí thiên nhiên. Muội phân
huỷ nhiệt không tạo thành mạch chuỗi, nó chỉ có ít hạt dạng liên kết
(từ 2 - 3 hạt liên kết nhau).
Các hạt muội đi từ axetylen có các cấu trúc phức tạp nhất. Cấu trúc
muội càng phức tạp thì càng xốp và càng khó nén chặt nó.
Độ dẫn nhiệt của muội cũng liên quan đến cấu trúc muội. Muội có
cấu trúc càng phát triển và phức tạp thì độ dẫn điện càng cao.
Độ dẫn điện của muội cũng phụ thuộc vào độ phân tán và hàm lượng
các chất bốc của nó. Muội phân tán cao có độ dẫn điện lớn. Tăng
hàm lượng chất bốc sẽ làm giảm độ dẫn điện của muội.
Độ hấp phụ dầu của muội tăng lên khi tăng tính phức tạp của cấu trúc.
Độ hấp phụ dầu được xác định bởi lượng dầu khoáng hay dầu lanh
(tính theo cm3) được hấp phụ đối với 1g muội thí nghiệm.
Nhiều tính chất của hỗn hợp cao su và cao su lưu hoá có liên quan
đến cấu trúc của muội. Muội có cấu trúc phát triển cao làm cho hỗn
hợp cao su kém dẻo và cao su lưu hoá có modun(*) cao hơn, đồng
thời độ cứng và tính dẫn điện lớn hơn, độ giãn dài nhỏ hơn khi kéo
đứt.
Các loại muội sản xuất bằng các phương pháp và nguyên liệu khác
nhau có tính chất bề mặt khác nhau.
Người ta đánh giá tính chất bề mặt của muội theo chỉ tiêu pH, đặc
trưng cho nồng độ ion hydro trong hỗn hợp muội với nước(**). Khi
pH 7 muội có tính kiềm.
Muội có bề mặt nhám có tính axit. Trong thành phần của muội này
có đến 5% oxy (xem bảng 2). Phân tử oxy liên kết bền với bề mặt hạt
muội, bởi vậy người ta cho rằng oxy tham gia vào tương tác hoá học
với cacbon và tạo ra các hợp chất khác nhau trên bề mặt hạt muội.
Hydro và lưu huỳnh cũng chứa trong muội và ở bề mặt lớp muội.
Phần lớn các loại muội có tính kiềm.
Tính kiềm của muội được giải thích bởi sự có mặt của các chất
khoáng (tro) có trong muội. Tro hấp phụ trên bề mặt muội trong quá
trình sản xuất.
Trị số pH càng thấp (càng axit) thì muội càng dễ hút ẩm hơn và do
đó các chất bốc và hơi ẩm trong chúng cũng lớn hơn.
Muội có tính axit hấp phụ các chất tăng tốc cao su và chính điều đó
làm chậm quá trình lưu hoá cao su. Trái lại muội có tính kiềm làm
tăng nhanh quá trình lưu hoá. Do vậy trị số pH của muội đặc trưng
cho ảnh hưởng của nó đến quá trình lưu hoá cao su. Bảng 4 ghi mối
liên quan của các chỉ tiêu cơ lý của cao su lưu hoá vào các tính chất
của muội.
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT MUỘI
Phương pháp công nghiệp sản xuất muội dựa trên cơ sở phân huỷ các
hydrocacbon dưới tác dụng của nhiệt độ cao. Muội hình thành trong
ngọn lửa nguyên liệu đang cháy ở điều kiện thiếu không khí hoặc khi
phân huỷ nhiệt nguyên liệu trong điều kiện không có không khí.
Sản xuất muội bằng cách đốt nguyên liệu trong điều kiện thiếu không
khí, chủ yếu theo hai phương pháp
Phương pháp 1: Đây là phương pháp phổ biến nhất. Người ta đốt
nguyên liệu trong lò đặc biệt. Muội được hình thành trong ngọn lửa
nhiệt độ cao trong thời gian rất ngắn (khoảng 6 giây) cùng với các
sản phẩm khí. Sau đó hỗn hợp muội khí được làm lạnh và muội được
tách khỏi khí trong thiết bị chuyên dùng.
Phương pháp 2: Người ta đốt nguyên liệu nhờ đèn có khe hẹp đặt
trong các thiết bị kim loại. Ngọn lửa phẳng của nguyên liệu cháy tiếp
xúc với bề mặt lạnh của kim loại di chuyển. Thời gian tiếp xúc của
ngọn lửa với bề mặt này không đáng kể. Muội kết tụ trên bề mặt kim
loại nhanh chóng được tách ra khỏi vùng tạo muội.
Ở cả hai phương pháp này sự hình thành muội xảy ra trong ngọn lửa
của nguyên liệu cháy, nghĩa là quá trình này có một phần nguyên liệu
cháy tạo nhiệt độ cần thiết để phân hủy phần nguyên liệu còn lại.
Trong những năm gần đây, có một phương pháp tạo muội phổ biến
được sử dụng, trong đó nhiệt cần thiết để phân huỷ nguyên liệu
không phải là do đốt cháy một phần nguyên liệu mà bằng cách đốt
trực tiếp một nhiên liệu khác. Nhiên liệu thuận lợi nhất là khí thiên
nhiên và khí cracking trong công nghệ chế biến dầu mỏ.
Cũng có khi người ta dùng cả nguyên liệu lỏng. Thiết bị phản ứng
(hay lò) để sản xuất muội trong trường hợp đó có hai vùng. Ở vùng
thứ nhất người ta đốt khí hay nhiên liệu lỏng với lượng dư oxy không
lớn, còn vùng thứ hai là vùng đốt khí cháy để gia nhiệt.
Cũng có khi người ta gia nhiệt và bốc hơi nguyên liệu lỏng để đưa
vào vùng phản ứng. Phương pháp này có hiệu suất muội nhận được
cao hơn khi đốt nguyên liệu với mục đích gia nhiệt kết hợp với nhận
muội. Ngoài ra phương pháp này dễ điều khiển và cho phép nhận
muội có các tính chất khác nhau.
Phân huỷ nhiệt nguyên liệu không có mặt của không khí được thực
hiện bằng các phương pháp khác nhau. Có một vài loại muội nhận
được bằng cách phân huỷ hydrocacbon dạng hơi và dạng khí trong lò
phản ứng bằng cách gia nhiệt hơi (khí) đến nhiệt độ cao.
Thí dụ việc chuyển axetylen (một chất khi phân hủy thì tỏa nhiệt)
thành cacbon (muội) và hydro được thực hiện trong thiết bị phản ứng
bằng cách gia nhiệt nguyên liệu đến nhiệt độ cần thiết.
Cho đến nay tên của muội thường được gọi theo phương pháp sản
xuất loại muội đó. Thí dụ muội “rãnhâ € là muội được sản xuất
bằng cách lắng đọng muội trên bề mặt kim loại có các rãnh (kênh)...
mà ở đó muội tích tụ. Còn muội “lòâ € , muội “nhiệtâ € ,
muội “vòi phunâ € cũng được gọi tên theo phương pháp sản xuất
chúng. Muội “đènâ € trước đây được chế tạo bằng cách đốt dầu
trong đèn. Hiện nay loại muội như thế được sản xuất trong lò nhưng
tên gọi của nó vẫn được giữ như cũ. Ngoài ra tên gọi của một vài loại
muội còn phản ánh cả phương pháp sản xuất và cả nguyên liệu khởi
đầu của nó. Thí dụ muội “khí rãnhâ € , muội “khí lòâ € , v.v...
Cần chú ý là đã nhiều lần người ta thử nghiệm điều chế muội bằng
cách nghiền than gỗ, than bùn, than cốc và các chất khác chứa nhiều
cacbon. Nhưng ngay cả khi nghiền mịn nhất, các chất này cũng
không thể trở thành muội. Thất bại này là do các vật liệu đem sử
dụng có cấu tạo vô định hình hoặc tinh thể, còn muội, về mặt cấu tạo,
chiếm vị trí trung gian giữa cacbon vô định hình và grafit tinh thể
nên không thể nghiền đơn thuần mà chế tạo được muội.
5. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
MUỘI
5.1. Sự cháy và ngọn lửa và quá trình tạo muội
Sự cháy là quá trình kết hợp các chất với oxy kèm theo nhiệt toả ra
và hình thành ngọn lửa. Khi bắt đầu quá trình cháy, các chất cháy cần
phải được gia nhiệt đến nhiệt độ bén lửa(*). Quá trình bắt đầu cháy có
thể liên tục ở điều kiện nếu nhiệt thoát từ phản ứng cháy vẫn duy trì
được nhiệt độ của ngọn lửa. Khi giảm nhiệt độ xuống dưới nhiệt độ
bén lửa thì sự cháy sẽ chấm dứt.
Hiện tại cơ chế quá trình cháy chưa được nghiên cứu đầy đủ. Người
ta giả định rằng khi cháy xảy ra quá trình đứt mạch phân tử các chất
cháy, sau đó các mảnh phân tử đó kết hợp với oxy.
Theo lý thuyết của Viện sĩ Nga N. N. Semenov, khi chất cháy ở dạng
khí, ở thời điểm đầu tiên của phản ứng cháy, năng lượng cháy tập
trung vào các mảnh phân tử hay gốc tự do xuất phát từ phản ứng, làm
cho các mảnh phân tử hay gốc tự do đó được hoạt hoá, nghĩa là
chúng có dư thừa năng lượng và dễ dàng tham gia phản ứng. Các
phản ứng liên tiếp làm hình thành quá trình tạo chuỗi. Nếu các gốc tự
do bị mất năng lượng trước khi tham gia phản ứng thì chuỗi ngừng
phát triển (và quá trình tạo muội cũng ngừng lại). Ngược lại nếu các
gốc tự do có dư thừa năng lượng thì chuỗi phản ứng tiếp tục tạo
nhánh.
Hydrocacbon lỏng và rắn khi cháy chuyển thành trạng thái hơi. Ngọn
lửa (hình 4) bao gồm ba phần. Phần bên trong ngọn lửa là vùng
hydrocacbon lỏng (hay rắn) chuyển thành trạng thái hơi. ở phần này,
do ảnh hưởng của nhiệt độ cao làm đứt mạch các phân tử của chất
cháy. Phần giữa ngọn lửa chứa các gốc hydrocacbon, các hạt cacbon
và hydro. Các hạt cacbon bị nung đỏ làm cho phần này của ngọn lửa
có màu. ở phần ngoài ngọn lửa xảy ra sự tương tác của oxy với các
sản phẩm phân huỷ nhiệt của chất cháy (cacbon, hydro) và tạo thành
CO2, hơi nước:
C + O2 ® CO2
4H + O2 ® H 2O
Do ảnh hưởng của nhiệt thoát ra từ phản ứng này, các chất cháy tiếp
tục bị phân huỷ và tham gia vào phản ứng với oxy, làm cho nhiệt độ
của các sản phẩm quá trình cháy tăng đến nhiệt độ cao.
Để đốt cháy hoàn toàn 1 kg cacbon cần 1,87 m3 oxy hay 8,91 m3
không khí, để đốt cháy hoàn toàn 1 kg hydro cần 5,55 m3 oxy hay
26,47 m3 không khí. Thông thường để đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu
cần đưa vào vùng cháy một lượng không khí lớn hơn lý thuyết do
không phải tất cả lượng không khí tham gia vào phản ứng cháy. Khi
thiếu không khí thì xảy ra quá trình cháy không hoàn toàn; khi đó
cacbon tạo thành không chỉ CO2 mà cả CO. Trong trường hợp đó,
lượng oxy cần thiết nhỏ hơn 2 lần so với nhu cầu oxy để cháy hoàn
toàn.
Nếu ít ôxy hoặc không khí hơn nữa trong quá trình cháy thì một phần
cacbon (và cả hydro) sẽ không phản ứng hoàn toàn mà chúng thoát ra
khỏi vùng cháy cùng với các sản phẩm của quá trình cháy và tạo
thành các hạt muội.
Mối quan hệ của việc tiêu hao không khí đối với nguyên liệu phụ
thuộc vào nhiệt độ của quá trình, hiệu suất muội và các tính chất chủ
yếu của muội (mức độ phân tán - bề mặt riêng của muội) như trình
bày ở bảng 5.
Số liệu ở bảng 5 cho thấy khi tăng lượng không khí nhiệt độ của quá
trình sẽ tăng đồng thời tăng độ phân tán của muội. Tỷ lệ cần thiết
giữa không khí và nhiên liệu thường được xác định theo thực nghiệm
để có các loại muội mong muốn.
Bảng 5. Phụ thuộc lượng không khí khi đốt nguyên liệu và tính
chất của muội
Tiêu hao không khí
m3/kg nguyên liệu
Nhiệt độ, oC Bề mặt riêng của
muội, m2/g
2,3 1150 16
2,8 1190 20
3,3 1250 30
3,5 1275 35
3,6 1300 40
3,7 1330 50
3,9 1375 70
4,1 1425 80
4,2 1450 90
4,3 1500 100
5.2. Quá trình hình thành muội khi phân hủy các hydrocacbon
Hydrocacbon là nguyên liệu thuận lợi để nhận muội do chúng rất
giàu cacbon (metan chứa 75% cacbon và 25% hydro, các
hydrocacbon thơm nhiều nhân như antraxen, phenantren có hàm
lượng cacbon cao hơn, trên 90%).
Khí thiên nhiên dùng làm nguyên liệu để sản xuất muội rãnh khí,
muội khí lò và muội nhiệt phân; từ axetylen người ta nhận được các
loại muội axetylen khác nhau; muội đèn, muội vòi phun tạo thành khi
cháy hỗn hợp các loại hydrocacbon lỏng khác nhau; muội antraxen
nhận bằng cách đốt hỗn hợp hơi của hydrocacbon lỏng, rắn nhóm
antraxen cùng với khí cốc.
Để phân huỷ hydrocacbon thành muội đòi hỏi phải có nhiệt độ cao.
Phần lớn hydrocacbon bị phá huỷ kèm theo quá trình thu nhiệt, trừ
axetylen và một vài hydrocacbon thơm khi phân huỷ lại toả nhiệt.
Để tạo ra các mạng lưới tinh thể grafit đòi hỏi phải có thời gian tiếp
xúc các hạt cacbon (vài giờ) và nhiệt độ cao hơn 3000oC, nhưng khi
điều chế muội, nhiệt độ trong vùng phản ứng thường không lớn hơn
1500oC(*), còn thời gian lưu muội trong thiết bị phản ứng rất nhỏ (vài
giây hoặc một vài phần của giây) do vậy quá trình grafit hoá đã
không kịp xảy ra.
Sau khi đứt mạch các phân tử nguyên liệu, do tác động của nhiệt độ
cao các gốc tự do của hydrocacbon nhận được sẽ kết hợp với nhau
tạo thành cấu trúc 6 cạnh như mạng lưới tinh thể kiểu grafit.
Đồng thời với quá trình hình thành hạt muội, xảy ra quá trình kết hợp
các hạt muội thành chuỗi, nghĩa là tạo thành cấu trúc của hạt muội.
Sự hình thành chuỗi muội xảy ra có thể do có sự tiếp xúc của các hạt
muội riêng lẻ. Chiều dài của một chuỗi muội khoảng 10 mm.
Quá trình hình thành các hạt muội còn kết hợp lại giữa chúng xảy ra
rất nhanh, sau khoảng vài phần của giây. Thực tế quá trình nhận
muội có khi chiếm thời gian tương đối dài, có thể một vài giây.
Trong thời gian đó, đồng thời với việc hình thành hạt muội và chuỗi
hạt muội thì còn có quá trình cháy cacbon trên bề mặt hạt muội, sự
ngưng tụ phân tử của hydrocacbon đa nhân để tạo thành cốc và nhựa,
sự lắng đọng trên bề mặt của cấu trúc muội trong dạng grafit (sự hình
thành grafit), sự tương tác của các hạt muội với CO2 và hơi nước,
v.v....
Trong phần lớn các trường hợp, quá trình thứ hai là không mong
muốn vì sẽ gây bẩn muội, gây bẩn không gian của lò và giảm hiệu
suất tạo thành muội.
Trong sản xuất, có thể thay đổi đường kính hạt muội trong quá trình
hình thành muội bằng 3 cách:
- Đưa bề mặt kim loại tương đối lạnh vào ngọn lửa của lò phản ứng.
- Làm lạnh nhanh hỗn hợp khí - muội bằng cách phun nước.
- Làm loãng khí bằng cách sử dụng khí trơ.
Cho đến nay người ta đã điều khiển được tương đối tốt quá trình sản
xuất muội xảy ra với tốc độ nhanh và phức tạp.
6. NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT MUỘI
6.1. Các nguyên liệu thường dùng
Hiện nay để sản xuất muội, người ta thường sử dụng các nguyên liệu
sau đây: các phân đoạn chưng cất dầu mỏ, dầu từ các nhà máy luyện
cốc, khí thiên nhiên, axetylen, khí cốc, khí từ công nghệ chế biến dầu
mỏ. Cũng có khi để nhận muội người ta sử dụng naphtalen kỹ thuật,
antraxen kỹ thuật. Nguyên liệu chính (sản xuất hơn 80% lượng muội
thế giới) để sản xuất muội là các sản phẩm lỏng trong công nghệ chế
biến dầu, nhựa than đá.
Muốn làm rõ thành phần nguyên liệu, người ta thường sử dụng
phương pháp phân tích cấu trúc. Trong trường hợp đó, thành phần
nguyên liệu biểu thị bởi hàm lượng của từng nhóm (thí dụ như
hydrocacbon thơm, naphten, parafin). Ngoài ra người ta còn xác định
chỉ số vòng thơm và vòng naphten.
6.2. Yêu cầu về nguyên liệu sản xuất muội
Nguyên liệu dùng để sản xuất muội đòi hỏi các chỉ tiêu kỹ thuật rất
nghiêm ngặt và phải được tiêu chuẩn hoá. Việc sử dụng nguyên liệu phi
tiêu chuẩn có thể dẫn đến phá huỷ chế độ công nghệ, làm xấu chất
lượng muội và dẫn đến nâng cao tiêu hao nguyên liệu.
Vật liệu chủ yếu để hình thành muội là các hydrocacbon mạch vòng.
Tốc độ của quá trình tạo muội tăng lên cùng với việc tăng của số
lượng và mức độ thơm(*) của vòng. Thí dụ trong cùng điều kiện như
nhau, hiệu suất tạo muội và độ phân tán của muội sản xuất từ
hydrocacbon thơm một vòng thấp hơn đáng kể khi sản xuất muội từ
hydrocacbon 2 hay 3 vòng.
Theo các chuyên gia, nguyên liệu để sản xuất cần phải bao gồm
hydrocacbon thơm đa vòng có mạch nhánh không no và ngắn.
Có một vài chỉ số kinh nghiệm, được dùng để đánh giá nguyên liệu
có phù hợp cho sản xuất muội hay không, đó là:
- Tỷ số nguyên tử H : C trong phân tử nguyên liệu:
Nguyên liệu thuận lợi nhất để sản xuất muội là nguyên liệu có tỷ số
nguyên tử H : C trong phân tử trong giới hạn 1 ¸ 1,2.
Nguyên liệu có tỷ số H : C > 1,2 không đảm bảo nhận muội có cấu
trúc hoàn chỉnh. Ngược lại nguyên liệu có H : C < 0,9 mặc dù có
hiệu suất muội cao nhưng việc tạo hạt rất khó khăn.
- Hệ số đặc trưng:
Hệ số này được xác định bằng tỷ số của giá trị căn bậc 3 của nhiệt độ
sôi trung bình Tosôi của nguyên liệu tính theo oK cho mật độ tương đối
(đ) của nguyên liệu (ở 20oC) theo công thức:
0,82.3√Tsôi
------------------
d
Hệ số đặc trưng tốt nhất của nguyên liệu là 8 ÷ 9.
- Chỉ số so sánh:
Chỉ số này xác định theo công thức:
48640
473d - 456,8 + ------------
Trong đó d và Tosôi cũng giống như ở phần hệ số đặc trưng.
Nguyên liệu được xem là tốt nếu chỉ số so sánh nằm trong giới hạn
95 ÷ 105.
- Hệ số thơm:
Hệ số thơm của nguyên liệu A tính theo công thức:
A = (Ka + 0,4.Kn)(Ca + 0,4.Cn)
Trong đó: Ka - số vòng thơm trong phân tử;
Kn - số vòng naphten trong phân tử;
Ca - hàm lượng cacbon trong các nhóm thơm, %;
Cn - hàm lượng cacbon trong các nhóm naphten, %.
Các sản phẩm dầu mỏ và các phân đoạn của nhựa than đá dùng trong
sản xuất muội có tỷ số Kn/Ka < 2. Hệ số thơm có thể tính theo công
thức đơn giản:
A = Ko.Ca
Trong đó Ko là tổng số các vòng trong phân tử, Ko = Ka + Kn.
Các công trình trực nghiệm chỉ ra rằng hệ số thơm phải nằm trong
giới hạn 140 ÷ 170.
Hiệu suất muội tăng khi hệ số thơm tăng và muội nhận được phân
nhánh nhiều hơn. Điều đó không phải luôn luôn là cần thiết.
- Tạp chất nằm trong giới hạn:
Lưu huỳnh (S) trong nguyên liệu phân bố ở các sản phẩm của quá
trình tạo muội không đồng đều. Có đến 40% S có trong nguyên liệu
khi chuyển vào muội dưới dạng liên kết. Một phần chuyển sang thể
khí CS2 hoặc H2S.
Ảnh hưởng lớn của hàm lượng S trong nguyên liệu là làm tăng thời
gian và nhiệt độ của quá trình hình thành muội.
Hàm lượng nitơ (N) làm giảm hiệu suất muội và vì vậy sự có mặt của
nó trong nguyên liệu là không mong muốn.
Các hợp chất hữu cơ chứa oxy có thể xem như hydrocacbon bị oxy
hoá một phần. Hiệu suất muội từ chúng nhỏ hơn các loại
hydrocacbon tương tự không chứa oxy. Các hợp chất chứa oxy có
trong nguyên liệu làm giảm mức độ cấu trúc hoá muội.
- Tính đồng nhất:
Để nhận muội đồng nhất, nguyên liệu đem sử dụng cần phải ở phân
đoạn có giới hạn tosôi trong phạm vi hẹp. Thông thường Các
hydrocacbon thơm 2 vòng được cất ra ở 218oC, vì vậy hàm lượng của
nó trong nguyên liệu có tosôi dưới 220oC là rất nhỏ. Loại hydrocacbon
thơm 3 vòng với mạch nhánh ngắn thường nằm trong phân đoạn 340
÷ 420oC. Các phân đoạn sôi cao hơn 420oC có thể chứa
hydrocacbon đa vòng.
- Hàm lượng các chất nhựa và độ ẩm phải thấp:
Các chất nhựa, antraxen sẽ tạo thành than cốc ở các thiết bị đốt nóng
và ở tường bên trong thiết bị phản ứng. Điều đó dẫn đến làm bẩn
muội bởi các hạt cốc nhỏ (kích thước thông thường 100 ÷ 400 mm).
Các hạt cốc có đường kính 10 ÷ 100 mm được hình thành trong quá
trình sản xuất muội nếu dùng loại nguyên liệu có độ cốc hoá đến
10%. Hàm lượng của các hạt cốc trong muội tỷ lệ với độ cốc hoá của
nguyên liệu.
Như đã biết, sự có mặt của các hạt cốc có đường kính lớn hơn 20 mm
làm giảm tính chất chịu lực của cao su, tức là làm giảm giới hạn độ
bền kéo của cao su.
Nước (ẩm) trong nguyên liệu thường ở trạng thái nhũ tương. Các hạt
nhũ tương nước trong nguyên liệu khi phun vào lò thì không vỡ ra.
Khi gia nhiệt, các giọt nước bị bốc hơi và làm giảm hiệu suất muội
và năng suất của thiết bị.
6.3. Các loại nguyên liệu lỏng để sản xuất muội
Dầu xanh:
"Dầu xanh" là phân đoạn có nhiệt độ sôi 170 ÷ 300oC trong hỗn hợp
sản phẩm nhiệt phân cracking kerosin ở nhiệt độ 650 ÷ 800oC.
Sản phẩm của quá trình nhiệt phân cracking - kerosin là khí, lỏng,
cốc (tỷ lệ trọng lượng của chúng là 50 : 48 : 2). Khí nhiệt phân gồm
etylen, propylen, butylen. Trong sản phẩm lỏng có chứa nhiều
hydrocacbon thơm (benzen, toluen, xylen). Hiệu suất và thành phần
của dầu xanh phụ thuộc vào thành phần của nguyên liệu ban đầu và
vào nhiệt độ nhiệt phân. Dầu xanh chủ yếu chứa hydrocacbon thơm 2
vòng, hàm lượng lưu huỳnh dao động 0,2 ÷ 2,4%.
Dầu cốc:
Dầu cốc là phần cặn lỏng trong quá trình cốc hoá các phần nặng của
dầu mỏ (gudron, cặn cracking, nhựa của quá trình chế biến dầu).
Trong sản xuất muội, dầu cốc được dùng với các nguyên liệu có độ
thơm cao (dầu xanh, dầu cốc từ than đá).
Gazoin nhiệt:
Đây là phân đoạn 250 ÷ 450oC của quá trình cracking nhiệt có xúc
tác hỗn hợp gazoin và phần trích ly của quá trình chế biến dầu mỏ.
Phần lớn hydrocacbon thơm trong nguyên liệu này cao hơn dầu xanh.
Hàm lượng lưu huỳnh dao động trong giới hạn 1,5 ÷ 3%.
Phân đoạn antraxen và dầu antraxen:
Phân đoạn antraxen và dầu antraxen là các sản phẩm chế biến nhựa
cốc than đá. Chủ yếu chúng bao gồm hydrocacbon mạch nhánh ngắn
và các hợp chất hữu cơ có chứa O, N, S. Khi chưng cất nhựa than đá
người ta nhận được các phân đoạn sau: phenol (170oC), naphtalen
(170 ÷ 230oC), dầu (230 ÷ 270oC), dầu antraxen (270 ÷ 360oC).
Phần cặn còn lại là pec. Hiệu suất các phân đoạn phenol là 0,3 ÷
0,5%, naphtalen 3,5 ÷ 7,5%, dầu 10 ÷ 13% và dầu antraxen 20 ÷
25%.
Phân đoạn dầu antraxen chứa: antraxen, phenatren và các dẫn xuất
của chúng cùng một số hợp chất khác.
Dầu antraxen và antraxen là nguyên liệu chất lượng cao để sản xuất
các loại muội có các tính chất khác nhau. Antraxen kỹ thuật được
dùng để sản xuất muội antraxen.
6.4. Nguyên liệu khí dùng để sản xuất muội
Cách đây không lâu khí thiên nhiên là loại nguyên liệu chủ yếu để
sản xuất muội.
Người ta đã có các phương pháp hiệu quả hơn để sản xuất muội từ
nguyên liệu lỏng, nên khí thiên nhiên lại thường trở thành nhiên liệu
gia nhiệt.
Có một số loại nguyên liệu khí được dùng để sản xuất muội:
Khí thiên nhiên:
Là khí được khai thác từ lòng giếng khoan khí đốt và dầu mỏ, được
sử dụng nhiều trong đời sống và trong công nghiệp, trong đó có sản
xuất muội.
Khí được tách khỏi dầu mỏ được gọi là khí đồng hành hay khí dầu
mỏ.
Thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên là metan (85 ÷ 99%). Khí
dầu mỏ cũng chứa metan, etan và propan (có khi đến 40%). Trong
khí thiên nhiên và khí dầu mỏ, ngoài hydrocacbon còn có N2, CO2,
H2O. Nhiệt lượng cháy của khí dầu mỏ là 11.000 ÷ 15.000 kcal/m3,
còn của khí thiên nhiên là 8.500 ÷ 9.500 kcal/m3.
Khí thiên nhiên dùng trong sản xuất muội không chỉ với tư cách là
nguyên liệu để nhận muội mà còn để cấp nhiệt cho lò và gia nhiệt cho
các thiết bị khác. Khi đó nguyên liệu tạo muội có thể là chất khí khác
hoặc nguyên liệu lỏng.
Khí công nghiệp chế biến dầu
Khí này nhận được khi nhiệt phân, cracking xúc tác, cracking nhiệt
và khí từ các quá trình chế biến dầu khác. Các sản phẩm đa dạng
chứa rất nhiều loại hydrocacbon khác nhau, chủ yếu hydrocacbon
không no. Nhiệt lượng của khí chế biến dầu mỏ là 10.000 ¸ 20.000
kcal/m3. Khí chế biến dầu mỏ ngoài dùng sản xuất muội còn được sử
dụng với tư cách là nguyên liệu để tổng hợp hoá học.
Khí cốc
Khí cốc thoát ra trong quá trình luyện cốc từ than đá. Chúng bao gồm
chủ yếu hydro (55 ÷ 65%), metan (20 ÷ 30%). Khí cốc được dùng
trong sản xuất muội antraxen. Khi sản xuất muội người ta trộn khí
cốc với hơi dầu antraxen hay phân đoạn antraxen. Khí cốc có hàm
lượng H2 cao và cháy với ngọn lửa ngắn và nhanh chóng thoát nhiệt
nên có tác dụng gia nhiệt nhanh. Do khả năng tỏa nhiệt của khí cốc
thấp hơn khí thiên nhiên nên khi dùng để gia nhiệt sẽ tiêu hao nhiều
hơn dùng khí thiên nhiên.
Khí axetylen
Khí axetylen dùng để điều chế các loại muội axetylen khác nhau. Khí
axetylen nhận được khi phân huỷ CaC2 bằng H2O theo phương trình
sau:
CaC2 + 2H2O = Ca(OH)2 + C2H2
Trong 1 m3 axetylen chứa 1,08 kg cacbon.
Khi sản xuất muội axetylen bằng phương pháp nhiệt phân axetylen sẽ
xảy ra phản ứng sau:
C2H2 = 2C + H2
Từ 1 kg CaC2 nhận được 0,3 m3 axetylen, từ đó có thể nhận được 300
g muội.
Axetylen kỹ thuật dùng để nhận muội có thành phần sau (% thể tích):
C2H2 99,5 PH3 0,05
Không khí 0,4 H2S 0,005
NH3 0,009
7. SẢN XUẤT MUỘI BẰNG PHƯƠNG PHÁP LÒ
7.1. Giới thiệu chung
Phương pháp lò là phương pháp phổ biến nhất để sản xuất muội. Cho
đến nay 80% muội trên thế giới được sản xuất bằng phương pháp này.
Theo phương pháp lò, người ta sản xuất muội bằng cách đốt nguyên
liệu trong lò trong điều kiện hạn chế không khí. Muội được hình
thành trong ngọn lửa của nguyên liệu cháy. Gia nhiệt lò bằng chính
nguyên liệu dùng hoặc có thể dùng nhiên liệu khác.
Tính ưu việt của phương pháp lò để sản xuất muội là:
- Có khả năng nhận muội với các tính chất kỹ thuật đa dạng nhất.
- Hiệu suất tạo muội cao, do vậy giá thành của muội lò rẻ hơn giá
thành của muội sản xuất theo các phương pháp khác.
- Có thể sử dụng nhà máy sản xuất muội ở cách xa mỏ khí thiên
nhiên.
- Có thể sản xuất muội từ nguyên liệu lỏng.
- Dễ dàng điều khiển quá trình hình thành muội và có khả năng sản
xuất muội với các tính chất đã dự kiến trước.
- Có khả năng tự động hoá hoàn toàn quá trình sản xuất và cho phép
sản xuất sản phẩm muội đồng nhất.
Phương pháp lò ngày càng phát triển và có thể trong những năm tới tất
cả các dạng muội đều được sản xuất theo phương pháp này.
Quá trình hình thành muội trong thiết bị phản ứng (lò) xảy ra như sau:
Trong lò nguyên liệu sau khi gia nhiệt được phun vào dưới dạng mù.
Nhiệt độ cần thiết để phân huỷ nguyên liệu được tạo ra hoặc là do quá
trình cháy một phần nguyên liệu hoặc là do gia nhiệt bằng khí đốt khác.
Để phân huỷ nguyên liệu thành C và H, cần phải có một lượng nhiệt
trong lò, tương ứng 7.000 ¸ 10.000 kcal nhiệt cho 1 m3 lò.
Khí đốt, nguyên liệu và không khí được đưa vào lò theo một vài hướng,
do vậy tạo ra dòng xoáy mạnh. Việc phân huỷ nguyên liệu xảy ra ở
phần giữa của ngọn lửa xoáy. Có thể thay đổi tính chất của muội bằng
cách thay đổi tỷ lệ giữa nguyên liệu, không khí và nhiên liệu (trong
trường hợp sử dụng nhiên liệu để tạo nhiệt độ cần thiết trong lò). Ví dụ
tăng lượng không khí so với nguyên liệu sẽ làm tăng nhiệt độ lò, khi đó
làm tăng tốc độ phân huỷ nguyên liệu, nhưng hiệu suất của muội lại
giảm xuống.
Bảng 6. So sánh các tính chất của các loại lò sản xuất muội
(khối lượng nguyên liệu đưa vào lò bằng 450 kg/giờ)
Cấu
tạo
và
kích
thước
chủ
yếu
của
thiết
bị
phản
ứng
Đường
kính
buồng
phản
ứng
(mm)
Thể
tích
không
gian
phản
ứng
(m3)
Tiêu
hao
riêng
không
khí
(m3/kg)
Nhiệt
độ
vùng
phản
ứng
(oC)
Tốc
độ
khí
trong
thiết
bị
phản
ứng
(m/s)
Thời
gian
lưu
của
hỗn
hợp
khí-
muội
trong
lò (s)
Hiệu
suất
muội
(%)
Bề
mặt
riêng
của
muội
(m2/g)
Độ hấp
phụ
dầu
(cm3/g)
pH
muộ
1500 5,264 3,9 1325 2,09 1,42 26 73,1 1,18 5,69
880 2,69 3,5 1325 5,53 0,8 30 71,7 1,07 7,40
300 0,198 3,0 1490 45,1 0,063 42 63,5 0,89 8,5
Từ bảng 6 có thể thấy giảm thể tích lò (trong cùng một lượng nguyên
liệu cho vào) thì sự tiêu hao riêng của không khí cho 1 kg nguyên
liệu cũng giảm đáng kể (từ 3,9 xuống 3 m3/kg), dễ dàng tăng tốc độ
khí trong lò (từ 2,03 lên 45,1 m/s) và rút ngắn thời gian lưu hỗn hợp
khí - muội trong lò (1,42 xuống 0,063 s).
Việc giảm thể tích lò làm tăng mạnh hiệu suất tạo muội khi mức độ
phân tán muội tương tự nhau. Việc rút ngắn thời gian lưu của hỗn hợp
khí muội trong lò dẫn đến làm giảm mức độ cấu trúc hoá muội và mức
độ nhám bề mặt của nó.
Nguyên liệu để sản xuất muội lò là khí thiên nhiên và dầu (từ dầu
mỏ) có mức thơm hoá cao và dầu có nguồn gốc than đá. Để nâng cao
nhiệt độ của lò đến mức độ cần thiết, trong sản xuất muội người ta
thường dùng nhiên liệu bổ sung là khí thiên nhiên, khí cốc hoặc khí
nhiệt phân trong công nghiệp chế biến dầu mỏ.
Nguyên liệu lỏng cần phải chứa không nhỏ hơn 70% hydrocacbon
thơm; hàm lượng lưu huỳnh và tro trong nguyên liệu phải là nhỏ nhất.
Phương pháp lò có thể dùng để sản xuất các loại muội với các tính
chất khác nhau.
Hiện nay chưa có quy định và phân loại quốc tế về muội. Tuy nhiên
trước đây ở Liên Xô cũ và các nước Đông âu đã có sự thống nhất phân
loại muội theo kiểu muội hoạt động và muội bán hoạt động dùng cho
cao su, hoặc theo phương pháp sản xuất, theo nguyên liệu, v.v....
Tại Mỹ và các nước phương Tây, người ta phân loại theo khả năng
tăng cường độ bền cao su, theo công dụng, hoặc theo ứng dụng trong
sản xuất các loại cao su khác nhau.
7.2. Sản xuất muội lò từ nguyên liệu lỏng
Muội lò thường được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc dầu mỏ
hoặc có nguồn gốc từ than đá.
Có hai phương pháp sản xuất muội lò hoạt động:
Phương pháp thứ nhất:
Đốt cháy một phần nguyên liệu (không khí được điều khiển lưu lượng
chính xác) sao cho nhiệt nhận được đủ làm phân huỷ phần nguyên liệu
còn lại và hình thành muội.
Phương pháp thứ hai:
Trong thiết bị phản ứng (lò) người ta đốt cháy riêng nhiên liệu (lỏng
hoặc khí) để tạo nhiệt độ cần thiết cho thiết bị phản ứng, tiếp đó đưa
nguyên liệu dầu (ở trạng thái hơi hay trạng thái được đun nóng) vào
ngọn lửa, khi đó nguyên liệu dầu bị phân huỷ và hình thành muội.
Người ta áp dụng một vài sơ đồ công nghệ để sản xuất muội lò hoạt
động. Chúng khác nhau bởi việc chuẩn bị nguyên liệu, cấu tạo thiết
bị phản ứng và phương pháp làm lạnh hỗn hợp muội nhận được trong
thiết bị phản ứng và phương pháp tách muội khỏi khí.
Người ta sản xuất muội lò hoạt động (ví dụ loại ΠM70) theo phương
pháp thứ nhất trong lò hình trụ, thu gom muội bằng phương pháp lọc
điện và xyclon. Sơ đồ công nghệ được mô tả trên.
Nguyên liệu lỏng (dầu từ dầu mỏ hay dầu cốc) được bơm từ bể chứa
vào thùng cao vị chứa nguyên liệu 1, sau đó qua bơm 2 vào thiết bị
trao đổi nhiệt 3 và sau đó vào đèn đốt của thiết bị phản ứng 4. Người
ta dùng máy nén 6 có áp lực cao để chuyển không khí vào đèn đốt
của thiết bị phản ứng để phun mù nguyên liệu và dùng quạt gió 5 để
đưa không khí áp suất thấp vào lò. Không khí áp suất thấp dùng để
đốt một phần nguyên liệu tạo nhiệt độ cần thiết để phân huỷ phần
hydrocacbon còn lại để tạo ra muội.
Để sản xuất muội với các tiêu chuẩn kỹ thuật theo yêu cầu thì cần
phải điều chỉnh chính xác tỷ lệ nguyên liệu và không khí đưa vào
cũng như chế độ nhiệt độ của quá trình.
Sơ đồ hiện đại hơn là sơ đồ công nghệ sản xuất muội hoạt động
ΠM70 trong lò được gia nhiệt riêng bằng cách đốt khí. Muội được
thu gom nhờ bộ lọc tay áo và xyclon. Sơ đồ này biểu thị trên.
Nguyên liệu dầu mỏ hay dầu cốc từ thùng chứa 6 được gia nhiệt đến
60 - 80oC bằng máy bơm ly tâm 7, đưa nguyên liệu vào thiết bị trao
đổi nhiệt 8, ở đó được gia nhiệt bằng hơi đến 103 - 130oC. Ra khỏi
thiết bị trao đổi nhiệt, nguyên liệu được hướng đến thiết bị bốc hơi
ẩm 9 bằng máy bơm ly tâm 11 và vào bộ lọc 12, sau đó đến thiết bị
gia nhiệt 13, tại đây nguyên liệu được đốt nóng đến 280 - 320oC. Để
cấp nhiệt cho nguyên liệu trong lò gia nhiệt, người ta đốt khí đốt hay
nhiên liệu lỏng. Ra khỏi thiết bị gia nhiệt, nguyên liệu được bơm vào
đèn đốt của thiết bị phản ứng 14 dưới áp lực 6 - 8 kG/cm2. Nguyên
liệu dư ở đây được cho quay về thiết bị bốc hơi ẩm 9.
Lò tạo muội
Thiết bị này để nhận muội lò hoạt động. Chúng có nhiều kiểu cấu tạo
khác nhau. Phổ biến và đơn giản nhất là kiểu lò hình trụ nằm ngang.
Trong lò kiểu này, nhiệt cần thiết để phân huỷ nguyên liệu do quá
trình đốt cháy một phần nguyên liệu. Ở các nhà máy sản xuất muội,
người ta sử dụng lò hình trụ có lượng tiêu hao đến 500 kg nguyên
liệu / giờ. Cứ 2 hay 3 lò được gom vào một bộ gom chung.
Lò để sản xuất muội ΠM70 là một ống có đường kính trong 1 m, dài
2,5 m. Ống này nối với một ống hình côn chuyển tiếp có đường kính
0,6 m, dài 5,5 m. Vỏ lò bọc kim loại, bên trong có lót vài lớp gạch chịu
lửa và được bọc bởi một lớp gạch cách nhiệt nhẹ.
Việc xây lắp lò cần phải rất thận trọng do nhiệt độ làm việc của lò
đạt tới 1450oC. Trong lò người ta có gắn các dụng cụ đo nhiệt độ và
áp suất.
Ở đầu lò có bố trí một lỗ để đặt đèn đốt. Thời gian lưu của hỗn hợp
khí - muội trong vùng phản ứng ở nhiệt độ cao là 0,8 giây.
Dưới đây trình bày lò sản xuất muội kiểu xyclon. Loại lò này cũng
được sử dụng phổ biến như lò hình trụ nằm ngang đã nêu ở trên.
Nguyên lý chung về cấu tạo của lò kiểu xyclon như sau:
- Đường kính buồng cháy lớn hơn 2,5 lần chiều dài của nó. Đường
kính buồng phản ứng bằng chiều dài của buồng cháy.
- Chiều dài buồng phản ứng lớn hơn 5 lần chiều dài buồng cháy.
Chất cháy có thể là nhiên liệu lỏng hay nhiên liệu khí và không khí
dùng cho việc đốt chất cháy chuyển vào qua rãnh bên của buồng đốt.
Dòng khí cháy và nguyên liệu trộn với nhau với tốc độ không dưới 50
m/s, do vậy tạo ra dòng chuyển động xoáy mạnh của khí vào vùng phản
ứng. Trong vùng phản ứng có ống để phun nước, sản phẩm phản ứng
dễ dàng bị nước sạch làm lạnh (được chuyển vào lò phản ứng bằng 4
vòi phun).
Nguyên liệu lỏng được phun vào ở trạng thái mù vào vùng cháy 3
qua vòi phun 1. Nhiên liệu khí (hay lỏng) được đốt cháy tại 2 cái đèn
12 bố trí trong vùng cháy. Một trong 2 đèn có trang bị bugi đánh lửa
để đốt khí.
Lò là bộ phận chủ yếu của sản xuất muội lò hoạt động. Chỉ khi thực
hiện đúng quy trình công nghệ chạy lò và các công việc tiếp theo của
tất cả các quá trình sản xuất thì mới có thể đảm bảo sản xuất được
muội có chất lượng như dự kiến.
Những quy luật chủ yếu của quá trình sản xuất muội lò hoạt động
như sau:
- Mức độ phân tán của muội phụ thuộc vào nhiệt độ của quá trình
hình thành muội: nhiệt độ càng cao thì mức phân tán của muội càng
cao.
- Nhiệt độ của quá trình hình thành muội được quyết định bởi lượng
không khí tiêu hao cho 1 kg nhiên liệu đem đốt. Lượng tiêu hao riêng
của không khí càng cao thì nhiệt độ càng cao và độ phân tán của
muội cũng càng càng cao.
- Mức độ cấu trúc của muội phụ thuộc vào tính chất, nhiệt độ, mức
độ phun mù của nguyên liệu. Hàm lượng của các hợp chất thơm
trong nguyên liệu càng cao thì mức độ cấu trúc của muội càng cao.
- Các tính chất của muội còn phụ thuộc nhiều thông số của lò, chế độ
phun nguyên liệu, thời gian lưu, đặc tính làm lạnh, v.v...
Để đảm bảo chế độ làm việc ổn định trong sản xuất muội, cần phải tự
động hoá khâu điều khiển quá trình trong lò phản ứng.
7.3. Sản xuất muội từ nguyên liệu khí
Sản xuất từ khí tự nhiên
Có thể sản xuất nhiều loại muội từ khí thiên nhiên bằng phương pháp
lò. Ở phương pháp này, muội hình thành trong ngọn lửa khí cháy
trong lò. Sau một khoảng thời gian ngắn muội nằm trong vùng nhiệt
độ cao, sẽ được tách ra khỏi hỗn hợp khí trong thiết bị lọc điện. Nhiệt
độ cần thiết để phân huỷ khí thành C và H được tạo ra bằng cách đốt
một phần khí nguyên liệu.
Còn có quá trình sản xuất muội khí lò theo phương pháp này trên cơ
sở dùng hơi nguyên liệu lỏng.
Nguyên liệu lỏng thường được dùng là phần nặng của dầu mỏ, nhựa
than đá hoặc các sản phẩm phụ trong công nghệ chế biến dầu mỏ.
Việc sử dụng nguyên liệu lỏng làm tăng cao đáng kể năng suất của
thiết bị phản ứng và hiệu suất muội cũng được tăng lên.
Sơ đồ công nghệ sản xuất muội khí lò từ khí tự nhiên mô tả ở.
Khí tự nhiên được làm sạch khỏi các tạp chất cơ học, nước, dầu mỏ,
H2S, được đưa vào thiết bị phản ứng 1, ở đó không khí được đẩy vào
nhờ quạt gió 2. Muội cùng với khí hình thành khi cháy theo ống 3,
gọi là ống “hoạt hoá , được đi vào thiết bị làm lạnh 4. Ở đó hỗn
hợp khí - muội được làm lạnh do bốc hơi nước bằng vòi phun bụi
nước vào. Ra khỏi sinh hàn, muội và các khí đi vào thiết bị lọc điện
để tách muội. Tiếp đến muội được đưa đến thiết bị phân tách 8 nhờ
trục vít 6 và máy nâng 7. Ở thiết bị phân tách 8 các tạp chất lạ được
tách ra, tiếp đó vào thiết bị tạo hạt trong thùng 9.
8. SẢN XUẤT MUỘI BẰNG CÁCH TÁCH CACBON TỪ NGỌN
LỬA TRÊN BỀ MẶT LẠNH
8.1. Sản xuất muội rãnh - khí
Việc sản xuất muội rãnh - khí lần đầu tiên được thực hiện ở Mỹ vào
những năm 60 của thế kỷ 19. Ngày nay phương pháp này vẫn được
dùng và về nguyên lý vẫn không có sự thay đổi cơ bản, chỉ có cải
tiến về thiết bị.
Bản chất của quá trình sản xuất muội rãnh - khí khác với phương
pháp lò, bao gồm việc tách muội từ ngọn lửa của khí thiên nhiên
đang cháy trên bề mặt lạnh chuyển động ở phía trên ngọn lửa. Muội
bị tách ra và tích tụ trên bề mặt lạnh được đưa ra khỏi ngọn lửa và
dẫn vào các công đoạn sản xuất khác.
Để tạo bề mặt lạnh, người ta sử dụng thùng quay, trục, vòng, đĩa, tấm,
băng tải... Tùy thuộc vào bề mặt sử dụng, mà phương pháp sản xuất
được gọi tên: “thùng quayâ € , “đ ĩa†, “trụcâ € ,
“rãnhâ € ...
Muội sản xuất bằng phương pháp này có tính phân tán cao và hàng
loạt các tính chất kỹ thuật quý báu khác.
Muội rãnh - khí được sử dụng trong công nghệ cao su, trong sản xuất
sơn, bột màu và sơn emay có chất lượng cao.
Việc tách khí khỏi dầu mỏ, nước, tạp chất cơ học được thực hiện
trong máy phân tách 1, qua thiết bị điều khiển áp lực 2, vào buồng
đèn 3, áp lực khí phải giữ ở 14 - 16 mmH2O.
Trong buồng đốt, khí được đốt khi có không khí tham gia không đầy
đủ. Muội hình thành trong ngọn lửa của đèn lắng trên các thanh sắt
chữ U chuyển động dọc theo buồng đốt. Muội được các tấm cào nạo
ra khỏi bề mặt các thanh sắt chữ U và rơi vào thùng chứa.
Muội ra khỏi buồng đốt được vít tải 5, máy vận chuyển 6 đưa vào
thùng chứa 7 qua máy sàng 8, máy tạo hạt 9 đưa vào thùng chứa đặt
trên thiết bị chuyên chở 11.
Để tăng năng suất của buồng đèn và hiệu suất muội, đôi khi người ta bổ
sung vào khí thiên nhiên một lượng hơi của hydrocacbon nặng nguồn
gốc dầu mỏ hay than đá. Muội nhận được khi đó có kích thước hạt lớn
hơn 0,04 mm. Muội này được dùng cho loại cao su có giới hạn bền kéo
nhỏ hơn nhưng dễ gia công hỗn hợp cao su hơn.
Nếu cần sản xuất muội mịn hơn thì sử dụng đèn đốt có khe hẹp, độ
rộng 0,2 - 0,4 mm. Khi đó kích thước hạt muội 0,01 - 0,016 mm.
Buồng đốt là thiết bị chủ yếu trong sản xuất muội rãnh - khí, nó có
chiều dài 35 m, rộng 3,6 m. Trên nóc buồng đèn có các lỗ hình vuông
để thoát các sản phẩm cháy. Lượng không khí tham gia vào quá trình
cháy được điều chỉnh bằng khe hẹp (độ rộng của khe). Trong một
buồng đặt 2080 đèn.
- Khí thiên nhiên được đưa vào qua ống 1 và đốt ở đèn 2.
- Muội tạo thành trên thanh sắt phẳng 3 (bề mặt lạnh).
Việc tách muội khỏi các thanh sắt phẳng 3 nhờ các cái nạo muội 6.
Muội rơi xuống thùng chứa 7 bố trí ngay dưới các tấm phẳng thu
muội và các cái nạo muội. Muội rơi vào thùng chứa 7 được vít tải 8
đưa ra khỏi buồng lò.
Quá trình tạo muội khi sản xuất muội rãnh - khí phụ thuộc vào hàng
loạt các điều kiện:
- Thành phần và áp suất khí đưa vào buồng đốt.
- Lượng không khí đưa vào buồng đốt.
- Khoảng cách từ bề mặt lạnh đến ngọn lửa.
- Tốc độ chuyển động của tấm thu muội.
- Nhiệt độ khí đốt đưa vào đèn
- Điều kiện khí quyển (sức gió, độ ẩm môi trường...)
Khi giảm nhiệt độ bề mặt lạnh sẽ làm tăng hàm lượng các chất nhẹ
trong muội, khi nâng cao nhiệt độ bề mặt lạnh thì lại tăng cao các tạp
chất trong muội.
9. SẢN XUẤT MUỘI BẰNG CÁCH PHÂN HUỶ NHIỆT
NGUYÊN LIỆU KHÔNG CÓ MẶT KHÔNG KHÍ
9.1. Sản xuất muội bằng cách phân huỷ nguyên liệu bằng nhiệt
Phương pháp muội rãnh - khí cho hiệu suất thấp.
Để nâng cao hiệu suất muội người ta đã đưa ra một phương pháp sản
xuất khác dựa trên sự phân huỷ nhiệt hydrocacbon không có sự tham
gia của không khí. Nguyên liệu dùng để phân huỷ nhiệt là khí thiên
nhiên. Khí nguyên liệu chuyển thành cacbon và hydro khi cho tiếp
xúc với bề mặt gia nhiệt mạnh, nóng hơn 1100oC.
Muốn đạt được nhiệt độ cần thiết để phân huỷ khí, người ta phải
nung nóng lò tạo muội lên đến 1600oC bằng khí thiên nhiên. Sau đó
ngừng đốt khí và cho khí thiên nhiên đi qua và nó bị phân huỷ thành
muội. Khi nhiệt độ của lò phản ứng giảm xuống đến 1200oC, phản
ứng phân huỷ ngừng lại cần tiếp tục gia nhiệt lên đến 1500oC. Như
vậy lò làm việc luân phiên giữa quá trình gia nhiệt và phân huỷ
nguyên liệu.
Sơ đồ công nghệ sản xuất muội nhiệt phân mô tả trên.
Để quá trình sản xuất là liên tục thì người ta phải có 2 lò để thay
nhau làm việc luân phiên.
Thành phần khí thải nhận được khi sản xuất muội bằng phương
pháp phân huỷ nhiệt phụ thuộc vào thành phần của khí ban đầu ví dụ.
Khí ban đầu Khí thải
Metan
N2
Hydrocacbon bậc
cao
CO2
Hydro
CO
93,8
5,1
0,7
0,4
-
-
6
6
1
0,9
85
1,1
Qua bảng này cho thấy mức độ phân huỷ khí metan rất cao, hàm lượng
hydro trong khí thải đến 85% nên nó được dùng làm nguyên liệu để sản
xuất hoá học hoặc làm nhiên liệu.
Phương pháp cho hiệu suất muội khá cao (20 ÷ 25 khối lượng khí
đem dùng). Nếu kết hợp sử dụng khí thải của quá trình thì hiệu suất
muội có thể tăng lên 30%.
Thiếu sót của phương pháp sản xuất này là quá trình gián đoạn và
muội có tính chất kém đồng nhất.
9.2. Sản xuất muội axetylen
Từ axetylen người ta có thể sản xuất được một số loại muội. Muội
axetylen có tính chất hơi khác so với tất cả các loại muội khác.
Chẳng hạn kích thước của tinh thể hạt muội axetylen lớn hơn, có
chuỗi dài hơn và nhiều nhánh hơn các loại muội khác.
Tính dẫn điện của muội axetylen cao hơn nhiều lần so với các loại
muội khác (độ dẫn điện riêng bằng 0,44 W.cm trong khi độ dẫn điện
riêng của các loại muội khác nằm trong giới hạn 1,5 ÷ 150 W.cm).
Điều đó được giải thích là muội axetylen được tạo ra ở nhiệt độ cao
hơn 2000oC và về tính chất nó gần tính chất của grafit hơn là tính
chất của các loại muội khác (nhiệt độ tạo muội không quá 1600oC).
Tính dẫn điện cao của muội axetylen cho phép nó được dùng trong
công nghiệp điện (trong sản xuất pin điện).
Axetylen để sản xuất muội cần được làm sạch khỏi các tạp chất khí,
tách nước, sau đó mới đưa vào thiết bị sản xuất muội.
Có những phương pháp sau để sản xuất muội axetylen:
- Đốt hỗn hợp khí, gồm 90% thể tích axetylen và 10% thể tích oxy
trong đèn. Muội nhận được theo phương pháp này có nhãn hiệu
VA.416.
- Phân huỷ nhiệt axetylen ở áp suất khí quyển. Theo phương pháp
này nhận được các loại muội P-1250, P-1042, P-1101.
- Cũng bằng phương pháp phân huỷ nhiệt có thể nhận được muội có
nhãn hiệu P-3040, P-3252. Trong trường hợp này thành phần khí để
phân huỷ là 60% axetylen, 40% hydro.
- Phân huỷ nhiệt axetylen ở áp suất cao (phương pháp nổ). Theo
phương pháp này nhận được muội có nhãn hiệu PHB-135
(“Hydrocacbonâ € ) và 41284 (“Anacacbonâ € ).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_24__0158.pdf